Học thuyết giá trị thặng dư

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Học thuyết giá trị thặng dư

2.1.1. Sự chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản


a) Phân tích sự chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản
- Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thức
biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình
thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản, tiền
chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử
dụng để bóc lột lao động của người khác.
- Tiền với tư cách là tiền, tiền thông thường vận động theo công thức: H -
T - T. Tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: T - H - T.
Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T - H - T đều chuyển hoá thành
tư bản
- So sánh hai công thức:
Giống nhau đều cấu thành bởi hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng
hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện
quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
Khác nhau Giản đơn Tư bản
- Lưu thông hàng hoá giản đơn - Lưu thông của tư bản
bắt đầu bằng việc bán (H - T) và bắt đầu bằng việc mua
kết thúc bằng việc mua (T - H). (T - H) và kết thúc
Điểm xuất phát và điểm kết thúc bằng việc bán (H – T).
của quá trình đều là hàng hoá, Tiền vừa là điểm xuất
còn tiền chỉ đóng vai trò trung phát, vừa là điểm kết
gian. thúc của quá trình, còn
- Mục đích của lưu thông hàng hàng hoá chỉ đóng vai
hoá giản đơn là giá trị sử dụng trò trung gian; tiền ở
để thoả mãn nhu cầu, nên các đây không phải là chi
hàng hoá trao đổi phải có giá trị ra dứt khoát mà chỉ là
sử dụng khác nhau. ứng ra rồi thu về
- Mục đích của lưu
thông tư bản không
phải là giá trị sử dụng,
mà là giá trị, hơn nữa
giá trị tăng thêm. Vì
vậy, nếu số tiền thu về
bằng số tiền ứng ra, thì
quá trình vận động trở
nên vô nghĩa.

Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận
động đầy đủ của tư bản phải là T - H - T', trong đó T' = T + ΔT. Số tiền
trội hơn so với số tiền ứng ra (ΔT), C.Mác gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu
là m. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản.Vậy tư bản là giá trị
mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá
trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn,
vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.C.Mác gọi công thức T - H -
T' là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu
hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp,
tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay
=> Tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư.
- Mâu thuẫn của công thức chung tư bản:
Lý luận giá trị khẳng định giá trị hàng hóa là lao động xã hội kết tinh
trong hàng hóa, nghĩa là nó chỉ được tạo ra trong sản xuất. Nhưng mới
thoạt nhìn vào công thức ta đã có cảm giác giá trị thựng dư được tạo ra
trong lưu thông.
Xét các trường hợp:
- Trường hợp trao đổi ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị,
từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, tổng giá trị trong tay mỗi người
tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Nhưng về mặt giá trị sử
dụng thì hai bên đều có lợi.
- Trường hợp trao đổi không ngang giá: hàng hóa có thể bán cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người
sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được
khi bán sẽ bù cho cái thiệt khi mua và ngược lại. Cho dù có người chuyên
mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội vẫn không đổi. Bởi số giá trị
mà người này thu được cũng chỉ là sự ăn chặn giá trị của người khác
Qua đây, lưu thông và bản thân tiền tệ không tạo ra giá trị mới. Nhưng
nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, có nghĩa là đứng ngoài
lưu thông thì cũng không thể làm cho số tiền của mình tăng lên được. Do
đó mâu thuẫn của tư bản sẽ biểu hiện ở: giá trị thặng dư vừa không được
tạo ra trong lưu thông vừa được tạo ra trong lưu thông để giải quyết mâu
thuẫn này phải tìm trên thị trường một hàng hóa có khả năng tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị bản thân nó, đó là hàng hóa sức lao động
b) Điều kiện để quyết định tiền tệ biến thành tư bản
Nghiên cứu công thức chung của tư bản chính là nghiên cứu những điều
kiện chuyển hóa quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa
đơn giản thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì khi đó đã có hai
điều kiện: có một lớp người được tự do về thân thể nhưng lại không có tư
liệu sản xuất, vì vậy để có thể sống họ sẽ phải đem bán sức lao động của
bản thân và một số ít sẽ tập trung một lượng tiền đủ để lập xí nghiệp,
công ty,… mua sức lao động tiến hành sản xuất để sử dụng sức lao động
của người làm thuê.

2.1.2. Qúa trình sản xuất giá trị thặng dư


Mục đích của nhà tư bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức
lao động là để tạo ra giá trị thặng dư.
Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất
để sản xuất giá trị thặng dư có hai đặc điểm: một là, công nhân làm việc
dưới sự kiểm soát của nhà tư bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu
của nhà tư bản.
Ví dụ:
Giả sử để sản xuất 20kg sợi, cần 20 kg bông và giá 20kg bông là 20$. Để
biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và
hao mòn máy móc là 2$; giá trị sức lao động trong một ngày là 3$ và sức
lao động được mua bán theo đúng giá trị. Ngày lao động là 12 giờ; trong
một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5$; cuối
cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí thời gian lao động
cá biệt ngang bằng với hao phí lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6
giờ, thì nhà tư bản phải ứng ra là 15$ và giá trị của sản phẩm mới (20kg
sợi) mà nhà tư bản thu được cũng là 15$. Như vậy, nếu quá trình lao động
chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là
bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư,
do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế, quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức
lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có
thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau mà nhà tư bản đã tính
đến trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động
trong một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là
thuộc quyền của nhà tư bản. Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12
giờ trong ngày như đã thoả thuận thì toàn bộ chi phí sản xuất mã nhà tư
bản bỏ xa là 27 còn giá trị của sản phẩm mới (40 kg sợi) do công nhân
sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy 27$ ứng trước đã chuyển
hóa thành 30 $, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó tiền tệ ứng ra
ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị m ới dôi ra ngoài giá trị s ức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư b ản chiếm không. C.
Mác viết: "Bí quyết của sự t ự t ăng thêm giá trị c ủa tư b ản quy lại là ở
chỗ t ư bản chi phối được một số l ượng lao động không công nhất định
của người khác".Vốn d ĩ nhà tư bản chi phối được số lao động không
công ấy vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất. Việc nhà tư bản
chiếm đoạt giá trị thặng dư do quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra
gọi là bóc lột giá trị thặng dư

Tài liệu tham khảo:


- Giáo trình kinh tế chính trị 2021-2022
- https://luatminhkhue.vn/phuong-phap-san-xuat-gia-tri-thang-du-tuyet-
doi.aspx

You might also like