Professional Documents
Culture Documents
Cảng Hải Phòng
Cảng Hải Phòng
Ngày 21 tháng 3 năm 1956, Cảng Hải Phòng là một xí nghiệp do Ngành vận tải thủy phụ trách và
quản lý. Ngày 10 tháng 7 năm 1965, Cảng Hải Phòng là xí nghiệp trực thuộc Cục vận tải đường
biển. Ngày 28 tháng 11 năm 1978, Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng cục đường biển. Ngày 29
tháng 4 năm 1995, Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Ngày 12 tháng
10 năm 2007, Cảng Hải Phòng chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Một thành viên
Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Ngày 1 tháng 7 năm 2014, Cảng Hải
Phòng chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần.
Cảng Hải Phòng hiện nay bao gồm các khu bến cảng chính sau:
1. Cảng Vật Cách: Xây dựng năm 1965, ban đầu là những dạng mố cầu, có diện tích mặt bến
8x8 mét,cảng có 5 mố cầu bố trí cần trục ôtô để bốc than và một số loại hàng khác từ sà
lan có trọng tải từ 100 đến 200 tấn.
2. Cảng Hải Phòng (khu cảng chính, hay còn gọi là Bến Hoàng Diệu, trước gọi là Bến Sáu
Kho) trên sông Cấm: cảng container nội địa, cảng bốc xếp và vận chuyển hàng hóa rời, chủ
yếu phục vụ nội địa. Khu cảng này có 11 cầu tàu, độ sâu trước bến là -8,4 mét; hệ thống
kho rộng 31320 mét vuông; hệ thống bãi rộng 163 nghìn mét vuông.
3. Cảng Hải Phòng (khu bến Chùa Vẽ) trên sông Cấm: cảng container chuyên dụng, có 5 cầu
tàu, hệ thống bãi rộng 179 nghìn mét vuông.
4. Khu bến Đình Vũ và Nam Đình Vũ: có thể tiếp nhận tàu trọng tải 10 nghìn - 20 nghìn DWT
Cảng gồm 8 cầu tàu bê tông cốt thép, 2 cầu đang xây dựng trong đó có 1 bến nghiêng;
Kho có diện tích 70.232 m², bãi chứa hàng có diện tích 39.000 m²;
Thiết bị bốc dỡ: có cẩu cố định và di động 10 - 50 - 70 tấn, có xe nâng, hạ hàng, băng
chuyển tải và cẩu xếp dỡ công ten nơ;
Độ sâu trung bình của mực nước là 7 m;
Có đường sắt vào các cầu tàu số 8 - 9 - 10 - 11.
Khả năng xếp dỡ: từ 3,5 đến 4,5 triệu tấn/năm. Đang tăng cường khả năng xếp dỡ hàng
hóa và công ten nơ lên 7 triệu tấn/năm.