Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 7

*Mở bài:

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm tho, vẽ tranh, soạn nhạc,... Nhưng trước hết
phải khẳng định: Quang Dũng là nhà thơ - mang một hơn thơ phóng khoảng và đẩy tâm huyết, một tiếng
thơ tinh tế và lãng man. Dù miệt ít, viết theo cảm hứng nhưng ông đã thực sự thành công khi viết về người
linh, và ''Tây Tiến" là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng.

Tây Tiến là một đơn vị bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, thành lập năm 1947 do Quang Dũng làm
đại đội trưởng. Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng
Pháp. Lính TT chiến đấu trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn, sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống
lạc quan và chiến đấu anh dũng.

Sau khi đã chuyển sang đơn vị khác, Quang Dũng sáng tác bài thơ vào cuối năm 1948, tại Phù Lưu
Chanh. Ban đầu có tên “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến“, in trong tập “Mây đầu ô”.

*Phân tích khổ thơ đầu: Nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về con đường hành quân hùng vĩ dữ
dội nhưng cũng rất thơ mộng trữ tình. Ẩn trong đó là kỉ niệm một giai thoại đã qua

Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đa diết của tác giả. Ngay từ câu đầu, đã là một tiếng gọi làm
nao nức lòng người.
"Sông Mã xa rôi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ "nhỏ", làm cho nỗi nhớ bổng bênh như một dải lụa, vương vấn
trong lòng người đọc mãi khôn nguôi. Đối tượng nhớ ở đây là dòng sông Mã thân thương - một chứng
nhân lịch sử, một dòng sông đã cuồn cuộn suốt những năm tháng hào hùng của dân tộc; là nỗi nhớ về binh
đoàn Tây Tiến - nơi Quang Dũng đã cùng đồng đội trải qua biết bao trận "vào sinh ra tủ"; là nỗi nhớ về núi
rừng, về địa bàn hoạt động của binh đoàn.
Cách nói "xa rồi" tạo cảm giác bâng khuâng, xao xuyến. Có lẽ, chính vì "xa rồi" nên nỗi nhớ mới "chơi
vơi". Âm "ơi" bắt vẫn với từ "chơi vơi" như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ - "nhớ chơi vơi" nghĩa là nỗi
nhớ trơ trọi, chênh vênh, không có điểm tựa.
"Nỗi nhớ" không xác định rõ được, đó là ki niệm nào, trong khi lại có rất nhiều ki niệm hiện lên.
Nguyên nhân nào để Quang Dũng cảm thấy "chơi vơi" trong chính nỗi nhớ của mình? Phải chăng, cái không
khí tưng bừng của Hội Văn nghệ Trung ương đã làm sống dậy trong ông những kỉ niệm năm xưa.
Nhưng tiếc rằng, không thể quay trở lại được nữa! Nó hẳng hụt, nó bâng khuâng, nó lại mang đến sự
bổn chồn, xao xuyến. Cách viết, cách dùng âm, dùng từ của Quang Dũng mới quay quắt làm sao! Có lẽ, phải
đau đáu như vậy mới khiến người ta nhói lòng!
"Thơ là thơ nhưng đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng", với ý nghĩa đó
Quang Dũng dùng lời thơ của mình vẽ nên bức thiên nhiên đầy thử thách, hiểm nguy, cùng con đường
hành quân vừa hùng vĩ, dữ dội; vừa thơ mộng, trữ tình. Trên đó tô đậm hình ảnh người lính với bao khó
khăn gian khổ, nhưng tâm hồn vẫn lãng mạn, hào hoa. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng,
trải dài từ Mai Châu, Hòa Bình, qua Lào rồi vòng về phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Nhưng sao chỉ vỏn vẹn trong
14 câu thất ngôn mà nhà thơ Quang Dũng đã bao trọn được hết vùng đất hoang vu, huyền bí này? Cái đó
nằm ở nghệ thuật tổ chức chất liệu ngôn từ trong thơ Quang Dũng.
Trước tiên, là việc sử dụng các địa danh một cách hợp lí như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường
Hịch, Mai Châu... Tất cả những cái tên kia, thuộc "típ" lạ đối với người đọc nên đã trở thành tác nhân kích
thích trí tưởng tượng cũng như sự tò mò về con đường hành quân "bí mật".
Mảnh đất Sài Khao lắm khói nhiều sương, sương giăng khắp lối, che lấp luôn cả đoàn quân đang ngày
đêm vượt núi băng sông. Sương ở đây như dẫn ta đi lạc vào chốn thiên bồng, nhưng không hiểu sao lại có
cái gì đó rất lo sợ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Cách ngắt nhịp 4/3, làm cho phần nghỉ của câu thơ rơi vào động từ "lấp", và kết thúc ở từ "mỏi", ta
như có cảm giác chính sương đã làm cho đoàn quân thêm phần mệt mỏi, đôi vai các anh như bị trùng
xuống, sương roi ướt sũng chiếc ba lô như càng nặng hơn.
Thế nhưng với trái tim nhạy cảm, những chàng trai đất Hà thành tìm trong cái gian truân, vất vả vẻ lãng
mạn của "hoa về". Đó chính là hương thơm của hoa ban nở vào đêm. Những ai đã từng đặt chân đến mảnh
đất Tây Bắc, đều bị ấn tượng bởi hương thơm của loài hoa này. Và trong một lần chia sẻ về " Ký ức người
lính", một cựu chiến binh nghẹn ngào: "Mùi súng đạn để lại trong tôi nỗi đau, mùi gian khổ để lại trong
tôi kí ức, nhưng mùi hoa ban để lại trong tôi hoài niệm, nó phảng phất đến mãi tận hôm nay".
Ngoài sương, thì dốc và đèo là những đặc trưng không thể không nhắc đến khi nói về thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc. Dốc, đèo cao, ngút ngàn, hiểm trở:

"Dốc lên khúc khuỳu dốc thăm thảm


Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Câu thơ miêu tả dốc bảy chữ, mà có tới năm thanh trắc tạo cảm giác chênh vênh, vô cùng nguy hiểm.
Điệp từ "dốc" được nhắc đi nhắc lại hai lần, cùng cách ngắt nhịp 4/3 làm cho trọng âm của câu lại một lần
nữa rơi vào từ "dốc", khiến ta như thấy đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc, cứ thế lên cao rồi lại xuống thấp. Cao
đến độ "heo hút cồn mây súng ngửi trời". Ở ý thơ này, Quang Dũng có kiểu đo độ cao thật độc đáo, ông lấy
súng để ngưi độ cao của trời xanh. Nếu được phép, ta hoàn toàn có thể thay chữ "ngừi" bằng chữ "chạm"
hoặc chữ "với". Nhưng thiết nghĩ, nếu dùng "chạm" thì tự dưng làm nghĩa thơ yếu đi; nếu dùng từ "với" lại
mất đi tính tự nhiên. Như vậy, chữ "ngửi" là yếu tố quyết định cho câu thơ sinh động hẳn lên. Một số ý kiến
cho rằng, vì bài thơ sáng tác quá vội nên Quang Dũng cần chỉnh sửa lại một số từ trong thi phẩm này. Tuy
nhiên, đã bao thế hệ bạn đọc qua đi, ngay cả khi có dịp tái bản lại ông cũng không hề có ý định sửa. Với
động từ "đặc cách" này, chí ít người đọc có thể cảm nhận được ba lớp nghĩa: Thứ nhất, đó là một độ cao
chóng mặt, trước là mây, sau là trời. Thứ hai, là khi dùng từ "ngửi" nhà thơ Quang Dũng đã nhân hóa hình
ảnh khẩu súng thành người bạn tâm giao với những vui buồn của người lính. Nó không còn là vũ khí chiến
đấu vô tri vô giác, thay vào đó, là nó cũng có sự hồn nhiên, tinh nghịch như người lính Tây Tiến vậy. Suy cho
cùng, những chàng trai thư sinh chốn "Hà Thành phổn hoa", cũng mới "qua vòng thơ bé", vừa tròn mười
tám đôi mươi. Thứ ba, cả câu thơ cho thấy "ý chí người lính cao hơn đèo". Không một độ cao nào, không
một khó khăn gian khổ nào có thể cản nổi bước chân người anh hùng "áo vài chân không đi lùng giặc
đánh".
Câu thơ tiếp theo gồm hai vế tiểu đối, kết hợp với động từ tương phản lên cao - xuống thấp khắc họa
đúng chất hùng vĩ, chênh vênh của núi rừng: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Dốc núi ở đây như bị
bẻ đôi, vút lên cao ngàn thước, rồi lại đổ thằng xuống ngàn dặm. Chính cái cách "đánh khối" trong nghệ
thuật tạo hình của Quang Dũng đã để lại khoảng trống về một Tây Bắc huyền bí và một miền ấn tượng riêng
cho người đọc đi về gửi thương, gửi nhớ. Bởi "thơ cốt ở ý, ý có sâu thơ mới hay. Không phải bất cứ điều
gì cũng phải nói ra bằng ngôn từ. Như thế mới là thơ có giá trị".
Ấn tượng thứ ba về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là sự hiểm độc với những cái chết luôn rình rập vào
lúc chiều tàn và đêm tối. Cả chiến khu chỉ nghe thấy tiếng thác gầm thét, dọc từ Pha Luông đến Mường
Hịch đâu đâu cũng thấy bóng dáng những chúa tể sơn lâm đang rình rập.
Những câu thơ trên hoàn toàn không đề cập đến con người, nhưng ta vẫn thấy rất rõ bóng dáng người
lính đang hành quân. Dẫu có gian nan, vất vả hay nguy hiểm, mỏi mệt thì các anh vẫn ngang tàn, ngạo
nghề, trẻ trung, tinh nghịch. Nét tinh nghịch, hóm hỉnh, được đậm tô qua hình ảnh người lính đang chiếm
lĩnh tầm cao thiên nhiên qua cách ví von, so sánh "súng ngừi trời". Trên nền "cổn mây heo hút", nhưng
người lính vẫn hào hoa lãng mạn. Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi
cao lưng trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta thấy những
ngôi nhà trên mảnh đất Pha Luông bổng bềnh trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Cảnh vật bỗng
trở nên nửa thực nửa mơ, chất trữ tình lãng mạn phủ kín cảnh vật.
Nếu ở câu thơ tả dốc toàn vần trắc, thì đến câu thơ tình, ta lại thấy toàn vần bằng. Phải chăng, đó là sự
giao thoa giữa thơ và nhạc bởi lẽ Quang Dũng vốn là một người nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn
nhạc. Ở lĩnh vực nào ông cũng đều có những thành công nhất định. Cách hòa phối âm thanh trong nhạc
của Quang Dũng cũng có những phút "xuất thần". Thơ ông cũng làm độc giả thương nhớ, nhạc Quang Dũng
cũng khiến không ít người ngất ngây. Đúng như Xuân Diệu tinh tế nhìn nhận: " Đọc Tây Tiến, ta có cảm
tưởng như ngậm nhạc trong miệng".
Nhắc đến hai từ "chiến tranh", thì hi sinh mất mát, tổn thất đau thương là điều không thể tránh khỏi.
"Tây Tiến" là một nốt nhạc buồn trong bản đàn ca về chủ đề cách mạng, nên cũng không nằm ngoài cảm
giác hụt hẳng ấy. Và bức tranh thứ hai ta cảm được từ đoạn thơ đầu, là hình ảnh người lính hi sinh giữa bao
gian khổ, thiếu thốn.
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!"
Hai chữ "anh bạn" cất lên như một tiếng nắc nghẹn ngào. Nó làm ta nhớ đến tinh thần đoàn kết, "có
phúc cùng hưởng, có họa cùng chia" của những người chung nhau hát "khúc quân hành". Tình đồng đội
trong kháng chiến, đã có biết bao vần thơ hay làm lay động lòng người.
Bằng bút pháp tả thực, nhà thơ Quang Dũng đã không ngại ngần khi nói đến những vất vả, gian khổ
thậm chí là hi sinh của những người lính Tây Tiến. Từ trước đến nay hai câu thơ vẫn tồn tại hai cách hiểu:
+ Miêu tả một giấc ngủ: Một khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính. Sau chặng đường hành quân dốc
tiếp dốc, vực tiếp vực, sự dãi dầu nắng gió, mệt mỏi khiến cho những người lính chỉ cần gục trên súng mũ,
trong một tư thế không thoải mái mà vẫn có thể ngủ một giấc say sưa như chết.
+ Miêu tả sự hi sinh: Có thể vì dãi dầu nhiều nắng mưa, sương gió, vì căn bệnh sốt rét mà người lính
Tây Tiến mệt mỏi đến kiệt sức, không thể bước tiếp, ngã xuống một cách thanh thản, nhẹ nhàng. Anh gục
xuống khi đang hành quân, súng mũ vẫn bên mình, vẫn nghiêm trang trong hàng ngũ. Cách nói giảm nói
tránh "không bước nữa", "bỏ quên đời", "gục" vừa có tính tạo hình vừa mang tính biểu cảm cao. Chúng
giúp Quang Dũng tránh được việc dùng các từ nặng như chết, hi sinh,… Mặt khác lại vẫn giữ được cái thực
tế nghiệt ngã, trần trụi của cuộc kháng chiến. Câu thơ vì thế mà làm cho Tây Tiến “phảng phất nét buồn đau
nhưng buồn đau mà không bi luy, ngược lại rất bi tráng
Tiếp đó là bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội và đầy bí hiểm:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Các từ láy “Chiều chiều”, “đêm đêm” chỉ quãng thời gian lặp đi lặp lại. Những âm thanh “thác gầm
thét” và hình ảnh “cọp trêu người” là sự khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn
rừng thiêng từng được nhà thơ Thế Lữ miêu tả trong “Nhớ rừng”:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi

Thì ở đây được Quang Dũng miêu tả:

Vào các buổi chiều tiếng nước thác gầm thét. Chỉ một câu thơ ngắn mà gợi ra những âm thanh dữ dội
chẳng kém gì tiếng nước thác Sông Đà trong “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Âm thanh của thác
nước vào buổi chiều khiến rừng núi trở nên dữ dội và đầy bí hiểm, đáng sợ.
Vào ban đêm rừng núi Tây Tiến còn có cọp đe dọa tính mạng con người. Cái tài của Quang Dũng là nhà
thơ đã sử dụng một loạt địa danh nhưng địa danh nào cũng đem lại sự thú vị cho người đọc. Không dưới
mười địa danh được sử dụng nhưng đó không đơn thuần là sự liệt kê, kể lể mà mỗi địa danh đều khoác
trên mình một tấm áo riêng, một điệu hồn riêng. Có những địa danh khi đọc lên đã thấy cái hiểm trở của
núi rừng, có những địa danh đầy trữ tình thơ mộng, những cái tên này gợi ý niệm về sự xa ngái và hoang
sơ… Ở mỗi địa danh Quang Dũng đều phát hiện và thể hiện đúng thần thái của nó. Dữ dội chỉ có Sài Khao,
Mường Hịch… Nồng ấm tình người có Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông… Riêng địa danh Mường Hịch
trong câu thơ “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” được Vũ Quần Phương nhận xét hai chữ “hịch” và
“cọp” và hai dấu nặng đặt giữa câu thơ gợi bước chân chúa sơn lâm đang đến gần, gợi sự ghê rợn của cái
chết đang rình rập. Rõ ràng Quang Dũng không sử dụng địa danh một cách tùy hứng mà ông biết lựa chọn
để tạo nên sức ám ảnh cho thơ. Và mỗi địa danh đã vượt qua tư cách là những tên gọi địa lí, ngấm vào nỗi
nhớ nhà thơ, trở thành sợi thương sợi nhớ và chính điều đó đã làm “đất lạ hóa quê hương”.
Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, thác thì “gầm thét”, cọp thì “trêu người” như để thử thách chí can
trường các chiến binh Tây Tiến. Nhưng những nguy hiểm, đầy đe dọa ấy chắc chắn vẫn không đủ làm
những người lính Tây Tiến nản lòng.
Trong khó khăn, gian khổ hi sinh, giữa núi rừng miền Tây đầu hoang vu dữ dội và hiểm trở nhưng cũng
thơ mộng, lãng mạn vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến và tình quân dân thắm thiết được nhà
thơ Quang Dũng gợi tả:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Nếu như ở những câu thơ trước ta đã cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến
với sự lạc quan, yêu đời, dí dỏm, hồn nhiên qua hình ảnh “súng ngửi trời”, tâm hồn lãng mạn nên cảm nhận
và thi vị hóa vẻ đẹp của thiên nhiên qua những câu thơ như “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”… thì ở hai
câu thơ này tâm hồn các chàng trai Tây Tiến lại dễ xúc động trước tình người ấm áp:
+ Thán từ “Nhớ ôi” xuất phát từ tình cảm sâu sắc, mãnh liệt, gợi bao bâng khuâng, vương vấn. Nhớ
những kỉ niệm không thể phai mờ về tình quân dân thắm thiết.
+ Hình ảnh cơm lên khói gợi cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội
suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó và nhận được sự
đón tiếp nồng hậu của đồng bào địa phương, họ quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói và cảm nhận
được tình người ấm áp nơi xứ lạ.
+ Mùi hương nếp xôi: Đến Mai Châu vào mùa lúa nếp người lính Tây Tiến cũng cảm nhận tình được
tình cảm mến thương và sự thơ mộng của vùng đất này qua hương thơm của nếp rừng. Hương thơm của
tình mẹ, tình em ấy sẽ theo suốt dọc cuộc đời của người lính Tây Tiến. Cái đặc sắc nhất của câu thơ là ở hai
chữ “mùa em”, đó là cách định danh, không gọi tên một mùa cụ thể như mùa xuân, mùa hạ, mùa đông, hay
mùa thu mà gọi bằng ấn tượng là “mùa em”. Mùa là một đơn vị đo thời gian, em” là một chủ thể trữ tình.
Sự kết hợp độc đáo này khiến mùa không còn là của thiên nhiên, đất trời mà đã trở thành mùa của niềm
thương nỗi nhớ, mùa của trái tim người lính khi hướng về những bóng dáng thân thương, những tấm lòng
thơm thảo.
*Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:
Đoạn thơ đầu khắc họa một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ, mộng mơ, huyền ảo. Thiên nhiên ấy làm nền cho
sự xuất hiện của những người lính Tây Tiến vừa hào hùng, phong trần lại vừa hồn nhiên, tươi trẻ. Họ không
hề nhụt chí, chùn chântrước khó khăn, gian khổ. Bài thơ ngay từ đầu đã mang màu sắc lãng mạn, bi tráng.
Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn mà nổi bật là cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy
tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường
điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái
hùng vĩ và tuyệt mĩ. Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ thơ nữa là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo
nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ. Nghệ thuật sử dụng tên địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong
ngôn ngữ thơ.
*Phân tích khổ thơ 3: Vẻ đẹp về hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, lãng mạn, nhưng không mất
đi vẻ bi tráng, sáng ngời lý tưởng thời đại
Nhận xét về hình ảnh người lính trong bải thơ Tây Tiến, có người cho rằng: "Đây là bài thơ được xây
dựng bằng bút pháp lãng mạn", có ý khác lại cho rằng: "bài thơ mang tinh thần bi tráng". Tuy nhiên, soi vào
đoạn thơ thứ ba, nếu thiếu một trong hai nội dung đó, thì hình ảnh người lính sẽ không trọn vẹn. Nhà thơ
Lamartine đã nói: "Hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, lãng mạn nhưng không mất đi vẻ bi tráng, vẻ
đẹp sáng ngời của lý tưởng thời đại, và đó chính là hình ảnh tươi đẹp nhất trong trái tim Quang Dũng'.
Ông muốn dùng ngôn từ nghệ thuật của mình để nói những gì thầm kín nhất về hình ảnh người lính
binh đoàn Tây Tiến. Bởi giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ đội nhưng cũng đảy thơ mộng trữ tình là hình
ảnh người lính Tây Tiến với những gian khổ thiếu thốn. Đó là bức tượng đài bi tráng về những chàng trai
xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn sàng ra đi với lý tưởng sống cao đẹp "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Ngay hai câu thơ đầu đoạn, đã gợi lên vẻ bi tráng của người lính binh đoàn Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Cái bi thương gợi lên ngay từ ngoại hình của người lính với hình ảnh "không mọc tóc", "quân xanh màu
lá". Nguyên do là những tháng ngày hành quân vất vả vì đói khát lại thêm những trận sốt rét rừng ác tính
đã làm rụng hết tóc, không mọc lại được; da dẻ cũng từ đó mà héo ủa, xanh xao. Hiện thực gian khổ ấy
không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn hẳn in trong rất nhiều vần thơ thời kháng chiến chống Pháp
như trong thơ Chính Hữu có viết:
"Anh với tôi biết từng cơn ơn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"
Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng nhắc:
"Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa"
Tuy bi thương và tàn khốc như vậy nhưng ta không hề thấy bi lụy mà thay vào đó là cái hào hùng, khí
thế trong tâm hồn, trong tư thế hiên ngang của người lính cụ Hỏ. Nhà thơ không viết "rụng tóc" mà viết
"không mọc tóc" là để chỉ cái ngang tàng như có nét hóm hình, đùa vui là "không cần mọc tóc". Từ màu da
xanh xao như lá vẫn toát lên cái vẻ "oai hùm", hùng dũng, kế thừa hình tượng truyền thống về những bậc
trượng phu, tráng sĩ như Từ Hải, như "ông hùm Đề Thám". Mặt khác, cái hào hùng còn hiện lên trong cách
sử dụng từ của Quang Dũng: Nhà thơ viết "đoàn binh" chứ không phải "đoàn quân" đã gợi lên được sức
mạnh lạ thường. Kết hợp với "dữ oai hùm", câu thơ gọi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm.
Qua đó ta thấy, người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình thế, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc
nghiệt từ thiên nhiên.
Nhận xét về bút pháp nghệ thuật trong thơ Quang Dũng, nhà thơ Vũ Quần Phương từng trầm ngâm
bày tỏ: "Bút pháp của Quang Dũng thích tung hoành trong một biên độ rất rộng, giữa những nét khỏe
khoẩn dữ dàn và những nét tinh vi, e ấp". Đặt hệ quy chiếu đó vào bài thơ Tây Tiến, ta thấy sự dữ dằn khỏe
khoắn đã tô đậm chất chân dung người lính hào hùng, kiêu dũng. Vậy còn nét tinh vi, e ấp nhà thơ đánh rơi
ở ý thơ nào? Nếu nói Quang Dũng "đánh rơi" nét tinh vi, e ấp thì có lẽ đã ép khuôn mẫu cho Quang Dũng
về mặt cảm xúc khi viết thơ, bởi như Lê Quý Đôn từng nói về thơ: "Thơ phát khởi phát từ lòng ta" hay Tổ
Hữu cũng từng nhấn mạnh: "Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã ứ đầy", mà Quang Dũng sáng tác
bài thơ này, khi "tiếng lòng" trong anh dâng trào. Như vậy, nét tinh vi, e ấp thuộc về sự tài hoa của ngòi bút
Quang Dũng, ông đã khéo léo truyền tải vào những vẫn thơ của mình vẻ lãng mạn, mộng mơ của những
chàng trai áo lính Hà thành.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm"
Người ta vẫn thường nói: "Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ". Vậy nên, khi bắt
gặp đôi "mắt trừng" đã gợi cho ta thật nhiều liên tưởng. Phải chăng, đó là đôi "mắt trừng" mở to nhìn
thẳng về phía kẻ thù với chí khí: thể sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy "gửi mộng qua biên giới" - mộng giết
giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. Ta cũng có thể hiểu, "mắt trừng" còn là đôi mắt có tình, đôi mắt
"mộng mơ" thao thức nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội với những con đường nổng nàn hoa sữa: "Từ thuở
mang gươm đi mỡ cõi/ Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long". Trong hương thơm phảng phất ấy là "dáng
kiểu thơm" thanh lịch, yêu kiểu. Điều đó cho ta thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cẩm súng đi theo
tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng mạn. Chính tình yêu đã tiếp sức, tiếp thêm động
lực để họ lên đường, còn lý tưởng cách mạng đã soi sáng tình yêu đã thiêng liêng càng thiêng liêng hơn.
Còn với riêng Quang Dũng, "đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm" có phải chăng là hình ảnh người vợ tần tảo
sớm hôm? Bởi khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, anh đã "xếp bút nghiên" lên đường bước vào cuộc
kháng chiến trường kì. Anh gác lại tất cả mọi thú vui của tuổi trẻ, đành lòng xa vợ con. Ở ngoài biên ải xa
xôi, mỗi khi đêm về, nỗi nhớ vợ con lại dâng trào, "chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì
Quang Dũng lại gửi chúng vào thơ". Điều đó cho thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cảm súng theo
tiếng gọi của tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng mạn. Chính tình yêu là động lực để họ lên đường, còn lý
tưởng cách mạng lại soi sáng tình yêu thêm thiêng liêng.
Nhà thơ Bysshe Shelley khẳng định: "Thơ ca làm cho những gì đẹp nhất trên đời trở thành bất từ" và
hai câu thơ tiếp theo đã sáng ngời vẻ đẹp lí tưởng bất tử của thời đại: "Quyết từ cho tổ quốc quyết sinh".
"Rải rác biên cương mổ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào chữ "mồ" - một âm tiết mang
thanh bằng ở âm vực thấp, gợi nên ý niệm về cái chết. Câu thơ sử dụng các từ Hản Việt như "biên cương",
"viễn xử" không chỉ gợi nên không khí cổ kính mà còn gợi cả không gian nơi biên giới xa xôi, heo hút. Nhà
thơ đã nhìn thẳng vào sự thật khốc liệt của chiến tranh, miêu tà cái chết một cách chân thực không né
tránh. Làm cho ta thấy: "Bài thơ Tây Tiến phảng phất những nét buồn, những nét đau, nhưng đó là cái buồn
bi tráng, chứ không phải là cái buồn bi lụy", như lời nhà thơ Trần Lê Văn nhận xét.
Nói đến chiến tranh là nói đến cái chết, những chàng trai Hà Thành hay bất kì ai khi ra trận, họ thừa
hiểu: phía trước là cái chết, lên đường là sẽ chết, nhưng họ vẫn quyết đi theo tiếng gọi của trái tim mình,
theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc: "Khi đất nước cần, chúng tôi sẵn sàng đứng lên". Bốn từ "chẳng tiếc
đời xanh" vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ phong trần, đồng thời cũng mang vẻ đẹp của thời đại: "Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh". "Chiến trường" là nơi bom đạn dữ dội, khốc liệt và nguy nan; là nơi cái chết cận kề
như một định mệnh. "Đời xanh" là tuổi trẻ, là cuộc sống đang tràn đầy sắc xuân. Thế nhưng người lính ở
đây lại "chẳng tiếc" cho mình, họ chỉ tiếc tuổi trẻ này sẽ vô nghĩa nếu không được cẩm súng bảo vệ quê
hương đất nước. Cầu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh những con người thuở ấy ra đi:
"Sớm chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thêm nắng lá rơi đầy"
Hai câu thơ cuối, nhà thơ Quang Dũng viết về sự hi sinh bi tráng của những người lính Tây Tiến:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Cách nói "áo bào thay chiếu" là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính. Nhà thơ
Quang Dũng đã từng tâm sự rằng: 'Sự thật khi người linh ngã xuống không có được manh vải liệm. Nói áo
bào là nói theo cách nói của thơ xưa để an ùi những người đã năm xuống". Đời người lính ra trận, vật bắt li
thân chính là chiếc chiếu cói, manh chiếu ấy đã theo họ trên mọi chặng đường rồi cũng chính là "tấm áo
bào" của lòng thành kính đưa tiến những người con ưu tú của dân tộc về với đất mẹ. Hình ảnh "anh về đất"
là cách nói giảm, nói tránh cái chết đau thương, làm cho câu thơ bi mà không lụy như "những người chưa
bao giờ khuất – đêm đêm rì rầm trong tiếng đất - những buổi ngày xưa vọng nói về" (Nguyễn Đình Thi). Con
sông Mã - nhân chứng lịch sử, người bạn đồng hành của người lính Tây Tiền cũng nhỏ dòng lệ cảm thương
lay động cả đất trời, nó đã gầm lên "khúc độc hành" như khúc ca hùng tráng tiễn đưa người lính về nơi an
nghỉ cuối cùng.
*Đánh giá nội dung nghệ thuật
Với bút pháp nghệ thuật vừa hiện thực vừa lãng mạn, cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài hoa nhà thơ
Quang Dũng. Hình ảnh thơ khá đa dạng và được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên sắc thái
thẩm mĩ phong phú. Mỗi loại hình ảnh cũng lại có hai dạng chính, tạo nên hai sẳc thái thẩm mĩ phối hợp,
bổ sung cho nhau, ở đoạn thơ này là hình ảnh người lính hiện ra với nhiều vẻ đẹp khác nhau, mà vẻ đẹp nổi
bật là hào hùng và hào hoa. Đoạn thơ vừa có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính nhất là ở đoạn
miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ, lại có lớp từ ngữ thông tục, sinh
động của tiếng nói hằng ngày, in đậm trong phong cách người lính, kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa
mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ man điệu, dữ oai hùm, dáng kiều thơm, anh về đất…
Đoạn thơ cho thấy tình cảm, sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến, với đồng đội thân yêu, cho
thấy tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến trong một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc.
*Kết bài: Bài thơ “Tây Tiến” đã vô cùng thành công khi tái hiện lên vẻ đẹp thiên nhiên cũng như con người
nơi núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng khắc họa được vẻ đẹp trẻ trung, lạc quan trong tâm hồn của những
chàng lính trẻ cùng bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến. Bài thơ Tây Tiến khép lại trong âm hưởng
hào hùng, bi tráng như một khúc hùng ca về một thời bom đạn đã đi qua nhưng nó còn sống mãi trong
hàng triệu trái tim người Việt.

You might also like