TRIẾT tiểu luận

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM

KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO



MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

TIỂU LUẬN

VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: TS. Nguyễn Thị Quyết

SVTH:

1. Nguyễn Văn Hữu Nhân 21145226


2. Đặng Gia Nguyễn 21145222
3. Nguyễn Võ Tấn Tài 21145265
4. Bùi Gia Huy 21145632
5. Nguyễn Đức Tài 21145262
6. Phạm Anh Quốc 21145071
Mã lớp học: LLCT130105_21_1_35CLC

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2021


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021-2022

Nhóm số 15

Tên đề tài: Vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.

TỈ LỆ %
HỌ VÀ TÊN SINH MÃ SỐ SINH
STT HOÀN SĐT
VIÊN VIÊN
THÀNH
1 Đặng Gia Nguyễn 21145222 100% 0965200629

2 Nguyễn Văn Hữu Nhân 21145226 100% 0948533378

3 Nguyễn Võ Tấn Tài 21145265 100% 0923013895

4 Nguyễn Đức Tài 21145262 100% 0352219213

5 Bùi Gia Huy 21145632 100% 0936598411

6 Phạm Anh Quốc 21145071 100% 0856758671

Ghi chú:

− Trưởng nhóm: Đặng Gia Nguyễn

Nhận xét của giáo viên:

..........................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................

Điểm: …………
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa aaKí Tên

TS. Nguyễn Thị Quyết


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
................................................................................................................................................
1..............................................................................................................................................
................................................................................................................................................

CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
................................................................................................................................................
2

1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất


..........................................................................................................................................
2
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất
...............................................................................................................................
3
1.1.2. Cấu trúc lực lượng sản xuất
...............................................................................................................................
4
1.1.3. Tính chất đặc biệt của lực lượng sản xuất hiện đại
...............................................................................................................................
5
1.2 Vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
..........................................................................................................................................
6
1.2.1. Khái niệm con người
..........................................................................................................................................
6
1.2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định lực lượng sản xuất
..........................................................................................................................................
7
1.2.3. Sự tác dộng của các nhân tố khác tới con người
..........................................................................................................................................
8

CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
................................................................................................................................................
9

2.1. Tính tất yếu khách quan và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt
Nam trong thời kì quá độ
..............................................................................................................................................
9

2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực


..............................................................................................................................................
9

2.1.2. Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa
..............................................................................................................................................
10

2.1.3. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta
..............................................................................................................................................
11
2.2. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực nước ta
..............................................................................................................................................
12

2.2.1. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta


................................................................................................................................................
12

2.2.2. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực
................................................................................................................................................
13

2.2.3. Mục tiêu và phương hướng phát triển


................................................................................................................................................
14

2.3. Những giải pháp trung tâm của chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo
hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa
................................................................................................................................................
15

2.3.1. Chính sách đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ
..............................................................................................................................................
15

KẾT LUẬN
..............................................................................................................................................
16

TÀI LIỆU THAM KHẢO


..............................................................................................................................................
18
MỞ ĐẦU

Thế giới chúng ta hiện nay đang sống trong thời đại của công nghệ, một thời
đại đòi hỏi con người sống và làm việc bằng trí lực nhiều hơn thể lực. Bằng cách
áp dụng khoa học – công nghệ vào đời sống và lao động, thì nhân tố con người
vẫn là trung tâm của lực lượng sản xuất.

Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục
tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh “ thì việc đào
tạo chất lượng cao, phát triển tri thức, trình độ học vấn cùng với tu dưỡng rèn
luyện đạo đức, ý thức của con người là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định
sự phát triển nhanh chóng, lâu dài, hiệu quả và vững mạnh cho nền kinh tế nước
ta. Đó là việc cần thiết và có tính cập nhật liên tục sao cho đáp ứng được nhu cầu
của con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung.
Chúng ta khẳng định con người là nguồn lực quan trọng trong lực lượng sản xuất
nhưng phải là những người có tri thức và đạo đức. Bởi vì yêu cầu của sự nghiệp
đột phá này đòi hỏi phải có sự sáng tạo, không làm việc máy móc mà phải làm
việc thông minh, đầu óc nhanh nhạy, phải có sự tập trung cao độ, nghiêm túc
trong công việc và hiểu rõ về công việc mình đang làm. Từ đó cho thấy con người
dần trở thành chủ thể sáng tạo ra giá trị, bao gồm giá trị tinh thần và giá trị vật
chất cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cấp thiết bây giờ là lập chiến lược
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phấn đấu biến đất nước ta trở thành một quốc gia mạnh mẽ,
phát triển và hiện đại trong tương lai, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế trên
thế giới.
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất

1.1.1 Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất

- Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của
quan hệ sản xuất:

Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một
quan hệ sản xuất phù hợp. Do lực lượng sản xuất không ngừng phát triển ở một
trình độ cao hơn nên quan hệ sản xuất cũng phải phát triển để tạo động lực cho lực
lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất luôn phát triển nhanh hơn quan hệ
sản xuất nên đến một lúc nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, đòi hỏi phải
xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.

- Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất:

Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó
trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu
quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản
xuất khi nó không phù hợp.

Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt
trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó đòi hỏi phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời và
thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Quá trình đó lặp đi lặp lại tác động
cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến
sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.
1.1.2 Cấu trúc lực lượng sản xuất

- Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản
xuất và sức lao động mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất
là sức lao động .

- Tư liệu sản xuất bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong đó,
trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Bất cứ xã
hội nào không thể chỉ có người lao động. Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải
gồm có người lao động và tư liệu sản xuất. Do đó hai yếu tố này tạo thành cái gọi
là lực lượng sản xuất
- Một lực lượng để sản xuất ra của cải phải gồm có người lao động và tư liệu sản
xuất.
- Do đó hai yếu tố này tạo thành cái gọi là lực lượng sản xuất.

1.1.3 Tính chất đặc biệt của lực lượng sản xuất hiện đại :
- Lực lượng sản xuất hiện đại :
Trong thời đại ngày nay, những thành tựu của khoa học – công nghệ đã góp phần
quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần làm hiện đại hóa
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên tất cả các yếu tố cấu thành của nó.
Vì vậy, khi nghiên cứu về lực lượng sản xuất, người ta rất chú ý phân tích đến tính
hiện đại của lực lượng sản xuất. Nhiều ý kiến đề cập đến phán đoán của C.Mác về
vai trò của khoa học với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp, coi đó là đặc trưng
cơ bản của lực lượng sản xuất hiện đại.
- Tính chất đặc biệt :
+ khoa học vốn là một hệ thống những tri thức được tích lũy trong quá trình lịch
sử, đã được con người vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, được vật hóa
trong các thao tác lao động và đem lại những hiệu quả nhất định. Như vậy, từ chỗ
là lực lượng sản xuất tiềm năng, khoa học đã từng bước tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
+ khoa học có sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật, trở thành cơ sở lý thuyết cho các
phương tiện kỹ thuật, công nghệ mà thông qua đó, khoa học được vật chất hóa
trong các yếu tố vật thể của lực lượng sản xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học
với kỹ thuật, công nghệ là một xu thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại bởi khoa học muốn phát triển nhanh chóng cần phải có sự trợ giúp của
công nghệ hiện đại; đồng thời, muốn sản xuất ra công nghệ mới đòi hỏi con người
phải dựa trên những phát minh khoa học mới. Điều đó cũng chứng tỏ khoa học gắn
bó chặt chẽ và là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất trong thời đại ngày nay.
+ khoa học được thâm nhập vào tất cả các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.
Nhờ có khoa học, con người ngày càng tạo ra được nhiều đối tượng lao động nhân
tạo, khắc phục được hạn chế về thời gian sử dụng và một số đặc tính khác của đối
tượng lao động tự nhiên; những đối tượng nhân tạo này cũng thân thiện với môi
trường. Cũng nhờ có khoa học mà công cụ lao động ngày càng được cải tiến, sức
lao động của con người được giải phóng. Cũng nhờ đó mà trình độ, tay nghề, kỹ
năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất
nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao
động làm việc cơ bắp thông thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu
hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Khoa học cũng đã thâm
nhập vào các lĩnh vực khác, không chỉ có khoa học công nghệ – kỹ thuật (phần
cứng) mà còn có những ngành khoa học quản lý, khoa học nhân văn… (phần
mềm). Nhờ có khoa học, hoạt động của các nhà lãnh đạo, quản lý, điều hành sản
xuất ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng
suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Như vậy, khoa học không phải là
một lực lượng sản xuất độc lập, đứng bên ngoài con người mà khoa học chỉ có thể
tạo ra những biến đổi trong quá trình sản xuất thông qua hoạt động của con người.
Khoa học đã được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất, góp phần
cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới, những phương tiện
sản xuất tiên tiến, góp phần nâng cao kỹ năng, tay nghề, trình độ cho người lao
động. Do đó, có thể nói trong thời đại ngày nay, khoa học đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.

1.2 Vai trò của con người trong lực lượng sản xuất

1.2.1. Khái niệm con người


- Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của
thế giới tự nhiên.

- Con người là một bộ phận của tự nhiên. Con người không thể tồn tại mà thoát
ly khỏi quá trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi.

- Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã
hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư
duy, xác lập quan hệ xã hội.

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề nổi tiếng
Luận cương về Phoiơbắc: “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà các quan hệ xã hội ”

- Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan hệ giữa
con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy đến cũng đều
mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người với con người là quan
hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác.

- Lịch sử đã chứng minh không có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của bản thân cũng như không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để
sản xuất vật chất mà phải liên kết lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản
phẩm cho nhau.

1.2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định lực lượng sản
xuất

- Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn
thể nhân loại là công nhân là người lao động. Con người là nhân vật chính của lịch
sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội.

- Nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật
chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa
là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy.

- Trên phương diện đó vai trò nhân tố con người lao động trong lực lượng
sản xuất là yếu tố lao động nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất.
- Con người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Không có
người lao động nào trong quá trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao động thể
lực hay lao động cơ bắp.

- Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công
cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.

Các Mác đề cao sức sản xuất của con người. Ông viết: “Chính sự cần thiết
phải có sự kiểm soát của xã hội đối với một lực lượng nào đó của tự nhiên để tiết
kiệm nó, chính sự cần thiết phải chiếm lấy nó hoặc phải thuần thục nó bằng những
công trình đại quy mô do bàn tay con người dựng nên, - chính sự cần thiết đó đã
đóng một vai trò hết sức quyết định trong lịch sử công nghiệp.

- Để giải thích rõ hơn khái niệm trên ta phải bàn đến 3 lý do:

+ Một là: Mỗi quá trình sản xuất muốn thực hiện được cần đủ 2 điều kiện:
Tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và
đối tượng lao động, đây là 2 nhân tố không thể thiếu của quá trình sản xuất. Sản
phẩm muốn tạo ra còn phải có tư liệu sản xuất nhưng nếu con người không tác
động sức lao động của mình vào tư liệu sản xuất thì quá trình sản xuất không thể
thực hiện được. Như vậy sản xuất không thể tiến hành nếu không có tư liệu sản
xuất, nhưng nếu không có tư liệu lao động của con người thì tư liệu sản xuất cũng
không phát huy tác dụng.

+ Hai là: Tất cả các nhân tố khác trong lực lượng sản xuất đều là sản phẩm
lao động của con người, là sự kết tinh năng lực lao động của họ. Tất cả tư liệu sản
xuất dù là tư liệu lao động hay đối tượng lao động đã qua chế biến đều là sản phẩm
lao động của con người, là sự sáng tạo của con người.

+ Ba là: Những nhân tố khác chỉ có ý nghĩa là lực lượng sản xuất khi nó
được người lao động sử dụng vào quá trình sản xuất nhất định. Đúng vậy, công cụ
lao động dù thô sơ hay hiện đại, đối tượng lao động dù giản đơn hay phức tạp
nhưng nếu không có sự tác động về sức lao động của con người vào thì nó cũng chỉ
là những “vật vô tri, vô giác”, không thể có sản phẩm như mong muốn.
1.2.3. Sự tác dộng của các nhân tố khác tới con người

Tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động là một nhân tố của lực lượng
sản xuất. Sự phát triển ngày càng cao của công cụ lao động đã làm giảm sức lao
động của con người trong quá trình sản xuất. Trước đây công cụ lao động là thô sơ
thì ngày nay nó được thay thế bằng máy móc hiện đại Nhờ đó sức lao động của con
người sử dụng trong quá trình sản xuất đã giảm đi đáng kể, năng suất lao động tăng
lên, chất lượng sản phẩm cũng tăng lên, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Sự phát triển của công cụ lao động một mặt nâng cao năng suất lao động, làm
giảm sức lao động của con người, nhưng nó cũng đặt ra 1 vấn đề: người sử dụng.
Một nền sản xuất với máy móc, trang thiết bị hiện đại nhưng trình độ của người
sản xuất hạn chế, không có khả năng sử dụng, khả năng quản lý thì sẽ không khai
thác được, hoặc khai thác không hết chức năng tác dụng của nó. Do đó gây ra tình
trạng lãng phí trong sản xuất. Vì vậy cùng với sự phát triển của công cụ lao động,
bản thân người sản xuất cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, nâng cao năng
lực chuyên môn để không chỉ khai thác hết chức năng, tác dụng của nó mà còn
sáng tạo công cụ lao động mới.

Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tác động không nhỏ tới con người.Nhờ
sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhiều ngành sản xuất mới, nhiều máy
móc thiết bị mới, nhiều công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới... đã
ra đời.
CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Tính tất yếu khách quan và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Việt Nam trong thời kì quá độ

2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực

Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách
hiểu khác nhau khi bàn về khái niệm nguồn nhân lực.
Theo Liên Hợp quốc, “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của
mỗi cá nhân và của đất nước”. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như
một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên.
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất
xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nhân lực bao gồm
toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế – xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá
nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí
lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt:
 Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động có thể huy
động được từ họ;
 Về chất lượng, đó là sức khoẻ, trình độ chuyên môn, kiến thức và
trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số
những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động
hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Nguồn lao động cũng được hiểu trên mặt số lượng. Như vậy, có một số được tính
là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: những người
không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người
không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định
nhưng đang đi học.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát
triển nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các
nguồn lực.
Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn
vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến
lược, là cơ sở nền tảng cho sự phát triển bền vững.

2.1.2 Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật phổ biến của sự phát triển lực
lượng sản xuất, của sự phát triển xã hội mà mọi quốc gia đều phải trải qua khi
muốn phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện sẽ tạo cơ sở vật chất để tăng
cường tiềm lực củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và
tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là hệ thống các yếu tố vật
chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với một trình độ kỹ thuật mà lực lượng
lao động xã hội sử dụng để tiến hành quá trình lao động sản xuất.
Mỗi phương thức sản xuất có cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng đặc trưng cho
xã hội đó. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa
học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có trình độ xã hội quá
cao hơn cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Vì thế, từ chủ nghĩa tư bản
hay trước chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế phổ biến
và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với nước ta, từ một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thông qua
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, làm cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật
chất, văn hóa, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, trên cơ sở đó
từng bước nâng dần văn minh của xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn làm cho khối liên minh công nhân,
nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố, đồng thời nâng cao vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Tóm lại, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố quyết định thắng lợi con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì thế, Đảng ta xác định công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

2.1.3. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta

a) Thực hiện cuộc cách mạng khoa học – công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu phải được tiến hành bằng cách
mạng khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, trong điều kiện thế giới đã trải qua hai
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và điều kiện cơ cấu kinh tế mở, cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ ở nước ta có thể và cần phải bao hàm các cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã, đang trải qua.
Từ bối cảnh đó, vị trí của cuộc cách mạng này phải được xác định là “then chốt”
và khoa học và công nghệ phải được xác định là một “quốc sách”, một
“động lực” cần đem toàn lực lượng để nắm lấy và phát triển nó.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay có thể khái quát
gồm hai nội dung chủ yếu sau:

 Xây dựng thành công cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa
vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân.
 Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu
mới của khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với những
hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

Trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cần chú ý:

 Ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
 Sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn, quay
vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại.
 Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và
công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo
cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.
 Kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa
và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế – xã hội.

b) Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và
quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân. Cơ
cấu kinh tế được xem xét dưới góc độ: cơ cấu ngành (như công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ…); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu thành
phần kinh tế (vấn đề này đã được nghiên cứu ở Chương 8).
Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan trọng
đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh tế.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ
cấu kinh tế tối ưu (hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó
đáp ứng được các yêu cầu sau:

 Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế
và xu hướng vận động phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng
dần về tỷ trọng.
 Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra
như vũ bão trên thế giới.
 Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các
địa phương, các thành phần kinh tế.
 Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá
kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.

Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình, trải qua những chặng đường nhất
định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo được
“đà” cho chặng đường sau và phải được bổ sung và hoàn thiện dần trong quá trình
phát triển.
Ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác định cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh
tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là “cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp
– dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng”, và khi hình
thành cơ cấu kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương
châm là:
“Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến
vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc
hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ
yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ
được nhịp độ (tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh
vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế…”

* Tiến hành phân công lại lao động xã hội


Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá tất yếu phải phân công lại lao động
xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là chuyên
môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong
nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn
bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa
học và công nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lại lao động xã hội
phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:

 Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và
sốtuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
 Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản
đơn trong tổng lao động xã hội.
 Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng
nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.

Ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai
trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát
triển theo chiều sâu.

2.2 Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực nước ta
2.2.1. Vai trò và thực trạng của nguồn nhân lực nước ta:

a) Vai trò của nguồn nhân lực:

- Vấn đề con người trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta vẫn
đang là vấn đề quan trọng nhất ở nước ta, việc xây dựng, đào tạo tốt yếu tố con
người làm tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

- Vì vậy nguồn nhân lực chính là yếu tố quan trọng nhất trong sự nghiệp công
nghiệp hóa theo một số lý do sau:

+ Đầu tiên, ngoài yếu tố con người thì vẫn có các nguồn lực khác như là vốn, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,… tồn tại ở đó dưới dạng tiềm năng, chịu sự tác
động của con người. Và những tiềm năng đó chỉ khi con người biết sử dụng đúng
cách, khai thác những điểm mạnh của nó thì mới phát huy được những tác dụng,
lợi ích, vai trò để phục vụ trở lại cho đời sống con người, chính điều đó sẽ đóng
góp trực tiếp vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế
mà trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, yếu tố con người luôn giữ vai trò
quan trọng nhất, ảnh hưởng đến sự thành công của quá trình phát triển của nước ta

+ Thứ hai, những nguồn lực như bên trên ta đề cập hay nhiều hơn thế bên ngoài
tự nhiên đa số là hữu hạn, có thể bị cạn kiệt nếu bị khai thác quá mức. Trong khi
đó, nhân lực, mà hơn hết là trí tuệ của nguồn nhân lực, yếu tố con người vẫn luôn
tồn tại vô tận. Từ cổ chí kim, từ những ngày đầu khi Trái đất còn hoang sơ, thì
chính những bộ óc thiên tài của con người đã luôn tìm tòi, phát minh, khám phá ra
những miền đất mới, những điều diệu kì mà thiên nhiên không ban sẵn cho chúng
ta. Từ những phát minh thuở sơ khai đó đã đưa con người chúng ta, hay rộng lớn
hơn là cuộc sống của cả nhân loại từng bước phát triển, từng bước hiện đại. Điều
đó nó lên trình độ vô tận của con người, sức mạnh của nguồn nhân lực. Ngoài ra,
khi xem xét những kinh nghiệm của các nước và thực tiễn tồn tại ở nước ta đã cho
thấy được sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào
việc hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, tức là phụ thuộc
vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, của nguồn nhân lực.

- Nói tóm lại, yếu tố con người, sức mạnh của nguồn nhân lực chính là yếu tố
quyết định đến sự thành bại của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng đến của quá trình này. Và để thực hiện hiệu
quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì phải lấy việc phát huy nguồn lực
con người Việt Nam đặc biệt là người hiện đại làm yếu tố cho việc phát triển
nhanh, bền vững. Nguồn nhân lực ở vai trò chủ thể tham gia vào quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết
tâm, mà điều quan trọng hơn chính là có trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái
nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật,….

b) Thực trạng của nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay:

Việt Nam đang trong quá trình phát triển kinh tế trên các lĩnh vực đa dạng, đang
gây ấn tượng mạnh trên thị trường quốc tế và nhờ đó mà đã thu hút được nhiều
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và
quốc tế thì cần khắc phục những vấn đề đang tồn tại như sau:

- So với các nước khác thì Việt Nam đang có một nguồn nhân lực dồi dào, có chất
lượng tốt tuy nhiên chưa thực sự biết cách khai thác và tận dụng tiềm năng của
nguồn nhân lực nước ta như chưa đáp ứng về nhu cầu phát triển của người lao
động, kế hoạch đào tạo chưa hiệu quả, đãi ngộ chưa đủ cao,… Khiến cho nguồn
lao động chất lượng cao thường lựa chọn làm việc trong môi trường quốc tế vì nghĩ
họ sẽ tận dụng tốt hơn khả năng của nguồn lao động, trả đãi ngộ cao hơn và môi
trường làm việc tốt hơn. Chính vì những điểu đó đã dẫn đến hiện tượng chảy máu
chất xám ở nước ta.

- Chất lượng nguồn nhân lực nước ta đạt được sự đồng đều, còn có nhiều sự chênh
lệch lớn về trình độ chuyên môn bởi chương trình đào tạo người lao động chưa
thực sự hiểu quả, còn quá phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận của người lao động
khiến cho sự khác biệt năng lực lớn, điều đó dẫn đến mặt bằng chung về chất
lượng nguồn lao động chưa cao.

- Chính vì sự chênh lệch trình độ nên dù có nguồn lao động dồi dào nhưng trong đó
nguồn nhân lực chất lượng cao lại hạn chế, chưa có sự đáp ứng về nhu cầu tuyển
dụng hiện nay. Đó chính là một vấn đề nan giải, một bài toán khó cho các tổ chức,
doanh nghiệp nếu yêu cầu quá khắt khe với ứng viên sẽ khó tìm được người làm.
Nhưng nếu không khắt khe thì sẽ dẫn đến chất lượng nhân lực không cao, và năng
suất làm việc thấp.

Đó chính là những thực trạng về nguồn nhân lực ở nước ta đang tồn tại, đòi hỏi
Nhà nước đưa ra những chính sách, quan điểm cũng như kế hoạch để giáo dục
nâng cao chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao.

2.2.2. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực:
Kế thừa tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng rất quan tâm đến
phát triển giáo dục và đào tạo. Văn kiện Đại hội XIII có những điểm mới nổi bật so
với Đại hội XII không chỉ về hình thức mà cả nội dung về giáo dục và đào tạo.

Ở Văn kiện Đại hội XII, nội dung giáo dục và đào tạo được đề cập ở mục "Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ" thì ở
Văn kiện Đại hội XIII, giáo dục và đào tạo đã được để ở mục riêng. Đặc biệt, Văn
kiện Đại hội XIII đã gắn nội dung phát triển giáo dục và đào tạo với đáp ứng yêu
cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội
nhập quốc tế. Đây là điểm mới rất quan trọng, được thể hiện cụ thể ở năm nội dung
cốt lõi cơ bản sau:

Thứ nhất, "Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở,
linh hoạt; bảo đảm thống nhất chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và
đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu
lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức. Chú
trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ lao
động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ
giữa đào tạo và sử dụng lao động"(1). Như vậy, vẫn trên tinh thần bảo đảm thống
nhất chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nhưng Đại hội
XIII yêu cầu tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ
cấu lao động nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức; hình
thành đội ngũ lao động lành nghề, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao
động. Rõ ràng nội dung này vừa có sự kế thừa các đại hội trước, vừa xuất phát từ
thực tiễn và yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như hội nhập
quốc tế. Nội dung tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn kết với nhiệm
vụ thực hiện đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nội dung chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao
động khu vực phi chính thức phù hợp với chủ trương định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021 - 2030 "cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước"; "phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn
mới"(2). Đại hội XII mới đặt ra yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội(3), Đại hội XIII đặt ra phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội
nhập quốc tế. Đại hội XII đề cập "Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều
kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả"(4), Đại hội
XIII xuất phát từ tình hình thực tiễn mới đã xác định chuyển dịch nhanh cơ cấu lao
động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức.

Thứ hai, "Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục,
đào tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi
cử ở các cấp học. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ
chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và
học trực tuyến qua in-tơ-nét, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên
cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách
nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ
thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn
cầu)"(5).

Như vậy để tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục,
đào tạo, theo tinh thần Đại hội XIII, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ
sau: Một là, nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ
thi cử ở các cấp học. Đây vẫn là vấn đề căn bản, cốt yếu của mọi nền giáo dục nói
chung. Bởi lẽ, việc biên soạn sách giáo khoa và chế độ thi cử trong giáo dục của
chúng ta còn nhiều bất cập. Hai là, chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Đây là đội ngũ "máy
cái" của nền giáo dục, nếu đội ngũ này không có trình độ, phương pháp, đạo đức,
nhân cách thì không thể đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo được. Ba
là, chuyển mạnh từ hình thức giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến qua in-tơ-nét truyền hình,
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Thực tế chống đại dịch Covid-19 cho
thấy, giáo dục của chúng ta đã chuyển tương đối thành công sang giáo dục trực
tuyến. Thực tế đó khẳng định chúng ta có thể đa dạng hóa các hình thức giáo dục
phù hợp xu thế thời đại. Bốn là, đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật,
kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc,
ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế
(công dân toàn cầu). Nội dung này xuất phát từ yêu cầu của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Bốn nội dung này liên hệ, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau, nếu thực hiện tốt sẽ có cơ sở tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. So với tinh thần Đại hội XII thì nội dung
này cũng có những điểm mới đáng lưu ý. Chẳng hạn, Đại hội XIII đề cập nghiên
cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa; quan tâm không chỉ kỹ năng
sống mà còn kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư
duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)...

Thứ ba, "Thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa
vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu,
chú trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông.
Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học
phổ thông. Giảm tỷ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số"(6). Nội dung thứ ba này rất căn cơ, bài bản, bởi lẽ, một là, đổi mới giáo
dục, đào tạo phải bắt đầu từ đổi mới giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học, vì vậy
phải thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Trước đây
chúng ta thường chú ý nhiều tới đổi mới giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Hai là, trong nội dung này chúng ta chú ý quan tâm nhiều tới giáo dục phổ thông.
Chính vì vậy, Đại hội XIII xác định sẽ đưa vào chương trình giáo dục phổ thông
nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú trọng xây dựng nền tảng kỹ năng
nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông; đẩy mạnh phân luồng sau trung học
cơ sở, định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Những nội dung này nhằm
đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Đây cũng
chính là những điểm mới so với Đại hội XII. Đồng thời, xuất phát từ thực tế Việt
Nam, Đại hội XIII cũng thẳng thắn đặt ra nhiệm vụ phù hợp là giảm tỷ lệ mù chữ ở
vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ tư, "Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập
và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng
hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài
công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế
chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình
hợp tác công - tư. Quy hoạch, sắp xếp lại các trường đại học, cao đẳng; có cơ chế
hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những
trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới"(7). Nội dung này tập trung
vào sắp xếp hệ thống trường học, trong đó có các trường công lập và các trường
ngoài công lập, các trường đại học và cao đẳng. Trong khi sắp xếp lại hệ thống
trường học, Đại hội XIII của Đảng rất lưu ý: Một là, ưu tiên các vùng đặc biệt khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính
sách. Đại hội XII mới chỉ nêu quan tâm phát triển giáo dục, dạy nghề trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn, thì Đại hội XIII đã chú ý cả vùng
biên giới, hải đảo, các đối tượng chính sách. Như vậy đầy đủ hơn, toàn diện hơn,
không bỏ sót đối tượng nào. Hai là, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào
tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với
xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang
mô hình hợp tác công - tư. Đại hội XII đặt ra nhiệm vụ "Thí điểm chuyển đổi mô
hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và
đầu tư phát triển"(8), Đại hội XIII đề xuất chuyển đổi trường đại học công lập kém
hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư. Đây là bước phát triển về quan điểm giáo
dục đào tạo công lập và ngoài công lập. Ba là, có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số
trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín
trong khu vực và thế giới. Thực hiện tốt ba nội dung này thì việc sắp xếp hệ thống
các trường học mới có hiệu quả và phù hợp tình hình thực tiễn Việt Nam cũng như
nắm bắt được xu hướng chung của thế giới.

Thứ năm, "Thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các
nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo
nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường. Xây dựng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu
của lao động. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho
phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi
trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực"(9). Nội dung này cũng rất mở cho phát
triển giáo dục phổ thông. Đặc biệt lần đầu tiên, Đảng ta xác định lộ trình phấn đấu
đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Trên đây là năm nội dung quan trọng thể hiện quan điểm cốt lõi, cơ bản nhất của
Đại hội XIII về phát triển giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng
cao của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Nếu thực hiện
tốt các nội dung này, chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu phấn đấu đến năm 2030,
nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

2.2.3. Mục tiêu và phương hướng phát triển:

a) Mục tiêu:

Mục tiêu cốt lõi trong việc phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta
nhằm để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực dồi dào, tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao về cả chuyên môn lẫn đạo đức nghề nghiệp. Từ đó làm tiền đề để phát
triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định. Phấn đấu góp phần đưa đất nước thành một nước phát triển, thu
nhập người lao động cao hơn. Và cuối cùng để khẳng định vị thế của đất nước
trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.

b) Phương hướng phát triển theo tinh thần nghị quyết đại hội Đảng lần thứ
XIII:

Để đạt được mục tiêu này, yếu tố quyết định là xây dựng và phát huy được nguồn
lực con người Việt Nam, làm cho mọi công dân được phát triển tự do, toàn diện,
kết tinh được các giá trị văn hóa truyền thống quý báu, có đạo đức trong sáng, có
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại,
được đào tạo, trang bị tri thức, kỹ năng sống, năng lực lao động sáng tạo, tư duy
đổi mới, phát huy được tối đa trí tuệ, tài năng, khát vọng phát triển trong cuộc sống
và lao động sáng tạo.
Vì vậy, phải nhận thức một cách đúng đắn, rõ ràng hơn để có những nội dung,
chính sách, giải pháp tích cực, thiết thực, hiệu quả nhằm đổi mới và tăng cường
công tác xây dựng, phát huy nguồn lực con người, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đề ra định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021-2030, đó là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng
dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực
cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so
với khu vực và thế giới”(7).
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao đủ trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ phát triển mới, Nhà nước cần quan tâm thích đáng đến việc đầu tư cho
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nói chung,
nhân lực có chất lượng cao nói riêng. Trong điều kiện nước ta chưa có đủ điều
kiện, khả năng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho tất cả các
ngành, lĩnh vực thì cùng với việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ như yêu cầu của Nghị quyết số 26-
NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá XII, cần tập trung cho những
ngành, lĩnh vực trọng tâm, then chốt của nền kinh tế để tạo sự bứt phá về chất
lượng nguồn nhân lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì
vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Con người là chủ thể của sự
phát triển đất nước, từ người lao động bình thường cho đến người lãnh đạo cao
nhất. Do đó, phải lấy con người là chủ thể, là trung tâm, là nguồn lực, động lực, là
mục tiêu phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đột phá phát triển con người, mà
trọng tâm là nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là giới tinh hoa, những chuyên
gia, nhà khoa học, nhà lãnh đạo, quản lý, đội ngũ nhân lực công nghệ kỹ thuật số
giỏi. Nguồn nhân lực phải có chất lượng cao mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, phát triển đất nước nhanh
và bền vững.

2.3. Những giải pháp trung tâm của chiến lược phát triển nguồn nhân
lực theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa

2.3.1 Chính sách đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ:
Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây nhằm bảo đảm phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu:

1. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ;
áp dụng đồng bộ cơ chế, biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhằm phát huy vai trò then
chốt và động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân;

2. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ; gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tạo tiền đề hình
thành và phát triển kinh tế tri thức;

3. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và
hiện đại, nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ mới nhằm đổi mới, nâng cao trình
độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của sản phẩm;

4. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, chú trọng lĩnh vực khoa học và
công nghệ ưu tiên, trọng điểm quốc gia; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để
phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực khoa học và công nghệ;

5. Tạo điều kiện phát triển thị trường khoa học và công nghệ;

6. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa
học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ;

7. Khuyến khích, tạo điều kiện để hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức chính trị – xã hội,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã
hội và hoạt động khoa học và công nghệ;

8. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; nâng cao vị thế
quốc gia về khoa học và công nghệ trong khu vực và thế giới.

KẾT LUẬN
Như vậy sau những biện pháp đổi mới của Đảng với quan điểm “ Coi con người
là trung tâm của mọi sự phát triển ” thì lực lượng sản suất của Việt Nam chúng ta
đã có những sự tiến bộ đáng kể so với trước kia: công cụ lao động và đối tượng lao
động ngày càng được cải tiến, khoa học – công nghệ ngày càng được ứng dụng
nhiều vào quá trình sản xuất, góp phần đáng kể trong việc giải phóng sức lao động,
tăng năng suất lao động và hiện đại hóa nền sản xuất. Tất cả đều là nhờ chính sách
phù hợp của Đảng khi áp dụng việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao vào
Việt Nam. Tuy nhiên nhìn tổng thể thì chính sách này vẫn chưa đạt được hiệu quả
cao bởi vì con người Việt Nam nói chung và con người nước ta vẫn còn nhiều mặt
hạn chế về cả thể lực và trình độ tay nghề, ý thức đạo đức nghề nghiệp và bảo vệ
môi trường sinh thái chưa cao. Điều đó ảnh hưởng đến độ lâu dài, bền vững, sự
dẻo dai, tính chuyên nghiệp, khả năng đáp ứng nhu cầu liên tục của xã hội hiện đại
ở người lao động nước ta.

Từ những thực trạng trên, để có thể tiếp tục phát triển nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất nhầm đáp ứng nhu cầu “ hiện đại hóa đất nước ” thì cần phải
quán triệt những quan điểm cơ bản như sau: luôn con người là trung tâm của mọi
sự phát triển, phát triển về lực lượng sản xuất hiện đại nói chung và phát triển nhân
tố con người nói riêng đồng thời phải đi theo chiến lược phát triển lâu bền, phát
triển nhân tố con người cả về thể lực, tâm lực và trí lực trong đó cần phải chú trọng
vào việc phát triển trí lực nhầm đáp ứng nhu cầu phát triển hiện đại. Phát triển trí
lực của nhân tố con người thì cần làm theo những bước sau: Một là đẩy mạnh phát
triển giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ đưa vào những thí nghiệm thực tiễn
cho học sinh, sinh viên thực hành để tạo môi trường khám phá, phát huy toàn bộ trí
lực của con người, để nâng cao sự hiểu biết, trình độ tay nghề và cải tiến sự sáng
tạo trong khoa học – công nghệ. Hai là nâng cao thể lực, sức khỏe, cải cách chế độ
bảo hiểm, chế độ chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Ba là xây dựng môi
trường kinh tế - xã hội thuận lợi, chính sách pháp luật phù hợp để người lao động
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong công việc. Bốn là nâng cao nhận thức
của người lao động về vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong công nghiệp hiện
đại. Năm là tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo và xuất khẩu lao động đáp ứng
nhu cầu thời kì hội nhập đồng thời tạo thêm môi trường để rèn luyện, học hỏi, tích
lũy thêm kinh nghiệm từ những đất nước phát triển.

Như vậy, việc phát triển nhân tố con người trong lao động là cách thức quan
trọng, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay. Sự thành công trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cũng chính là sự thành công của Đảng trong việc đưa Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp hiện đại. Vì vậy cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện để theo kịp với sức
mạnh của thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

https://luatduonggia.vn/chinh-sach-cua-nha-nuoc-ve-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-
nghe/

https://tcnn.vn/news/detail/50742/Phat-trien-nguon-nhan-luc-nhat-la-nhan-
luc-chat-luong-cao-dap-ung-yeu-cau-muc-tieu-dua-dat-nuoc-phat-trien-
nhanh-va-ben-vung.html

https://timviec365.com/blog/nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-la-gi-
new3165.html

You might also like