(123doc) - Dac-Diem-Tu-Vung-Trong-Tho-Cua-Van-Cong-Hung

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 124

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

NGUYỄN THỊ TÀI

ĐẶC TRƯNG TỪ VỰNG TRONG THƠ CỦA VĂN


CÔNG HÙNG

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học

Mã số : 8229020

Người hướng dẫn: TS.Trần Thị Giang


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Tài


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN


LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................. 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 13
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................. 14
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ................................................. 15
1.1. Ngôn ngữ thơ và từ vựng với sự phát triển ngôn ngữ thơ Việt Nam ... 15
1.1.1. Thơ và những đặc trưng của thơ................................................... 15
1.1.2. Ngôn ngữ thơ và những đặc trưng của ngôn ngữ thơ.................... 17
1.2. Đặc trưng cơ bản của từ vựng trong thơ ............................................. 22
1.2.1. Xét về cấu tạo và nguồn gốc ........................................................ 22
1.2.2. Xét về nguồn gốc ......................................................................... 25
1.2.3. Xét về ngữ nghĩa .......................................................................... 27
1.3. Cơ sở hình thành phong cách thơ của Văn Công Hùng và các chặng
đường sáng tác .......................................................................................... 31
1.3.1. Cơ sở hình thành phong cách thơ của Văn Công Hùng ................ 31
1.3.2. Những chặng đường sáng tác thơ của Văn Công Hùng ................ 33
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................... 37
Chương 2. HỆ THỐNG TỪ VỰNG TRONG THƠ CỦA VĂN CÔNG
HÙNG - NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CẤU TẠO, NGỮ NGHĨA VÀ NGUỒN
GỐC ............................................................................................................. 39
2.1. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng - xét từ bình diện cấu tạo...... 39
2.1.1. Số lượng và phân loại từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng ..... 39
2.1.2. Từ đơn trong thơ của Văn Công Hùng ......................................... 41
2.1.3. Từ ghép và từ láy trong thơ của Văn Công Hùng ......................... 47
2.1.4. Cụm từ cố định và những kết hợp độc đáo trong thơ của Văn Công
Hùng ...................................................................................................... 54
2.2. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện nguồn gốc... 57
2.2.1. Từ thuần Việt trong thơ của Văn Công Hùng ............................... 57
2.2.2. Từ Hán Việt trong thơ của Văn Công Hùng ................................. 63
2.3. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện ngữ nghĩa và
phạm vi sử dụng........................................................................................ 67
2.3.1. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện ngữ nghĩa ... 67
2.3.2. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện phạm vi sử
dụng .................................................................................................................. 74
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................... 79
Chương 3. GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA HỆ THỐNG TỪ VỰNG TRONG THƠ
CỦA VĂN CÔNG HÙNG ........................................................................... 81
3.1. Hệ thống từ vựng với sự thể hiện phong cách ngôn ngữ trong thơ của
Văn Công Hùng ........................................................................................ 81
3.1.1. Ngôn từ chân thành, giản dị, đậm chất đời thường ....................... 81
3.1.2. Ngôn từ mang tính khái quát, triết luận ........................................ 83
3.2. Hệ thống từ vựng với việc sử dụng các biện pháp tu từ trong thơ của
Văn Công Hùng ........................................................................................ 87
3.2.1. Từ vựng với việc thể hiện biện pháp tu từ so sánh ....................... 87
3.2.2. Từ vựng với việc thể hiện biện pháp tu từ tương phản – đối lập... 91
3.2.3. Từ vựng với việc thể hiện biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ ........ 93
3.3. Hệ thống từ vựng với việc thể hiện phong cách thể loại trong thơ của
Văn Công Hùng ........................................................................................ 96
3.3.1. Từ vựng với sự thể nghiệm thể loại thơ tự do............................... 96
3.3.2. Từ vựng với sự phát triển và biến tấu thể loại thơ lục bát ........... 102
Tiểu kết Chương 3 .................................................................................. 108
KẾT LUẬN................................................................................................ 109
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT ............................................................. 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 113
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Hệ thống từ vựng trong thơ Nôm và Thơ Mới từ bình diện cấu
tạo .......................................................................................... 23
Bảng 1.2. Từ vựng trong thơ Nôm và Thơ mới từ bình diện nguồn gốc .... 26
Bảng 2.1. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng từ bình diện cấu tạo .... 41
Bảng 2.2. Số lượng từ đơn trong thơ của Văn Công Hùng ....................... 42
Bảng 2.3. Số lượng từ ghép trong thơ của Văn Công Hùng ...................... 48
Bảng 2.4. Số lượng từ láy trong thơ của Văn Công Hùng ........................ 49
Bảng 2.5.Trường nghĩa từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng ............... 68
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của văn chương Việt Nam, thơ ca luôn không
ngừng nỗ lực để khẳng định được vai trò và vị trí của mình. Từ lâu, thơ ca đã
trở thành đối tượng nghiên cứu của các chuyên gia ngôn ngữ trên thế giới và
cả Việt Nam. Khi nói đến văn chương thì phải nói đến chữ nghĩa vì không có
thứ văn chương nào lửng lơ ngoài chữ nghĩa. Chính vì vậy, trong quá trình
tiếp nhận văn chương nói chung và thơ ca nói riêng, chúng ta không thể
không quan tâm đến ngôn ngữ để khai thác và tiếp cận tác phẩm một cách
trọn vẹn nhất.
Ngôn ngữ được xem là hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho việc
giao tiếp của con người và được phản ánh trong ý thức của tập thể một cách
độc lập với những tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng cụ thể của con người.
Như vậy, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trực tiếp của con người, là hiện
thực trực tiếp của tư tưởng. Nghiên cứu biểu hiện của ngôn ngữ qua mỗi giai
đoạn, tác giả, tác phẩm… được thực hiện trên nhiều phương diện khác nhau:
ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa… Trong đó, từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả
các từ và đơn vị tương đương với từ trong ngôn ngữ. Chính vì vậy, từ vựng là
một trong các phương diện mà các nhà nghiên cứu luôn ưu tiên hàng đầu khi
tiếp cận bất kì một tác giả hay tác phẩm nào.
Ở một góc độ nào đó, ngôn ngữ nghệ thuật có sự giao cắt và làm nên
phong cách nghệ thuật của nhà văn mà trong đó cần phải kể đến những đóng
góp rất đắc lực của hệ thống từ vựng. Hệ thống từ ngữ mà nhà thơ đã công
phu gọt giũa, sử dụng, sáng tạo đã phối kết hợp với nhau tạo nên những giá trị
thẩm mĩ, tín hiệu ngôn ngữ đặc thù của một thế giới thơ do nhà thơ kiến tạo.
Văn Công Hùng là một trong những nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành
trong phong trào thơ sau thập kỉ 80 của thế kỉ XX tại Tây Nguyên. Vượt qua
2

những dòng thơ dễ dãi của một thời, ông đã tìm ra được một chất thơ mới lạ
với một bút pháp riêng và giọng điệu cá biệt. Cùng với sự thay đổi của đời
sống, ta có thể thấy thơ của Văn Công Hùng đã và đang định hình một phong
cách mới lạ buộc người đọc phải thay đổi chính mình, trước hết là về cách
đọc và cảm nhận thơ. Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, nhà thơ Văn Công
Hùng (sinh năm 1958) được xem là một trong những tác giả có những đóng
góp không nhỏ trong văn đàn thơ ca Việt Nam. Với quan điểm nghệ thuật:
“Viết không bao giờ là trò chơi, mà là cuộc vật lộn khổ sở, là nghiệp đeo
đẳng suốt đời. Chữ không làm cho người no, nhưng cho ta cảm giác bình an
và như thế là hạnh phúc. Nhiều hay ít là do tài năng từng người, nhưng được
một câu thơ một bài báo có ích là mong mỏi của tôi, người viết” nhà thơ đã
thổi hồn vào trong từng con chữ, trong mỗi trang thơ của mình để tạo nên sự
hứng thú nơi người đọc.
Bản thân là một người đang công tác tại thành phố Pleiku, tôi luôn khao
khát muốn thực hiện một đề tài nghiên cứu về nền văn học địa phương. Với
mong muốn được bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật địa
phương, góp phần bổ sung nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy và
nghiên cứu trao đổi, những trang thơ của nhà thơ Văn Công Hùng đã trở
thành đối tượng để tôi hướng đến. Không chỉ là một nhà thơ, Văn Công Hùng
còn được biết đến là một nhà báo, vì vậy ngôn ngữ trong các tác phẩm của
ông luôn được chọn lọc kĩ càng trước khi đến với bạn đọc. Việc nghiên cứu
Đặc trưng từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng sẽ là một bước khởi đầu
để có thể nghiên cứu thêm về các phương diện nghệ thuật khác trong thơ ca
ông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về từ vựng trong thơ hiện đại Việt Nam
Từ sau khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986) trên tất cả mọi lĩnh vực,
trong đó có khoa học, đất nước đã có sự phát triển vượt bậc và thoát ra khỏi
3

cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nhìn lại hơn 34 năm nghiên cứu từ vựng tiếng
Việt (1986 – 2021), có thể thấy đã có không ít những công trình đi sâu vào
lĩnh vực nghiên cứu này của ngành ngôn ngữ học. Việc nghiên cứu về hệ
thống từ vựng trong sáng tác của các nhà thơ cổ điển và hiện đại đã nhận
được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu, nghiên cứu sinh và học viên
cao học. Tuy nhiên, liên quan trực tiếp đến vấn đề mà luận văn nghiên cứu,
chúng tôi xin nêu một số tài liệu như sau:
Năm 2002, từ góc nhìn so sánh, trong công trình Hệ thống từ vựng
trong Quốc Âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Trần Trọng Dương đã
nêu bật những đặc trưng từ vựng trong thơ Nôm của hai tác giả Nguyễn Trãi
và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đây là một trong những tài liệu quan trọng đặt vấn
đề tiếp cận từ vựng học lịch sử đối với thế giới thơ Nôm của tiền nhân. Hệ
thống bảng biểu về các dạng thức khác nhau của từ vựng như đặc điểm cấu
tạo, ngữ nghĩa, nguồn gốc, đặc trưng văn hoá... Những đóng góp của Trần
Trọng Dương được khẳng nhận bởi những kiến giải quan trọng và nhấn mạnh
vai trò của từ vựng trong việc xây dựng nên những giá trị về nội dung nhân
văn, yêu nước và hệ tư tưởng Nho học, Lão học mà các nhà thơ trung đại đã
dày công thể hiện, trong đó Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là những đại
diện tiêu biểu [Dẫn lại 61].
Năm 2004, khi thực hiện đề tài Bước đầu khảo sát hệ thống từ vựng
trong thơ Phạm Hổ, Nguyễn Anh Tú đã khái quát một số vấn đề liên quan
đến tính hiện đại và dân gian của hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ thơ thiếu
nhi Phạm Hổ. Từ cách tiếp cận cấu tạo, ngữ nghĩa và nguồn gốc, những đánh
giá của Nguyễn Anh Tú cũng góp phần khẳng định sự đóng góp của Phạm Hổ
trong việc tạo dựng một hệ thống ngôn từ trong sáng, đẹp và sâu sắc của thơ
Việt Nam hiện đại dành cho thiếu nhi [Dẫn lại 4].
Thơ Tố Hữu là một đối tượng tiếp cận của nhiều khuynh hướng nghiên
cứu, trong đó có từ vựng học. Trong luận văn Từ vựng trong thơ Tố Hữu
4

(2013), Nguyễn Thị Hồng đã khảo sát một cách hệ thống các vấn đề liên quan
đến từ vựng trong ngôn ngữ thơ Tố Hữu sau Cách mạng tháng Tám. Những
phát hiện và đánh giá của tác giả luận văn, về cơ bản đã khái quát được một
số đặc trưng từ vựng mang phong cách cá nhân của nhà thơ trữ tình cách
mạng tiêu biểu của nền thơ cách mạng Việt Nam [Dẫn lại 4].
Hướng tiếp cận từ vựng học đối với ngôn ngữ thơ được tổng hợp và khái
quát hoá thành một hướng nghiên cứu cơ bản trong luận án Đặc trưng từ
vựng Thơ mới 1932 – 1945 củaVũ Thị Ân công bố năm 2012, và xuất bản
thành sách do Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội ấn hành. Trong công trình
này, tác giả đã khái quát và xác định:
“Việc xác lập các đặc trưng từ vựng của một trào lưu thơ, một giai
đoạn thơ từ phương pháp khảo sát định lượng, kết hợp so sánh, đối
chiếu (trên cả hai bình diện đồng đại và lịch đại) sẽ không những giúp
người nghiên cứu mô tả những đặc điểm ngôn ngữ của đối tượng khảo
sát mà còn góp phần khẳng định vai trò và giá trị của phương pháp kháo
sát định lượng trong việc nghiên cứu sự kiện ngôn từ (nhất là ngôn từ
trong tác phẩm văn chương)…” [4, tr.04].
Ngoài ra, qua khảo sát chúng tôi còn thu nhận được một số luận văn
khảo sát các trường nghĩa từ vựng cụ thể trong ngôn ngữ thơ Tố Hữu, Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh,… Về cơ bản, đây là những tài liệu mang tính tiền đề lý
luận để chúng tôi đi sâu tìm hiểu những vấn đề được đặt ra trong đề tài luận
văn cá nhân.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về thơ của Văn Công Hùng
Từ trước đến nay, số lượng công trình nghiên cứu về thơ của Văn Công
Hùng không nhiều. Năm 2012, Nguyễn Thị Vân Dung với công trình Thế giới
nghệ thuật thơ Văn Công Hùng và năm 2017, Trương Thị Tường Thi với
công trình Phong cách nghệ thuật thơ Văn Công Hùng đã tập trung tìm hiểu
trên các cấp độ: quan niệm nghệ thuật và hành trình sáng tạo, hình tượng cái tôi
5

trữ tình và một số phương thức biểu hiện nổi trội trong thế giới thơ của Văn
Công Hùng ở giai đoạn 1992 – 2017. Công trình này đã cung cấp một cái nhìn
tương đối toàn diện và khoa học về những đặc điểm nổi bật trong thế giới nghệ
thuật thơ Văn Công Hùng. Từ đó, tác giả khẳng định những đóng góp tích cực
của Văn Công Hùng trong quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, đến thời điểm này đã có trên
dưới bốn mươi bài viết nghiên cứu về đặc điểm, phong cách và giá trị nghệ
thuật thơ của Văn Công Hùng trên các báo và tạp chí. Đó là những nghiên
cứu có giá trị của Hồ Thể Hà, Phạm Phú Phong, Nguyễn Trọng Tạo, Phan
Duy Đồng, Nguyễn Thanh Mừng, Nguyễn Thị Anh Đào, Thuận Nghĩa, Chử
Anh Đào, Thu Loan, Tạ Văn Sỹ... Nhìn chung các tác giả đều đánh giá cao
thơ Văn Công Hùng, khẳng định giọng thơ và vị trí thơ rất riêng của ông. Thơ
ông có sự tiết giản, bình dị của cuộc sống đời thường mà lại đậm chất suy
nghĩ, chất trí tuệ.
Trong lời tựa tập Bến đợi, từ góc nhìn thẩm mĩ, nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo đã nhấn mạnh:
“Gặp gỡ thường tạo nên cảm hứng tức thì choáng ngợp. Biệt ly lại
bàng hoàng trước bao kỷ niệm thân quen. Cả hai trạng huống này đều là
cái nguyên thủy để khơi lên hồn thơ vốn ẩn chứa ở mỗi người. Hai trạng
huống nên thơ ấy đều có ở Văn Công Hùng khi anh biệt xa quê hương
Thừa Thiên Huế để đến với núi non Tây Nguyên hùng vĩ - quê hương
mới của anh. Thật may mắn cho một người làm thơ có cả hai quê: có
quê mới để thương, có quê cũ để nhớ” [Dẫn lại 13, tr.02].
Cũng đọc Bến đợi những nhà lý luận phê bình Phạm Phú Phong lại có
một đánh giá khác:
“Văn Công Hùng đến với thơ như một lữ hành đơn độc, khó nhọc,
lầm lũi ngày nào đến với núi rừng Tây Nguyên. Càng đi càng thấy xa,
thấy mịt mù mưa bụi. Ở phía chân trời xa tắp kia còn có những giọt
6

nắng vàng đọng lại, hắt sáng lên như thôi thúc gọi mời. Thơ anh là
những giọt mưa rả rích rơi không hàng không lỗi, đọng lại trên trang
giấy, đọc lên mới thành thơ, thành hơi thở của đời sống, tiếng nói của tri
âm. Nếu không sợ nói là quá lời, ở thế hệ những người làm thơ sau 1975
trên dãi đất Tây Nguyên, Văn Công Hùng là một trong những người gây
cho người đọc một ấn tượng khó quên. Người làm thơ vốn là người giàu
có trong tâm hồn, cứ rút tia từng mảnh nhỏ dâng hiến cho đời mà không
thu lại được gì” [13, tr.49].
Nguyễn Thanh Mừng đọc tập Hát rong đã khám phá ra một đặc điểm tiêu
biểu cho sáng tác của Văn Công Hùng qua tập thơ này. Nhà phê bình cho rằng:
“Tiếng hát rong trong thơ Văn Công Hùng dù thất ngôn hay ngũ
ngôn, lục bát hay tự do đều chung một mạch nguồn, mặc sương mặc gió,
mặc nắng mặc mưa... Ẩn sau tiếng hát là một trái tim nồng nàn, dù phiêu
lãng trên ủng mây cao, hay trần gian tục ly. Một trái tim ở tinh thể nào
vẫn căng đầy, roi rỏi: “Nước hồ đầy mà khát thì vẫn khát, cơn khát từ
tiền kiếp đốt cháy mặt đường anh thập thững bên em. Những cơn gió
xanh, những cơn gió trắng, cơn gió nào mát ở phía sau lung, chỉ có đơn
độc một con đường mà đi đi mãi... Trên con đường tìm tòi và khám phá,
tôi tin người lữ hành hát rong ấy không bao giờ đơn độc” [58].
Sau Hát rong là Hoa tường vi trong mưa, đây là “tập thơ đầy đặn và bề
thế những chặng đường của đi và về, của nghĩ và cảm, của mê đắm và tỉnh
thức, của tiễn đưa và sum họp của ký ức và dụ cảm, của khoảnh khắc và
muôn trùng, của bất chợt và vĩnh viễn... Tôi đọc đi đọc lại bài thơ Hoa tường
vi trong mưa, bài thơ làm tựa cho cả tập 62 bài, nghe rất nhiều âm thanh vừa
bồi hồi vừa rộn rã, vừa ào ạt, vừa tinh nhạy ” [11].
Tiếp tục đến với Gõ chiều vào bàn phím, Nguyễn Thị Anh Đào viết:
“Thơ Văn Công Hùng mang đậm nét tính cách của anh, có chút dí
dỏm nhưng lại đằm sâu nỗi buồn... Gõ chiều vào bàn phím là tập thơ dày
7

công sáng tạo và chắt lọc của Văn công Hùng... mang lại cho người đọc
một cảm giác muốn được khám phá ngôn ngữ để đi đến tận cùng vẻ đẹp
của văn chương” [15].
Cũng trong bài viết “Đọc tập thơ Gõ chiều vào bàn phím của Văn Công
Hùng”, Nguyễn Thị Anh Đào đã phân tích và cho rằng:
“Văn Công Hùng lại chọn cho mình cách đi mà có thể không giống
bất cứ ai. Đó là cách tục khẳng định mình bằng chính những năng lực
nội tại và một tâm hồn giàu lòng nhân ái. Một số tác phẩm của ông để
lại dấu ấn trong lòng bạn đọc như những tập thơ: Bến đợi, Hoa tường
vi trong mưa, Hát rong, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím,
Lời Vĩnh cửu, tập tân văn và ký sự Mắt cao nguyên. Có một Văn Công
Hùng đầy lãng mạn trong những câu thơ như cứa ra từ máu anh như gọt
giũa từ nhiều những lớp cắt thời gian để rồi một ngày từ đầu ngọn bút
thơ cứ tuôn tràn với nhiều cung bậc. Anh đắm say với tình yêu quê
hương với người một cảnh hai quê với hình ảnh mẹ em bạn bè, con gái...
Tất cả xâu chuỗi lại và hình thành nên một vòng cung số phận. Thơ và
đời cứ khắc khoải trong thơ anh như có cái gì đó anh muốn mà chưa bao
giờ với tới như những nỗi thất vọng mang vòng kim cô quản chặt vào
nghiệp văn của anh. Đôi khi tình cảm của anh cứ òa vỡ vào những
khoảng lặng tâm hồn đầm sâu” [15].
Đánh giá một cách tổng quan nhất về thơ của Văn Công Hùng, đó là
bài viết “Văn Công Hùng – Những nẻo đường hát rong” của nhà nghiên cứu
Hồ Thế Hà. Tác giả bài viết cho rằng:
“Có thể nói, đó là hành trình sáng tạo cần mẫn, không mệt mỏi của
Hùng để kết tinh thành những hạt thi ca lấp lánh lời giải đáp về những
điều lớn lao và vi diệu của cuộc sống và của chính cõi lòng thi nhân...
Thơ Văn Công Hùng là sự hòa giải giữa chủ thể trữ tình và khách thể
thẩm mĩ. Đọc thơ Văn Công Hùng, nhất là các tập về sau Hoa tường vi
8

trong mưa, Gõ chiều vào bàn phím, tôi nhận ra sự kết tinh thi sĩ ấy.
Chất triết lý và nghiệm sinh được tăng cường... Thể thơ và tư duy thơ
Văn Công Hùng không thuộc loại cách tân chạy theo model đáng tránh
như một số các nhà thơ khác. Anh ưu tiên các thể thơ sở trường như lục
bát, năm chữ hoặc thơ tự do được phân chia theo khổ 4 câu hoặc theo
đoạn dài ngắn khác nhau, nhưng luôn tuân thủ theo nhịp cảm xúc và tâm
trạng tự nhiên. Chính điều đó đã tạo ra sự tinh thục, đa dạng trong thơ
Văn Công Hùng” [30].
Nhà thơ Thu Loan trong công trình Đề tài nghiên cứu lịch sử văn học
Gia Lai giai đoạn 1945 – 2008 có viết:
“Thơ Văn Công Hùng có giọng mềm mại, giàu nhạc điệu. Tác giả
sử dụng nhiều từ ngữ ở cấp độ cao, hình ảnh mới lạ, dồn dập, liên tiếp
trong mỗi câu thơ, mỗi bài thơ... có sự lung linh, nhiều màu sắc, hình
ảnh. Nhiều câu thơ trong trẻo, nhiều nỗi niềm khắc khoải ngân lên, thiết
tha chảy, thiết tha gửi tới người đọc vô vàn sự cuống quýt, những đắm
say thăm thẳm, những mỏng manh, nhẹ nhàng của một trái tim dễ rung
rung, dễ bùng nổ, dễ say sưa đến tận cùng” [49, 122 - 123].
Nhận xét về Đêm không màu, nhà phê bình Thuận Nghĩa viết:
“Cảm nhận đầu tiên của Đêm không màu là sự đằm thắm và độ chín
của Văn Công Hùng. Chúng tôi và anh đã đi qua sự bồng bột, sôi nổi của thời
trai trẻ... Sức cuốn hút của tập thơ là những đột phá ngôn ngữ và cấu tứ từ
"sắc màu cuộc sống" hiện đại... Đọc bài nào của ông cũng ở màu sắc rất
hoành tráng” [60]
Với Lục bát Văn Công Hùng, chúng ta có thể cảm nhận ở thi sĩ một
thế giới thẩm mĩ khác lạ. Hồ Thế Hà đã cho rằng:
“Văn Công Hùng trong thế giới Lục bát của riêng anh thường hay
“lơ ngơ”, cái lơ ngơ lạc ra khỏi những toan tính bon chen. Có lẽ, lúc ấy
con người ta mới tinh tường mới gặp được những vẻ đẹp thuần khiết trong
9

những điều dung giản như một vạt hoa mua. Anh lựa chọn giữ lại những
cái cũ linh diệu chỉ ở mức độ“ôn cố” và chủ động kiềm chế cái chất đương
đại vừa vặn ở mức độ “tri tân”. Cho nên, khi tôi viết bài trao đổi nhỏ này
– dù thấy rõ mồn một màu thơ riêng chỉ có ở nét thơ của thi nhân Văn, dù
rất muốn đặt tên cho phong thể “Lục bát Văn Công Hùng”. Nhưng rồi
không thể gọi tên – chỉ còn biết nêu vào một câu thơ của anh để mà tạm
gọi: Lục Bát Văn Công Hùng - "rơi ngang một giọt không tên". Trong cách
cảm hiểu hời hợt của cá nhân tôi – lục bát Văn Công Hùng là... một nàng
Lục bát - không tên như thể có tên lâu rồi” [29, tr.09].
Tập thơ Vòm trời khác của Văn Công Hùng được các nhà phê bình đánh
giá là đã mang lại nhiều nét mới với chiều sâu nội dung tạo ra sự ấn tượng,
khẳng định những giả trị hiện hữu của thơ, đáng để người yêu thơ tìm đọc...
Thơ của Văn Công Hùng như để lại trong lòng người đọc nỗi xao xuyến ngay
cả khi đã gấp sách lại... Thơ của Văn Công Hùng đa nghĩa, thoạt đọc có
những bài không dễ hiểu nhưng càng ngẫm càng thấy thơ anh sâu và đầy ẩn ý.
Những trang thơ mang nhiều nét trừu tượng không dễ hóa giải ngay từ đầu
cũng vì thế càng đọc thơ anh càng thấy tò mò, thú vị. Hồn ta bị cuốn hút vào
"ma trận chữ", bắt buộc trí óc không ngừng phải phân tích, nhận định để
khám phá hồn thơ anh.
Trong suốt hành trình nghệ thuật, thơ ông đã định hình và thể hiện sự
tìm tòi rất rõ. Đó là kết tinh những cảm xúc và những ấn tượng trong cuộc
đời. Tất cả, hội tụ và từng bước thăng hoa, tạo cho thơ ông ngày càng có
chiều sâu. Trải qua thời gian, ông đã tạo cho thơ mình một chỗ đứngvững
vàng trong lòng bạn đọc. Có được thành tựu nghệ thuật đó, chính bởi ông đã
xác lập cho mình một quan niệm đúng đắn và sứ mệnh của thi ca và vai trò
của thi sĩ, hành trình cuộc sống và hành trình sáng tạo của Văn Công Hùng
luôn tuân thủ những quan niệm nói trên, thông qua việc giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mĩ và khách thể thẩm mĩ để tạo nên cá tính
10

sáng tạo và cao hơn là thi pháp cá nhân.


Nguyễn Thị Vân Dung trong công trình Thế giới nghệ thuật thơ Văn
Công Hùng đã đánh giá:
“Trong suốt hành trình nghệ thuật, thơ ông đã định hình và thể
hiện sự tìm tòi rất rõ. Đó là kết tinh những cảm xúc và những ấn tượng
trong cuộc đời. Tất cả, hội tụ và từng bước thăng hoa, tạo cho thơ ông
ngày càng có chiều sâu. Trải qua thời gian, ông đã tạo cho thơ mình một
chỗ đứng vững vàng trong lòng bạn đọc. Có được thành tựu nghệ thuật
đó, chính bởi ông đã xác lập cho mình một quan niệm đúng đắn và sứ
mệnh của thi ca và vai trò của thi sĩ, hành trình cuộc sống và hành trình
sáng tạo của Văn Công Hùng luôn tuân thủ những quan niệm nói trên,
thông qua việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mĩ và
khách thể thẩm mĩ để tạo nên cá tính sáng tạo và cao hơn là thi pháp cá
nhân ” [13, tr.63 |
Khảo sát những bài bình luận, nhận định, đánh giá về những bài thơ của
Văn Công Hùng, chúng tôi nhận thấy sự quan tâm khá lớn của các nhà nghiên
cứu đối với từng bài thơ đặc sắc của nhà thơ phố Núi này. Hồ Thế Hà đọc bài
thơ Mùa thu như thể nắng vàng trôi qua của Văn Công Hùng, đã nhận xét:
“Bài thơ theo thể lục bát, nhịp điệu quen thuộc, có vài chỗ phá cách để
tránh đơn điệu; có ngắt, xuống dòng chỗ dùng (césur), có đồng hiện,
hoài vãng có hiện thực... để tạo ra những phức điệu, phức cảm làm đẹp
hồn thơ và hấp dẫn quá trình tiếp nhận của người đọc” [29, tr.53].
Nhà phê bình Phạm Phú Phong khi đọc Thơ tiễn mùa thu của Văn Công
Hùng đã hết lời ngợi ca:
“Có những câu thơ hay, tạo nên những hình tượng thơ đẹp, mang
dấu ấn phát hiện của tác giả như “chiếc thuyền neo chênh chếch giữa
trăng vàng" Cả bài thơ, chỉ có một chữ đầu của câu là viết hoa, các câu
khác viết thường, tạo cho cảm xúc liền mạch từ đầu đến cuối, câu thơ
11

tám chữ tạo nhịp thơ nhanh, khỏe khoắn, nâng cảm xúc tràn trề. Giọng
điệu; tâm hồn anh vì thế luôn mới mẻ... Nếu được chọn một nhà thơ "top
ten" các nhà thơ tiêu biểu cho Tây Nguyên hôm nay, trong đó có Văn
Công Hùng” [Dẫn lại13, tr.28].
Đọc bài thơ Có một thời lưu luyến, Chử Anh Đào viết:
“Có lẽ xuất phát từ cảm xúc chân thành nhất từ một kỷ niệm luôn
hôi hổi như một món nợ với bạn bè, với tuổi trẻ nên tác giả đã viết rất
nhanh, bằng lời lẽ rất giản dị, không cần sự trợ giúp của các kỹ xảo, các
từ ngữ bóng bẩy để viết nên bài thơ này. Bài thơ trữ tình như một câu
chuyện ngắn gọn, súc tích, có sức dồn nén cao, có thể đem kể cho nhau
nghe mỗi khi bạn bè gặp lại” [14, tr. 07].
Ngoài ra, còn một số bài viết khác về thi ca của Văn Công Hùng như:
“Có một người xa quê đi hát rong”, Hương Giang, báo Văn nghệ số 7/1993.
“Hát rong", báo Nhân dân, ngày 26/11/1999, “Mười tám với khoảnh khắc trái
tim thi sĩ”, Vũ Thu Huế, báo Gia Lai 04/11/2000; “Có một thuở tường vi”,
Nguyễn Thánh Ngã, báo Lâm Đồng, thứ 7, tháng 9/2003; “Nhà thơ Văn Công
Hùng, người rong chơi phố núi”, Nguyễn Yên Thi, báo Người Lao động,
26/7/2003.
Trong quá trình khảo sát và điểm qua một số công trình nghiên cứu thơ
của Văn Công Hùng, chúng tôi nhận thấy: Việc xem xét đánh giá thơ của Văn
Công Hùng, hầu hết là những bài đánh giá mang tính tổng quan về thơ ông,
đều có điểm chung là sự kính trọng đối với nhân cách thơ bên cạnh sự khai
mở về thi pháp và tư tưởng của nhà thơ trong đời sống thi ca đương thời.
Những bài nghiên cứu, đánh giá, bài viết này có quy mô vừa và nhỏ, chỉ
giới hạn trong một bài báo và phạm vi bao quát cũng rất hạn chế, chỉ mới
đánh giá về một tập thơ hay một phẩm chất nào đó trong hồn thơ của ông,
thường thiên về cảm xúc hay ở dạng lời bạt, lời tựa mà chưa đi sâu khái quát
những đặc trưng ngôn ngữ của tác giả. Đây là một trong những vấn đề cơ bản
12

mà luận văn của chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu. Điều này đã đặt ra cho chúng
tôi khá nhiều thách thức và trở ngại, cần phải đào sâu, suy nghĩ và có những
so sánh nhất định giữa đặc điểm thơ của Văn Công Hùng với thơ của một số
nhà thơ đương đại khác.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Đặc trưng từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng”,
luận văn không nghiêng về lí luận mà chủ yếu là vấn đề thực tiễn, nên chúng tôi
sẽ tiến hành xây dựng hệ thống vốn từ vựng thông qua việc thống kê, khảo sát để
có những thông tin định lượng về chúng. Từ đó, người viết có thể làm rõ hơn về
các đặc trưng từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng trong phạm vi khảo sát.
Với tình yêu mến những vần thơ của nhà thơ Văn Công Hùng, luận văn
của chúng tôi sẽ là những trải nghiệm đầu tiên tìm hiểu và nghiên cứu cụ thể
về đặc trưng từ vựng – một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp ngôn ngữ của
nhà thơ khá đặc biệt này của miền cao nguyên đầy nắng gió.
Ngoài ra, trong phạm vi tìm hiểu, luận văn còn có thể đánh giá từ vựng
tiếng Việt được sử dụng trong nguồn ngữ liệu được khảo sát. Qua đó, có thể
góp phần nghiên cứu đặc trưng từ vựng tiếng Việt trong giai đoạn tương ứng
được xét. Mặc khác, góp phần phục vụ nghiên cứu tác phẩm văn chương từ
góc độ ngôn ngữ học; bước đầu tìm hiểu nghệ thuật của Văn Công Hùng
trong việc sử dụng ngôn từ. Đây có thể được xem là yếu tố quan trọng trong
quá trình tiếp nhận cũng như nghiên cứu đặc điểm thơ của Văn Công Hùng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng chính của luận văn là đặc điểm về tự vựng trong ngôn ngữ thơ
của Văn Công Hùng. Thông qua những giá trị nổi bật về hệ thống từ vựng
trong ngôn ngữ thơ của Văn công Hùng, chúng tôi sẽ khái quát một số vấn đề
liên quan đến nội dung trong sáng tác của nhà thơ phố núi Pleiku: Đó là tính
triết luận về cái đẹp và bản sắc riêng về hình thức kết cấu, thể loại và ý tượng
13

thẩm mĩ.
Tính đến thời điểm hiện tại, có thể nói Văn Công Hùng đã đóng góp cho
thơ đương đại Việt Nam mới một số lượng đáng kể. Tuy nhiên, trong luận
văn này, người viết chỉ giới hạn trong việc khảo sát hệ thống vốn từ vựng
trong một số tác phẩm thơ đã được xuất bản của Văn Công Hùng từ năm 1992
đến 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát và nghiên cứu toàn bộ các lớp từ, các bộ
phận của lớp từ trong phạm vi 160/313 bài thơ trong 07 tập thơ đã xuất bản,
cụ thể như: Bến đợi (1992); Hát rong (1999); Đêm không màu (2009); Lục
bát (2010);Vòm trời khác (2013); Cầm nhau mà đi (2016); Trong cơn mơ
có thực (2019).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
51. Phương pháp thống kê - phân loại:
Trong quá trình triển khai tìm hiểu đặc trưng từ vựng trong thơ của Văn
Công Hùng, để có được những cơ sở căn bản, chúng tôi sử dụng phương pháp
thống kê – phân loại là phương pháp chủ đạo. Thông qua hệ thống số lượng
đã thống kê được, chúng tôi sẽ ra những đánh giá cụ thể về đặc trưng từ vựng
trong thế giới ngôn từ thơ của Văn Công Hùng.
5.2. Phương pháp định lượng:
Trong văn bản thơ được thống kê, sau khi xác định đơn vị từ vựng,
chúng tôi ghi số lần xuất hiện của từng đơn vị từ vựng đó trên văn bản thống
kê gọi là tần số của từ.
5.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Để đi đến một nhận xét có tính ngôn ngữ có giá trị biểu hiện nghĩa, trong
quá trình thực hiện, chúng tôi phải phân tích từng số liệu thống kê để minh
xác vấn đề.
14

5.4. Phương pháp so sánh: Ở một vài chỗ cần so sánh với các đặc trưng
từ vựng trong thơ của các tác giả khác, hay trong các giai đoạn văn học khác,
chúng tôi buộc phải sử dụng phương pháp so sánh. Đây được xem là phương
pháp giúp cho quá trình nghiên cứu diễn ra một cách khách quan hơn.
Như vậy, với bốn phương pháp nghiên cứu trên đây, chúng tôi sẽ sử
dụng phối hợp với nhau để giải quyết những vấn đề đặt ra.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo,
luận văn được triển khai qua 3 chương, tập trung vào các vấn đề sau:
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Chương 2. CÁC BÌNH DIỆN CỦA TỪ VỰNG TRONG THƠ CỦA
VĂN CÔNG HÙNG
Chương 3. GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA HỆ THỐNG TỪ VỰNG
TRONG THƠ CỦA VĂN CÔNG HÙNG
15

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Ngôn ngữ thơ và từ vựng với sự phát triển ngôn ngữ thơ Việt Nam
1.1.1. Thơ và những đặc trưng của thơ
Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì
vậy mà có một thời gian rất dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn
học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết
đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.
Bàn về khái niệm thơ, trong lịch sử lý luận văn học, đã xuất hiện nhiều cách
tiếp cận và định nghĩa khác nhau về thể loại tiêu biểu này của văn học. Về
mặt nguyên lý, thơ và văn xuôi là hai kiểu tổ chức ngôn từ nghệ thuật mà sự
khác biệt thuần tuý bên ngoài trước hết ở cơ cấu nhịp điệu. Nhịp điệu trong
thơ được kiến tạo bởi sự phân chia theo những quy tắc mang tính số lượng
của các dòng ngôn từ trong tác phẩm thành những ngữ đoạn theo các quy tắc
cú pháp với nhau. Từ góc nhìn và tiếp cận này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên
Ân trong quyển 150 thuật ngữ văn học cho rằng:
“Thơ là hình thức nảy sinh đầu tiên của nghệ thuật ngôn từ theo
nghĩa đen (tức là không có sự phân giới với thơ ca dân gian). Câu thơ là
đơn vị kiến tạo cơ sở của những tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau
(trường ca, sử thi, bi kịch, hài kịch, các thể tài trữ tình) ở văn học Hy
Lạp – La Mã cổ đại, ở văn học Châu Âu trung đại, Phục Hưng và chủ
nghĩa cổ điển... ở trữ tình hiện đại, câu thơ thực hiện một nhiệm vụ kép:
tương ứng với vai trò đã có từ khởi thuỷ, nó đưa một thông báo về một
kinh nghiệm sống thực tại của tác giả vào lĩnh vực nghệ thuật, tức là
biến một dữ kiện kinh nghiệm thành một sự kiện nghệ thuật; đồng thời
câu thơ lại cho phép tái tạo bằng giọng điệu trữ tình một sự thật trực
tiếp của thể nghiệm sống cá nhân, một “giọng người” thật sự, riêng biệt
– giọng nói của nhà thơ” [2, tr.381 – 382].
16

Ở Việt Nam, khái niệm "thơ là gì?" cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu
đề cập đến với nhiều quan niệm, nhiều khuynh hướng khác nhau. Lý giải về
bản chất của thơ, nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng: "Thơ là một cái gì huyền
ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu" [tr.76]. Còn nhà thơ Tố Hữu thì quan niệm:
"Thơ là cái nhụy của cuộc sống" [Dẫn lại 28, tr.51].
Dưới cái nhìn cấu trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghĩa: “Thơ là
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ,
phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này” [Dẫn lại 28,
tr.23]. Định nghĩa này của Phan Ngọc đã kế thừa được những khám phá quan
trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau của
Tây Âu trong mấy chục năm qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu
thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần tuý mà
chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy
đủ của từ này.
Từ góc độ phong cách ngôn ngữ học, trong Từ điển tu từ phong cách
thi pháp học, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hoà đã khẳng định:
“Thuật ngữ thơ được hiểu theo hai nghĩa: (1). Một thể loại lớn của
văn học xuất hiện từ rất sớm trước khi có chữ viết, gắn với ca (hát), nhạc,
múa, lễ nghi tôn giáo,... cùng với văn xuôi tự sự và kịch làm thành bộ ba
của chủng loại văn học. (2). Tính thẩm mĩ, có khả năng gợi ra vẻ đẹp và
gợi nguồn cảm hứng về cái đẹp (nên thơ, rất thơ, chất thơ...). Vẻ đẹp của
thơ được đặc trưng cho mọi vẻ đẹp. Vì vậy không chỉ chất thơ có trong
thơ mà có cả trong truyện, trong âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc... và cả
trong các hiện tượng tự nhiên nữa”. [38, tr.213].
Như vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu, thơ là một tổ chức cấu trúc hình
thức nghệ thuật sử dụng từ vựng trong ngôn ngữ làm chất liệu cơ bản, và sự
chọn lọc hệ thống từ ngữ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình
thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính
17

thẩm mĩ cho người đọc, người nghe. Từ những cách tiếp cận trên cho thấy,
thơ là một khái niệm đa nghĩa và được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau.
Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất với cách định nghĩa của nhóm tác
giả Từ điển thuật ngữ văn học:
“Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện
những tâm trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm xúc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu... thơ là hình thái văn học đầu tiên
của loài người. Ở nhiều dân tộc, trong một thời gian tương đối dài, các
tác phẩm văn học đều được viết bằng thơ. Vì thế trong lịch sử văn học
của nhiều dân tộc từ thế kỉ XVII trở về trước, nói đến thơ ca tức là nói
đến văn học”. [31, tr.309 – 310].
Thể loại thơ thường được đi kèm với khái niệm có tính chất định lượng là
câu để chỉ một câu thơ, vài hàng bài để chỉ một bài thơ. Một câu thơ là một hình
thức câu cô đọng, truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh, có ý nghĩa cho người đọc,
và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Một câu thơ có thể đứng nguyên một
mình. Một bài thơ là tổ hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ ngữ,
tính tượng hình và dư âm thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức nghệ
thuật độc đáo, tách biệt hẳn khỏi các hình thức nghệ thuật khác.
1.1.2. Ngôn ngữ thơ và những đặc trưng của ngôn ngữ thơ
Nếu ngôn ngữ sinh hoạt hay còn gọi là khẩu ngữ, ngôn ngữ hội thoại,
ngôn ngữ thân mật gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Trên cơ sở xác
định những đặc trưng mang tính loại biệt của thể loại thơ, chúng ta có thể xác
định được những thuộc tính mang tính đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ
thơ khácvới lời nói thường ở cấu trúc của nó, lời thơ ít nhưng cảm xúc và ý
nghĩa rất phong phú, có sức gợi cảm lớn. Muốn vậy nó phải tạo ra một cấu
trúc đặc biệt, tức là “láy đi láy lại” một phần hay toàn bộ hình tượng ngôn ngữ
(hệ hình), nhịp điệu, âm tiết và sự hài hoà, cân xứng những mặt tương phản
(thanh điệu, vần, độ dài âm tiết, nhịp...) tuỳ theo đặc trưng của một ngôn ngữ.
18

So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ có một số đặc trưng như:
Trước hết ngôn ngữ thơ có đặc trưng về nhạc tính: Thơ trữ tình phản
ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà
thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh,
nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của
ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ...) không được tổ chức thì trong
thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý,
nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết.
Bởi thế, đặc trưng tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt
rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.
Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt
cơ bản. Đó là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp:
- Sự cân đối là sự tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó
có thể là hình ảnh, là âm thanh, chẳng hạn:
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở
cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ
hiện đại, yêu cầu này không khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến
hiệu quả nghệ thuật của phép đối xứng trong thơ của mình.
- Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi
độ cao giữa hai nhóm thanh điệu. Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của
từ "xôn xao" trong câu thơ "Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa" (Mẹ Tơm).
Đó đâu chỉ là âm vang của tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên
âm vang đó chính là âm thanh, âm thanh của từ "xôn xao" đã cùng với nghĩa
của nó làm nên điều kỳ diệu ấy. Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự
dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng như một phương tiện
19

kết dính các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều
kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân
(Tiếng đàn mưa - Bích Khê).
Lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn
mưa của đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng
người. Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ
thơ. Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số người có xu hướng
bỏ vần để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc
điệu nội tại nào đó như sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp
điệu của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.
Đặc trưng thứ hai của ngôn ngữ thơ là tính hàm súc: Đây là đặc điểm
chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể
loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ
thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó
chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ,
phồn tạp đến cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự
sâu rộng, đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính "đặc
tuyển". Là thể loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại
tác phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Tính hàm
súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của
cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây
chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất kiểu như
Nguyễn Du đã "giết chết" các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn
Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi
20

tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào;
cái tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
Do quy mô của tác phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất "tiết kiệm".
Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm
súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và
thể hiện cá tính của người nghệ sĩ. Nó không chỉ diễn tả được chiều sâu của
tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của những tháng năm chờ đợi. Nó vừa
đảm bảo được tính chính xác, tính hình tượng, vừa có tính truyền cảm.
Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn
của cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải
tính đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là
"quái đản". Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa
của từ trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển
mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan
hệ và trong quan hệ. Ví dụ: Khi Hồng Nguyên viết: "Có nắng chiều đột kích
mấy hàng cau" thì chính trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà
từ "đột kích" được cấp cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mĩ.
Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với
một mật độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi.
Nhiều lúc, trong một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương
tiện tu từ khác nhau, như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp
ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây là một ví dụ:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Đèn thương nhơ ai
Mà đèn không tắt
21

Mắt thương nhớ ai


Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.
Bài ca dao có số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ
đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải nhớ mong của người con gái dường
như còn vang mãi, dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một
người mà của nhiều người.
Đặc trưng thứ ba của ngôn ngữ thơ là tính truyền cảm: Tính truyền
cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi
tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước cảnh đời,
cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương
phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác
giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ.
Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim
nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt.
Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách
quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để
thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích... thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để
truyền cảm. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn
từ ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm
xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
(Nguyễn Đình Thi).
Ở đây, tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách
lựa chọn từ ngữ, các phương thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ.
Nhìn chung, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo
22

văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật;
ngôn ngữ thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học,
đó là: tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu
cảm... Tuy nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu
hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm
lại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng.
1.2. Đặc trưng cơ bản của từ vựng trong thơ
1.2.1. Xét về cấu tạo và nguồn gốc
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, từ vựng hay vốn từ, kho từ vựng của
một người là tập hợp các từ trong một ngôn ngữ mà người đó quen thuộc (biết
tới). Vốn từ vựng thường xuyên tăng lên theo tuổi tác, và là công cụ cơ bản và
hữu dụng trong giao tiếp và thu nhận kiến thức.
Từ góc độ phạm vi sử dụng, người ta phân biệt hai loại kho từ vựng là
chủ động và bị động. Kho từ vựng chủ động bao gồm các từ được sử dụng
trong văn nói và văn viết. Kho từ vựng bị động bao gồm các từ mà một người
có thể nhận ra lúc đọc hoặc lúc nghe, nhưng không sử dụng chúng trong văn
nói hoặc viết. Kho từ vựng bị động nhiều hơn kho từ vựng chủ động một vài
lần. Xét riêng trong lãnh địa thơ ca, từ vựng thơ ca là vốn từ mà các nhà thơ
sử dụng để diễn tả những cung bậc tình cảm, trường thẩm mĩ của cá nhân
trong quá trình kiến tạo nên những tác phẩm thơ đặc sắc. Trong lịch sử phát
triển từ vựng tiếng Việt, trong từng thời đoạn, nó có những bước chuyển
mình, số lượng và đặc trưng cụ thể. Điều này đã chịu sự tác động của các
nguyên nhân văn hoá và ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam. Nếu khảo sát và
đánh giá hệ thống từ vựng với các tiểu loại cụ thể đã tham gia cấu tạo nên các
câu thơ trong từng giai đoạn phát triển của thể loại này của lịch sử văn học
Việt Nam chúng ta sẽ thấy rõ điều đó.
Trong chuyên luận Đặc trưng từ vựng trong Thơ mới 1932 – 1945, từ
góc độ cấu tạo, Vũ Thị Ân đã đưa ra một bảng thống kê so sánh về phương
23

diện cấu tạo từ vựng trong ngôn ngữ thơ Nôm thời trung đại và Thơ mới 1932
– 1945, kết quả được thể hiện như sau:
Bảng 1.1. Hệ thống từ vựng trong thơ Nôm và Thơ mới từ bình diện cấu tạo
Tổng lượt
từ ngữ Thành
Loại thơ Từ đơn Từ ghép Từ láy
được khảo ngữ
sát
Thơ Nôm 21.815 1.743 549 64
24.171
trung đại (90,25%) (7,21%) (2,27%) (0,27%)
Thơ mới 63.721 7.211 2.442 35
73.409
1932 - 1945 (86,8%) (9,82%) (3,33%) (0,05%)
[Nguồn 4, tr.15]
Từ bảng so sánh về phương diện cấu tạo của hệ thống tự vựng, chúng ta
có thể nhận thấy việc tham gia kiến tạo câu thơ trong thơ thời trung đại có số
lượng và tỷ lệ khá sai biệt so với thời Thơ mới (1932 – 1945). Căn cứ bảng số
liệu trên, chúng ta có thể nhận thấy Thơ mới và thơ Nôm trung đại, số lượng
từ đơn chiếm tuyệt đại đa số (trên 90%). Khoảng 10% số còn lại được chia
cho các thành phần từ vựng còn lại.
Tại sao có sự chênh lệch khá lớn như vậy? Theo suy nghĩ của chúng
tôi, từ đơn là lớp từ chiếm số lượng chủ yếu và là yếu tố để tạo lập từ ghép, từ
láy. Thơ Nôm trung đại tính từ Nguyễn Trãi thì cách nay đã hơn 600 năm, còn
nếu tính từ Trần Tế Xương thì cũng đã hơn 100 năm. So với thời hiện đại, số
lượng từ vựng tiếng Việt thời trung đại còn thấp và có nhiều yếu tố Hán Việt
đơn tiết như Nguyệt, Thuỷ, Mai, Lan, Hoa,... và nhiều yếu tố thuần Việt như
khem (trong kiêng khem), han (trong hỏi han), nhèm (trong kèm nhèm)...
được dùng độc lập làm thành phần câu. Ví dụ như Nguyễn Trãi viết:
Đêm trăng hớp nguyệt nghiêng chén,
Thạch đỉnh hương tàn khói thuỷ trầm
24

Hoặc như Tú Xương đã viết:


Cái miếng phong tình vẫn chưa khem...
Chớp mắt trăng hoa giả cách nhèm...
Trong cách vận dụng từ ngữ của các nhà thơ trung đại, việc sử dụng các
từ đơn với tư cách là yếu tố tạo từ dường như chưa được đặt ra như trong thơ
hiện đại, đặc biệt là Thơ mới. Ngoài những lý do mang tính phạm trù trung
đại và hiện đại, lý do văn học (thể tài, tính quy phạm và nội dung sáng tác), có
thể nói đây là nguyên nhân quan trọng nhất, có ảnh hưởng đến tỉ lệ chênh lệch
giữa hai lớp từ đơn và ghép của thơ Nôm trung đại so với Thơ mới.
Hệ thống từ ghép trong thơ Nôm (cũng như trong Thơ mới sau này) chủ
yếu là từ Hán Việt như nhân nghĩa, triều đình, trung quân, giang sơn, phong
lưu... Số lượng từ ghép được tăng bổ dần về số lượng ở các giai đoạn sau.
Cũng ở bảng thống kê trên, so với thơ Nôm, chúng ta có thể nhận thấy ở Thơ
mới sự phổ biến ở việc sử dụng từ đơn, từ láy, từ ghép. Trong Thơ mới, số từ
đơn có tỉ lệ 86,8%, từ láy chiếm 3,33%, từ ghép chiếm 9,82%. Mặc dù có
điểm tương đồng với hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ thơ Nôm nhưng ở Thơ
mới đã có sự di chuyển và vận động của hệ thống từ vựng. Nó đã bắt đầu
hướng đến việc sử dụng hệ thống từ láy, từ ghép. Điều này không chỉ làm gia
tăng khả năng thể hiện mà còn là sự sáng tạo trong việc thể hiện các giá trị
trong tư tưởng thẩm mĩ của các thi nhân trong hành trình sáng tạo thơ ca. Xét
từ góc độ cấu tạo, từ tiếng Việt trong Thơ mới có xu hướng phức hợp hơn
nhiều so với thơ Nôm. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển từ
vựng trong ngôn ngữ tiếng Việt từ thời trung đại sang hiện đại.
Trong vốn từ của các tác giả Thơ mới, các từ chêm xen như mà, chứ,
thì, rồi xuất hiện không ít. Ví dụ như Xuân Diệu viết:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi
Hoặc Thế Lữ thì bộc bạch:
25

Trút khỏi lòng mà trôi đi, mà tan mất...


Nguyên do cơ bản của hiện tượng này xuất phát từ sự không hạn định
của số lượng chữ trong các tác phẩm thuộc thể thơ tự do. Điều này tạo nên sự
linh hoạt và hoạt dụng trong sáng tác. Lớp từ láy là lớp từ không chỉ có khả
năng gợi tả mà còn tăng nhạc tính cho câu thơ, bài thơ.
Các nhà thơ Việt Nam đã vận dụng một cách linh hoạt đặc tính này của
từ láy và do đó, trong vốn từ vựng thơ ca của hai nhóm thơ được khảo sát,
chúng ta cũng thấy được sự xuất hiện tỉ lệ tuy có sự chênh lệch nhưng vẫn là
đặc trưng cố hữu của ngôn ngữ thơ ca Việt Nam. Từ láy trong ngôn ngữ thơ
Nôm Hồ Xuân Hương là một trong những “đặc sản”, đặc trưng thẩm mĩ vô
cùng hấp dẫn khi tiếp nhận ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương. Có thể nói, trong
số các nhà thơ Nôm, Hồ Xuân Hương là người sử dụng vốn từ láy nhiều nhất
và thành công nhất. So với thơ Nôm, trong Thơ mới, lượng từ láy cũng được
các nhà thơ chú ý và khai thác triệt để các giá trị ngữ nghĩa lẫn âm thanh.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy, vốn từ vựng tiếng
Việt đã được các văn nhân thi sĩ không chỉ trong thời trung đại mà ngay cả thời
hiện đại, đương đại cũng được sử dụng, vận hành và sáng tạo một cách thần tình
linh động, góp phần kiến tạo nên những giá trị thẩm mĩ đặc sắc trong các tác
phẩm thơ. Từ góc nhìn cấu tạo, hệ thống từ đơn, từ láy, từ ghép hay cụm từ đều
đóng vai trò quan trọng, là kho quặng mà các nhà thơ đã tập trung chọn lựa, khai
thác một cách hiệu quả, góp phần hình thành nên những đặc trưng từ vựng của
phong cách thơ cá nhân trong tiến trình thơ ca Việt Nam.
1.2.2. Xét về nguồn gốc
Trong tiến trình phát triển từ vựng, hầu như không có từ vựng của ngôn
ngữ nào lại chỉ hình thành, xây dựng bằng con đường tự thân phát sinh. Trong
hầu hết tất cả các ngôn ngữ trên thế giới, người ta vẫn có thể thấy hàng loạt từ
ngữ mà chúng vay mượn, hoặc vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác. Tiếng
Việt của chúng ta cũng vậy. Như thế, điều mà người ta có thể dễ thấy nhất ở
26

đây là nổi lên đường phân giới giữa hai lớp từ ngữ: lớp từ thuần Việt và lớp từ
có nguồn gốc ngoại lai. Ở từ vựng tiếng Việt, lớp từ ngoại lai được phân
thành hai lớp nhỏ hơn: lớp các từ ngữ gốc Hán và lớp các từ ngữ gốc Ấn - Âu
(chủ yếu là gốc Pháp). Theo kết quả nghiên cứu và thống kê của Vũ Thị Ân
về hệ thống từ vựng trong thơ Nôm và Thơ mới từ góc độ nguồn gốc, tác giả
đã đưa ra một kết quả đánh giá như sau:
Bảng 1.2. Từ vựng trong thơ Nôm và Thơ mới từ bình diện nguồn gốc
Tổng lượt từ
Từ thuần Từ Hán
Loại thơ ngữ được Từ khác
Việt Việt
khảo sát
6
Thơ Nôm trung 19.350 4.815
24.171 (0,02%)
đại (80,05%) (19,92%)

35
Thơ mới 63.721 7.211
73.409 (0,05%)
1932 - 1945 (86,8%) (9,82%)

[Nguồn 4, tr.21]
Từ bảng thống kê trên, xét từ góc độ nguồn gốc, chúng ta vẫn có thể
nhận thấy trong hệ thống từ vựng trong thơ Nôm cũng như trong Thơ mới thì
từ có nguồn gốc thuần Việt vẫn chiếm ưu thế. Số lượng từ Hán Việt trong
ngôn ngữ Thơ mới chiếm tỷ lệ thấp hơn so với thơ Nôm. Thêm vào đó, từ ngữ
có nguồn gốc Ấn - Âu trong Thơ mới có số lượng nhiều hơn trong thơ Nôm.
Điều này có thể lý giải được từ đặc trưng vốn từ trong thơ Nôm và Thơ mới
thuộc hai phạm trù khác nhau. Trong thơ Nôm, số lượng từ Hán Việt chiếm tỉ lệ
nhiều vì ngôn ngữ thơ ở giai đoạn này chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi địa vị độc
tôn của chữ Hán, ngôn ngữ Hán. Ở giai đoạn này, tỷ lệ từ thuần Việt tuy có
chiếm một số lượng cũng đáng kể nhưng vẫn chưa thực sự đảm nhận được vai
trò chính trong việc thể hiện những vấn đề phản ánh của nội dung văn học thời
kì này. Tuy nhiên, càng về sau, thì vai trò của từ thuần Việt là có sự gia tăng.
27

Hành trình thơ Nôm từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hành trình mà vai trò của từ Hán Việt dần mất
đi vai trò độc tôn và nhường lại cho hệ thống từ thuần Việt.
Đối với thời kì Thơ mới phát triển và thịnh hành, lớp từ Hán Việt đã
giảm dần, lớp từ thuần Việt gia tăng, đặc biệt là lớp từ vay mượn trong văn
hoá Ấn Âu như xi nê, ô tô, ban công, (mũ) bê rê... đã xuất hiện và đảm trách
vai trò ngôn từ nghệ thuật. Điều này chứng tỏ một quá trình Việt hoá cao độ
lớp từ ngoại lai trong việc kiến tạo bầu không khí diễn ngôn đặc sắc của thế
giới nghệ thuật phong trào Thơ mới 1932 – 1945. Bên cạnh đó, trong thế giới
từ vựng của ngôn ngữ Thơ mới, chúng ta có thể cảm nhận được sự thay đổi
phương thức cảm thụ thẩm mĩ của các thi sĩ hiện đại, đưa ý thức thẩm mĩ của
Thơ mới đi ra khỏi quỹ đạo của thơ trung đại và đi vào quỹ đạo của thơ hiện
đại. Mặc dù vẫn còn những nhà thơ sáng tác mang hơi hướng của ý thức cũ
như Quách Tấn, Huy Cận, Thái Can... nhưng đó chỉ là hồn cốt thi nhân còn
vương lại của những phong cách Đường thi chịu sự tác động mạnh mẽ của
văn hoá Hán sau một thời gian dài ảnh hưởng sâu đậm đến văn hoá Việt.
Nhìn chung, nguồn gốc của hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ thơ Nôm
và Thơ mới có sự tương đồng với nhau. Song, tỷ lệ và vai trò của các tiểu hệ
thống của nó có sự chênh lệch khá phức tạp và có những lý do văn hoá của
nó. Với chức năng và vai trò của mình, hệ thống từ ngữ này đã góp phần tạo
nên những sắc thái, phong cách và những điểm đặc thù của hai hệ thống ngôn
ngữ thơ Nôm và Thơ mới. Khảo sát về nguồn gốc của từ vựng trong ngôn ngữ
nghệ thuật thơ Nôm và Thơ mới cũng là một trong những cơ sở căn bản để
chúng tôi đi sâu tìm hiểu những đặc trưng từ vựng trong ngôn ngữ của các
nhà thơ hiện đại, đương đại nói chung và phong cách ngôn từ nghệ thuật thơ
Văn Công Hùng nói riêng.
1.2.3. Xét về ngữ nghĩa
Trên cơ sở tiếp thu các thành tựu về trường nghĩa, sự chuyển nghĩa, các
28

phương thức chuyển nghĩa, Đỗ Hữu Châu cũng đề xuất nguyên tắc phân tích
từ ngữ trong nghiên cứu tác phẩm thơ mà thực chất là phân tích tác phẩm xuất
phát từ việc xem xét các từ vựng theo các trường nghĩa mà nó phụ thuộc vào.
Ông chú ý đến việc từ được dùng theo nghĩa chính hay nghĩa chuyển. Hiện
tượng nhiều nghĩa trong nghệ thuật là một hiện tượng thường gặp. Nguyên tắc
để phân tích hiện tượng nhiều nghĩa trong tác phẩm là: Bất cứ từ ngữ được
dùng trong trường hợp nào khi phân tích cũng phải bám sát nghĩa chính, hiểu
chính xác nghĩa của từ. Từ đó, dựa vào những quy tắc chuyển nghĩa, dựa vào
quan hệ ngữ nghĩa trong từ nhiều nghĩa mà tìm ra giá trị nội dung và nghệ
thuật của nó.
Nghĩa của từ chỉ được bộc lộ một cách cụ thể và đầy đủ trong các ngữ
cảnh, hay nói cách khác, nghĩa của từ được hiện thực hoá trên trục ngữ đoạn.
Vì vậy, xem xét bình diện ngữ nghĩa của từ ngữ không thể bỏ qua việc khảo
sát các kết hợp từ ngữ đã được các nhà thơ sử dụng.
Về vấn đề kết hợp từ, những kiểu kết hợp từ không thông thường đã xuất
hiện trong các tác phẩm thơ Nôm. Chẳng hạn khi Nguyễn Trãi viết:
Trời nghi ngút, nước mênh mông...
Lẻ có chim bay cùng cá nhảy...
Nào của cởi buồn trong thuở ấy...
Các kiểu kết hợp như trời nghi ngút, lẻ có chim bay, cởi buồn là những
cấu trúc kết hợp, tổ hợp từ khá lạ trong ngôn ngữ khẩu ngữ cũng như ngôn
ngữ thi ca. Điều này tiếp tục được thể hiện trong thơ của Hồ Xuân Hương sau
này. Tuy nhiên đây chỉ là những trường hợp cá biệt, phải đến Thơ mới thì các
kiểu kết hợp không thông thường mới thật sự nở rộ. Điều này tạo nên khả
năng diễn tả rất lớn của hệ thống từ vựng tham gia kiến tạo nên những rung
động tế vi, nhạy cảm của tâm hồn thi sĩ hiện đại.
Ta bắt gặp trong rất nhiều bài thơ hay của phong trào Thơ mới những tổ
hợp từ rất đỗi lạ kì theo kiểu Tây hoá như: Hơn một loài hoa, luồng run rẩy,
29

tiếng vàng, niềm tóc bạc, hòn trăng, sợ buồn, mầm trời huyền bí, tắt nắng đi,
buộc gió lại... nhưng tổ hợp này đã thể hiện được những ảnh hưởng của thi ca
Âu châu và được ghi dấu trong các hình ảnh ẩn dụ theo kiểu chuyển đổi cảm
giác. Một sáng tạo độc đáo của các thi sĩ thời Thơ mới. Điều ấy vẫn chứng
thực được một điểm khá rõ ràng là thơ ca vẫn luôn vận động và cách tân để
làm mới mình và tự nó đã xây dựng thành những quy tắc mới, góp phần thể
hiện một cách cụ thể nhất những diễn ngôn nghệ thuật đặc sắc nhất.
Vấn đề thứ hai ở góc độ ngữ nghĩa là việc các nhà thơ sử dụng một cách
linh hoạt những nghĩa gốc và nghĩa phái sinh trong ngôn từ thi ca. Nếu trong
thơ Nôm thời trung đại, các tác giả về cơ bản trung thành với việc sử dụng
những ý nghĩa căn bản của từ hơn là sáng tạo ra những nét nghĩa phái sinh.
Tuyệt đại bộ phận yếu tố Hán Việt trong thơ trung đại đều mang nghĩa gốc. Ví
dụ Nguyệt trong các Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đều được xác định ý
nghĩa tương đương trong tiếng Việt là Trăng. Nhưng đối với yếu tố thuần Việt
thì khả năng linh động, chuyển nghĩa linh hoạt (hơn hẳn so với yếu tố Hán
Việt). Điều này được thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường giàu khả năng tạo hình ảnh,
cái thanh và cái tục hoà quyện lẫn nhau tạo nên một sự lấp lửng nghệ thuật
thú vị. Từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường gây ấn tượng đặc biệt, nhất
là hệ thống từ láy: Khéo khéo, khom khom, ngửa ngửa, phơi phới, phì phạch,
vắt ve... lượng từ láy có khả năng tu từ ấy trong thơ Hồ Xuân Hương đã tạo
nên sự liên tưởng trên cơ sở của các biểu tượng hai mặt. Mặt khác trong sự
phát triển nghĩa của từ cùng với hoạt động hành chức của nó đã được phát
huy cao độ trong thơ Hồ Xuân Hương.
Trong Thơ mới, lượng từ ngữ được dùng với nghĩa phái sinh tăng rõ rệt
so với các nhà thơ trung đại. Xuất phát từ đặc thù của phạm trù hiện đại và
tâm hồn nóng bỏng, yêu thương, phơi phới của của các nhà thơ trẻ chịu ảnh
hưởng của luồng gió cá nhân Âu Tây, trong ngôn ngữ Thơ mới, những trường
30

hợp chuyển nghĩa đặc biệt đã được sử dụng khá phổ biến. Thi sĩ có thể ngửi
được mùi thơm của nhạc (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm – Xuân Diệu),
có thể cảm nhận được màu và hương của sự biệt li (màu biệt li, hương biệt li–
Đoàn Phú Tứ) hoặc có thể nghe được hơi thở của không gian (Nghe trời nằng
nặng, nghe ta buồn buồn – Huy Cận) hoặc có thể cảm nhận được tiếng sáo
qua những chiều kích của kĩ thuật tạo hình (Vắt vẻo bên bờ cây xanh – Thế
Lữ). Có thể nói, hệ thống từ vựng tiếng Việt đến Thơ mới đã được khai thác
một cách triệt để những khả năng biến tấu của ngữ nghĩa. Các thi sĩ đã đánh
thức mọi tiềm năng, mọi khả năng biểu đạt của nó để tạo nên những diễn
ngôn đẹp nhất, thú vị nhất và xúc cảm nhất về những rung động tinh tế trước
thế giới bên ngoài và con người.
Từ những khả năng vận dụng hệ thống ngữ nghĩa linh hoạt của từ ngữ,
các nhà thơ đã tạo nên những trường nghĩa về xã hội, thiên nhiên, cảnh quan
đất nước trong thơ Nôm trung đại. Riêng đối với Thơ mới, trường ngữ nghĩa
với những biểu hiện đa dạng về cái tôi cá nhân buồn đã được các nhà thơ hiện
đại giai đoạn 1932 – 1945 thể hiện vô cùng xuất sắc. Điều này đã tạo nên tâm
thế và đặc trưng căn bản về nội dung và phương thức thể hiện trong phong
trào Thơ mới.
Tóm lại, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhà nghiên cứu Vũ Thị Ân và
khảo sát cá nhân, những vấn đề nêu bật trong tiểu mục này là những cơ sở
quan trọng, là tiêu chí khảo sát mà chúng tôi sẽ vận dụng linh hoạt trong quá
trình tìm hiểu đặc trưng từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng. Mạch từ ngữ
luôn có sự tiếp nối từ thơ ca trung đại đến thơ ca hiện đại và đương đại. Sự
phong phú và đa dạng cùng với những biểu hiện linh hoạt, nhuần nhuyễn,
thần tình của hệ thống từ ngữ trong thơ Nôm trung đại và phong trào Thơ mới
đã góp phần tạo dựng nên những căn cứ khoa học cụ thể để xác định và đánh
giá một cách chuẩn xác, mang tính định lượng đối với thế giới ngôn từ của
một thi s
31

1.3. Cơ sở hình thành phong cách thơ của Văn Công Hùng và các chặng
đường sáng tác
1.3.1. Cơ sở hình thành phong cách thơ của Văn Công Hùng
Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, Văn Công Hùng đã tìm cho mình
một lối đi riêng. Ông cố gắng vứt bỏ những “phụ tùng" không cần thiết và tìm
cách thăng hoa trong cảm xúc. Vì vậy, thơ ông dễ đivào lòng bạn đọc. Ông là
một trong số những thi sĩ đích thực, lấy ngọn đèn và trang giấy trắng làm lý
do tồn tại trên đời. Nhà thơ đã có một cuộc hành trình sáng tạo không ngừng
nghỉ. Ông vẫn làm việc, vẫn suy nghĩ, vẫn giữ được sức trẻ cho ngòi bút của
mình. Những đóng góp của Văn Công Hùng đối với nền thi ca dân tộc là
không nhỏ. Nhà thơ đã tạo cho mình một chỗ đứng trong làng thơ Việt Nam
hiện đại. Có được thành tựu đó, bởi chính ông đã xác lập cho mình một quan
niệm đúng đắn về sứ mệnh của thi ca và vai trò của thi sĩ. Ông đã khẳng định
mình với một phong cách thơ độc đáo, mang đậm chất suy tưởng, triết lí.
Nền tảng quê hương, gia đình là cội nguồn hình thành cá tính và là
mầm mống của sự phát triển tài năng. Đó là lớp văn hóa nền xác lập nơi nhà
văn những cảm thức đầu tiên và lâu bền về thế giới nghệ thuật, góp phần khơi
dậy thiên hướng nghệ thuật cho nhà văn đồng thời cũng giúp nhà văn rèn
giũa, tôi luyện, bổ sung xúc cảm và trí tuệ. Nhờ vậy phong cách nghệ thuật
của họ được định hình và phát triển.
Nhà thơ Văn Công Hùng sinh ngày 19 tháng 5 năm 1958, quê quán
Điển Hoa, Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Ông sinh ra và lớn lên, học phổ
thông ở Thanh Hóa. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Huế năm 1981, xung
phong lên Gia Lai - Kon Tum công tác. Từ Huế ra Thanh Hóa, trở về với Tây
Nguyên là quãng đời lưu dấu nhiều kỉ niệm của nhà thơ Văn Công Hùng. Xứ
Huế ban cho ông vẻ đẹp của sự thâm trầm, huyền bí trong nét văn hóa cung
đình. Cả thời học sinh trải dài trên những con đường đi về ở vùng đất Thanh
Hóa làm nên một Văn Công Hùng cởi mở và tràn trề sức sống. Bỏ lại thành
32

phố Huế, khoác ba lô lên Pleiku giữa ngờm ngợp sắc vàng dã quỳ, hoà trong
mờ mờ sương dáng phố... đã làm cho nhà thơ Văn Công Hùng nguyện gắn bó
cuộc đời mình với mảnh đất này. Phố núi là vườn ươm cho thơ ông và để bây
giờ cái tên Văn Công Hùng đã quen thuộc trong giới văn nghệ sĩ và người yêu
thơ... Tây Nguyên đã ám vào Văn Công Hùng để thổ lộ cái cốt cách nghệ sĩ
phát sáng rất tiềm tàng. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống đam mê
văn học nghệ thuật, Văn Công Hùng hiển nhiên hoặc may mắn mang trong
mình tâm hồn của một nghệ sĩ. Dù chưa phát tiết nhưng vẫn có phong vị của
kẻ lãng du. Cha ông là người đam mê nghệ thuật dân gian. Được biết ông là
người học chữ Nho, đọc nhiều thơ chữ Hán và cũng đam mê làm thơ từ rất
sớm. Những câu thơ của ông được Văn Công Hùng đánh giá là mang đậm
phong vị dân gian. Văn Công Hùng may mắn thừa hưởng từ chú và ông lối tư
duy khúc chiết, mạch lạc. Phải chăng điều này làm nên tính triết luận trong tư
duy thơ của ông. Nền tảng xuất thân như thế khiến Văn Công Hùng tự nhận
thấy mình yêu thơ và thích làm thơ cũng là lẽ tự nhiên, dễ hiểu. Tất cả tạo cho
Văn Công Hùng những điều kiện thuận lợi để đến với thơ và tạo dựng phong
cách thơ cho riêng mình.
Điểm lại bước đường làm thơ của Văn Công Hùng, ta thấy được con
người - thơ của ông. Tiếp cận được với công chúng, thơ Văn Công Hùng nhận
được phản hồi và nhà thơ nhanh chóng thấy được " nghề thơ còn lắm gian
nan" khi ngòi bút của mình còn thiếu thiếu một cái gì vô cùng quan trọng.
Ông hiểu rằng, thơ không phải là sản phẩm của sự hời hợt, làm thơ là một
nghề đỏi hỏi sự suy tư nghiêm túc, thơ là tấm gương phản chiếu trí tuệ và tâm
hồn... Và đừng đùa giỡn với thơ. Từ đây ông suy nghĩ thật sự nghiêm túc về
thơ và dần lựa chọn cho mình một lối đi. Con đường thơ bắt đầu in dấu những
bước chân còn nhiều lúng túng của kẻ dò dường. Đi sao cho thỏa đam mê, đi
sao để đam mê đến được cái nơi mà nó ngự trị, đi sao để đam mê đến được
vinh quang.
33

Tính cách làm nên số phận. Tính cách cũng góp phần hình thành phong
cách. Con người Văn Công Hùng có những nét tính cách đặc biệt giúp làm
nên phong cách thơ của ông. Là người thích phiêu lưu và có cá tính, ông đam
mê sáng tạo. Là người điềm tĩnh và thông minh, Văn Công Hùng nhận ra
mình đang đứng ở đâu trong cuộc đời cũng như trên thi đàn. Là người chỉn
chu và tinh tế, Văn Công Hùng khéo léo thay đổi cách nghĩ và cách làm thơ.
Là người giản dị và nhân hậu, Văn Công Hùng biết tạo ra vẻ đẹp thuần khiết
nhưng sâu sắc cho thơ. Là người nặng sâu tình cảm, Văn Công Hùng trở
thành nhà thơ chân chính. Con người Văn Công Hùng đã làm nên khuôn mặt
thơ Văn Công Hùng và qua thơ ông, ta nhận ra khuôn mặt tỏa sáng đó.
1.3.2. Những chặng đường sáng tác thơ của Văn Công Hùng
Ở phần này, chúng tôi sẽ khảo lược quá trình sáng tác thơ của Văn Công
Hùng thông qua các tập thơ. Đây là cái nhìn bước đầu để nhận diện sự phát
triển phong cách thơ ông.
Bến đợi là tập thơ đầu tiên của Văn Công Hùng. Tập thơ ra mắt đã
chiếm được sự xúc động của người đọc. Cảm xúc chung của tập thơ này là
tâm sự của một người nặng lòng với quê cũ, trầm ngâm về quê hương với một
nỗi niềm đau đáu và với quê hương mới thì đã ám vào Văn Công Hùng để thổ
lộ cái cốt cách nghệ sĩ phát sáng rất tiềm tàng, sung mãn.
Hát rong là tập thơ đánh dấu sự góp mặt của một nhà thơ mang tên Văn
Công Hùng trên thi đàn. Đến với tập thơ, độc giả như đang được sống giữa
cuộc đời, trải nghiệm cuộc đời qua từng câu chữ. Mọi cung bậc của cảm xúc,
thế giới muôn màu của cuộc sống hiển hiện trong thơ ông sinh động. Nếu ai
đó cho rằng thơ ca chỉ là thứ làm cho tâm hồn con người thoát ly khỏi hiện
thực cuộc sống, đắm chìm trong những mơ mộng viển vông, bay bổng và lãng
mạn trên đôi cánh thần tiên và sẽ thấy thất vọng khi đặt thơ đối sánh với cuộc
đời, thì Văn Công Hùng lại cho rằng thơ chính là đời, cuộc đời sẽ giúp cho thi
sĩ thăng hoa cảm xúc để làm thơ.
34

Đọc Hát rong, ta cảm được hơi thở và nhịp đập của một trái tim giàu
men say cuộc đời, đa tình với thơ ca. Đó cũng chính là khúc hát rong mang
dầy dấu ấn của một trái tim nồng nàn nhựa sống. Ở đó, ta cũng trông thấy một
gương mặt rất hiền mà cũng đầy bụi trần - một gương mặt lắm men say dành
cho cõi đời mà cũng khắc khoải, hoài nghi và cô đơn giữa thế gian. Nói chung
càng đi sâu vào thế giới Hát rong, người đọc càng khám phá thêm những
miền tâm trạng mới, làm phong phú thêm chất lượng tâm hồn người.
Đến với Hoa tường vi trong mưa, thơ của Văn Công Hùng bắt đầu có sự
trăn trở, vật vã với mình để tìm tòi, tránh con đường mòn, luôn luôn ý thức
mình phải đổi mới mình trong thơ. Ở hai tập thơ trước, tứ thơ của ông có phần
hơi khô thì sang chặng thơ này nó đã có sự nung nấu, tứ và cảm xúc đã có sự
hòa quyện tạo nên những câu thơ sâu lắng làm rung động trái tim bạn đọc.
Hoa tường vi trong mưa là tập thơ của những ngày bình thường, của
những con người bình thường, cũng là của những điều bình thường trong
cuộc sống. Những người, những việc thường ngày, giản dị đó được Văn Công
Hùng soi chiếu dưới lăng kính của sự đối nghịch để người đọc nhận ra rằng:
chúng bình thường nhưng cao quý. Cảm giác về sự trầm tĩnh, lý trí, chiêm
nghiệm xuất hiện nhiều ở các trang thơ. Tất cả những cái ngày thường đơn
giản là thế nhưng để có được nó nhiều khi con người ta phải đánh đổi thật
nhiều, phải nỗ lực thật lớn, phải khát khao thật mãnh liệt. Đến tập thơ này,
yếu tố triết luận trong thơ của Văn Công Hùng dường như sâu sắc hơn cả.
Nhiều bài thơ đòi hỏi sự tập trung cao độ của người đọc để nhận ra khuôn mặt
thật, giấu kín tận sâu bên trong của cái hằng thường. Với Hoa tường vi trong
mưa chúng ta cũng nhận diện rõ ràng hơn sự " tiết chế " trong câu chữ của
Văn Công Hùng.
Cuộc sống con người luôn từng giờ, từng ngày đổi thay và để bắt nhịp với
cuộc sống ấy, thơ ca cũng phải luôn tìm tòi, đổi mới. Thơ không thể mãi là sự
nhàm chán cũ kỹ, sáo mòn đến vô cảm, nhà thơ cũng cần phải có tâm huyết,
35

niềm đam mê khao khát cái mới, khao khát sự đổi thay, làm phong phú hơn cho
đời sống cũng chính là làm phong phú thêm cho tâm hồn của con người thời đại.
Ta bắt gặp một Văn Công Hùng hiện đại trong Gõ chiều vào bàn phím. Ngôn
ngữ của tập thơ này mang đậm dấu ấn của " cuộc sống số ” với những @, những
email, những enter… và mang lại cho người đọc một cảm giác muốn được khám
phá ngôn ngữ để đi đến tận cùng vẻ đẹp của văn chương.
Đối với Văn Công Hùng, thơ phải phản ảnh được những cái đời thường của
cuộc sống: Những nhà thơ ở trong nhà tập thể, con bao cấp tiếng cười vợ tem
phiếu cơm ăn và nước mắt (Tự bạch của một thời). Nhiều lúc ông lặng lẽ đem
bản thân mình ra làm đối tượng cho mình chiêm cảm, thổn thức cùng nỗi đau
của bản thân, nhặt nhạnh từng mảnh mình rơi vãi. Ông không né tránh cái tôi
thực của mình, tự tâm để nó bơi giữa dòng nước ngược, thoải mái thốt lên những
điều đang dày vò nó với những cảm xúc lạ nhưng rất đỗi đời thường hay là
những cảm xúc dồn nén, kìm kẹp giữa hai bờ trái tim nóng hổi. Từ Bến đợi cho
đến Gõ chiều vào bàn phím là một sự cách tân về nhận thức, tư tưởng và thi
pháp. Không còn sự nhận đường hay dò đường mà là sự khẳng định. Khẳng định
một con đường mới, một lối đi riêng để vào thế giới thơ giàu màu sắc và lắm
chông gai. Đặt trong hệ thống thơ đương thời, thơ Văn Công Hùng vượt lên bởi
sự chững chạc, điềm đạm mà tinh tế. Không đa ngôn mà “kiệm lời”, không ào ạt
mà “tiết chế" không “duy cảm” mà “duy lý”... Văn Công Hùng tạo ra một khuôn
thước mới để nhìn nhận cái đẹp của thơ. Lý thuyết về cách đọc thơ dần thay đổi.
Biên độ nhận thức về thơ được nới rộng hơn. Nó tạo ra những dư chấn mạnh mẽ
và mới lạ trên thi đàn đang đòi “đổi mới”.
Khát khao đổi mới cùng với đam mê sáng tạo đã thôi thúc nhà thơ tiếp
tục viết Đêm không màu. Bằng cái tôi chiêm nghiệm, chất vấn, Văn Công
Hùng độc thoại trước hết với chính mình và hướng đến được cùng giãi bày
với người đọc qua những ảnh hình của cuộc sống. Bởi vậy, thơ ông đi vào
lòng người nhẹ nhàng mà sâu lắng. Nó như thuộc về bản năng của người nghệ
36

sĩ có trái tim lớn, chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc, nhà thơ phải phân thân
thành nhiều người để bộc lộ các sắc thái, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn của
càng nhiều số phận, càng hay.
Không chịu dừng lại ở những cảm xúc bề ngoài, nhà thơ đi sâu vào đối
tượng bên trong để khám phá, phát hiện bản chất của mỗi vấn đề. Ông đã mở
ra bước chuyển về thi pháp, đưa thơ đến chất giọng triết lý sau vẻ hài hước
nửa như đùa nửa như thật của mình. Tăng cường tính triết luận vào thơ đã tạo
được nét riêng biệt làm nên phong cách thơ của Văn Công Hùng. Ông cảm
nhận được sự ngắn ngủi của đời người trong dòng chảy không cùng của thời
gian. Sự sống con người ngỡ ra là thoáng chênh vênh, mơ hồ. Cũng từ đó, nhà
thơ ngộ được giới hạn của đời người. Đêm không màu đã thể hiện sự đằm
thắm và độ chín của tác giả. Chứng tỏ ông đã đi qua sự bồng bột và sôi nổi
của thời trai trẻ.
Đến với thơ Lục bát Văn Công Hùng, ta nhận thấy rõ sự hòa quyện giữa
truyền thống và hiện đại đã tạo cho lục bát của ông một nét riêng, một sự phá
cách “Nỗi lòng anh trải ra với thiên nhiên, với nắng trời tim tím Huế". "Bài
thơ theo thể lục bát, nhịp điệu quen thuộc, có vài chỗ phải thất cách để tránh
đơn điệu; có ngắt, xuống dòng, chỗ dùng (cesur), có đồng hiện, có hoài vãng,
có hiện thực... để tạo ra những phức điệu, phức cảm làm đẹp hồn thơ và hấp
dẫn quá trình tiếp nhận thẩm mĩ của người đọc” [49, 181 - 182].
Thơ đã trở thành một thứ vũ trụ tâm linh không những của nhà thơ mà
của cả người tiếp nhận. Hiện thực phản ánh trong thơ là một hiện thực đa
phương, đa chiều. Với Vòm trời khác, Văn Công Hùng hiện lên như một
“phù thủy" câu chữ khi ông mang đến sự mới lạ cho thơ từ những chất liệu
quen thuộc.
Sau thành công của các tập thơ trước, năm 2016 tập Cầm nhau mà đi ra
đời đã gặt hái nhiều thành công và sự trân trọng. Tập thơ vương vít nỗi buồn
của con người đã đi qua và quay đầu nhìn lại quãng đường đời khá dài của
37

mình. Nhiều lời cũng không nói được nhiều hơn những gì muốn nói. Và năm
2019 nhà thơ đã công bố tập Trong cơn mơ có thực, đây là tập thơ gây nhiều
tiếng vang. Ở bài thơ này, Văn Công Hùng đã sử dụng một cách tối đa các nét
nghĩa của ngôn ngữ để phác hoạ sự khắc khoải dặt dìu, day dứt trên mỗi trang
thơ. Những bài thơ được viết bằng ngôn ngữ thơ chắt lọc, giàu suy tưởng.
Những câu thơ đứt quãng, ngắt dòng liên tục vừa là sự cách tân vừa giúp diễn
tả nhịp điệu tâm hồn đầy trắc ẩn của người đã đi đến kết cục của tình yêu
nhưng vẫn còn nhiều khát khao trong lặng lẽ.
Đối với nhà thơ, con đường sáng tạo thơ là cả một hành trình lao động
thực thụ, Văn Công Hùng không ngừng tìm tòi, khám phá và sáng tạo, luôn ý
thức đổi mới trong thơ mình. Sự luôn đổi mới thơ mình ở nhà thơ đem đến
cho ông sự tin cậy của bạn đọc. Qua thơ, chúng ta có thể hiểu thêm, hiểu sâu
hơn một điều mà có thể nhà thơ đã gián tiếp nhắn gửi một cách âm thầm lặng lẽ
qua những trang viết. Văn Công Hùng lặng lẽ làm nên những giá trị tinh thần
đóng góp cho thi đàn những tập thơ giá trị, những bài thơ sâu sắc, giàu triết lí,
giàu trí tuệ và yêu thương.

Tiểu kết Chương 1


Hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ thơ của một thời đại, một cá nhân đều là
sự tích hợp của các thành phần cụ thể và được xem xét từ các góc độ, cấp độ cụ
thể như cấu tạo, ngữ nghĩa, nguồn gốc. Sự vận dụng linh hoạt sáng tạo và kế
thừa, tiếp biến từ thế hệ trước sẽ làm cơ sở đều tạo nên những đột phá về
phương diện thẩm mĩ trong thế giới nghệ thuật của một thời đại, nhà thơ cụ thể.
Phong cách ngôn ngữ trong thơ của Văn Công Hùng là sự tích hợp một
cách nhuần nhuyễn và sâu sắc giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và
hiện đại. Tư duy thơ ông đã thể hiện sự phản ứng nhanh khi nắm bắt được cái
mới nhưng luôn “bảo thủ" trước những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc. Đó
là một tư duy tích hợp, đa chiều cạnh, đã tìm được sự hài hoà thống nhất trong
38

khối đa dạng và mâu thuẫn. Văn Công Hùng đã đi vào cuộc hành trình văn
học dân tộc đem theo khí cốt mới mẻ, tạo nên một bản lĩnh nghệ thuật vững
vàng, một vị thế riêng trên con đường hiện đại hoá thi ca.
39

Chương 2. HỆ THỐNG TỪ VỰNG TRONG THƠ CỦA VĂN


CÔNG HÙNG - NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CẤU TẠO, NGỮ
NGHĨA VÀ NGUỒN GỐC

2.1. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng - xét từ bình diện cấu tạo
2.1.1. Số lượng và phân loại từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Khi nghiên
cứu bất cứ ngôn ngữ nào người ta cũng không thể lảng tránh việc xác định
những vấn đề liên quan đến đơn vị này. Trong chuyên luận Vấn đề “từ”
trong tiếng Việt, nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện Giáp đã xác định:
“So với từ của các ngôn ngữ Ấn Âu thì từ của tiếng Việt có
những đặc điểm sau: 1. Từ tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. 2. Từ
tiếng Việt không biến đổi hình thái. 3. Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ
pháp gắn bó chặt chẽ với nhau ở trong từ tiếng Việt”. [26, tr.150]
Chúng ta có thể chấp nhận một định nghĩa chung về từ như sau: Từ là đơn
vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức [79, tr.547]. Về
phương diện cấu tạo từ, chúng ta có thể xem xét đây là một cơ chế. Theo nhóm
tác giả của Từ tiếng Việt ( Hình thái, cấu trúc, từ láy, từ ghép, chuyển loại ):
“Khi đứng trên quan điểm động mà xem xét vấn đề cấu tạo từ thì
cần khẳng định rằng cấu tạo từ là một cơ chế trình diễn ra trong những
điều kiện, theo những quy tắc nhất định trong điều kiện cần và đủ. Nói
cách khác, cấu tạo từ là một cơ chế. Để cơ chế cấu tạo từ có thể vận
hành một cách có hiệu quả, thì những điều kiện cần và đủ phải có là: 1.
Cần có những đơn vị có khả năng làm thành tố của từ; 2. Cần có một hệ
những yếu tố có giá trị hình thái; 3. Cần có một hệ quy tắc cấu tạo từ”.
[Dẫn lại 26, tr.54].
Vấn đề cấu tạo từ trong tiếng Việt là một trong những vấn đề còn có
40

nhiều quan niệm, đánh giá khác nhau. Trong phạm vi luận văn này chúng tôi
không đi sâu tìm hiểu mà chỉ dựa trên một số thành tựu nghiên cứu cụ thể của
nhà khoa học để xây dựng tiêu chí xác định và phân loại hệ thống từ vựng
trong ngôn ngữ thơ của Văn Công Hùng từ bình diện cấu tạo. Từ mục đích
đó, quan niệm về từ mà chúng tôi chọn sử dụng: Từ là đơn vị nhỏ nhất có thể
tự mình làm thành ngữ đoạn. Từ đơn là những từ do một hình vị tạo thành
(ăn, đi, đẹp, cây...). Từ láy là những từ được tạo nên bằng phương thức lặp lại
hình thức ngữ âm của hình vị cơ sở (rung rinh, xào xạc, phơi phới...). Từ
ghép là những từ do hai hình vị tạo thành (hoa quả, hải đảo, bằng phẳng,
sách vở...). Xét về bình diện cấu tạo, hệ thống từ vựng tiếng Việt có thể phân
chia thành các nhóm từ cụ thể như: Từ đơn, từ ghép, từ láy và các cụm từ cố
định. Về cụm từ cố định, chúng tôi chỉ khảo sát thành ngữ.
Như chúng ta đã biết, hành trình sáng tác của Văn Công Hùng rất phong
phú và có nhiều phương diện đặc sắc trong sáng tạo. Tác giả có 07 tập thơ đã
xuất bản và tổng số lượng bài thơ đã được công bố đến năm 2019 là 313 bài.
Cụ thể có thể thống kê như sau: tập Bến đợi (1992) có 20 bài; tập Hát rong
(1999) có 44 bài; tập Đêm không màu (2009) có 44 bài; tập Lục bát Văn
Công Hùng (2010) có 36 bài; tập Vòm trời khác (2013) có 49 bài; tập Cầm
nhau mà đi (2016) có 53 bài và tập Trong cơn mơ có thực (2019) có 67 bài.
Trong số 313 bài thơ được công bố của Văn Công Hùng, trong điều kiện thời
gian và phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ trực tiếp khảo sát 194 bài tiêu biểu,
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong một số công trình nghiên cứu về
tác giả đã được công bố từ năm 2010 đến nay.
Trong tổng số 194/313 bài thơ được chúng tôi khảo sát, qua thống kê
chúng tôi đã thu được 7877 lượt từ được xuất hiện, bao gồm cả từ đơn, từ láy,
từ ghép và các cụm từ cố định. Cụ thể phân chia như sau:
41

Bảng 2.1. Từ vựng trong thơ Văn Công Hùng từ bình diện cấu tạo
Cụm từ cố
Tổng Từ đơn Từ ghép Từ láy
định
số lượt
Số Số Số Số
từ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ
lượng lượng lượng lượng
7877 5589 70,9 1528 19,4 704 8,9 56 0,7

Với số lượng từ ngữ được thống kê trên trong thơ của Văn Công Hùng,
chúng ta có thể nhận thấy tác giả đã sử dụng một lượng từ vựng khá phong
phú với nhiều tiểu loại khác nhau và sự phân bố số lượng tỉ lệ cũng tương đối
khác nhau. Số lượng từ đơn chiếm tỉ lệ cao nhất 5589 lượt từ (70,9%), tiếp
đến là từ ghép 1528 từ (19,4%), số lượt từ láy cũng đạt 704 từ (8,9%) và số
lượng cụm từ cố định là 56 (0,7%). Việc sử dụng số lượng từ vựng như đã
thống kê hoàn toàn phù hợp với phong cách nghệ thuật thơ của Văn Công
Hùng đó là ngôn ngữ thơ thiên về tính triết luận, khái quát, giàu cảm xúc và
có sự gợi cảm. Đi sâu vào những tiểu loại từ vựng, chúng ta sẽ nhận thấy
được vai trò quan trọng của các lớp từ này đối với việc kiến tạo nên thế giới
thẩm mĩ và đặc trưng ngôn ngữ trong thơ của Văn Công Hùng.
2.1.2. Từ đơn trong thơ của Văn Công Hùng
Văn Công Hùng và phong cách nghệ thuật thơ của Văn Công Hùng gây
hứng thú cho nhiều bạn đọc yêu thơ và các nhà nghiên cứu thơ. Tuy nhiên,
các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức độ tiếp cận mỹ học văn học về một
phương diện hay những cảm nhận chung về thế giới nghệ thuật thơ ông chỉ là
một mảng tư liệu chứ chưa thể cấu thành một hệ thống tiếp cận văn học –
Ngôn ngữ học mang tính chất tổng hợp những vấn đề của thi pháp thể loại và
các đặc trưng cấu thành phong cách nghệ thuật thơ của Văn Công Hùng. Do
vậy, việc tiếp cận từ góc độ từ vựng đối với thế giới và Phong cách nghệ thuật
thơ của Văn Công Hùng là thử thách thú vị. Khi khảo sát hệ thống ngôn từ
trong thơ của Văn Công Hùng, chúng tôi nhận thấy nhà thơ đã sử dụng một
42

lượng rất lớn hệ thống từ đơn để thể hiện và phác hoạ các ý tưởng thẩm mĩ và
hiện thực hoá cảm xúc của mình trước những vấn đề cụ thể của đời sống và
xã hội cũng như nghệ thuật.
Như chúng ta đã biết, từ đơn thường là những từ được cấu tạo bằng một
tiếng độc lập, ví dụ như: Nhà, xe, tập, viết, xanh, đỏ, vàng, tím,… Xét về mặt
lịch sử, hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có nguồn gốc
thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Hán,
tiếng Pháp, Anh, Nga,… Xét về mặt ý nghĩa, từ đơn biểu thị những khái niệm
cơ bản trong sinh hoạt của đời sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các
hiện tượng thiên nhiên, các quan hệ gia đình, xã hội, các số đếm,… Xét về
mặt số lượng, tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy lại là những từ cơ bản
nhất, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có liên
quan đến đời sống và cấu tạo từ mới cho tiếng Việt.
Căn cứ Bảng 2.1, chúng ta có số lượng từ đơn là 5589 chiếm tỉ lệ
70,9%. Sự phân bố số lượng từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng qua các
tập thơ cũng có sự không đồng đều.
Bảng 2.2. Số lượng từ đơn trong thơ của Văn Công Hùng
Stt Tên tập thơ Số bài Số lượt Tỉ lệ
khảo sát từ đơn
1 Bến đợi (1992) 10/20 290 5,2 %
2 Hát rong (1999) 24/44 582 10,4%
3 Đêm không màu (2009) 24/44 598 10,7%
4 Lục bát Văn Công Hùng (2010) 26/36 782 14 ,0%
5 Vòm trời khác (2012) 30/49 909 16,2%
6 Cầm nhau mà đi (2016) 33/53 1146 20,5 %
7 Trong cơn mơ có thực (2019) 47/67 1282 23,0 %
Tổng cộng 194/313 5589 100%
43

Qua Bảng 2.2, người đọc có thể nhận thấy việc sử dụng số lượng từ
đơn trong tập thơ có sự biến động không lớn lắm. Ngoại trừ tập thơ đầu
tiên Bến đợi (1992), số lượng từ đơn được sử dụng chỉ có 290 lượt trên
tổng số 10 bài được khảo sát. Theo chúng tôi đây cũng là một tỉ lệ tương
đối cao. Bình luận về đặc điểm chung của tập thơ này, nhà phê bình
Nguyễn Trọng Tạo nhấn mạnh:
“Gặp gỡ thường tạo nên những cảm hứng tức thì choáng ngợp. Biệt
ly lại bàng hoàng trước bao kỷ niệm thân quen. Cả hai trạng huống này
đều là cái nguyên thủy để khởi phát lên hồn thơ vẫn ẩn chứa ở mỗi
người. Hai trạng huống nên thơ ấy đều có ở Văn Công Hùng khi anh
biệt xa quê hương Thừa Thiên Huế để đến với núi non Tây Nguyên hùng
vĩ - quê hương mới của anh. Thật may mắn cho một người làm thơ mà có
cả hai quê có quê mới để thương có quê cũ để nhớ…” [Dẫn lại 29, tr.81]
Có lẽ nhờ tâm thức lãng mạn, nhẹ nhàng bay bổng trong lần đầu gặp của
một chàng thi sĩ vừa rời quê hương xứ Huế mộng mơ để đến với vùng đất đầy
nắng gió khiến cho giọng điệu trong Bến đợi luôn trầm mặc, lưu luyến. Đây
cũng là một ý tưởng quan trọng tác động đến việc sử dụng những từ đơn có
sắc thái âm tính để diễn tả một loạt những cảm xúc của “thi sĩ hát rong” đối
với vùng đất mới. Trong 10 bài thơ được khảo sát, chúng tôi luôn nhận thấy
những động từ đơn như nhớ, khóc, tiễn, đi, tan, đợi, tắt, tan, vương, vỡ, rời,
chết; danh từ đơn như chiều, đêm, bến; tính từ đơn như: tím, buồn, trắng,
xanh, phai,... Đặc biệt là từ chiều xuất hiện khá nhiều lần trong những bài thơ
được khảo sát của tập Bến đợi:
Ai hát trong chiều điệu lý mười thương
Phố núi chao bồng bềnh nốt nhạc...
Ai đã đi trong chiều Huế thướt tha
Sẽ thấy em đẹp hơn trong giữa chiều phố núi...
(Gặp Huế trên cao nguyên)
44

...có một người chiều nào cũng đi chiếc xe đạp ấy


phố phường vùn vụt trôi
áo đỏ áo xanh tóc thề lãng đãng...
(Quỹ thời gian)
Chiều luôn mang cảm thức buồn man mác, là khởi điểm của những nhớ
nhung, suy tư và trầm mặc. Văn Công Hùng dường như luôn mang một nỗi
nhớ quê, anh đang cư ngụ tại phố núi Pleiku nhưng luôn nhớ về những chiều
Huế trên các con đường rợp bóng cây, với những tà áo dài trắng, tím thơ
mộng. Không chỉ triết lý về “dĩ vãng”, tác giả đầy khắc khoải khi đặt giá trị
niềm tin trước đời sống. Làm thế nào để đủ niềm tin? Là câu hỏi trở đi trở lại,
ông loay hoay đi tìm lời giải. Bước vào bức tranh xã hội muôn màu trong thơ
ông, ta thấy cái tôi thế sự rát bỏng ước vọng, niềm tin nhưng nhiều nỗi boăn
khoăn muốn đi tìm lời đáp. Trong Thơ trong chiếu rượu, anh đã giãi bày:
Rượu sẽ hết và đời rồi cũng chết
nhưng tình thì mãi mãi không phai
cứ chếnh choáng cứ say vui lên bạn
câu thơ buồn thập thững nở trên môi...
Ở những tập thơ Hát rong, Đêm không màu, Lục bát Văn Công Hùng,
Vòm trời khác, Cầm nhau mà đi, tỉ lệ từ đơn cũng có sự tăng dần (xem bảng
2.2). Điều này cũng dễ lý giải. Một là các bài thơ được sáng tác từ sau năm
2009 đến 2016 có sự chuyển biến về thể tài, số lượng câu thơ trong một bài
thơ, số lượng từ trong một bài câu thơ cũng được gia tăng. Thể tài phong phú,
dung lượng bài thơ dài, có những câu thơ dài đến 14 từ chẳng hạn ở bài Trẻ
con Song Tủ Tây ( tập thơ Cầm nhau mà đi ):
Những đứa trẻ con ở Song Tử Tây
Coi tất cả chúng ta là bạn
Vô tư trò chuyện
Giảng cho khách về những điều không phải đứa trẻ con nào cũng biết...
45

Hoặc những bài thơ mà có số lượng từ đơn trong từng câu thơ từ 9, 10 từ trở lên
cũng khá nhiều trong các tập thơ, nhất là ở tập Vòm trời khác:
Sẽ đi về đâu hàng chục nghìn linh hồn vô tội
những cặp đang yêu nhau những đôi vợ chồng đang ngủ
những cuộc làm tình dang dở
những thiếu nữ tròn căng ánh sáng
những đứa bé lẫm chẫm tới trường
tất cả đang chung một chiếc cầu mỏng mảnh
thiên đường đấy ư?
(Vòm trời khác - Viết cho bóng tối)
Và cá biệt trong tập thơ Đêm không màu, chúng tôi bắt gặp những câu
thơ dài đến 35 âm tiết:
Bây giờ hoa gạo nhoi nhó chiều hoang
Bây giờ làn nước xanh soi lông mày em rửa nỗi nhớ luênh
loang cánh chim trời chấm chới
Bây giờ ăm ắp reo những hồ những đập những miên man
khát khao miên man ánh trăng miên man những đêm sâu
kín cả nhưng mỏng manh cả những điều tưởng như không tưởng
Bây giờ bông hoa Tơpang tím ngần buôn buốt non xa... "
(Đêm không màu – Ba mươi năm xiêu xiêu nỗi nhớ)
Qua hệ thống những từ đơn được Văn Công Hùng sử dụng trong thi
phẩm, chúng ta có thể nhận thấy, những điều nhỏ bé tầm thường nhất trong
cuộc sống cũng được ông viết thành thơ, khái quát thành một triết lý, qua đó
bày tỏ quan điểm của người cầm bút. Đó là trạng thái chông chênh, nhức nhối
của nhà thơ về niềm tin khi đứng trước các giá trị chuẩn mực bị “đổ ngã” hay
vẫn chưa được xác tín khi con người chưa thích ứng với đời sống cơ chế mới
của cuộc sống hiện đại.
Trong 07 tập thơ được khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng từ đơn
46

được sử dụng nhiều nhất là ở tập Trong cơn mơ có thực (2019), với số lượng
1282 lượt từ xuất hiện trong số 47 bài thơ được khảo sát. Tập thơ là những
trăn trở của tác giả trước những chuyến đi trải nghiệm về quê hương, phong
cảnh và những đổi mới của đất nước, những cảm xúc của chính thi sĩ qua
những cuộc gặp gỡ và hồi cố những kỉ niệm mà nhà thơ đã trải qua mà tất cả
chỉ còn lại trong kỉ niệm. Những từ đơn như Tôi, em, nhớ, buồn, say, nhìn,
đi, như, chiều, tưởng... là những từ mà có tỉ lệ lặp lại khá nhiều. Chẳng hạn
như từ “Tôi” – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất xuất hiện khá nhiều trong các
bài thơ của tập thơ này, 15/47 bài được khảo sát có xuất hiện từ “Tôi”, đặc
biệt là những bài thơ gắn liền với những địa danh cụ thể hoặc được sáng tác
khi anh đi xa nhà như: Bên sông, Không đề, Phía Bâng khuâng, Tôi thành lập
tôi, Đăk Nông lỗi hẹn, Sài Gòn một ngày... Trong Bên sông (sáng tác tại Biên
Hoà) anh viết:
bên sông tôi gặp một dòng sông nữa
tôi gặp tôi trong dáng uốn lục bình
bên sông tôi thử làm bước chân thuở ấy
những ngập ngừng đi ở nôn nao
...
bên sông tôi vọng cù lao Phố
cù lao giờ phố mới như tên...
bên sông tôi ngồi trong chớp mắt
ly cà phê tan đá tự thuở nào...
Trong những khoảnh khắc xa xứ, nhà thơ luôn tự đối diện với chính
mình nên trong những vần thơ tự vấn, chúng ta có thể nhận thấy Văn Công
Hùng đã dùng đại từ nhân xưng “tôi” như một cách tự đối thoại với chủ thể.
Số lượng từ đơn chiếm tỉ lệ 23% trong tổng số từ đơn thu thập được của 07
tập thơ cho thấy đây là một tập thơ có sự tiến triển vượt bậc trong hành trình
sáng tác của Văn Công Hùng. Về mặt lý thuyết, trong tiếng Việt, từ đơn luôn
47

chiếm một tỉ lệ lớn và tham gia khá mạnh mẽ trong việc diễn đạt các nội dung
cơ bản của tư duy và chuyển tải được nội dung cơ bản trong ý thức thẩm mĩ
của một nghệ sĩ. Tập thơ Trong cơn mơ có thực (2019) là một tập thơ tràn
đầy những câu hỏi tự vấn và luôn di chuyển giữa mơ và thực, giữa mộng mị
và hiện thực. Càng nghĩ về sự ưu tư của Văn Công Hùng, chúng tôi càng thấy
ông sao đa mang thế. Những âu lo đó là mối bận tâm thường trực, cái nết của
một đời người, khó mà sống cho khác được. Huống chi đó là những ưu tư
nặng nợ và hữu ích với đời. Tác giả viết về một bông hoa, một cơn mưa, một
mùa thu, một thành phố, một người thân quen,... tất cả đều mang dấu ấn của
sự nghĩ suy, chiêm nghiệm. Đọc thơ ông không dễ dàng gì nhưng đã đọc được
rồi thì thường thấy thấm thía. Trần Thị Vân Dung nói về điều này: “Thơ Văn
Công Hùng là hành trình chiêm nghiệm, triết lý có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện
một sự nhạy bén trong tầm nhìn...” [12, 69].
2.1.3. Từ ghép và từ láy trong thơ của Văn Công Hùng
Trong thực tế tìm hiểu đặc trưng từ vựng trong thơ hiện đại, chúng tôi
nhận thấy hệ thống từ phức có một vị trí đặc biệt quan trọng. Trong khả năng
hành chức của nó, hệ thống từ phức là một tổ hợp ngôn ngữ hết sức tinh vi. Ở
đó, nó không chỉ là "vỏ bọc" mà đích thực là kết tinh của trí tuệ và tâm hồn
người nghệ sĩ. Trong sáng tạo văn chương nói chung, nhà thơ có tài là những
người biết sử dụng và sử dụng thành thục hệ thống từ vựng của dân tộc để tạo
nên một cách nói riêng, một giọng điệu riêng không thể nhầm lẫn với ai. Chất
giọng riêng ấy chính là sự sáng tạo của thi nhân làm phong phú thêm kho tàng
ngôn ngữ của dân tộc. Vậy nên khi khảo sát phong cách ngôn ngữ của một
nhà thơ chính là khảo sát chất giọng riêng của họ, tìm ra qui luật riêng trong
việc sử dụng ngôn ngữ và sự đóng góp của họ trên phương diện từ vựng.
Thơ của Văn Công Hùng rõ ràng nặng về ý hơn là trau chuốt, chọn lọc
từ ngữ. Lê Đạt cho rằng “chữ bầu lên nhà thơ”, rằng nhà thơ là một “phu chữ”
suốt hành trình sáng tạo. Là nhà thơ có những nét mới, nét cách tân, nhưng về
48

cơ bản Văn Công Hùng vẫn là tác giả của những bài thơ mạnh về ý, tứ, thơ
của nội dung bên trong chứ không phải người miệt mài tìm cái mới của con
chữ. Song, chúng ta vẫn không thể phủ nhận sức mạnh ngôn từ đầy ám ảnh
trong thơ của Văn Công Hùng là một nét phong cách nổi bật. Sức mạnh đó
bắt nguồn từ phong cách ngôn ngữ thơ tự nhiên, chân thành, dung dị, đặc sắc
và đầy tính sáng tạo.
Khảo sát hệ thống từ ghép trong thơ của Văn Công Hùng, chúng tôi nhận
thấy nhà thơ đã sử dụng một số lượng khá lớn hệ thống này và phân bố tương
đối đồng đều nhau trong các tập thơ.
Bảng 2.3. Số lượng từ ghép trong thơ của Văn Công Hùng
Stt Tên tập thơ Số bài Số lượt Tỉ lệ
khảo sát từ ghép
1 Bến đợi (1992) 10/20 76 5,0 %
2 Hát rong (1999) 24/44 171 11,2 %
3 Đêm không màu (2009) 24/44 174 11,4 %
4 Lục bát Văn Công Hùng (2010) 26/36 189 12,4 %
5 Vòm trời khác (2012) 30/49 218 14,2 %
6 Cầm nhau mà đi (2016) 33/53 289 18,9 %
7 Trong cơn mơ có thực (2019) 47/67 411 26,9 %
Tổng cộng 194/313 1528 100%
Tìm hiểu đặc điểm sử dụng từ ngữ trong văn bản thơ của Văn Công
Hùng từ bình diện cấu tạo, người đọc vẫn luôn có cảm nhận rằng anh luôn có
một sự linh hoạt và ý thức rõ ràng đối với việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt,
đa dạng những nhóm từ khác nhau trong văn bản nghệ thuật của mình. Số
lượng từ ghép được nhà thơ sử dụng khá phong phú và có sự tăng dần trong
ngôn ngữ nghệ thuật của các tập thơ. Đặc biệt kể từ sau tập Vòm trời khác
(2012) trở đi, dường như nhà thơ đã có sự gia tăng sử dụng hệ thống từ ghép
để kiến tạo nên những ý tưởng thơ có tính phức hợp và đa dạng, kịp thời phản
ánh được những thay đổi trong đời sống xã hội cũng như đời sống nghệ thuật
49

và thế giới thẩm mĩ của cá nhân. Số lượng từ ghép được sử dụng trong tập
Bến đợi là 76/1528 từ, chiếm tỉ lệ 5,0%; tập Hát rong là 171/1528 từ, chiếm
tỉ lệ 11,2%; tập Đêm không màu là 174/1528 từ, chiếm tỉ lệ 11,4%; tập Lục
bát Văn Công Hùng là 189/1528 từ, chiếm tỉ lệ 12,4%, tập Vòm trời khác là
218/1528 từ, chiếm tỉ lệ 14,2%; tập Cầm nhau mà đi là 218/1528 từ, chiếm
18,9% và tập Trong mơ có thực là 411/1528 từ, chiếm tỉ lệ 26,9%.
Hệ thống từ láy trong văn bản thơ của Văn Công Hùng cũng có một sự
phong phú và đa dạng, tuy không nhiều về số lượng nhưng lại được nhà thơ
chọn lọc và vận dụng một cách sáng tạo, hấp dẫn.
Bảng 2.4. Số lượng từ láy trong thơ của Văn Công Hùng
Stt Tên tập thơ Số bài Số lượt Tỉ lệ
khảo sát từ láy
1 Bến đợi (1992) 10/20 26 3,7 %
2 Hát rong (1999) 24/44 36 5,1 %
3 Đêm không màu (2009) 24/44 46 6,5 %
4 Lục bát Văn Công Hùng (2010) 26/36 109 15,5 %
5 Vòm trời khác (2012) 30/49 124 17,6 %
6 Cầm nhau mà đi (2016) 33/53 142 20,2 %
7 Trong cơn mơ có thực (2019) 47/67 221 31,4 %
Tổng cộng 194/313 704 100%
Nhìn vào Bảng 2.3 & 2.4, chúng ta vẫn có cảm nhận rằng, về cơ bản từ
đơn trong văn bản thơ của Văn Công Hùng vẫn chiếm số lượng tuyệt đối.
Song, trong từng tập thơ sự đóng góp của các từ ghép, từ láy là vô cùng quan
trọng bởi đặc trưng cơ bản của nó là sự hợp nghĩa hoặc phân nghĩa để phản
ánh và bao quát cụ thể những ý tưởng thẩm mĩ trong thế giới nghệ thuật thơ
của Thi sĩ hát rong này.
Như đã nói, trong quan niệm của Văn Công Hùng, "cái đẹp là cái luôn
gắn với những giá trị tinh thần cao quý trong cuộc sống”. Giá trị tinh thần là
phạm trù ý thức hệ rộng lớn của cộng đồng người mang tính tích lũy và
50

truyền thống. Giá trị tinh thần là nội dung cơ bản của văn hóa, tạo nên các giá
trị văn hóa cũng như tầm vóc văn hóa cho cộng đồng. Ở đây, chúng ta hiểu
giá trị tinh thần ở mức độ đơn giản nhất là những gì tốt đẹp trong phẩm chất
cá nhân và cộng đồng. Giá trị tinh thần, trước hết được Văn Công Hùng thể
hiện ở cái nhìn về đất nước qua hai góc nhìn về chiến tranh và hòa bình. Là
người trải qua những thời khắc khốc liệt của chiến tranh, Văn Công Hùng suy
nghĩ và trân trọng vô cùng hai tiếng hòa bình:
Thời nhỏ tôi đã mũ rơm đến trường/
Đã nhiều lần hút chết/
Đã ngủ dưới hầm trốn trong hang, học dưới lòng đất/
Để các con tôi gặm nhấm hòa bình
(Cầm nhau mà đi - Tổ quốc của tôi)
Qua những từ ghép như Thời nhỏ, mũ rơm, lòng đất, gặm nhấm, hoà bình...
trong bài Tổ quốc của tôi, Văn Công Hùng đã phác hoạ lại những khó khăn của
chiến tranh để từ đó nêu bật lên giá trị của hoà bình. Với Văn Công Hùng, tình
cảm với đồng đội là tiếng lòng của một trái tim rưng rức nỗi tiếc thương:
Mộ bạn nằm xanh mãi cánh rừng ơi
Bóng chiều lặng trên tấm bia màu nắng
Tôi nâng trên tay một chùm hoa trắng
Ngược lối mòn viếng đồng đội của tôi
(Hát rong - Tháng ba)
Với những hình ảnh được tạo dựng nên qua những từ ghép như cánh
rừng, bóng chiều, màu nắng, hoa trắng, đồng đội... đã giúp người đọc suy
ngẫm về những con người, những cuộc đời đã khiến nhà thơ cứ mãi suy tư,
trăn trở. Tất cả những số phận, mỗi cuộc đời, mỗi con người được hiện lên
trong thơ ông giản dị và chân thật. Mỗi cuộc đời ấy là một minh chứng cho sự
thật tàn khốc của chiến tranh. Họ nhân danh cho con người đứng lên đòi
quyền được sống, được tự do và hòa bình. Nguồn cảm hứng trên được bắt
51

nguồn từ sự từng trải qua gian nan thử thách và sự trở về với quê hương, đồng
chí, đồng bào. Nỗi đau của họ nhắc nhở ông hiểu hơn về lẽ sống còn, trân
trọng hơn những niềm hạnh phúc đang có để rồi chọn lựa cách sống sao cho
xứng với những gì thế hệ trước đã hy sinh. Càng thiết tha yêu Tổ quốc bao
nhiêu, ông càng cố lý giải ý nghĩa của tự do bấy nhiêu. Văn Công Hùng đã
nhiều lần suy nghĩ về giá trị của hai chữ hòa bình:
đất nước tôi đã có hàng núi xương sông máu
đã có nhiều thế hệ lên đường
những người yêu Tổ quốc đến giọt máu cuối cùng
đau đớn tận cùng khi Tổ quốc lâm nguy
(Cầm nhau mà đi - Tổ quốc của tôi)
Thông qua hệ thống từ láy bộ phận như dằng dặc, mỏi mòn, vời vợi, im
lìm..., nhà thơ đã nêu bật những triết luận về nỗi đau mà những cuộc chiến phi
nghĩa để lại cho con người quê hương:
Mẹ đã chờ dằng dặc những đêm sâu
cha đã thức mỏi mòn trăng chếch tháng
lá trầu xanh quả cau vời vợi nắng/
sao cứ im lìm mãi mãi Trường Sơn
(Trong cơn mơ có thực - Nén hương này thắp lửa tìm nhau)
Hệ thống từ ghép chính phụ và đẳng lập được tác giả sử dụng để thể hiện
sự trăn trở về ý nghĩa của từ hòa bình và như vậy Văn Công Hùng càng trân
trọng những người đã hi sinh vì hai tiếng đó. Yêu quê hương, đất nước cũng là
một giá trị tinh thần được bồi đắp trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử dân
tộc. Tình yêu đất nước được Văn Công Hùng thể hiện giản dị trong thơ. Rời bỏ
Huế mộng Huế mơ, nhà thơ đến với Tây Nguyên và nơi đây trở thành quê
hương thứ hai của ông. Song ký ức về Huế vẫn vẹn nguyên trong tác giả, ông
gặp lại Huế thương ngay trên Cao Nguyên đất đỏ Bazan này:
Tóc em xanh trời Huế bốn mùa
52

Cao nguyên gió nón em nghiêng đón gió


Áo thì trắng mà bazan thì đỏ
Mắt học trò háo hức gặp dòng Hương
(Bến đợi - Gặp Huế trên cao nguyên)
Dường như ký ức về Huế luôn là nỗi ám ảnh thường trực trong thơ Văn
Công Hùng. Ông viết về Huế bằng cảm xúc nhớ quê đến nao lòng và vì thế ấn
tượng Huế bùng cháy xuyên suốt thơ ông:
Ta trở về nhặt những kỷ niệm xưa
đêm mười tám trong veo như áo trắng
em còn nhớ một mối tình câm lặng
thuở sông Hương chỉ lặng lẽ bồng bềnh...
(Trong cơn mơ có thực - Và ngày ấy sông Hương mười tám tuổi)
Hai từ láy lặng lẽ, bồng bềnh được đặt bên cạnh nhau đã giúp nhà thơ
thường hay cảm động trước sắc trời quê hương, yêu tha thiết vùng đất Bazan
cao nguyên đã dung dưỡng hồn thơ của ông, Trong bài Ba mươi năm xiêu
xiêu nỗi nhớ, tác giả đã viết:
Bây giờ hoa gạo nhoi nhó chiều hoang
Bây giờ làn nước xanh soi lông mày em rửa nỗi nhớ luênh
loang cánh chim trời chấp chới
Bây giờ ăm ắp reo những hồ những đập những miên man
khát khao miên man ánh trăng miên man những đêm sâu
kín cả nhưng mỏng manh cả những điều tưởng như
không tưởng
Bây giờ bông hoa Tơpang tím ngần buôn buốt non xa
(Đêm không màu – Ba mươi năm xiêu xiêu nỗi nhớ)
Để diễn tả được những bâng khuâng, xiêu xiêu trong nỗi nhớ của bản
thân, ở bài thơ này, số lượng từ láy được tác giả sử dụng với cường độ cao
trong một đoạn thơ khá đặc biệt (câu chữ khá dài và sáng tạo): nhoi nhói,
53

luênh loáng, chấp chới, ăm ắp, miên man, mỏng manh, buôn buốt... Tác giả
đã sử dụng những từ láy tạo hình như luênh loang, chấp chới... để gây ấn
tượng và có những sáng tạo từ láy đặc biệt như: luênh loang, buôn buốt... Có
thể nói yếu tố sáng tạo, đổi mới là một trong những yếu tố quyết định sự tồn
vong của nghệ thuật. Những nỗ lực cách tân, đổi mới nghệ thuật dùng từ ngữ
là đáng được ghi nhận ở nhà thơ phố núi này.
Hệ thống từ láy cũng được ông sử dụng để thể hiện các cung bậc của
tình yêu, tình thương khá phong phú. Những bài thơ tình của ông có phong vị
rất riêng. Có thể nói Văn Công Hùng yêu ngọt ngào, tình yêu của nhà thơ là
tình yêu dồn nén, tình yêu cảm nhận bằng mắt, bằng trí chứ không phải bằng
tai. Hơn thế nữa tình yêu trong thơ Văn Công Hùng chính là sự tri ân của tâm
hồn với tâm hồn. Trải qua nhiều khoảnh khắc buồn vui, sướng khổ trong đời,
tình yêu trong thơ ông lớn hơn thật nhiều và lòng biết ơn tình yêu, người yêu
cũng thật sâu sắc.
Xin nhặt những mong manh cột vào sợi tóc
Suốt mùa mưa hoang hoái đến run người
Thương tháng sáu em về như lá ướt
Nẻo thiên đường sấp ngửa chớp ran ran
Cũng còn kịp hai thiên thần vụt sáng
Con sông lững lờ thao thiết chở ngày đi
(Trong cơn mơ có thực - Ngày em về)
Những từ láy như mong manh, hoang hoải, ran ran, lững lờ, thao
thiết... được nhà thơ sử dụng một cách đắc địa trong bài thơ, khổ thơ để nhấn
mạnh tình yêu của anh đã trở thành sự sẻ chia, an ủi, động viên và anh đã trải
lòng ra để tặng riêng cho vợ và hai con gái của mình trong nỗi mừng vui của
ngày em về. Đoạn thơ trên chính là những mong ước, niềm tin khát vọng và
sự tri ân của ông với gia đình. Điều này chính là đôi cánh để nâng đỡ, xoa dịu
tác giả khi chống chếnh, hụt hẫng, tìm lại sự bình an. Nhờ hệ thống từ láy
54

giàu sắc thái mà Văn Công Hùng thuyết phục người đọc bằng lí lẽ, ngôn ngữ
riêng của ông để họ không cảm thấy chơi vơi trên đường đời.
Có thể nói, sự phối kết hợp giữa hai hệ thống từ ghép và từ láy trong
ngôn ngữ thơ của Văn Công Hùng đã góp phần thể hiện một cách khá đầy đủ
hệ thống các chủ đề cũng như quan niệm nghệ thuật, thẩm mĩ của nhà thơ
trong hành trình sáng tác. Nổi bật trong hệ thống từ ghép và từ láy này là sự
chọn lựa một cách khá đặc biệt để thể hiện một cái tôi trữ tình hòa đồng với
bạn thơ, đó là cái tôi am hiểu cuộc đời, am hiểu về thơ ca, trân trọng tình bạn
đáng quý của thi sĩ mang nặng tơ vương với cuộc đời.
2.1.4. Cụm từ cố định và những kết hợp độc đáo trong thơ của Văn Công Hùng
Các từ khi kết hợp với nhau thì tạo thành ngữ. Ngữ tự do (hay còn gọi là
cụm từ tự do) là một tổ hợp được cấu tạo mang tính chất lâm thời trong khi
nói. “Bản chất của loại ngữ này là nó được hình thành theo sáng tạo tự do
của từng cá nhân trong các hoàn cảnh giao tiếp nhất định” [Hữu đạt, tr.103].
Nói cách khác, ngữ tự do (cụm từ tự do) được tạo ra nhất thời trong lời nói do
nhu cầu của thực tế được phản ánh hoặc do nhu cầu chủ quan của người nói.
Ngược lại, “ngữ cố định là một tổ hợp từ được hình thành có tính lịch sử,
được củng cố trong ý thức cộng đồng với tư cách là loại đơn vị có sẵn trong
kho từ vựng của ngôn ngữ dân tộc” [tr.103]. Ngữ cố định còn được gọi là cụm
từ cố định. Nó tồn tại với tư cách là cụm từ sẵn có và có chức năng như từ với
thành phần từ vựng và ngữ nghĩa ổn định.
Hiện nay, việc nghiên cứu cụm từ cố định của tiếng Việt tuy chưa thật
sâu sắc và toàn diện nhưng đã có không ít kết quả công bố trong một số giáo
trình ngôn ngữ học được sử dụng để giảng dạy trong nhà trường đại học và tạp
chí chuyên ngành. Phân loại cụm từ cố định trong tiếng Việt, người ta thường
phân chia thành 02 loại cụ thể như sau: Thành ngữ và quán ngữ. Qua thực tế
tìm hiểu hệ thống từ vựng trong văn bản thơ của Văn Công Hùng, chúng tôi
nhận thấy, tác giả sử dụng khá ít hệ thống cụm từ cố định (56 đơn vị, chiếm tỉ
55

lệ 5,6%). Trong số 56 cụm từ cố định này thì số lượng thành ngữ chỉ có 06 đơn
vị và 50 đơn vị cố định là những kết hợp độc đáo của Văn Công Hùng.
Xét từ bình diện cấu tạo, bên cạnh hệ thống từ vựng mộc mạc, bình dị, ta
bắt gặp ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh để ngợi ca quê hương đất nước
trong văn bản thơ Văn Công Hùng. Đặc biệt, vai trò của lớp thành ngữ đậm
chất văn hoá. Chính chất liệu thành ngữ với những sáng tạo mới mẻ đã làm
cho vốn từ vựng tiếng Việt của Văn Công Hùng thêm phong phú và sâu sắc.
Có thể nói, đây là một sáng tạo khá thú vị trong thơ của anh. Chỉ có 06 thành
ngữ được sử dụng rải rác ở 07 tập thơ nhưng cũng đã tạo nên những dư ba ý
vị trong thế giới thơ của nhà thơ phố núi Pleiku đặc biệt này. 5/6 thành ngữ
được dẫn dụng trong văn bản thơ của Văn Công Hùng lại có nguồn gốc từ
phương ngữ Huế như: Nói cam quả (tức nói đúng sự thật), chồng xa vợ, mẹ
ngái con (Những người thương yêu phải xa nhau), tròn vành vạnh (rất tròn và
đẹp), trở nước da (thần sắc thay đổi), yêu chùng dấu trộm (yêu một cách vụng
trộm, đơn phương) và 01 thành ngữ có nguồn gốc văn hoá Tây Nguyên là
Đẹp như hoa Tơpang.
Một trong những lý do căn bản mà Văn Công Hùng đã vận dụng các
thành ngữ có nguồn gốc từ trong phương ngữ Bình Trị Thiên là vì anh là một
người con của xứ sở này. Tình yêu quê hương đất nước và nhớ quê hương đã
ăn sâu vào trong tiềm thức thẩm mĩ của anh. Chỉ một lần tình cờ gặp cô gái
Huế trên đất cao nguyên cũng làm anh xao xuyến, trong tập Bến đợi, anh đã
từng một lần như thế:
Tóc em xanh trời Huế bốn mùa
Cao nguyên gió nón em nghiêng đón gió
Áo thì trắng mà bazan thì đỏ
Mắt học trò háo hức gặp dòng Hương

Như con đò dời bến sang sông


56

Nói cam quả tháng ngày trên bục giảng


Em là người lái đò thầm lặng
Dòng sông cuộn những phong ba
(Gặp Huế trên cao nguyên)
Thành ngữ Nói cam quả được tác giả vận dụng trong tình huống này
như một lời nói chắc nịch để khẳng nhận tình cảm của anh đối với những cảm
xúc khi gặp người con gái Huế dịu dàng, một cô gái cũng xa xứ đến với cao
nguyên đầy nắng gió này để lập nghiệp, mưu sinh và gieo chữ. Dường như ký
ức về Huế luôn là nỗi ám ảnh thường trực trong thơ của Văn Công Hùng. Ông
viết về Huế bằng cảm xúc nhớ quê đến nao lòng và vì thế ấn tượng Huế bùng
cháy trong thơ ông:
Ta trở về nhặt những kỷ niệm xưa
đêm mười tám trong veo như áo trắng/
em còn nhớ một mối tình câm lặng
thuở sông Hương chỉ lặng lẽ bồng bềnh...

Nhớ thuở sông Hương trong biển lửa


chồng xa vợ, mẹ ngái con biền biệt
Ai đau thương ai vấn vương như thể
Về sông Hương để nhớ tuổi đôi mươi...
(Vòm trời khác - Và ngày ấy sông Hương)
Tác giả thương nhớ mẹ, đặc biệt khi “mẹ sẽ có một giấc mơ đẹp và
dài”, khi mẹ sắp “về với ba, ba đợi lâu rồi” thì mọi ký ức về mẹ hiện lên
trong tâm trí nhà thơ thật cảm động biết bao:
ta lớn lên thì mẹ bé lại
vòng vọng những buổi chiều tựa cửa chờ con
cả hai đứa con trai ngun ngút lớn
một thời cơm trắng thịt kho
57

Hôm mẹ trở nước da sắp về với ba có lẽ


Con bần thần nhớ từng bữa rau dưa
(Đêm không màu - Mẹ)
Vẫn chung một mạch nguồn cảm xúc ấy, nhà thơ lại khắc khoải một
nỗi niềm với ba – người mà anh luôn đau đáu một tình thương bởi những
hoàn cảnh cá nhân mà bản thân anh chưa thể báo đáp công ơn sinh thành một
cách trọn vẹn:
Nén hương thắc thỏm nhạt nhòa
con châm lửa thắp khỏi và cát bay
nửa đời ngang đọc lắt lay
chiều nay run rẩy cuối ngày đầu năm
sắp trở nước da và bàn tay xoắn nỗi lặng thầm
cuối đầu chớp một xa xăm kiếp người
(Hát rong - Trước mộ ba chiều ba mươi).
Qua thành ngữ “trở nước da”, một lối nói chỉ phổ biến trong phương
ngữ Bình Trị Thiên đã được nhà thơ dẫn dụng một cách hợp lí trong những
tình huống khá đặc biệt. Đó là lúc sinh ly tử biệt. Có thể việc sử dụng thành
ngữ không nhiều trong thơ của Văn Công Hùng. Nhưng những thành ngữ ông
dùng lại có một phạm vi sử dụng khá đặc biệt, gắn liền với phương ngữ quê
hương – nơi nhà thơ đã chôn nhau cắt rốn. Qua những thành ngữ ấy, hệ giá trị
tinh thần làm nên cái đẹp cho người và cho đời vốn đã rất đáng quý đã được
nhà thơ nâng cấp và chuyển dẫn vào trong từng ý thơ nhằm bộc bạch tình yêu
thương của mình. Khi được Văn Công Hùng đưa vào thơ với một chút suy tư,
triết lý cho chúng càng trở nên sâu sắc, giá trị hơn.
2.2. Từ vựng trong thơ củaVăn Công Hùng xét từ bình diện nguồn gốc
2.2.1. Từ thuần Việt trong thơ của Văn Công Hùng
Tiếng Việt có nguồn gốc rất cổ xưa và đã trải qua một quá trình phát triển
lâu dài, đầy sức sống. Sức sống đó biểu hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ và
58

sáng tạo của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh anh dũng vì tiền đồ của
đất nước, trong sự phấn đấu bền bỉ để xây dựng và phát triển một nền quốc
ngữ, quốc văn, quốc học Việt Nam. Ngôn ngữ dân tộc không bất biến mà luôn
vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn. Trong một giai đoạn lịch sử cụ thể
bao giờ cũng xảy ra hiện tượng giữ lại từ cũ, cấu tạo từ mới, vay mượn những
từ ngữ từ tiếng nước ngoài. Qua nhiều thời kì, việc xác định từ vay mượn và
từ thuần không phải là việc làm đơn giản.
Như chúng ta đã biết, từ thuần Việt ra đời là cơ sở nền tảng tạo chữ viết,
là cơ sở hình thành tiếng Việt, thể hiện những điều con người Việt muốn nói,
muốn truyền đạt thông qua ngôn ngữ tiếng Việt. Từ thuần Việt là cốt lõi, là
cái bản chất, cái gốc của từ vựng tiếng Việt. Lớp từ thuần Việt làm chỗ dựa
(nơi bắt đầu) và có vai trò điều khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ
khác. Từ thuần Việt còn mang đậm nét bản sắc văn hóa của con người Việt,
nó không chỉ đơn thuần là phương tiện để ghi chép lại từ ngữ, là phương tiện
để giao tiếp mà từ thuần Việt còn là tinh hoa văn hóa của người Việt trong
quá trình lịch sử tạo dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Từ thuần Việt thể
hiện tính cách, bản chất của con người Việt trải qua các giai đoạn thời gian
lịch sử khác nhau.
Trong văn bản thơ của Văn Công Hùng, hệ thống từ thuần Việt chiếm tỉ
lệ gần như tuyệt đối. Ngoài 293 từ Hán Việt, số lượng 7584 từ còn lại là từ
thuần Việt. Đây là cái gốc, cái bản chất của hệ thống từ vựng thơ của Văn
Công Hùng. Vì vậy từ thuần Việt được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng
ngày, trong giao tiếp và được sử dụng trong các trường hợp cụ thể sau: Chỉ
các sắc thái ý nghĩa cụ thể, mang các tính chất sinh động, gợi hình, ví dụ các
từ láy: lung linh, long lanh, khúc khích, leo teo, loắt thoắt, rì rào, rầm rầm,
kềnh càng, xanh xao... Mang sắc thái biểu cảm thân mật và trung hòa, khiêm
nhã, ví dụ: vợ, chồng, mắt mũi, chết, xơi,… Nhìn chung từ thuần Việt đa
phong cách, một số thích hợp với tất cả các phong cách, một số khác chỉ phù
59

hợp với phong cách sinh hoạt. Ví dụ: núi, sông, anh em… Có thể thấy từ
thuần Việt trong thơ của Văn Công Hùng do có sắc thái ý nghĩa cụ thể, có sắc
thái biểu cảm trung hoà nên thường đem đến cho ta những hình ảnh quen
thuộc, giản dị, sinh động, lắm sắc màu, mang hơi thở của hiện thực khách
quan nên rất thích hợp khi miêu tả những chi tiết cụ thể, sinh động.
Từ thuần Việt mang trong nó những sắc thái ý nghĩa cụ thể, những sắc
thái biểu cảm, đa phong cách giúp cho nhà thơ dễ dàng sử dụng sáng tác
những vần thơ mang phong cách cá nhân vô cùng đặc sắc, mang đậm bản sắc
nghệ thuật. Một số tác phẩm của ông để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc như
những bài thơ in đậm văn hoá Việt Nam: Bến đợi, Hoa tường vi trong mưa,
Hát rong, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím, Lời Vĩnh cửu, tập tản
văn và ký sự Mắt cao nguyên. Đúng như Hồ Thế Hà đã nhận định về ngôn
ngữ thuần Việt trong thơ của Văn Công Hùng:
“Có một Văn Công Hùng đầy lãng mạn trong những câu thơ đậm chất
Việt như cứa ra từ máu anh như gọt giũa từ nhiều những lớp từ ngữ thuần Việt.
Nó luôn thường trực ở đầu ngọn bút và cứ tuôn tràn với nhiều cung bậc. Lớp từ
ngữ thuần Việt đã giúp nhà thơ thể hiện một cách say sưa với tình yêu quê
hương với người một cảnh hai quê với hình ảnh thân thuộc... Tất cả xâu chuỗi
lại và hình thành nên một vòng cung số phận. Thơ và cuộc đời cũ khắc khoải
trong thơ anh như có cái gì đó anh muốn mà chưa bao giờ với tới như những
nỗi thất vọng mang vòng kim cô quản chặt vào nghiệp văn của anh. Đôi khi
tình cảm của anh cứ òa vỡ vào những khoảng lặng tâm hồn đầm sâu” [15].
Và rồi, ông nghiệm ra, thơ vẫn là những gì lắng lại sau tất cả, dù vinh
hoa phú quý hay những bức bối thường nhật của cuộc đời. Văn Công Hùng đi
đến triết luận nỗi buồn rồi sẽ qua, niềm vui rồi sẽ đến:
Thì ra cuộc đời
Không thôi xáo trộn
Những gặp niềm vui
60

Nỗi buồn lại tới


Và khi không đợi
Niềm vui lại về
(Bến đợi - Không đề)
Không lạm dụng từ Hán Việt, ở những câu thơ này, hệ thống từ thuần
Việt được vận dụng một cách khách quan, “đắc địa” để diễn đạt được những
cung bậc tình cảm cũng như những cảm nghiệm, suy ngẫm về những lẽ được
mất ở đời. Nhan đề bài thơ sử dụng từ Hán Việt nhưng từng câu thơ thì lại
dùng một cách hạn chế lớp từ Hán Việt. Đây có lẽ là một đặc điểm cũng đáng
quan tâm trong thế giới thơ của Văn Công Hùng. Trong bài Vô ngôn (in trong
tập Cầm nhau mà đi) nhà thơ cũng vận dụng một ý tượng đặc sắc như thế:
giá mà nói được đói
giá mà kêu được đau
giá mà cựa được nặng
con chuồn chuồn xệ cánh đám cỏ non mịt mù rối
tấm phơ hoa dâm bụt vòi vòi
mình kêu lên
mình kêu lên
mình kêu lên…
Đôi khi lớp từ thuần Việt đó chính là những từ ngữ trang trọng khi xây
dựng những con người dung dị trong cuộc sống thời bình, bắt tay vào xây
dựng lại quê hương:
Bàn tay chai trăm mối gỡ ngày ngày
Những khu vườn chằng chịt kẽm gai
Những đầu đạn còn lẫn trong đất, cỏ
Những lưng trần phơi trong nắng, gió
(Hát rong - Trăn trở đất hồi sinh)
Trong hệ thống từ thuần Việt, sự kết hợp với số từ không đếm được
61

“những” và liệt kê (đất, cỏ, nắng, gió…) nhằm khắc họa tinh thần hăng say,
vượt mọi khó khăn trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới trong hoàn cảnh
đất nước thanh bình. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ giàu hình ảnh, sắc màu. Hình
ảnh thơ bao giờ cũng là sự kết tinh của việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế, hình
ảnh thơ luôn có ý nghĩa trong việc tạo hiệu ứng nghệ thuật, góp phần khẳng
định sự hiện hữu của thơ. Văn Công Hùng đã lựa chọn ngôn ngữ giàu chất tạo
hình qua các hình ảnh quen thuộc: Biển, sóng, mây, cánh đồng, dòng sông,
cát trắng, dừa xanh… nhằm chuyển tải những tâm tư, tình cảm đối với đất và
người quê mình. Quê hương đất nước qua bốn mùa còn được Văn Công Hùng
tinh tế phát hiện và đưa vào thơ. Dải đất miền Trung và cao nguyên Pleiku
chủ yếu được khắc họa qua hai mùa mưa, nắng. Nhưng bằng sự mẫn cảm với
những chuyển biến tinh vi của đất trời và sự nhạy cảm với những giây phút
giao mùa, thi nhân đã kịp ghi lại vào thơ được thể hiện ngay trong nhan đề:
Mùa đi, Xuân về, Mùa phượng nở, Trăng thu, Sang đông…; Chia tay cuối
mùa, Mưa thu, Đêm đông nhớ mẹ, Trăng xuân…; Giao mùa, Lục bát cho mùa
hạ cũ, Thu, Mưa… Việc sử dụng linh hoạt hệ thống từ thuần Việt khiến cảnh
không còn là khách thể xa lạ mà đã có sự hòa hợp giữa cảnh và tình. Phải là
người con quê hương từng sống và gắn bó, quan sát và cảm nhận bằng nhiều
giác quan, họ mới phát hiện và cảm nhận tinh tế vẻ đẹp quê hương, đặc biệt là
lúc giao mùa. Qua đó, mỗi thi nhân còn gửi gắm những tâm tư, tình cảm,
những suy ngẫm và triết lý nhân sinh sâu sắc tăng cường tính triết luận vào
thơ đã tạo được nét riêng biệt làm nên phong cách thơ của Văn Công Hùng.
Nhà thơ cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người trong dòng chảy không
cùng của thời gian. Sự sống con người ngỡ ra là thoáng chênh vênh, mơ hồ.
Cũng từ đó, nhà thơ ngộ được giới hạn của đời người. Đọc thơ ông, là nghe
trong đó thời gian lưu chuyển có cả niềm tiếc nhớ cái đã qua:
cứ tưởng chỉ còn mười ba năm tro bụi
nụ hôn xưa
62

mãi mãi là dĩ vãng


trong ngọt ngào chua xót của cuộc đời
(Vòm trời khác - Dĩ vãng)
Không chỉ triết lý về “dĩ vãng”, tác giả đầy khắc khoải khi đặt giá trị
niềm tin trước đời sống. Làm thế nào để đủ niềm tin? Là câu hỏi trở đi trở lại,
ông loay hoay đi tìm lời giải. Nhờ lớp từ thuần Việt, người đọc có thể bước
vào bức tranh xã hội muôn màu trong thơ ông, ta thấy cái tôi thế sự rát bỏng
ước vọng, niềm tin nhưng nhiều nỗi boăn khoăn muốn đi tìm lời đáp:
Sẽ đi về đâu hàng chục nghìn linh hồn vô tội
những cặp đang yêu nhau những đôi vợ chồng đang ngủ
những cuộc làm tình dang dở
những thiếu nữ tròn căng ánh sáng
những đứa bé lẫm chẫm tới trường
tất cả đang chung một chiếc cầu mỏng mảnh
thiên đường đấy ư?
(Trong cơn mơ có thực - Viết cho bóng tối)
Đọc thơ Văn Công Hùng ta thấy, những điều nhỏ bé tầm thường nhất
trong cuộc sống cũng được ông viết thành thơ, khái quát thành một triết lý,
qua đó bày tỏ quan điểm của người cầm bút. Đó là trạng thái chông chênh,
nhức nhối của nhà thơ về niềm tin khi đứng trước các giá trị chuẩn mực bị
“đổ ngã” hay vẫn chưa được xác tín khi con người chưa thích ứng với đời
sống cơ chế mới của cuộc sống hiện đại. Trong hành trình nhận thức hướng
đến cuộc sống - con người bình dị mộc mạc, gần gũi, nhà thơ bộc lộ một tâm
thức nhiều trăn trở. Hệ thống từ thuần Việt sinh động, dung dị được Văn
Công Hùng sử dụng để bộc bạch những tự thú của bản thân trước cuộc đời.
Ông là người luôn để tâm hồn mình bị lay động. Nhưng hơn nữa nghệ sĩ còn
tự thôi thúc mình hãy đi tìm những rung động, nhất là trước những gì mong
manh, bé nhỏ, khó nhận biết trong đời.
63

2.2.2. Từ Hán Việt trong thơ của Văn Công Hùng


Về khái niệm từ Hán Việt, có nhiều nhà nghiên cứu nêu ra những công
trình ngôn ngữ học nói chung, hoặc những chuyên luận về Hán Nôm nói
riêng. Trên cơ sở những đặc điểm chung của các định nghĩa và cái nhìn tổng
quát về từ Hán Việt, có thể định nghĩa từ Hán Việt như sau: Từ Hán Việt là
những từ gốc Hán được nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, về cơ bản được
đọc theo âm Đường - Tống, nhưng chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm,
ngữ nghĩa và ngữ pháp tiếng Việt. Với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán
Việt ngày nay được ghi bằng ký tự La- tinh. Tiếp cận thơ của Văn Công Hùng
dưới góc độ từ vựng học, đặc biệt là qua sự khảo sát từ Hán Việt trong tác
phẩm, chúng tôi nhận thấy sức hấp dẫn lôi cuốn của lớp từ này được thể hiện
ở một số điểm chính sau:
Một là, để thể hiện khái quát những triết lý trong đời sống cũng như
trong nghệ thuật nói chung, nhà thơ đã sử dụng khá nhiều từ HánViệt. Theo
thống kê sơ bộ của chúng tôi thì trong số 194 bài thơ được khảo sát, tác giả đã
có khoảng 293 từ Hán Việt (kể cả danh từ riêng). Trong đó, có khoảng 110 từ
ghép, chiếm khoảng hơn 37,5% tổng số lượng từ Hán Việt. Đặt tỷ lệ từ Hán
Việt ở văn bản thơ Văn Công Hùng trong sự so sánh với một số nhà thơ khác
thuộc thế hệ trước như Nguyễn Bính, Huy Cận và cùng thời như Lệ Thu, Lê
Hoài Lương... chúng ta có thể thấy rõ từ Hán Việt trong thơ của Văn Công
Hùng chiếm tỷ lệ tương đối cao. Điều này cũng góp phần thể hiện xu hướng
triết lý hoá và khái quát hoá mạnh mẽ trong ngôn từ của các tác phẩm.
Để triết luận về vẻ đẹp của thiên chức nghệ sĩ, bên cạnh việc phát hiện
những nét đẹp có tính khách quan, Văn Công Hùng cũng thường nhận ra và
bàn luận về những thiên chức của người nghệ sĩ. Đó là những cái thuộc về
bản năng trời phú riêng cho giới làm nghệ thuật. Thông qua lớp từ Hán Việt
đặc sắc, nhà thơ luận về nó khá sắc sảo, lối cách diễn đạt bất ngờ, thú vị:
Thơ cho đời cho bạn cho tôi
64

có chút đắng khé lòng nổi trôi thân phận


có tí ti ngọt ngào nụ hôn tình ái
có vầng trăng bạc phếch ở trên đầu
(Bến đợi - Thơ trong chiếu rượu)
Trong đời nghệ sĩ, nỗi đau thân phận và trải nghiệm tình ái chính là
những ý tưởng quan trọng để nhà thơ có thể trải lòng và cung hiến cho đời
những vần thơ ngọt ngào, những suy tư trăn trở phù hợp với tâm lí của cộng
đồng. Những câu thơ có sử dụng lớp từ Hán Việt như thế, nếu liên kết lại sẽ
thấy được tâm thức thi ca của Văn Công Hùng “Đó phải chăng là sự vắt cạn
sinh lực trong từng niềm vui, nỗi buồn của nhân gian mới mong góp nhặt đem
về cho thơ những gì đồng nghĩa với lửa, với nỗi khắc khoải đê mê trong đau
đáu phận mình, phận đời? Và như thế thơ mới trở thành có ích” [28].
Bằng cái tôi chiêm nghiệm, chất vấn, Văn Công Hùng độc thoại trước
hết với chính mình và hướng đến được cùng giãi bày với người đọc qua
nhữnghình ảnh của cuộc sống. Bởi vậy, thơ ông đi vào lòng người nhẹ nhàng
mà sâu lắng. Nó như thuộc về bản năng của người nghệ sĩ có trái tim lớn,
chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc, nhà thơ phải phân thân thành nhiều
người để bộc lộ các sắc thái, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn của nhiều số phận:
có những lúc ta là ta xa lạ
ta như là phiên bản của ta thôi
ấy là lúc soi vào ảo ảnh
thấy ta là ai của ngày xưa...
(Có những lúc)
Bằng những từ Hán Việt có tính sáng tạo (tức là những từ Hán Việt được
du nhập qua con đường Nhật ngữ) như phiên bản và uyển ngữ ảo ảnh giàu sức
khái quát trong câu thơ rất gợi cảm. Người đọc dường như cảm giác được rằng
nhà thơ lặng lẽ đem bản thân mình ra làm đối tượng cho mình chiêm cảm, thổn
thức cùng nỗi đau của bản thân, nhặt nhạnh từng mảnh mình rơi vãi, từ đó ông
65

chất vấn cuộc đời. Ông không né tránh cái tôi thực của mình, tự tâm để nó bơi
giữa dòng nước ngược, thoải mái thốt lên những điều đang dày vò nó với những
cảm xúc lạ hay là những cảm xúc dồn nén, kìm kẹp trái tim nhà thơ. Cá biệt có
những đoạn thơ mà tỉ lệ từ Hán Việt gần như chiếm tuyệt đối:
Những giáo luật siêu hình
Biến tội đồ thành Thánh nhân
Những thánh nhân vọng ước
Hồi sinh từ khăn trải giường
(Vòm trời khác – Nâu)
Nâu là một ám ảnh hiện sinh trong tập Vòm trời khác, Văn Công Hùng
đã phát huy một cách tối đa những giá trị thẩm mĩ và khả năng khái quát của
từ đơn và ghép Hán Việt để có thể bộc bạch những nghiệm sinh và đánh giá
của cá nhân trước những thay đổi quá nhanh trong cơn lốc kỹ thuật số của thế
kỉ XXI. Đây cũng là một trong những điểm nhấn về nghệ thuật dùng từ Hán
Việt trong thơ của Văn Công Hùng.
Hai là, với số lượng khoảng 293 từ Hán Việt được Văn Công Hùng sử
dụng có đến hơn 90% là những từ quen thuộc và dễ hiểu. Hệ thống từ này tuy
là gốc Hán nhưng lại rất quen với cảm thức ngôn ngữ của người Việt hiện đại,
thí dụ như:
... Ám ảnh những con giun héo quắt
(Vòm Trời khác - Những buổi chiều không về)
Con người nhốt mình trong từng cơn tự kỷ
(Vòm trời khác - Nâu)

Có những ngã ba bập bùng ký ức


(Cầm nhau mà đi - Đêm Việt Trì)
Đặc biệt từ ám ảnh đã xuất hiện trong 21 bài thơ và rải đều trong 07
tập. Điều đó cũng phần nào thể hiện những trăn trở về cuộc nhân sinh và
66

những vấn đề do cuộc sống hiện đại đặt ra trong tâm thức của nhà thơ. Trong
số những từ chúng tôi đã thống kê được trong văn bản thơ của Văn Công
Hùng chỉ có một số ít từ là tương đối lạ với cảm thức ngôn ngữ của người
Việt mà thôi như: đương nam (đang thời trai tráng), hiện nhiên (hiện ra một
cách thản nhiên), nguyên hạ (cao nguyên vào mùa hạ),…
Giọt nước mắt chiều cuối năm chợt hiếm
Cơn mê dài ngây dại đương nam.
(Cầm nhau mà đi – Liên tưởng ngày ba mươi)
Khuất sau đời nhau cái nhìn tiếc nuối
Sông cạn dần viên sỏi trắng hiện nhiên.
(Cầm nhau mà đi – Chiều Xuyến chi)
Bay qua bao cõi vô hình
Về miền nguyên hạ gặp thình lình mưa
(Lục bát Văn Công Hùng – Về miền nguyên hạ)
Ba là, hệ thống từ Hán Việt được dùng trong thơ của Văn Công Hùng
là bất đắc dĩ hay nói cách khác là không thể không dùng vì lý do nghệ thuật.
Tháng tư về thoảng một nốt nhạc trầm
Gõ vào cánh cửa thời gian mơ hồ
Ô hay mà đã sang hè
Tháng tư lấp một cõi về miên man
(Lục bát Văn côngHùng – Tháng tư về)
Ta ngồi lên đá mà mềm
Bên sương mà nhớ bên đêm mà buồn
Ta ngồi đong những hoàng hôn
Vay trời một khắc trôi muôn phận chiều.
(Lục bát Văn Công Hùng – Một ngơ ngác người)
Ta dễ dàng nhận thấy rằng trong những câu thơ trên nếu thay từ Hán
Việt bằng những từ thuần Việt thì rõ ràng hình tượng ngôn từ các bài thơ sẽ
67

mất hết ý nghĩa nghệ thuật thâm thúy của nó.


Từ Hán Việt với sức khái quát cao đã giúp Văn Công Hùng triển khai ý
đồ nghệ thuật theo thủ pháp mỹ học hiện đại, thể hiện ngôn ngữ thơ một cách
hàm súc, tượng trưng hóa trong bút pháp miêu tả,… Từ Hán Việt trong thơ
của văn Công Hùng trong nghệ thuật tả cảnh, tả tình và sắc thái trang nhã của
ngữ cảnh được miêu tả. Dù chưa mang vẻ trác tuyệt như ngôn ngữ Hán Việt
của những thi sĩ ảnh hưởng của Đường Thi đậm nét thời Thơ mới như Vũ
Hoàng Chương, Huy Cận, Quách Tấn... nhưng những giá trị của lớp từ Hán
Việt và cách sử dụng từ Hán Việt của Văn Công Hùng trong 07 tập thơ là
điều đặc sắc không thể phủ nhận được.
2.3. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện ngữ nghĩa
và phạm vi sử dụng
2.3.1. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện ngữ nghĩa
Trên cơ sở các thành tựu về trường nghĩa, sự chuyển nghĩa, các phương
thức chuyển nghĩa, nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu cũng đề xuất nguyên tắc
phân tích từ ngữ trong tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ thơ mà thực chất là phân
tích tác phẩm xuất phát từ việc xem xét các từ vựng theo các trường nghĩa mà
nó phụ thuộc vào. Ông chú ý đến việc từ được dùng theo nghĩa chính hay
nghĩa chuyển. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc lại một số nội dung cơ bản trong
công trình nghiên cứu của ông: Đối tượng của phân tích từ ngữ trong tác
phẩm văn chương bao gồm cả từ, ngữ cố định, cụm từ tự do…Thông thường
đây là những ẩn dụ hay hoán dụ có hình thức diễn đạt trên từ. Việc phân tích
từ ngữ phải đạt 2 yêu cầu: yêu cầu phát hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả
gửi gắm trong từ và yêu cầu phát hiện ra các giá trị nghệ thuật của nó. Hai yêu
cầu này tuy khác nhau nhưng lại hòa quyện vào nhau.
Từ vựng trong thơ thường có tính nhiều nghĩa. Phân tích từ ngữ là phải phát
hiện cho được những nghĩa khác nhau chứa đựng trong từ ngữ, từ nghĩa cụ thể,
trực tiếp đến nghĩa trừu tượng, gián tiếp. Từ ngữ trong tác phẩm thường nằm
68

trong các trường hợp ngữ nghĩa sau: “Từ ngữ được dùng trong nghĩa chính hay
nghĩa phụ và chỉ dùng trong nghĩa đó; Từ ngữ được dùng trong nghĩa tu từ và
chỉ dùng trong nghĩa tu từ; Từ ngữ vừa được dùng trong nghĩa chính, vừa được
dùng trong nghĩa bóng hay nghĩa tu từ” [Dẫn lại 4, tr.66].
Trong thơ của Văn Công Hùng, những phương thức chuyển nghĩa như
ẩn dụ, hoán dụ, tương phản xuất hiện khá nhiều. Dựa trên những hiểu biết về
trường nghĩa như đã trình bày ở trên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, thống
kê và phân loại các trường nghĩa trong 194 bài thơ của 07 tập thơ. Qua khảo
sát, chúng tôi nhận thấy trong tác phẩm có những loại trường nghĩa chính
như sau:
Bảng 2.5. Trường nghĩa từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng

Số lượng Tần số xuất


Tỉ lệ
Stt Trường nghĩa lượt từ hiện

1 Sự vật 672 1660 24,7%


2 Hoạt động – trạng thái 423 2057 30,6%
3 Đặc điểm – tính chất 882 3012 44,7%
Tổng cộng 1977 6729 100%

Kết quả khảo sát cho thấy các từ ngữ trong 07 tập thơ của nhà thơ Văn
Công Hùng về cơ bản thuộc ba trường nghĩa khác nhau là: Trường nghĩa sự
vật, trường nghĩa hoạt động - trạng thái, trường nghĩa đặc điểm - tính chất.
Giữa ba trường nghĩa này có sự khác biệt về số lượng và tần số xuất hiện.
Chiếm số lượng nhiều nhất và có tần số xuất hiện nhiều nhất là trường nghĩa
chỉ hoạt động đặc điểm - tính chất (882 từ, 3012 lần xuất hiện, chiếm tỉ lệ
44,7%). Điều đó cho thấy rất nhiều hoạt động khác nhau được nhắc đến trong
tác phẩm cùng vốn từ phong phú, khả năng quan sát, miêu tả tinh tế tác giả
trong quá trình thể hiện ý thức thẩm mĩ của cá nhân. Có số lượng đứng thứ
hai nhưng có tần số xuất hiện thấp nhất là trường nghĩa chỉ sự vật (672 từ,
69

1660 lần xuất hiện, chiếm tỉ lệ 24,7%). Kết quả này cũng cho thấy sự sinh
động, đa dạng trong việc thể hiện các phương diện về con người, thiên nhiên
và khẳng định những ý tưởng thẩm mĩ, cũng như hệ thống chủ đề mà nhà thơ đã
cố gắng thể hiện và thế giới nội tâm phong phú của chủ thể trữ tình trong các các
tập thơ. Những từ ngữ chỉ hoạt động trạng thái là 423 với 2057 lần xuất hiện,
chiếm tỷ lệ 30,6% giúp diễn tả các trạng thái, tính chất khác nhau, muôn hình
muôn vẻ của thế giới tự nhiên và con người trong giai đoạn hoà bình và khi
đất nước có chiến tranh. Đây là trường nghĩa có tần số tương đối trung tính.
Điều đó cho thấy Văn Công Hùng không sử dụng lặp lại một hay nhiều sự
vật. Ông luôn tìm thấy những đặc điểm mới mẻ trong cùng một sự vật ấy và
diễn đạt nó bằng hệ thống từ vựng khá phong phú, sinh động. Đó là kết quả
của tài năng quan sát, miêu tả và tâm hồn tinh tế của nhà văn.
Khảo sát cụ thể trong các tập thơ, chúng tôi đã nhận thấy trường nghĩa
chỉ hoạt động và trạng thái, sự trội bật của hệ thống từ vựng liên quan đến gió
trong thơ của Văn Công Hùng xuất hiện khá nhiều. Không chỉ đem vào trong
thơ hình ảnh của trăng, của sao, của cỏ cây hoa lá, mà trong thơ của Văn
Công Hùng cũng xuất hiện những biểu tượng có sức khái quát khá cao, giàu
sức lôi cuốn. Đó là biểu tượng gió. Ông từng ví thơ độc đáo có như gió mơn
man da thịt, không thể nhìn thấy, cũng chẳng thể buộc gió lại mà chỉ có thể
cảm nhận được cơn gió vụt qua. Hình ảnh gió trong thơ ông cũng có cái gì đó
như nồng nàn, như muốn tỏ tình với mây trời, trăng sao, như muốn tỏ tình với
cuộc đời cỏ cây hoa lá:
Bỗng như cơn gió lang thang ấy
em ập vào tối trận bão lòng
chiều nghiêng ngả vỡ tan tành nắng
tối thành hạt cát giữa mênh mang
(Bến đợi - Em đến)
Cách diễn giải của nhà thơ mang tính lạ hoá, cụm từ “cơn gió lang thang”
70

gợi cái mênh mang, dàn trải đáng yêu. Vì hồn vẫn say mà thơ nồng hơi tình,
nồng hơi đời, vì hồn vẫn gió nên thơ cứ bay mãi, bay mãi trong cõi nhân gian...
Gió cũng là một hình tượng thiên nhiên được nhà thơ xây đắp bằng hồn, bằng
tình. Gió vô hình, vô thức, suốt đời bay không ai nắm bắt được mà Văn Công
Hùng lại nhìn thấy được, cảm nhận được rồi thầm thì những điều sâu kín. Nếu
như hoa lá cỏ cây là một thiên nhiên có thực thể, có hình hài, màu sắc, sự sống
và cái chết thì gió là gì? Văn Công Hùng không trả lời về gió theo cách diễn giải
của vật lý. Có lẽ, với anh, hình tượng gió vô hình mà trở nên hữu ý:
gió cứ thổi bờ sông mờ mịt cát
thiêm thiệp mùa lơ lửng trái xoan non...
(Vòm trời khác - Giấc mơ mùa đông)
Ông cho gió đôi chân, cho gió cánh tay để gió chạy, gió ôm ấp con
người,cho gió hơi thở. Gió vào thơ mang theo linh hồn vào thơ với bao đồng
cảm, chia sẻ con người trong cuộc sống, trong tình yêu:
mùa xuân dã quỳ và gió
ngơ ngẩn cả chiều cao nguyên
em mặc áo vàng nắng phố
là mềm mươn mướt mắt em
(Cầm nhau mà đi - Mùa xuân dã quỳ và gió)
Có khi gió mang nỗi nhớ tha thiết, đem theo hoài niệm về một tình yêu
đã qua. Nhà thơ cho gió hình hài, giọng nói riêng mà chỉ riêng Văn Công
Hùng mới tỏ tường, am hiểu. Cũng có khi gió là một khách thể vô tình, một
yếu tố khách quan chứng kiến cuộc sống của con người, không hề thay đổi
bản chất của nó. Gió trong tâm thức của Văn Công Hùng cũng là một niềm
vui bởi đơn giản nó vuốt ve cho thơ, cho thơ những cảm hứng mới. Gió trong
thơ ông rất lạ, rất mới, khi lạnh lùng, khi dữ dội, khi dịu dàng, khi lại như một
người bạn đồng hành:
ngày mai ngọn cỏ có mềm
71

con sông còn chảy nỗi niềm vẫn tươi


gió mùa thổi suốt cuộc chơi
đứt giêng hai giữa bời lá khô
cõi người trộn cõi bơ vơ
dắt nhau vào một mơ hồ trong veo
(Trong cơn mơ có thực - Và rồi mây gió với tư)
Tất cả trạng thái này của gió suy cho cùng chính là tâm hồn của nhà thơ
đang khát khao giao hòa với cảnh, với người. Xây dựng biểu tượng gió, ông
đã thi vị hoá không gian vũ trụ, khiến cho nó trở nên gần gũi và hòa nhập một
cách lạ thường.
Xét trong trường nghĩa chỉ đặc điểm – tính chất, chúng tôi nhận thấy
trường nghĩa liên quan đến mùa thu thể hiện khá trội bật trong sáng tác của
ông. Mùa thu là biểu tượng của những cảm xúc thanh cao, nhưng đặc biệt
trong thơ Văn Công Hùng, mùa thu còn là biểu tượng của những nỗi lòng khó
diễn tả, bộc lộ. Có lẽ, đó là tâm trạng sợ những gì trong trẻo như mùa thu sẽ
mau chóng phai tàn. Đây chính là tâm trạng điển hình của một con người đa
cảm, giàu trắc ẩn, thích suy tư:
Tôi với em với sông Hương
với bông lựu đỏ với vấn vương chiều
với nhành cỏ tím phiêu diêu
với mây thành nội với điều vu vơ
với mùa phượng cháy tình cờ
mùa thu như thể nắng vừa trôi qua...
(Hát rong – Mùa thu như thể nắng vừa trôi qua)
Với mùa thu, tác giả luôn trông đợi và chào đón hân hoan. Mùa thu
luôn mang đến cho nhà thơ những điều bình yên và dịu nhẹ nhất. Nhưng kèm
theo đó luôn là những lo âu, những ngập ngừng khó hiểu: Về phía anh một
vầng trăng lẻ/ Mùa thu tít tắp chân trời/ Em mang sương ướp vào hương cốm/
72

Hoa sữa nôn nao suốt dọc đường về (Ngày không bình yên nữa).
Mùa thu đã thực sự vực dậy trong tiềm thức của nhà thơ những kỷ niệm
êm đềm của một thời tuổi trẻ. Một chiếc lá rơi, những khung cửa sổ chiều. Tất
cả đi vào thơ Văn Công Hùng như một ám ảnh đối với tác giả:
ngày ấy mùa thu ta ngỡ đã xa vời
lá bàng tím sân trường rêu cổ tích
nhặt chuỗi cười trong veo tinh nghịch
ta ép thành thương nhớ gửi mùa sau
(Vòm trời khác - Mùa thu gửi lên)
Có lẽ cảm xúc giao mùa ùa về trong mỗi người đậm nét nhất vẫn là lúc
chớm mùa. Mùa thu với hơi may lạnh như đem về vẻ trầm tư cho không gian
và lòng người. Trong mỗi người, ai cũng có những cảm thức về thời gian.
Càng nhiều tuổi người ta càng hay nghĩ về sự trôi chảy của thời gian, tuổi đời
ngày càng nhiều thêm, mà những gì đã qua thì sẽ không bao giờ trở lại.
Trường nghĩa chỉ sự vật cũng được Văn Công Hùng sử dụng rất linh
hoạt, qua hình ảnh cỏ và hoa – được sử dụng như một biểu tượng của tình yêu
trong các tập thơ chúng ta có thể nhận thấy rõ điều ấy. Đi vào nghiên cứu thơ
Văn Công Hùng, ta thấy hình ảnh cỏ cây, hoa lá thiên nhiên được ông lặp đi,
lặp lại khá nhiều trong các câu thơ, các bài thơ, trở thành một biểu tượng đặc
sắc trong thơ ông. Cỏ là biểu tượng xuất hiện nhiều nhất trong thơ ông với tần
số khá dày (gần 40 lần). Nhiều bài thơ của ông có hình ảnh ngọn cỏ xanh non
mơn mởn, tràn trề sức sống, thanh khiết và dịu nhẹ:
cỏ mềm như đất ru ngủ ban trưa
em gánh mùa về rơm vàng như nắng
nón trắng ngập ngừng triền đê tóc rối
có một ánh mắt cánh buồm xa xăm
(Hát rong - Hồi ức rơm rạ)
Cỏ dân dã, xuề xòa với ông là vậy, nhưng khi trở thành thước đo giá trị
73

sống của đời người thì nó chợt thăng hoa bởi sự thiêng liêng: ngày xưa cỏ
xanh như nước mắt/ tận bây giờ cỏ vẫn đương xanh (không đề). Có lúc cỏ lại
giống một tình nhân mang vẻ đẹp trẻ trung, thanh thoát, bình dị. Hay là một
lời tâm sự cô đơn, trống trải:
Có một ngày cỏ hoa chờ đợi
em thiên thu thành quách rực nan vàng
sâm sẩm gió phương trời lơ lửng nắng
nốt nhạc nào âm ỉ thinh không
(Cầm nhau mà đi - Rồi có thể)
Cỏ xanh, cỏ mượt, cỏ non, cỏ biếc, cỏ may... miên man trong thơ của
Văn Công Hùng. Phải chăng ngọn cỏ ấy là mầm sống, là sức sống là khao
khát của một cõi lòng luôn hướng về tình yêu sự sống trong thơ ông: Vẫn là
cỏ/ chỉ ngàn đời là cỏ/ bước chân nào ướm thử ngày xưa/ nụ hôn đầu đời đã
trở thành cổ tích nghe mang mang một chút vị buồn (Hoài niệm).
Bên cạnh biểu tượng ngọn cỏ xanh thì những loài hoa đủ muôn màu sắc
mang vẻ đẹp rực rỡ cũng được nhà thơ xây dựng thành biểu tượng xuất hiện
khá nhiều trong thơ. Hoa tường vi, hoa đào, hoa bưởi, hoa mai, hoa hồng... cả
thế giới hoa cứ thế xuất hiện trong thơ ông: Nhấp nhô thung lũng sương mù/
hoa tường vi dẫn phố về lối mưa/ người thì đã của ngày xưa/ cơn mưa lỗi hẹn
như vừa hôm qua (Ta về Đà Lạt).
Thơ ông không chỉ có những loài hoa kiêu sa, thanh cao như: đào, mai,
lan, cúc… mà còn xuất hiện những bông hoa thơm ngát một miền nhớ về
cuộc sống mộc mạc dân giã nơi thôn quê. Đó là những loài hoa gắn với bao
câu chuyện tình yêu của đôi trai - gái ngày xưa, những kỷ niệm của tuổi thơ:
Những hàng xoan đã tím tự thuở nào/ hoa ngâu trắng đến không còn sắc
trắng/ cỏ gà xước triền đê thuở ấy/ bỗng bắt đầu nhơ nhớ một người dưng
(Ký ức của mùa thu).
Trong những hình tượng này, cỏ - hoa chính là hình tượng nhân hóa
74

đặc biệt mà tác giả gửi vào đó bao tâm sự tha thiết về tình yêu. Cỏ mỏng
manh, yếu mềm, hoa kiêu sa, quyến rũ hơn trong thơ của Văn Công Hùng là
có lý do riêng của nó. Hoa chính là tình yêu, cỏ là nhân chứng của tình yêu.
Cỏ - hoa cũng như là nhân chứng cho nỗi buồn trong tình yêu: Em trả nỗi
buồn lại cho tôi/ xiêm áo mỏng tang lượn lờ giữa cỏ/ tìm đâu vết hài chấp
chới hoa đồng nội (Đoản khúc buồn).
Văn Công Hùng mượn các biểu tượng cỏ - hoa để diễn tả những cảm
xúc dào dạt của tâm hồn, niềm vui gắn với nỗi buồn, nỗi khát khao gắn với
niềm đam mê. Sự hòa nhập vào tận cùng cuộc sống tươi mới cũng được ông
gởi vào những hình ảnh ấy. Điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật thơ của
Văn Công Hùng khi sử dụng các biểu tượng này là ở chỗ: hoa - cỏ thường gắn
liền nhau tạo thành hệ thống trong thế giới hình tượng.
Mối liên kết giữa hoa - cỏ gợi ra bức tranh ngập tràn sức sống, đó là sự
quyện hoà giữa thiên nhiên và con người trong một hồn thơ bay bổng, dào dạt
tình tứ. Nó thực sự đã thành biểu tượng của sức sống, cho tình yêu và cho
khát vọng. Có khi, nó biểu tượng cho những cảm xúc của tình yêu, của anh và
em. Đó là những vui buồn, nhớ mong, sự bâng khuâng, xuyến xao khi xa cách
hay gần gũi: Hoa cỏ cùng nghiêng bên song thưa/ gió mưa đã lặng tự bao
giờ/ Xuân Hương mờ ảo vừa như nắng/ em hình như đến lại như chưa?(Em
hình như đến lại như chưa).
Hệ thống từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện ngữ
nghĩa được nhà thơ sử dụng rất linh hoạt, muôn hình muôn vẻ, ở đâu cũng
hiện lên vẻ đẹp và nét mộc mạc của cuộc sống. Hoa – cỏ là biểu tượng của
cuộc sống tươi đẹp, cái đằm thắm nồng nàn của tình yêu, sự khắc khoải về cái
đẹp, thời gian. Điều đó biểu hiện sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật
Văn Công Hùng là một hồn thơ hướng về phía cuộc đời.
2.3.2. Từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng xét từ bình diện phạm vi sử dụng
Phong cách ngôn ngữ trong văn bản thơ của Văn Công Hùng có những
75

đổi mới cả về ý lẫn lời. Văn Công Hùng đã làm được điều mà Hồ Thế Hà từng
nhấn mạnh: Văn Công Hùng “tiết kiệm ngôn từ tối đa đến chừng nào đã chấp
nhận được, khi ấy, nghĩa hàm ngôn, nghĩa khái niệm sẽ hiện lên một cách
thâm thúy và đa dạng, tùy vốn văn hoá nghệ thuật, tùy trạng thái, thị hiếu của
người tiếp nhận” [25, 24].
Bên cạnh sự mộc mạc chân chất, lớp từ ngữ trong thơ của Văn Công
Hùng còn có sự thâm trầm, triết lí và khả năng bao quát. Có người cho rằng,
Văn Công Hùng đã làm xiếc trên khuôn nhạc từ vựng với sự đúc rút, đặt để và
phối kết hợp giữa các từ ngữ trong quá trình sáng tạo. Hệ thống từ vựng đã
góp phần kiến tạo nên chất dung dị, đời thường, giản dị và "hiền” trong ngôn
ngữ thơ Văn Công Hùng. Đơn giản vì chúng tôi cho rằng con người nhà thơ
cũng không khác với cách thể hiện con người trong thơ ông là mấy. Tuy là
người từng trải, đã từng là kẻ lưu lạc song ông không hề cầu kỳ mà “ngôn
ngữ” bằng trái tim và cảm nhận của một con người đời thường. Ông luôn cố
gắng giữ nguyên hay bão hòa cảm xúc trong ngôn ngữ thơ của mình:
người chỉ đi qua thôi
có gì mà pháp phẳng đến thế
cơn giông cơn giông
sóng điện thoại chập chờn đứt nối/ có ai cần đâu
(Hát rong - Vô tận)
Các nét nghĩa có sức khái quát, chúng tôi nhận thấy Văn Công Hùng đã
phát huy một cách khéo léo vào thơ cả tình cảm, hiểu biết, khả năng của các
giác quan khiến thơ là tiếng nói của đời sống, biểu đạt những suy nghĩ tự
nhiên của con người. Ngôn ngữ trong thơ ông là ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ
của tiếng nói chân thực hàng ngày:
những con hẻm tết nghèo chưa kịp tới
cơn lạnh run người sấp ngửa bàn tay
hoa bán ế vỉa hè cong thảng thốt
76

sáng mai rồi mùng một có ai mong


(Vòm trời khác - sáng mai rồi mùng một)
Có lúc nhà thơ như thủ thỉ:
Thôi đi em/
bông hoa đã rụng cánh rồi/
tìm chi ngày xưa nữa còn đâu thơ ngây/
còn đâu dang dở/ còn đâu giấc mơ/ để một đời hoài vọng
(Vòm trời khác - Thôi. Em đi lấy chồng)
Về phạm vi sử dụng, bên ngoài những từ ngữ quen thuộc trong hệ
thống những từ ngữ bình dị, dễ hiểu, thơ của Văn Công Hùng cũng thường
xuất hiện những từ ngữ có tính khái quát cao nhờ hình thức ghép từ. Chúng ta
dễ dàng bắt gặp những từ kiểu như : miền chờ đợi, mặt trời miền cổ tích,
những buổi chiều ngút ngụt mắt, gió tung tăng màu, tháng năm thở dài, nỗi
buồn khắc khoải, miền cổ xưa, em đến như định mệnh, sương mù như nước
mắt... Biên độ về nghĩa của từ được nới rộng đến mức có thể. Thơ ông còn có
những cụm từ đối lập, tương phản để khái quát và luận giải. Con người, sự
vật, hiện tượng xét về bản tính tự nhiên đều là những thực thể luôn tồn tại
trong những trạng thái phức tạp với những xung động đa chiều. Điều này, tạo
nên tính không trọn vẹn cũng như tính hai mặt trong mỗi con người, sự vật,
hiện tượng. Là người luôn trăn trở và nhạy cảm, nhà thơ muốn đưa vào thơ tất
cả những trạng huống đó để bản luận tạo nên những triết luận. Triết luận về
đạo đức con người: Câu thề thảng thốt trước sau/ Người như cát ấy vì nhau
mà buồn (Hát rong - Thả gió vào chùa); triết luận về lẽ sống còn: Lá rơi
chẳng biết cành đau/ Nước trôi hòn sỏi nhuộm màu hớ hênh/ Mùa đi chân
mảy nổi nênh/ Một manh cỏ muộn xanh đành xanh thôi; triết luận về thế thái
nhân tình. Mỗi người chúng ta đều có một cái ngưỡng an toàn/ Thụp xuống
nhô lên đều nguy hiểm (Hát rong - Pháo an toàn); triết luận về trò đời: đời là
một thoáng bông lau/ gió mạnh thì xác gió nhàu thì xơ,... Những triết luận này
77

có sức khái quát cao.


Phạm vi sử dụng của các từ ngữ có tính khẩu ngữ, dễ hiểu được nhà thơ
rất quan tâm. Tuy nhiên, bằng trải nghiệm và suy tư, Văn Công Hùng đã diễn
đạt đầy trí tuệ qua việc sử dụng thành công phương thức đối lập các nét nghĩa.
Con người trong cuộc đời là thực thể tồn tại với hai mặt đối lập. Con người
luôn có tốt xấu, đúng sai, thiện ác... Đặc biệt trong suốt cuộc đời con người có
lúc thăng lúc trầm, lúc sướng vui hạnh phúc nhưng cũng có khi gặp những
thất bại, vấp ngã. Không ai tự tin nói rằng tôi hoàn toàn hài lòng với cuộc
sống của tôi, hay đời tôi chẳng khi nào buồn khổ. Văn Công Hùng hiểu rất rõ
về điều này luận giải về nó khá sắc sảo qua việc phát hiện những mặt đối lập
trong đời sống - con người. Nhà thơ phát hiện ra tính hai mặt của cuộc đời:
cuộc đời lặng thầm, cuộc đời gào thét/ trở về bên em ta trở lại chính mình
(Vợ). Ông cũng nhận ra đời sống con người là những cung bậc tình cảm trái
ngược nhau nhưng hòa lẫn với nhau:
Tôi ngồi trước cửa nhà tôi
nhà tôi mới mở ra mặt phố
người ác đi qua mỉm cười
người hiền đi qua cũng mỉm cười
tôi cũng mỉm cười
mỗi người có dáng chạy xe của mình
ngay những khuôn ngực bồng bềnh cũng khác
(Cầm nhau mà đi - Đường phố của tôi)
Trải qua những chặng đường lưu lạc của mình, hình ảnh con đường đã
trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong thơ Văn Công Hùng. Hình ảnh những
con đường khá nhiều trong thơ ông. Biểu tượng con đường xuất hiện trong
thơ ông giản dị, chân thật và bình lặng, nó trở thành công cụ để nhà thơ bộc lộ
khát vọng, hoài bão ước mơ của mình về cuộc sống, về sự đổi mới thơ ca.
Hình ảnh con đường được nhà thơ vận dụng và phát huy những ý nghĩa triết
78

học trong nhận thức của nhà thơ khiến cho người đọc vô cùng lý thú. Mượn
biểu tượng con đường, nhà thơ đã gửi những lời tâm huyết về lý tưởng thơ và
lý tưởng sống của mình. Con đường trong thơ ông là con đường đời đầy trắc
trở bão giông với những ngã rẽ đầy chông gai, gợi nên niềm bâng khuâng
phân vân vô định: Thì là về con đường hun hút kia/ âu là một kiếp người dang
dở/ đi, đi, đi mãi/ mưa hòa cơn đau mồ côi (Đoàn xe tang đi dọc phố).
Đó là con đường của thơ ca trên hành trình đi đào sâu, tìm tòi và đổi
mới. Đó là đường tình của một người ham chơi, đa mang, đa tình và lưu lạc.
Giữa phố xá cuộc đời, ông nhận ra mình là kẻ đơn độc, dường như đang bị thế
gian này lãng quên. Với nhà thơ, niềm khát khao nhất chính là hạnh phúc,
nhưng trên hành trình dông dài của cuộc đời, ông cũng để hạnh phúc rơi vào
quên lãng: Đường phố chiều hay đã vào đêm/ tiếng đàn tài hoa âm thanh số
mệnh/ dửng dưng ơi dửng dưng đau khổ/ ngôi sao rạch trời chớp ở phía hư
không (Tiếng đàn).
Đó là con đường để bộc lộ bản lĩnh, tài năng của một tài tử văn nhân khí
phách giang hồ, lang thang trong cuộc đời nhưng vẫn da diết nhớ quê hương:
Những đêm lang thang đường Lê Lợi
Huế cô đơn bởi chỉ hai người
chiếc hòn non tơ tán dừa Thiên Hữu
vấn vít Phú Cam chuông vọng thuở xanh mùa
(Hát rong - Và ngày ấy sông Hương mười tám tuổi)
Những con đường ấy là nơi in dấu cái tôi trữ tình Văn Công Hùng, qua
biểu tượng này người đọc như có dịp được hiểu hết những ngõ sâu kín ẩn giấu
sau khuôn mặt tưởng như chai sạn, thích bông đùa của ông một niềm cô đơn
thiên cổ: những con đường lầm bụi/ những con đường sắp ngừa chân trâu/ ta
sấp ngửa nơi góc trời lận đận/ vị ngọt ngào treo ở ngọn roi dâu (Trở về). Các
nhà nghệ sĩ thường sử dụng hình ảnh con đường làm biểu tượng cho hành
trình cuộc đời. Con đường trong thơ của Văn Công Hùng có khi chỉ là một
79

khu phố, có lúc lại là con đường thôn quê, có khi lại là con đường xuân non,
con đường mưa, con đường có cây cối,... Dù những con đường trong thơ ông
được gọi theo những cách khác nhau, nhưng tựu chung lại nhà thơ đã mượn
biểu tượng con đường để qua đó bộc lộ tâm tư, suy nghĩ của một nhà thơ luôn
mang trắc ẩn với cuộc đời. Những cơn gió thổi từ phía cánh rừng ẩm ướt/
nhắc ta nhớ những con đường thăm thẳm bàn chân/ những cơn mưa, những
vệt chân trời sáng tối/ năm tháng vẹn nguyên, năm tháng chảy qua đời (Vòm
trời khác - Gửi Kbang). Con đường đã trở thành biểu tượng cho mục đích,
cho khát vọng, cho niềm hạnh phúc của con người:
sương phố mỏng con đường khuya thao thức
chập chờn thu lảng tảng bên thềm
như thấm được một Kon Tum huyền bí
cổ tích rêu ngờm ngợp mắt mơ vàng
(Bến đợi - Chợt thu với Kon Tum)
Như vậy, về mặt phạm vi sử dụng, Văn Công Hùng đã sử dụng một lớp
từ ngữ có tính chất khái quát và nâng cấp thành biểu tượng thường thấy trong
thơ ca trong thế giới nghệ thuật của cá nhân, nhưng trong thơ ông biểu tượng
ấy không hề xưa cũ. Biểu tượng con đường thực sự là một sáng tạo nghệ thuật
độc đáo, với nhiều ý nghĩa mới mẻ, thể hiện một trí tuệ sắc sảo.

Tiểu kết Chương 2


Qua việc phát hiện và khẳng định những thành tựu nghệ thuật của hệ
thống từ vựng trong thơ của Văn Công Hùng từ bình diện cấu tạo, nguồn gốc
và ngữ nghĩa, phạm vi sử dụng, chúng ta có thể nhận thấy được cá tính, phong
cách sáng tác tạo nên nét riêng của nhà thơ. Anh đã sống và viết bằng nỗi đam
mê, khát khao, về tình yêu quê hương và con người ở hai vùng đất mà anh đã
gắn bó: Huế và cao nguyên Pleiku với nhiều cung bậc xúc cảm. Thông qua
lớp từ vựng đặc sắc được nhà thơ chắt gọt từ kho từ vựng tiếng Việt chính là
80

những đóng góp đáng quý. Điều này đã tạo nên diện mạo phong phú về nội
dung lẫn nghệ thuật cho thơ ca hiện đại Việt Nam.
81

Chương 3. GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA HỆ THỐNG TỪ VỰNG


TRONG THƠ CỦA VĂN CÔNG HÙNG

3.1. Hệ thống từ vựng với sự thể hiện phong cách ngôn ngữ trong thơ của
Văn Công Hùng
3.1.1. Ngôn từ chân thành, giản dị, đậm chất đời thường
Ngôn ngữ nghệ thuật phản ánh nét đặc sắc trong thế giới nội tâm của
người cầm bút. Nhà nghiên cứu phê bình Hà Minh Đức viết: “Phong cách sáng
tạo của từng nhà văn như thế nào thì ngôn ngữ thơ ca cũng thể hiện đầy đủ
những mặt mạnh và hạn chế một cách tương ứng. Từ tiếng nói quen thuộc của
đời sống, ngôn ngữ thơ ca đã tạo nên những năng lực kì diệu” và ông cũng
khẳng định “ngôn ngữ thơ ca không đòi hỏi thứ ngôn ngữ cao sang bóng bẩy mà
ngôn ngữ thơ ca cần phải là ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhịp điệu, biến hóa qua
nhiều sắc thái bất ngờ” [21, tr.167]. Cách nói của nhà thơ bình thường, giản dị
và dung hòa với đời sống nhưng cũng đồng thời biết khai thác những tiềm năng
ngôn ngữ thơ ở các cấp độ ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp:
những con chữ khiến mình không thể khác/
suốt cuộc đời sấp ngửa giữa lơ ngơ/
qua nước mắt bàn tay còn biết khóc/
ôm chặt vào xa xót của mình đi...
(Trong mơ có thực - Luận để chữ)
Đây là kiểu ngôn ngữ thô ráp, gần gũi đời sống hằng ngày. Nó là một
dạng đan xen giữa thể loại thơ và văn xuôi. Sử dụng kiểu ngôn ngữ này, nhà
thơ như muốn bứt khỏi từ trường của loại ngôn ngữ thấm đẫm chất trữ tình,
óng chuốt, mượt mà có truyền thống lâu dài trong thơ ca dân tộc. Với ngôn từ
tự nhiên, giản dị nhưng có khả năng biểu hiện tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước
cuộc sống thường nhật, Văn Công Hùng đã đưa thơ về với đời thường: những
đồng tiền vào tay như gió vào nhà trống/ cô bé non choẹt lừa lão luyện
82

chuyên gia vèo bay 4 ngàn tỉ/ rồi huề/ 10 cân su hào chưa gạt ngang tô phở
(Vòm trời khác - sáng mai mùng một rồi). Số lượng lớp từ này chiếm tỉ lệ khá
lớn, điều đó làm cho thơ ông đi sâu vào bản chất trần trụi của đời sống và gần
với người đọc hơn. Thơ ông giàu tính tự sự nên việc kết hợp kiểu ngôn ngữ
đời thường đã thể hiện cái nhìn về cuộc sống hàm chứa một quan niệm thẩm
mĩ riêng.
Đọc thơ của Văn Công Hùng, cứ ngỡ như chúng ta đang tiếp xúc với
lớp ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày giản dị chân thật. Chức năng của thơ
là phản ánh cuộc sống đời thường qua lớp ngôn từ chọn lọc, bóng bẩy nhưng
thơ Văn Công Hùng là một lớp ngôn từ gần gũi với khẩu ngữ nhiều hơn là
ngôn ngữ thơ ca:
Vũng Tàu ạ, ta nhặt vào thương mến
tiếng ốc buồn ngờm ngợp gió biển xanh
tóc thề ạ giá mà không có cát/ để chân trần lội ngược tuổi thơ ta…
Mùa xuân ạ gió thổi tràn phố núi
cõi tin yêu em thắp dốc mờ sương
một chút biển gởi vào heo may tết/ để cho chiều thăm thẳm mờ xa
(Cầm nhau mà đi - Mùa xuân ạ)
Những bài thơ này, mới đọc qua, ta có cảm giác ngôn ngữ mà ông sử
dụng gồ ghề, gấp khúc nhưng nhờ có cấu tứ giống như một câu chuyện được
kể bằng thơ, mà mỗi trang thơ của ông cứ nhẹ nhàng khơi gợi lên biết bao
tình cảm trong cõi tâm hồn độc giả. Đó là thứ ngôn ngữ vỉa hè, bụi bặm và
lấm láp, tự nhiên có vẻ xô bồ hỗn tạp nhưng lại có khả năng biểu hiện đa dạng
và độc đáo. Và chất đời thường lại là điểm tựa cho sức cuốn hút mãnh liệt
trong thơ ông. Phía sau lớp ngôn ngữ thô ráp này là chiều sâu cảm hứng nhân
thế mà nhà thơ đã nhận, đã thu gom từ cuộc đời.
Tính chất khắc khoải, hoài nhớ trong cuộc đời Văn Công Hùng cũng là
một yếu tố hỗ trợ cho ngôn ngữ này. Ông ngất ngưỡng, sáng sáng tối tối, có
83

có không không giữa quá khứ và hiện tại. Ông thường lắng lại để trăn trở, suy
tư: viết cho bóng tối từ nơi còn sáng/ thấy âm u lóe ánh nhân tình/ thì em nhé,
coi đây là cõi tạm/ giọt trần gian nặng nợ u mê (Cầm nhau mà đi - viết cho
bóng tối). Ngôn ngữ đời thường trong thơ ông phần lớn luôn được giữ ở mức
độ vừa phải, kể cả khi diễn tả những nỗi “đau đời”: chợ hoa Sài Gòn nhạt
nhòa nước mắt/ thương những đồng tiền chắc lép/ cả năm trông chờ vào tết/
chuyến xe không uể oải quay đầu (Hát rong - Tục gặm). Nhà thơ nói như vô
tình, nói như vu vơ, bâng quơ nhưng thật ra điều đó càng tăng thêm sự xót xa,
bất lực trước cuộc sống xô bờ. Quả thật thơ của Văn Công Hùng có những
điều bình thường không dễ nói ra, không dễ để diễn đạt cho trọn vẹn: Người
nuôi cá và người săn cá/ cũng có ngày cong vềnh như cá/ chảo dầu và nồi
hấp nhớ đừng quên hành hoa và thì là/ IS và động đất/ những bàn tay bấu vào
tuyệt vọng/ niềm tin chợt mùi tỏi phi/ ánh mắt vô hồn lạc trong chảo sôi
nguồn độ (Hát rong - Chuyện bể cá).
Ngôn ngữ trong các bài thơ của ông đều bật ra từ đời sống nên không
có hình thức vay mượn giả tạo hoặc tỏ ra điệu bộ quá thể. Văn Công Hùng đã
đi trên con đường nghệ thuật bằng tình yêu ấm áp nên trong cách sử dụng
ngôn ngữ ông luôn chứng tỏ nó là một phần đời sống, và cũng chưa bao giờ
ông muốn tách mình ra khỏi vẻ đẹp dung dị mà sâu sắc của ngôn ngữ Việt
Nam. Nhà thơ đã chọn cho mình một hệ thống ngôn từ mang âm hưởng của
sự giản dị nhưng chân thành. Đó là cách ông giao cảm với cuộc đời và với
bản thân. Không màu mè, tô vẽ, Văn Công Hùng trải lòng qua thơ bằng vốn
từ của riêng mình.
3.1.2. Ngôn từ mang tính khái quát, triết luận
Văn Công Hùng thường hay suy ngẫm chiêm nghiệm về con người và
thời đại. Ông đã quan sát, nhìn nhận từ hiện thực cuộc sống để từ đó đưa ra
những nhận định về con người và cuộc sống thời ấy. Giọng thơ của nhà thơ
đặc sắc nhờ những suy tưởng. Một mặt, đây là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ
84

để tạo sự mới lạ cho thơ. Nhưng mặt khác, đó cũng là nhu cầu nội tại của
chính nhà thơ. Có ý thức sáng tạo, lại được thôi thúc bởi cảm hứng thi ca, thơ
của Văn Công Hùng càng đậm màu sắc của thơ ca triết luận. Nhưng triết luận
trong thơ ông không mang tính triết học cao vời, cũng không phải là sự biện
giải thâm sâu theo kiểu lập thuyết, cùng không phải là sự nỗ lực lý sự, biện lý
trong thơ. Tính triết luận trong thơ của Văn Công Hùng đơn giản chỉ là tiết
chế cảm xúc, gia tăng chất trí tuệ vào thơ khiến dòng thơ, ý thơ khơi gợi sự
ngẫm nghĩ, suy tư.
Thơ của Văn Công Hùng thường có những từ ngữ và cấu trúc ngôn ngữ
mang tính định nghĩa, giải thích, suy luận.
- Một số từ thông thường có thể được liệt kê là: như, như thể là, là, đó
là, nhưng, có thể, nếu có thể, sao, sao lại, dù, dẫu, hay, nào đâu, đâu, nào hay
đâu,… Chúng tôi có làm một thống kê nhỏ và nhận thấy tần số xuất hiện qua
các tập thơ khá cao đã khẳng định tính thường xuyên, lặp lại, góp phần giúp ta
nhận thấy tư duy triết luận trong thơ của Văn Công Hùng.
Những biểu hiện của Từ dùng
Từ dùng để Từ dùng để
ngôn từ mang tính triết để định
giải thích suy luận
luận nghĩa
Những từ thường dùng Đâu, Có lẽ, Sao,
như là nhưng
nhất nào đâu có thể sao lại
Tần số xuất hiện
65 75 38 12 11 23
qua các tập thơ
Có thể đưa ra một số ví dụ:
- Như: xưa đi/ như những gì xưa cũ/ tháng năm gập ghềnh khấp khểnh/
xưa đi/ thác trắng xòe tan bỏng nắng (Bến đợi - Mây trắng lắm người ơi), đã
rằng người ở miền đêm/ như con sóng trắng vỗ mềm nỗi đau/ đời là một trắng
bông lau/ gió mạnh thì nát, gió nhàu thì xơ (Lục bát Văn Công Hùng - Thả
gió vào chùa), em như cơn gió lang thang đầy đêm vắng/ thổi xuyên sương
85

rơi thấp thỏm mái nhà (Hát rong - viết trong đêm mất ngủ).
- Sao/ sao lại: Sao em lại đi ngang đường để chiều nghiêng vào nắng/
cây chết lặng/ tôi như cột đèn mưa nắng với ngày xưa (Vòm trời khác - Bùa
yêu), Sao vẫn chiều, vẫn bấc vẫn dịu êm/ đến run tím những cánh bèo ngơ
ngác/ sao vẫn lạnh vẫn nồng vẫn khát/ vẫn mong manh con én nhỏ lạc loài
(Lục bát Văn Công Hùng - Bắc mùa đông);
Một số cấu trúc thường gặp:
- Cấu trúc liệt kê:
Văn Công Hùng hay liệt kê những biểu hiện kết lại một suy nghĩ đã
được chiêm nghiệm nhằm đưa ra một kết luận mang tính khẳng định: Ông còn
dùng cấu trúc liệt kê và tận dụng triệt để sự trùng điệp giữa các vế để luận giải
một vấn đề. Ông dành cho những người bạn thơ của mình một tình cảm đặc
biệt trong sự chiêm nghiệm về đời sống thi ca: Thơ cho đời cho bạn cho tôi/
có chút đắng khé lòng nổi trôi thân phận/ có tỉ tỉ ngọt ngào nụ hôn tình ái/ có
vầng trăng bạc phếch ở trên đầu (Bến đợi - Thơ trong chiếu rượu).
- Cấu trúc văn xuôi hóa: bài thơ Chiếc váy buồn đêm biển Nha Trang,
toàn bài là một văn bản được biểu đạt theo phương thức tự sự:
Mệt nhoài trước biển
dẫu chẳng làm gì, chỉ bắt tay, ăn cơm và nhậu
mà thực ra chẳng có hạt cơm nào
từ lâu đã quên thói quen ngọc thực
Miền Bắc lũ quét
Miền Nam lụt
Miền Trung mưa
giá gạo lên nhưng người nông dân vẫn lỗ
cũng từ lâu ta quên người nông dân sống như thế nào
những đợt quyên góp nhắc rằng còn những người rất khổ
nhưng quyên góp không thể làm hết khổ”
86

Văn Công Hùng dường như muốn văn xuôi hóa để diễn giải những
phán đoán, suy nghĩ của ông. Đây là một bước của tư duy triết luận trong thơ.
Ngoài ra tác giả còn dùng các nhóm từ đậm chất văn xuôi khác như: Như thể
là, có thế nào, nào hay đâu, nào còn đâu, mấy ai..., đột nhiên anh… hầu như
bao giờ…, cố nhiên là... không thể… cũng không thể, có thể là… mà còn là,
mấy nỗi, như thế kia ư, biết chừng nào, giá mà, nhưng ấy mà, anh không thể
nhưng anh có thể... Những nhóm từ này được ông sử dụng một cách tự nhiên
thoải mái. Điều đó chứng tỏ, nó nằm trong chủ đích sáng tạo của nhà thơ góp
phần làm nên một nét đẹp trí tuệ trong thơ của ông. Qua đây, nhà thơ chứng
tỏ tính hiệu quả khi thể nghiệm một cách làm thơ khác đi cùng chiều với sự
thay đổi của thời cuộc.
Văn Công Hùng hiểu rõ mình và hiểu rõ đời nên thường soi chiếu một
cách sâu sắc như thế. Dường như ông rất ít khi khoan nhượng với lý trí. Khi
đã khơi mở được nó rồi, ông thường tận dụng bản năng khám phá trí tuệ của
mình để đào sâu cùng kiệt vào nó nhằm thỏa mãn bản thân đồng thời kích
thích suy tưởng người đọc. Chính điều này làm nên sự sắc sảo trong thơ của
Văn Công Hùng mà không cần đến lời lẽ thơ ca cầu kì, hoa mỹ:
Tôi đựng nước mắt trong chiếc bình niềm tin
đong bằng nụ cười
những giọt nước mắt tối sẫm
nghe tỉ tỉ tiếng rên, chiếc bình như muốn vỡ
một đời người nước mắt dễ đâu khô
(Trong cơn mơ có thực - Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt)
Trong những cung bậc cảm xúc cũng như những khúc ngoặt đời của
mình, nếu phải lựa chọn, Văn Công Hùng sẵn sàng đem cho hoặc trao tặng
những niềm hạnh phúc, những nỗi vui mừng và giữ lại những lo âu, những
bất trắc. Đó là sự lựa chọn, là phong cách thơ của ông. Đối với nhà thơ, khi
hạnh phúc đến ta vui sướng đón nhận nhưng không bao giờ ngủ quên trong
87

nó. Và khi bất hạnh đột ngột ập đổ xuống thì bình tĩnh chấp nhận và vượt qua
nó. Tác giả còn dùng cả những buồn thương, vấp váp để làm hành trang đi
tiếp con đường đời còn lại.
Với phong cách thơ giàu chất trí tuệ, Văn Công Hùng đã làm phong
phú thêm những trang thơ Việt Nam trong thời đại mới. Sự xô bồ, nỗi vui
buồn nhân thế không ngăn được mạch thơ đương đại Việt Nam. Và trong
dòng chảy mạnh mẽ ấy nhà thơ đã góp một tiếng nói riêng, một nhân sinh
quan đầy cá tính về cái đẹp và đời sống. Nhà thơ đã cho đời những giọt nước
mắt của tình yêu, của tấm lòng và cảm hứng nhân văn cao đẹp. Ngôn ngữ
trong thơ của Văn Công Hùng nặng tính khái quát, triết luận được thể hiện rõ
nét qua việc dùng từ, đặt câu. Cách diễn đạt theo xu hướng này khiến thơ của
ông giàu chất trí tuệ. Qua đây, ta cũng thấy nhà thơ có ý thức sâu sắc về việc
sử dụng ngôn từ thơ một cách cá tính để thể hiện sự bứt phá và vượt thoát bản
thân trong lao động nghệ thuật.
3.2. Hệ thống từ vựng với việc sử dụng các biện pháp tu từ trong thơ của
Văn Công Hùng
3.2.1. Từ vựng với việc thể hiện biện pháp tu từ so sánh
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là "phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người" (V.I Lênin). Xét về bản chất, ngôn ngữ là
một hệ thống kí hiệu, mỗi kí hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng gồm hai mặt âm và
nghĩa. Nói như F. de Sausure, đó là mặt “cái biểu đạt” (hình ảnh âm thanh)
và mặt “cái được biểu đạt" (ý niệm). Hiểu một cách nôm na ngôn ngữ phải
bao gồm hai mặt từ và nghĩa của từ hay hình thức từ và nội dung mà từ biểu
đạt. Mối quan hệ giữa từ và nghĩa vì vậy là mối quan hệ biện chứng, là mối
quan hệ tự nhiên, có tính võ đoán và không có nguyên do.
Tuy nhiên, từ ngữ không bao giờ đứng yên một chỗ mà luôn luôn thay
đổi, phát triển. Con đường thay đổi cơ bản của từ là chuyển nghĩa thông qua
các phương thức khác nhau. Những cách thức chuyển nghĩa này khiến cho vỏ
88

ngôn ngữ tuy không thay đổi nhưng lại mở ra nhiều biểu hiện thế giới khách
quan một cách hữu hiệu và tinh tế. Từ đây từ ngữ trở nên có tính đa nghĩa. Và
quan hệ giữa âm và nghĩa tức giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt không
còn là quan hệ tương ứng một đổi một nữa" [22, 1]. Các biện pháp nghệ thuật
đóng vai trò to lớn trong sự thay đổi và phát triển của từ ngữ. Theo Lại
Nguyên Ân thì “trong thực tiễn nghiên cứu văn học, người ta thường nói đến
các biện pháp nghệ thuật khi xác nhận những hình thức phát ngôn mới, hoặc
khi nói đến việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đã ổn định vào mục đích
mới” [03, 57]. Vì vậy, việc sử dụng thành thạo và có hiệu quả các biện pháp
nghệ thuật sẽ làm nên cá tính, phong cách của một nhà văn, nhà thơ. Đồng
thời, nó cũng khẳng định được những đóng góp của nhà văn, nhà thơ trên
bình diện ngôn ngữ.
So sánh là biện pháp tu từ được sử dụng phổ biến trong đời sống cũng
như trong sáng tác văn học của người Việt. So sánh được hiểu là “đối chiếu
hai hiện tượng có dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính
của hiện tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng kia” [35, 282].
Mô hình truyền thống của nghệ thuật so sánh là:
Cái được so sánh Phương diện Cái dùng để so sánh
Từ so sánh
(Vế A) so sánh (Vế B)
Trong thơ ca truyền thống, so sánh được dùng như một phương tiện biểu cảm.
Trong thơ hiện đại, biện pháp so sánh lại được vận dụng với nhiều sắc diện
mới. Các nhà thơ hiện đại có ý thức mở rộng biên độ so sánh bằng cách mở ra
nhiều trường ngữ nghĩa. Từ việc so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng, thi sĩ
có thể so sánh hai cái trừu tượng với nhau. Chế Lan Viên là một ví dụ. Đặt hai
cái trừu tượng cạnh nhau, nhà thơ đã làm cho câu thơ của ông được nhận thức
trong chiều sâu suy tưởng. Chế Lan Viên viết về nỗi nhớ: “Anh bỗng nhớ em
như đông về nhớ rét.” Nhớ là trạng thái cảm xúc, nó không có hình vị; rét
cũng vậy, là xúc giác. Cả hai đều khó miêu tả được bằng quan sát. Nhưng
89

trong sự sáng tạo mới mẻ của Chế Lan Viên, chúng ta đã cảm nhận sự xa cách
trong tình yêu khiến lòng người trống trải, vô duyên giống như đông về mà
không có cảm giác rét buốt. Cách so sánh trừu tượng mới mẻ đó đã mang lại
cho cảm xúc "nhớ" dư vị đặc sắc mà chỉ có thể cảm chứ khó mà diễn đạt
thành lời. Có thể thấy thi sĩ hiện đại đã đẩy phép so sánh lên thành một
phương tiện đắc lực cho nhận thức và tư duy.
Văn Công Hùng cũng là một trường hợp như thế. Là người luôn muốn
cảm nhận tận hưởng mọi biểu hiện giản dị nhất trong đời sống, Văn Công
Hùng đã có trên 40 lần sử dụng biện pháp so sánh. Chúng ta dễ dàng tìm thấy
hiện tượng so sánh trong thơ ông như một biện pháp nghệ thuật đặc sắc và
chủ đạo.
Trong thơ của Văn Công Hùng, cấu trúc so sánh được xây dựng từ
nhiều mối quan hệ ngữ nghĩa, nhưng nhà thơ chuộng sử dụng nhiều nhất là
mối quan hệ giữa cái cụ thể với cái cá thể: ngày xưa cỏ xanh như nước mắt/
tận bây giờ cỏ vẫn đương xanh (không đề), cỏ mềm như đất ru ngủ ban trưa/
em gánh mùa về rơm vàng như nắng (hồi ức rơm rạ). Điều đặc biệt là những
nét nghĩa mang thuộc tính cơ bản của hai đối tượng cụ thể đi bổ sung cho
nhau giúp nâng tầm khái quát hình tượng trong thơ ông.
Thơ của Văn Công Hùng có những hình ảnh mang tính ấm áp, tượng
trưng cũng được tạo nên bởi hai vế so sánh cụ thể này. Chiều như lửa đốt
lòng nhau (Tượng mồ). Chiều (cái được so sánh) và lửa (cái dùng để so sánh)
là những hình ảnh rất cụ thể. Cả hai đều là những hình ảnh rất gần gũi, gợi
đến sự da diết, mãnh liệt có sức ám ảnh lòng người. Chiều và lửa - là khát
vọng tình yêu của con người, là cái còn lại cuối cùng của con người, gửi cho
con người, gửi cho chúng ta.
Qua việc sử dụng phép so sánh, ta thấy Văn Công Hùng đã mở rộng
trường liên tưởng nhất là khi ông sử dụng những hình ảnh so sánh trùng điệp:
em guồng vào anh cơn say bất tận/ tiếng lá buồn rơi suốt vườn đêm/ như là
90

gió đang xào xạc đâu đó/ như là mưa đang náu giữa vai người (Ngày không
bình yên nữa).
Vế được so sánh: Em guồng vào anh. Vế dùng để so sánh: tiếng lá
buồn..., gió đang xào xạc... mưa đang náu…. Chỉ một hiện tượng thôi mà
được đối chiếu với quá nhiều hiện tượng khác. Nhiều vế so sánh xuất hiện
khiến trường liên tưởng dần mở rộng và tạo cảm giác sự chờ mong của anh
trải qua nhiều sắc độ có khi là buồn, có khi là xào xạc, khi khác lại như nương
náu... tiếp nối nhau tạo hiệu ứng tăng cấp cho sắc thái tu từ. Những vế so sánh
trùng điệp trong đoạn thơ tạo nên chuỗi liên tưởng bất ngờ và thú vị dẫn dắt
và khơi mở xúc cảm nơi người đọc. Vì thế, tâm trạng của ông cũng trở nên da
diết, ám ảnh hơn.
Có thể nói, trong thơ của Văn Công Hùng xuất hiện nhiều những hình
ảnh so sánh mới lạ, những hình ảnh tưởng chừng như rất khác xa nhau khi
được ông đặt gần nhau bỗng tạo nên sự liên tưởng đặt biệt. Chẳng hạn như:
Những sắc phượng dịu dàng trong mưa/ như gió chớp lên cánh diều hư ảo
(Hát rong - Trong mưa), Buồn như tận thế kéo cờ quanh ta/ buồn người như
thể buồn ma... Buồn như thuốc lú bùa mê/ nghe hoang vắng tận vệt mờ chân
chim (Cầm nhau mà đi - Hát với nỗi buồn), Anh nhớ em như là không thể
nhớ/ chỉ một mình cui cút với mình thôi/ thế thì nhớ làm gì cho thêm nhớ/ cứ
một mình tưởng tượng một mình thôi (Trong cơn mơ có thực - Nhớ).
Viết về tình yêu, mọi cung bậc cảm xúc được nhà thơ bộc lộ chân thật,
dù hạnh phúc hay đau khổ thì ông vẫn luôn sống hết mình cho tình yêu, tận
lực cả đời cho thơ. Chính cái sự chân thật trong thơ đã tạo ra sức hút từ phía
độc giả, đó không phải cái mãnh liệt, gấp gáp như trong thơ Xuân Diệu,
nhưng tiếng thơ Văn Công Hùng cũng không kém phần tha thiết, nồng nàn
đắm say. Hình ảnh “nhớ như là không thể nhớ” tạo nên một tứ thơ lạ. Trường
liên tưởng đi từ một tâm hồn nói nhớ mà lại "không thể nhớ”, mượn cái không
khẳng định cái có để làm nên một ấn tượng rất sâu. Tác giả còn có những so
91

sánh nặng ý vị Thiền:


Mầu Ni Mầu Ni số phận
miền xa thậm xa
như chớp mắt
nghìn lẻ sát na
(Vòm trời khác - Tình sương chớp mắt)
Cảm giác mong manh mà tê tái. Hình ảnh "số phận” được ví với “chớp
mắt”, “nghìn lẻ sát na” có gì đó thật mông lung, trống trải. Chúng tôi chợt
nhớ đến bài ca Bên đời hiu quạnh của Trịnh Công Sơn mà nghiệm ra triết lí
“vô sinh, vô diệt”, “sắc sắc, không không” trong đời. Rồi một lần kia khăn gói
đi xa. Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà. Lòng thật bình yên mà
sao buồn thế. Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ…
Chính những cách tư duy so sánh mới lạ này đã đem lại nhiều nét nghĩa
mới cho sự vật đồng thời thể hiện một cách mạnh mẽ, trọn vẹn xúc cảm của
chủ thể trữ tình. Biện pháp tu từ so sánh trong thế giới thơ Văn Công Hùng đã
góp phần không nhỏ trong sự thành công về mặt nghệ thuật cũng như tạo nên
dấu ấn rất riêng của ông trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
3.2.2. Từ vựng với việc thể hiện biện pháp tu từ tương phản – đối lập
Dường như Văn Công Hùng có ý thức chọn biện pháp tương phản – đối
lập để khách quan hóa thế giới đặc biệt là thế giới nội tâm. Đối lập – tương
phản gần như đã trở thành tiêu chuẩn thẩm mĩ trong sáng tạo ngôn từ của Văn
Công Hùng. Cùng với tuổi đời và tuổi nghề, ông dần nhận ra mình là có một
lần tôi đã hát vu vơ, câu hát vu vơ chính là lời tự hứa/ vệt mòn dấu chân đau
đáu nỗi buồn (Có một lần tôi đã hát vu vơ). Do đó càng cần phải thâu tóm
trọn vẹn thế giới nội cảm đa chiều và tinh vi một cách trọn vẹn nhất. Chấp
nhận quy luật hai chiều của cuộc sống như chấp nhận khuôn mặt vốn có của
mình, Văn Công Hùng nuôi dưỡng xúc cảm nồng nhiệt nhưng luôn ý thức tiết
chế nó, nắm giữ ngọn lửa đam mê trong tay nhưng nhà thơ luôn tỉnh táo và
92

rạch ròi khi nhận thức. Điều này giúp ông có một độ lùi vừa phải để nhìn thấu
suốt cái giản đơn và rối ren, cái lớn lao và cạn hẹp của chính mình và đời
sống. Phép tương phản, đối lập ở nhiều cấp độ đã giúp thi sĩ chuyển tải được
tâm thức đó.
- Đối lập – tương phản trong câu chữ: Váy ngắn phố dài lang thang
cùng gió/ nu nú người ơi ca thánh nở tưng bừng/ em rộng rãi trong vòng tay
run rẩy/ người đi, người đi đêm sâu (Hát rong - Không đề Noel); Dốc đổ dài
ai xuống thấp lên cao/ có một kẻ lữ hành đang lạc lối (Cầm nhau mà đi -
Chiều Pleiku); Em cứ vụt hiện vụt biến/ tôi ngẩn ngơ vào đứng ra ngồi/ câu
hát vu vơ chính là lời tự thú/ vệt mòn dấu chân đau đáu nỗi buồn (Đêm
không màu - Có một lần tôi đã hát vu vơ); thì ra mặt tôi không vuông không
tròn/ không đen không trắng (Đêm không màu - Trong bóng đêm),...
- Đối lập - tương phản trong hình ảnh: Đêm mù mịt đêm u mê/ em chấp
chới giữa bốn bề mưa giăng/ lóe một cửa thiên đàng/ một con chim nhỏ vội
vàng bay lên...; Tháng tư như nốt nhạc trầm/ gõ vào cảnh của thời gian mơ
hồ/ ô hay mà đã sang hè/ tháng tư lấp một cõi về miên man (Cầm nhau mà đi
- Tháng tư về), Chiều tưởng chừng bình yên/ mà ầm ào bão tố/ ai vừa về qua
đó/ khuấy một vùng lãng quên (Trong cơn mơ có thực - Ga ký ức); ...
- Đối lập - tương phản trong cấu tứ, tư tưởng: Em như thể chưa bao giờ
như thể/ cõi đầy vơi thấp thoáng nẻo về/ như không thể giữa những ngày đầy
có thể/ em nhạt nhòa em hiện hữu, trời xanh (Đêm không màu - Ngày em về).
Nào có hẹn gì đâu/ mà mong như nỗi nhớ/ đâu còn như tuổi trẻ mà ra vào
bâng khuâng; Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt/ dù không còn gì để khóc
với nhau/ vẫn phải tin vào những vụ cười thân thiện/ dù niềm tin lạc bước
trên đường (Cầm nhau mà đi - Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt);...
Phép tương phản - đối lập trong thơ của Văn Công Hùng xuất phát từ
nhu cầu nhận thức đời sống trong chiều sâu bản chất của nó. Vậy nên sự đối
lập, tương phản của từ ngữ, hình ảnh, cấu tứ, tư tưởng là sự đối lập mang tính
93

phổ quát. Cuộc đời được nhà thơ cảm nhận trong sự đa chiều, phức tạp của
nó, không dễ dàng nắm bắt, không dễ dàng cầm giữ để từ đây nhà thơ đầy lên
thành triết lí. Điều này càng nhấn mạnh hơn yếu tố “duy lí”, “nội cảm”, “trí
tuệ” trong thơ của Văn Công Hùng. Phép tương phản đối lập đã làm nên một
nét phong cách thơ độc đáo cho nhà thơ đồng thời nó giúp mở rộng khả năng
thẩm thấu, cảm nhận thế giới trong tính khái quát, đa chiều từ phía người đọc.
3.2.3. Từ vựng với việc thể hiện biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ
Phép điệp là một trong những biện pháp tu từ nghệ thuật được sử dụng
phổ biến và đắc địa trong thơ của Văn Công Hùng. Không những thế, nó trở
thành một trong những nhân tố quan trọng trong sự cách tân ngôn ngữ của
ông. Việc lặp lại cùng một từ, một cụm từ trong cùng một dòng thơ hay trong
nhiều khổ thơ để đẩy mạnh cảm xúc, để thể hiện sự giày vò, sự xao xác không
yên trong tâm hồn nhà thơ đa cảm mà nặng tư duy phân tích này. Xét trong 401
bài thơ, có rất nhiều bài tác giả sử dụng hình thức điệp (lặp) điệp âm, điệp ngữ,
điệp đầu, điệp cuối, điệp phụ âm đầu, điệp thanh, điệp vần. Phép điệp góp phần rất
lớn trong việc tạo nên tính nhạc, để nhấn mạnh, để gây ấn tượng và làm cho bài
thơ giàu cảm xúc. Hơn nữa, việc sử dụng phép điệp cùng với việc mở rộng biên
độ thơ góp phần thể hiện những tình cảm phong phú, đa dạng nhưng cũng rất
phức tạp của đời sống con người.
Một số cách điệp Văn Công Hùng thường sử dụng và đã tạo ra những
hiệu ứng nghệ thuật đặc sắc:
- Điệp từ ở đầu mỗi câu thơ: Như là không còn chiều nữa/ như là hoa
xoan tháng ba/ như là cô nàng hàng xóm/ vừa sang xin lửa nấu cơm (Hát
rong - Nhưng còn nỗi nhớ thì sao); Ta với mùa đông mơ mãi những cánh
đồng/ mơ thấy khói và mây về miền nắng/ mơ tim hoa xoan trập trùng phương
bắc mơ con chuồn chuồn thấp cao ký ức/ phập phồng nào em thả buổi tinh
sương (Trong cơn mơ có thực - Hoa hồng);
- Điệp từ ở đầu mỗi khổ thơ, câu thơ: Ngày mùa đông... (Lục bát Văn
94

Công Hùng - Ngày mùa đông); Một mình... Chỉ một mình (Cầm nhau mà đi -
Một mình), Có những lúc... (Hát rong - Có những lúc), Hà cớ gì...(Đêm không
màu - Hà cớ gì); ...
- Điệp đầu câu bằng từ nối và liệt kê: Thơ cho đời cho bạn cho tôi có
chút đắng khé lòng nổi trôi thân phận/ có tí ti ngọt ngào nụ hôn tình ái/ có
vầng trăng bạc phếch ở trên đầu (Đêm không màu - Thơ trong chiếu rượu);
“Cao nguyên là gió rượu cần/ là lang thang bước chân trần lãng du/ là cuồn
cuộn bụi mùa khô/ là mang mang nắng giăng tơ mật vàng/ là khan, là hội, là
xoang/ là em tóc rối bên hàng thông xanh (Bến đợi - Cao Nguyên);...
- Điệp cấu trúc câu:
+ Hai câu hoặc nhiều câu gần nhau trong cùng một khổ: Chiều nay trút
lá Chiều nay râu lên bạc/ chiều nay cứ gió mải về/ chiều nay còn nốt phố
xanh (Chợt quỳ); Trời ướt đầm bình minh trở dâm nắng (Vòm trời khác); ...
+ Một câu ở đầu hoặc ở cuối các khổ liên tiếp: Ga cuối (Cầm nhau mà
đi - Ga cuối), Ngày mùa đông (Hát rong - Ngày mùa đông).
+ Một câu ở khổ đầu và khổ cuối: Ngủ đi em (Bến đợi - Ru), Rồi em sẽ
trở về con đường cũ (Vòm trời khác - Trở về).
- Điệp cả đoạn hoặc khổ thơ: Hình như tình yêu/ mỏng như tơ nhện/
hình như nụ hôn/ mang đầy vị đắng (Trong cơn mơ có thực - Hình như).
- Điệp kèm theo cấu trúc so sánh: em guồng vào anh cơn say bất tận/
tiếng lá buồn rơi suốt vườn đêm/ như là gió đang xào xạc đâu đó/ như là mưa
đang nằm giữa vai người (Trong cơn mơ có thực - Ngày không bình yên nữa).
- Điệp mở rộng, liên tưởng: Và một dòng sông ám ảnh cõi vô hình/
miền xa khuất trôi nhanh về xa lạ/ và em vẫn một mình, như lá/ thủa địa đàng
thanh thản trái cấm rơi/ Gió dã quỳ hoang dại tuổi thơ tôi/ thổi thăm thẳm xa
xưa miền cổ tích/ miên man cao nguyên xanh màu u tịch/ sắc vàng nào lưu
luyến cỏ bazan (Hát rong - Gió dã quỳ).
Hiện tượng điệp trong thơ Văn Công Hùng rất phong phú. Mỗi hình
95

thức điệp là một dụng ý nghệ thuật. Có khi đó là những xôn xao không thể chỉ
nói một lần, khi khác lại là sự bâng khuâng cơ hồ là vô tận, khi khác nữa lại là
sự rối ren, chật hẹp không gì gỡ ra được ngoài những câu thơ. Và cũng có lần
quá rung động vì những tinh khôi, mong manh, bé nhỏ: Ngày mùa đông/ chợt
một vàng hoe/ Ngày mùa đông/ gió manh manh/ Ngày mùa đông/ vườn chúm
chím/ Ngày mùa đông/ dằng dặc con đường hấp hoảng tiếng chuông (Đêm
không màu - Ngày mùa đông).
Xúc động trước cái đẹp là biểu hiện cơ bản của tâm hồn thi nhân. Văn
Công Hùng dùng phép điệp thật thành công và đắc địa để diễn tả sự rung
động đôi khi xuất hiện như sự ngẫu nhiên may mắn nhưng lại là cảm xúc vô
cùng vững bền trong tâm hồn nhà thơ. Để có được cái may mắn đó trước hết
phải có một tâm hồn đẹp, biết yêu và biết xúc động, biết nâng niu và nuôi
dưỡng những giọt nước mắt quý giá của mình, vì những gì đẹp đẽ nhất: chợt
một vàng hoe/ gió manh manh/ vườn chúm chím của ngày mùa đông. Hiện
tượng lặp trong thơ khá đặc biệt, vừa có lặp từ ở đầu câu/khổ: ngày mùa đông,
vừa lặp cấu trúc nên khó để xếp đoạn thơ này vào một hình thức điệp nào.
Nhưng đôi khi cũng không cần quan tâm lắm việc xếp nó vào đâu, chỉ cần
biết đó là một cảm xúc đẹp, quý mà Văn Công Hùng gửi gắm bằng thơ.
Hình thức điệp trong thơ của Văn Công Hùng không chỉ có tác dụng
khơi gợi và bộc lộ cảm xúc mà còn có tác dụng tạo ra nhiều kiểu nhịp ứng với
cung cảm xúc đó. Vì vậy tính nhạc trong thơ của Văn Công Hùng thực ra rất
giàu có nhưng cũng khó phát hiện. Có thể kể một số kiểu nhịp cơ bản”
- Nhịp tương phản: Anh nhớ em như không hề nhớ/ chỉ một mình cui
cút với mình thôi/ thế thì nhớ làm gì thêm cho nhớ/ cứ một mình tưởng tượng
một mình thôi (Cầm nhau mà đi);…
- Nhịp bàn luận: Sẽ đi về đâu hàng chục nghìn linh hồn vô tội/ những
cặp đang yêu nhau/ những đôi vợ chồng đang ngủ/ những cuộc làm tình dang
dở/ những thiếu nữ tròn căng ánh sáng/ những đứa bé lẫm chẫm tới trường/
96

tất cả đang chung một chiếc cầu mỏng manh/ thiên đường đấy ư?(Đêm
không màu - Viết cho bóng tối); …
- Nhip liệt kê: Và một dòng sông ám ảnh cõi vô hình/ miền xa khuất
trôi nhanh về xa lạ/ và em vẫn một mình, như lá/ thủa địa đàng thanh thản
trái cấm rơi/ Gió dã quỳ hoang dại tuổi thơ tôi/ thổi thăm thẳm xa xưa miền
cổ tích/ miên man cao nguyên xanh màu u tịch/ sắc vàng nào lưu luyến cỏ
bazan (Hát rong - Gió dã quỳ); em thì thùy mị nết na/ ta như gấu biển chợt sa
địa đàng/ một con sông một đò ngang/ một cơn sóng vỗ một hàng huyền trâm/
một cơn bão nổi âm thầm/ một con thuyền giấy vô tăm tích bờ (Vòm trời khác
- Ta ngồi chơi cuộc tình cờ);…
- Nhịp liên tục: Cứ mãi thanh tân, mãi mãi vụng về /mãi mãi nắng, mãi
sương. Mãi mãi/ cao nguyên tháng ba những con đường tha thiết/ vỗ dập dờn
thăm thẳm nỗi gì ơi/ Cứ tím bằng lăng, cứ vàng biếc dã quỳ/ cứ nghìn tuổi
thông bên đường hư ảo/ và em nữa suốt một đời giông bão/ thổi qua anh năm
tháng chẳng yên bình (Hát rong - Cao nguyên tháng ba);...
Phép điệp từ vựng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cách
thức sáng tạo của Văn Công Hùng. Thông thường, hiện tượng điệp sử dụng
với tần số cao và không khéo léo sẽ dễ tạo nên sự đơn điệu, nhàm chán về mặt
cảm xúc. Ở thơ Văn Công Hùng, phép điệp được sử dụng khá dày nhưng cảm
giác đơn điệu lại không hề có. Dường như mỗi phép điệp của ông đều mang
một nét gì đặc biệt và được nhà thơ biến đổi tinh vi nhất là khi kết hợp với các
biện pháp nghệ thuật khác như so sánh, ẩn dụ, tương phản,...
3.3. Hệ thống từ vựng với việc thể hiện phong cách thể loại trong thơ của
Văn Công Hùng
3.3.1. Từ vựng với sự thể nghiệm thể loại thơ tự do
Thể thơ là một phương diện không kém phần quan trọng của thơ. Chính
thể thơ đã góp phần thể hiện ý nghĩa sâu sắc trong thơ. Qua quá trình xem xét
và đánh giá phong cách nghệ thuật của một nhà văn không cho phép chúng ta
97

bỏ qua yếu tố thể loại. Đây là hạt nhân cơ bản góp phần chỉ ra cái riêng, cái
độc đáo về phương diện hình thức nghệ thuật của nhà thơ đó.
Văn Công Hùng là một nhà thơ, thế nên khảo sát toàn bộ các sáng tác
của ông để tìm thấy nét đặc trưng, cơ bản trong sự nghiệp sáng tác của ông là
công việc quan trọng. Tìm hiểu về thơ của Văn Công Hùng sẽ thấy được
trong thơ ông sử dụng khá phong phú các thể loại để truyền tải cảm xúc trước
hiện thực cuộc sống như: thơ tự do, thơ lục bát,… Đây là những thể loại đã
góp phần tạo nên sự thành công cho tác giả.
Bảng thống kê số bài ứng với mỗi thể thơ trong tổng số 401 bài thơ:
Thể thơ 5 chữ 6 chữ Tự do Lục bát
Số bài 12 7 331 51
Qua thống kê và tìm hiểu, chúng tôi thấy Văn Công Hùng sử dụng
nhiều thể thơ khác nhau nhưng đặc biệt thành công ở thể thơ tự do. Thơ tự do
của ông vừa phong phú về số lượng vừa đặc sắc về chất lượng. Nó tạo nên
một giọng thơ riêng, một phong cách riêng không thể nhầm lẫn được cho thơ
ông. Bên cạnh đó ta cũng thấy sự dụng công cách tân của nhà thơ ở thể thơ
lục bát. Đây là thể thơ chiếm tỉ lệ thứ hai sau thơ tự do và nó cũng góp phần
vẽ nên diện mạo đầy đặn cho phong cách Văn Công Hùng, Thể thơ 5 chữ và 6
chữ không nói được nhiều cho con người thơ ông. Những bài lục bát là sự bứt
phá và là dấu ấn riêng của nhà thơ.
Dưới đây, chúng tôi sẽ đi tìm phong cách thơ của Văn Công Hùng qua
thành tựu của thơ tự do và dấu ấn hiện đại trong thơ lục bát.
Thơ tự do thường được hiểu là tự do hóa hình thức trong thơ. Xu hướng
này phát triển mạnh ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Sau 1975, thơ
tự do phát triển mạnh và gặt hái được nhiều thành tựu. Nó phản ánh sự biến
chuyển không ngừng nghỉ và nhiều phức điệu của cuộc sống hiện đại mà
những thể thơ khác còn hạn chế. Thơ tự do là loại thơ không có quy định về
số câu, số chữ trong câu, bằng, trắc và nhịp điệu. Tất cả các yếu tố hình thức
98

này đều có thể thay đổi tùy thuộc cảm xúc. Về cơ bản, thơ tự do ra đời nhằm
đáp ứng nhu cầu diễn đạt tình cảm không giới hạn của con người hiện đại,
giải phóng cảm xúc khỏi sự ràng buộc quá chặt chẽ của các quy tắc về hình
thức (là thể thơ đối lập với thơ luật) nghĩa là đề cao cảm xúc, yếu tố trữ tình.
Thơ tự do khác các thể thơ khác ở chỗ nó luôn để cảm xúc chi phối mạch thơ.
Cho nên nhịp thơ và số lượng chữ trong câu luôn luôn biến hóa rất linh hoạt
và không cố định.
Với nhà thơ Văn Công Hùng, bằng thể thơ này, ông có thể tái hiện một
cách chân thực, sinh động hiện thực của cuộc sống, đồng thời bộc lộ được tất
cả nguồn cảm xúc mãnh liệt về quê hương, đất nước... Đặc biệt là về những
cung bậc tình cảm của cái tôi trữ tình mà không bị ràng buộc bởi niêm luật
chặt chẽ của thể loại. Độ dài câu thơ tự do của Văn Công Hùng rất linh hoạt.
Nó không giới hạn về số lượng âm tiết mà vấn đề là cấu trúc sắp xếp âm tiết
trong câu sao cho đạt hiệu quả nghệ thuật.
Thơ tự do được dùng để thể hiện cảm xúc một cách rất tự nhiên. Nhiều
bài thơ của ông đã làm rạn vỡ biết bao thể thơ vốn gò bó về số câu, số chữ để
đưa cảm xúc chạm đến độ tinh tế của thế giới tự nhiên:
sau mỗi gốc cây
căng tròn mắt
những cánh bướm thôi miên
chúng rướn mình về phía ánh sáng
chẳng thể bình yên một buổi chiều như thế
cái gì xanh cứ xanh
và sen nở
(Đêm không màu - Chiều bình yên)
Thơ tự do là một thế mạnh đối với Văn Công Hùng trong việc khắc họa
những cung bậc cảm xúc phóng khoáng, tinh tế góp phần thể hiện phong cách
triết lý suy tưởng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc và hiện đại. Hơn
99

nữa, với hình thức biểu đạt mới mẻ này, ông dễ dàng khai thác các mảng đề
tài về cuộc sống con người một cách sâu rộng hơn: đã qua những hạ những
thu những đông để giờ nhen vào nhau hi vọng/ mơn man giọt sương nhói liên
khúc xạ lần cuối/ thì hãy vì mùa xuân mà nắng/ mơ hồ nhang nhãng khuya/ sẽ
xa nhau ư/ những hạt muối mặn nhau chở nặng nề xa nhói/ rồi mất hút/ bỏ lại
ngày lăng lắc bên sông... (Trong cơn mơ có thực – Tự khác xa nhau).
Đó là nỗi lo âu đặc biệt, nỗi lo âu trong sự hân hoan chào đón, trong
niềm hạnh phúc thảnh thơi, nỗi lo âu của một tâm hồn nhiều sầu cảm. Đó là
tâm thế của một người sợ tan chảy những gì mong manh. Tâm trạng đó được
biểu đạt bằng sự xô đẩy của từ ngữ. Đoạn thơ thực chất là một câu văn xuôi
dài, giàu chất gợi hình và miên man cảm xúc. Đoạn thơ còn là một chuỗi tư
duy liền mạch khó làm cho đứt đoạn, bởi chỉ cần dừng lại ở một nhịp nào thôi
là phải hóng tính mạch lạc vốn có của một câu vẫn giàu cảm xúc.
Không chỉ thể nghiệm yếu tố văn xuôi trong thể thơ tự do, Văn Công
Hùng còn tinh giản tối đa yếu tố tả và kể để chuyển tải được nhịp sống nhanh
và yêu cầu về tính hiệu quả tức thời của lối sống hiện đại. So với dòng chảy
vô thủy vô chung của thời gian thì con người là một kiếp sống mong manh,
hữu hạn: Thì bất lương thôi/ Đứa bé xòe tay ám ảnh/ Cái nhìn lạnh Đồng xu
keng trong ví/ Giật mình. Rơi (Vòm trời khác - Vô xúc).
Thi sĩ sử dụng thể thơ này thường là một lời kể, trần thuật nên thơ như
những lời có vần, có nhịp cứ thế tuôn ra. Nắm bắt rõ quy luật đó, đọc thơ tự
do Văn Công Hùng mới thấy ông luôn trân trọng và từ tốn với nỗi cô đơn của
con người không hiểu hết được thế nào là hạnh phúc và không biết mình cần
cái gì trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng cảm thấy cô đơn trước thời
đại mới - thời đại xô bồ, đua tranh tiền tài, địa vị, danh vọng,... Với thơ tự do,
nhà thơ đã diễn tả được cảnh vật thật đa dạng, mỗi khổ thơ ẩn chứa một thông
điệp tình cảm và được toát ra sau khi đọc hết nỗi khổ. Đó có thể là một tâm
trạng lo lắng, tràn đầy ưu tư nhưng cũng đậm chất triết luận, suy tưởng khi
100

Tết đến xuân về.


Em là mùa Xuân, là chợ tết của anh
không sợ hớ, không sợ vàng lên giá
chỉ sợ một điều thôi: Mất lửa
thì chợ tan mà thơ cũng thành bèo...
(Đêm không màu - Chợ Tết)
Nhà thơ đã đưa lời nói thường ngày kết hợp với lời nói trữ tình tha thiết
vào thể thơ tự do, mở rộng câu thơ làm cho câu thơ giàu nhịp điệu đời sống,
tiếng thơ trở nên đa dạng, muôn màu: có hiểu gì đâu có biết gì đâu/ chỉ thấy
mình không là ngày xưa nữa/ như que diêm bất ngờ vụt cháy/ mùa hè ơi yên
ổn trốn đâu rồi... (Hát rong - Mùa hè ấy).
Văn Công Hùng là nhà thơ hiện đại có những thể nghiệm đặc sắc trong
thể thơ tự do. Đó là những câu thơ không vần, lắm lúc văn xuôi một cách triệt
để. Vì đó là thứ trữ tình của cái ngày thường, rũ bỏ ảo tưởng lãng mạn
(Hoàng Hưng). Tác giả xao xuyến khi nhớ về mùa đông Hà Nội: nhớ mùa
đông Hà Nội/ anh có con đường đầy ký ức/ bánh xe lăn xao xác/ ô cửa mở hơi
thở của em/ mà em thì xa lắm Tây Hồ lên sương phấp phỏng lối về Hà Nội
cho anh biết nhớ mùa đông còn cào rắc mãi trong anh... (Vòm trời khác -
Gửi mùa đông Hà Nội). Câu thơ tự do của Văn Công Hùng có sự biến hóa
khôn lường. Có những câu thơ dài được ngắt làm nhiều dòng với số chữ nhiều
ít khác nhau tạo nên nhiều loại nhịp điệu theo ý muốn. Khi diễn tả sự thật đời
sống với những điều hằng ngày thô tháp, Văn Công Hùng chấm câu và ngắt
dòng thơ một cách rất là rất độc đáo:
Phập phồng khép mở
những sợi mi ngẩn ngơ
nước, nước, lâm xâm nắng
cong người sang đêm
xôi nóng
101

phở nóng
cà phê nóng
báo mới đây
xe tụt ga, chết máy...
(Đêm không màu)
Có những trường hợp, ông sử dụng thể thơ tự do với dụng ý tạo hình
khi trình bày câu, chữ, xuống hàng, ngắt nhịp, một cách có nghệ thuật:
đen trắng
nã nền
đêm Sài Gòn rưng rưng
trôi
dòng dòng dòng
cơn lá me gió gió
đen trắng
em như thiên thần
một mùa xanh
đêm
như thiên thần
muốt
anh
(Đêm không màu - Đen trắng Sài Gòn)
Từ góc nhìn từ vựng, chúng tôi nhận thấy thơ tự do của Văn Công
Hùng có những nét riêng cơ bản về hình thức như sau: Hầu hết mỗi khổ thơ
của Văn Công Hùng đều là một câu thơ được ngắt dòng. Cho nên đầu mỗi
dòng các tiếng không được viết hoa, ở cuối mỗi dòng không có dấu chấm câu
mà phải đợi đến hết khổ mới có. Trong thơ ông, có những câu thơ kéo dài
nhưng cũng có những câu “cực ngắn" chỉ là một động từ, một danh từ hoặc
một quan hệ từ đứng riêng thành một dòng. Nét đặc sắc về từ vựng trong câu
102

thơ có sự trùng điệp, xô đẩy trong các từ, cụm từ, các vế, các câu đầy cảm xúc
đến độ sâu nhất định.
Qua những đóng góp của từ vựng, sau những thể nghiệm táo bạo, có
thể nhận thấy những thành tựu tiêu biểu trong thơ tự do của Văn Công Hùng
được thể hiện: Không cần vần mà nhịp điệu vẫn tinh tế, truyền tải tốt tâm hồn,
cảm xúc của nhà thơ, diễn đạt tứ thơ được triển khai nhất quán và luôn tạo
được điểm nhấn. Nhà thơ đã kiến tạo được hình tượng mang ý nghĩa khái quát
và không bị phân tán do xu hướng tự do hóa của thơ. Tứ thơ có ý nghĩa triết lí
khá cao và đa dạng trong thể thức thơ tự do.
3.3.2. Từ vựng với sự phát triển và biến tấu thể loại thơ lục bát
Nói đến thơ lục bát, người ta thường nghĩ đến một sản phẩm văn hóa
tinh thần độc đáo của dân Việt. Nó có một vẻ đẹp giản dị, nên nó không phai
tàn theo thời gian. Thời nào, nơi nào có người dân Việt sinh sống là nó được
yêu thích và tôn vinh. Nó có biến đổi theo năm tháng nhưng những cốt tinh
của nó không phai mờ. Cho dù trải qua hàng trăm năm, cuộc sống bây giờ so
với thời trước đã bề bộn hơn nhiều và tâm trạng con người đổi thay nhiều thì
thơ lục bát vẫn biến hóa, để thể hiện được những thay đổi đó một cách sinh
động, uyển chuyển.
Riêng nhà thơ Văn Công Hùng, trên con đường tìm kiếm câu trả lời
cho vấn đề hiện đại hóa thơ ca, đã tìm ra được hướng đi riêng của mình,
khẳng định được phong cách của riêng mình giữa bối cảnh thơ ca khá phức
tạp hiện nay. Nhà thơ nhận ra tầm quan trọng của bản sắc dân tộc trong thời
đại toàn cầu hóa, thế nên bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ, chất liệu hình ảnh
gần gũi, nhà thơ còn tìm về lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc
đang dần bị bỏ quên trước những trực giác, tượng trưng, siêu thực, hậu hiện
đại..., nâng niu và biến lục bát thành “thương hiệu riêng" của mình.
Ở thơ lục bát truyền thống, phương thức cấu tứ chính là theo lối giãi
bày, bộc lộ trực tiếp sự diễn biến tâm trạng tác giả. Thơ lục bát Văn Công
103

Hùng có các phương thức cấu tứ đa dạng hơn và trong cách lập ý tứ mới, yếu
tố trí tuệ được gia tăng. Tứ thơ có khi là sự giãi bày tình cảm trực tiếp, có khi
chỉ là một sự gợi ý nêu vấn đề, có khi lại là một tự sự minh hoạ bằng chuyện
kể. Các yếu tố hư vô, vô thức cũng được gia tăng trong việc lập tứ và từ đó
đưa đến một hệ quả “tính chất cá biệt” trong thơ lục bát hiện đại rõ rệt hơn, đa
dụng hơn, tác động thẩm mĩ vào tâm hồn người đọc dồi dào hơn:
nén hương thắc thỏm nhạt nhòa
con châm lửa thắp khói và cát bay
nửa đời ngang dọc lắt lay
chiều nay run rẩy cuối ngày đầu năm
bàn tay xoắn nỗi lặng thầm
cuối đầu chớp một xa xăm kiếp người...
(Trước mộ ba chiều ba mươi)
Đoạn thơ rất hay, đã diễn tả được sâu sắc tình cảm của những người
con đối với bậc sinh thành đã khuất. Từ bài thơ hư hư thực thực lãng đãng
khói sương. Hiện tại và quá khứ, thực và mộng đan lồng vào nhau cùng với
nỗi nhớ thương, mong ước. Bài thơ như giọt lệ long lanh nguyên khối, xúc
động sâu xa tâm hồn người đọc, Cái môtip nhớ thương cha mẹ ta được gặp rất
nhiều trong thơ ca nhưng bài thơ này có một hình thức diễn đạt mới mở đầu
chủ yếu vẫn sử dụng thể thơ sáu - tám truyền thống nhưng tác giả đã cách tân.
Chính sự cách tân này đã làm tăng sức tác động thẩm mĩ của bài thơ. Người
đọc tiếp nhận được ở bài thơ một âm hưởng vừa xa vời, vừa gần gũi, vừa lạ,
vừa quen...
Sau việc lập tứ, trong số các thành phần tạo nên cái mới của bài thơ thì
“từ” là quan trọng nhất. Câu thơ lục bát Văn Công Hùng đã sử dụng tối đa sự
phong phú của ngôn ngữ dân tộc so với các loại thơ cách luật. Nó dung nạp
được khá tự nhiên vốn từ vựng thuần dân gian cũng như bác học. Đặc biệt là
dung nạp được sinh động hầu hết các biện pháp tu từ thường thấy trong ngôn
104

ngữ dân tộc.


Trong văn chương cổ điển, người ta thường quan niệm: Để diễn tả
những cảm xúc cao thượng thì phải viết bằng thơ đường luật,... Và thích ứng
với các thể thơ này là sử dụng một loại ngôn ngữ trang trọng, đài các, còn thơ
lục bát chỉ để miêu tả những sự vật, những cảm xúc bình thường trong sinh
hoạt, gắn liền với nó là một loại ngôn ngữ bình dân, nôm na không cần trau
chuốt. Ngay cả một số nhà thơ có tiếng, khi để bộc bạch tâm sự sâu kín trắc
ẩn của mình, các nhà thơ cũng đã dùng thơ Đường luật viết chữ Hán, phần thơ
viết chữ Nôm theo thể lục bát là chỉ để bộc bạch các trạng thái sinh hoạt, các
ứng xử hàng ngày.
Bởi vậy, vốn từ dùng trong thơ lục bát truyền thống thường là ngôn ngữ
dân gian, mộc mạc, hay sử dụng các hình thức chuyển đổi nghĩa linh hoạt,
cũng như các biện pháp ví von cường điệu thường thấy trong lời ăn tiếng nói
nhân dân, còn trong thơ đường luật, tứ tuyệt cổ kính trang nghiêm lại hay sử
dụng các điển tích, điển cố, các từ ngữ, biểu tượng luận lý… Ngôn ngữ trong
thơ lục bát Văn Công Hùng phá bỏ được sự cách biệt đó. Cùng trong một kho
từ vựng dân tộc nhưng có yếu tố mộc mạc, dân dã:
Này em gió nội hương đồng
bờ sông cây cải đã ngồng lên đưa
bên chùa hoa táo gió đưa
nâu sồng xin chớ làm ngơ câu chào
(Lục bát Văn Công Hùng - Gió đưa cải ngồng lên chùa)
Có những câu thơ như lời nói thường mà vẫn hay: Ừ về, ta ở mình đi/
rượu mềm đến nhạt thiên di cả chiều/… thì về. Mình ở, ta đi/ nỗi buồn bạc
phếch an nhi đêm dài (Vòm trời khác - Đoản khúc say). Để đáp ứng nhu cầu
tiếp cận hoàn toàn với sự đa dạng của đời sống, khi viết thơ lục bát, tác giả
còn mạnh dạn dùng cả khẩu ngữ, phương ngữ. Thực ra, cái tài tình của ngôn
ngữ không do thể loại tạo nên mà chính là do tác giả. Tuy nhiên, trong chừng
105

mực nào đó những thể loại thích hợp có góp phần tạo điều kiện cho nhà thơ
rộng tay sử dụng cái chất “mật” ngôn ngữ của mình, làm cho nó có thể “dính”
vào tất cả mọi tình thế của đời sống, mọi sắc thái của tình cảm, tạo nên những
bức tranh nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ, tác động sâu xa đến người đọc.
Trên phương diện nhạc điệu mà xét, chúng ta thấy những câu thơ sáu –
tám truyền thống, nhạc điệu tuy uyển chuyển nhưng khá ổn định, họa hoằn
mới có một vài trường hợp phá cách, gặp một câu thơ ngắt nhịp kiểu: Nửa
chừng xuân/ thoắt/ gãy cành thiên hương (Truyện Kiều) xem như một trường
hợp lạ, tài tình. Còn thơ lục bát Văn Công Hùng nhạc điệu tương đối phong
phú. Đọc thơ lục bát của Văn Công Hùng, ta nhận thấy được sự đa dạng ở
nhạc điệu. Nhạc điệu của thơ được tạo nên chủ yếu bởi ba yếu tố: nhịp điệu,
vần điệu và thanh điệu, thì trong thơ lục bát Văn Công Hùng các yếu tố đó
được tạo lập, được kết nối, được phối hợp nhiều cách thức, nhiều hình vẻ.
Trước hết, xét về nhịp điệu (tiết tấu). Nếu trong thơ lục bát cổ điển tiết
tấu thường cấu tạo theo nhịp chẵn, nhịp cân đối phổ biến là nhịp 2/2, thơ lục
bát Văn Công Hùng ngắt nhịp biến hóa khá tự do:
một mình/ chỉ một mình thôi/
câu ca ngân xuống/ mà lời vút lên/
bay như xé gió/ mà quên nẻo về/
một mình một cõi/ u mê
một cơn động đất/ một về tối tăm/
(Một mình)
Luật bằng trắc của thơ lục bát truyền thống tuy không chặt chẽ bằng
các thể thơ khác như Đường luật hay song thất nhưng cũng đã tương đối ổn
định và cũng khá dồi dào về thanh điệu. Trong thể thơ thơ lục bát Văn Công
Hùng, luật thơ truyền thống bị phá vỡ để vươn tới một sự thể hiện mới:
đò trôi ngang dọc đó đăng
bao nhiêu khô khát gió mang về trời
106

chỉ còn tôi với tôi thôi


giữa bao la và trời Tam Giang,…
(Hát rong - Đò ngược phá Tam Giang)
Đoạn thơ trên có sự phân bố các âm bằng, trắc không theo quy luật
chung. Đặc biệt hai dòng thơ cuối khổ chỉ bốn âm trắc trên mười âm bằng,
nhạc điệu câu thơ lâng lâng, diễn tả một tâm trạng lững lờ khó tả. Sự phá vỡ
này tạo nên những trường hợp biến thể của lục bát, nhằm diễn đạt đắc địa một
nội dung hay thỏa mãn một yêu cầu thẩm mĩ của nhà thơ.
Đổi mới mối quan hệ giữa câu thơ, dòng thơ và khổ thơ. Thơ lục bát
truyền thống thường đều đặn một câu thơ bao gồm 2 dòng, một dòng sáu và
một dòng 8 (tiếng). Trong thơ lục bát Văn Công Hùng sự tương đồng đó bị
phá vỡ thường xuyên, có khi câu thơ là một dòng sáu hay dòng tám thậm chí
nửa dòng, hay vài chữ. Ở nhiều bài thơ có khi câu thơ lại gồm ba đến bốn
dòng, có khi lại trùng ngay với cả một khổ thơ. Sự biến đổi đó làm nhạc điệu
thơ rất biến hóa. Và đây, một khổ thơ khá gợi cảm, chúng tôi không nói đến
các thủ pháp ngôn từ khác, chỉ riêng phần nhạc điệu đa dạng, đứt quãng do sự
đổi mới liên kết giữa câu, nhịp và dòng thơ đầy dụng công của tác giả cũng
đáng để ta lưu ý bình giải:
ta bà ta bà ta bà
A Di Đà Phật
tôi và bóng tôi…
(Trong cơn mơ có thực – Vấy vá bóng tôi)
Trong dòng chảy lục bát trữ tình truyền thống, cũng đôi khi nhà thơ cũng tự
do biến hóa trẻ trung với cách ngắt nhịp, vắt dòng khác lạ:
Hoang sơ
chiều rót tràn vai
ché và chiêng
và đầy rượu cần
107

nằm đây một nắm xương tàn


đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu
(Bến đợi - Tượng mồ)
Cách trình bày các dòng thơ lục bát thành bậc thang hay thành nhiều
dòng thơ có thể có tác dụng gợi ý cách ngắt nhịp thích hợp, song trên đại thể,
đây chủ yếu vẫn là phép tu từ trên trang giấy. Dựa vào tác dụng thị giác, rõ
ràng biện pháp “leo thang” và “tách dòng” khiến cho các khổ thơ lục bát đều
đều với dòng ngắn dòng dài trở nên lạ lẫm, chỉ khi nào đọc lên mới phát hiện
ra sự quen thuộc của nhịp điệu lục bát.
Để thơ ca tiến gần đến cuộc sống, xét về chữ viết, tác giả cũng thay đổi
cách viết. có khi không còn viết hoa đầu dòng nữa để tạo nên sự liền mạch
của cả khổ thơ. Bằng tai nghe, đoạn thơ đi liền như một nhịp thở, bằng mắt
nhìn nó như một dàn đồng ca thay áo mới tươi vui, trẻ trung:
Thôi đành
Quan họ ra về
Áo khăn để lại lời thề chia hai

Ngàn năm sau
Vạn năm sau
Lửng lơ câu hát quặn đau kiếpngười
(Vòm trời khác - Thôi đành quan họ)
Rõ ràng là nếu diễn đạt theo mô hình bằng phẳng, thì những câu lục bát
dẫn ra ở trên của Văn Công Hùng sẽ bớt đi rất nhiều tâm trạng... Sự cải tiến
dòng thơ lục bát kiểu như thế này của ông đã chứng minh sức mạnh nội tại
trường tồn của thể thơ dân tộc. Một mặt, nó thay đổi về diện mạo để thích ứng
và hòa nhập vào dòng chảy chung của thơ ca thời đại mới; một mặt khác, cho
dù biến hóa thế nào đi nữa thì thể thơ này vẫn giữ được cốt cách âm luật của
riêng mình như nó vẫn được gìn giữ từ bao đời nay. Có lẽ, với bản lĩnh này,
108

lục bát chắc chắn sẽ không thể là thứ đồ cổ cũ kỹ để trên bàn thờ tổ tiên mà
vẫn có giá trị thực tiễn đối với nền thi ca Việt Nam đương đại. Vấn đề chỉ còn
tùy thuộc vào những người sử dụng, phải sử dụng sao cho thật khéo, thật sáng
tạo để đem lại những năng lực biểu hiện mới.

Tiểu kết Chương 3


Trong sự phát triển, thơ đương đại luôn trẻ trung vì đã biết sử dụng tối
đa sự phong phú của ngôn ngữ dân tộc - yếu tố thứ nhất của văn học. Nếu thơ
tự do ưa dùng một hệ thống ngôn ngữ với nhiều kiểu cú pháp mới để thích
hợp với lối tư duy phức hợp hậu công nghiệp, thì thơ lục bát vẫn giữ cho
mình nét mộc mạc, bình dân, với các hình thức chuyển đổi nghĩa bóng bẩy,
các lối ví von, cường điệu thường thấy trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, vẫn
thiên về các kiểu câu truyền thống chỉ mở rộng sự dung nạp mới về ngôn ngữ
văn chương trên phương diện từ vựng, dùng nhiều khẩu ngữ, phương ngữ.
Dung hòa được chất truyền thống và hiện đại, tạo ra cái mới mà không xung
đột với cái cũ một điều không phải dễ dàng gì đối với nhiều nhà thơ hiện nay.
Có thể thấy Văn Công Hùng phần nào cũng đã khẳng định được phong
cách nghệ thuật riêng của mình qua những thể nghiệm này. Tất nhiên là vẫn
có những lúc quá đủ, nhưng nhiều hơn, người ta vẫn thấy lục bát của ông
mang một vẻ đẹp vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa mang hồn phố nhưng vẫn
còn hồn quê... và quan trọng hơn, khi ngâm nga những câu lục bát ấy, người
ta biết đó là lục bát của nhà thơ Văn Công Hùng chứ không phải của ai khác.
109

KẾT LUẬN

1. Mỗi khi nhắc đến phong cách nhà văn, người ta thường nghĩ đến sự
thụ cảm và miêu tả hiện thực một cách độc đáo của nghệ sĩ. Để kiến tạo nên
những nét đặc sắc trong phong cách của một nhà thơ chúng ta không thể
không nói đến những đóng góp của hệ thống từ vựng. Nhờ có hệ thống ngôn
từ mà phong cách nghệ thuật giàu sáng tạo mới không bị mờ đi theo năm
tháng. Ngược lại cùng với thời gian, nó càng hiện ra những vẻ đẹp mà trước
đó có khi còn khuất lấp. Với Văn Công Hùng phong cách thơ ông đã làm
phong phú thêm những trang thơ Việt Nam trong thời đại mới. Và trong dòng
chảy mạnh mẽ ấy nhà thơ đã góp một tiếng nói riêng, một nhân sinh quan đầy
cá tính về con người.
2. Văn Công Hùng là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ
sau thập kỷ tám mươi ở Tây Nguyên. Nhà thơ vừa mang trong mình những
cảm hứng nghệ thuật có tính truyền thống, vừa mang những cảm hứng mới
của đời sống hiện thực với nhiều thay da đổi thịt nhưng cũng nhiều đòi hỏi và
thách thức mới. Điều này khiến người nghệ sĩ (nói chung) phải tìm tòi, suy
nghĩ để mở một hướng đi mới cho việc sáng tạo nghệ thuật của bản thân cũng
là của nền văn học mới. Ngay khi nghệ thuật lên tiếng đòi “cởi trói” thì Văn
Công Hùng đã kịp hối thúc mình đáp ứng được những đòi hỏi, thúc bách đó.
Đó là thành quả có được nhờ việc không ngừng trăn trở và suy nghĩ về đời
sống xã hội cũng như đời sống văn học. Những suy tư, chiêm nghiệm không
lúc nào thiếu vắng trong ngày thường đó đã tạo ra những nét phong cách riêng
của nhà thơ. Tuy nhiên, con đường để hình thành, phát triển và khẳng định
phong cách của ông không đơn giản, dễ dàng. Ông đã phải lao động nghệ
thuật thật sự nghiêm túc bên cạnh tài năng và bản lĩnh cá nhân.
3. Hệ thống từ vựng trong văn bản thơ của Văn Công Hùng được khảo
sát trên các phương diện cấu tạo, nguồn gốc, ngữ nghĩa, phạm vi sử dụng.
110

Thông qua các số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy hệ thống từ vựng đã
tham gia kiến tạo nên những đặc sắc trong nội dung của thế giới thơ Văn
Công Hùng. Lớp từ vựng được sử dụng trong thơ của Văn Công Hùng thể
hiện rõ những suy nghĩ, cách nhìn về cái đẹp và đời sống thông qua việc triết
luận về chúng. Ở phương diện này, nhà thơ cũng cho ta thấy tính độc đáo, sâu
sắc trong suy nghiệm của nhà thơ yếu tố triết luận vì vậy là một phần không
thể thiếu trong phong cách nghệ thuật thơ ông; Thứ hai là, phong cách ngôn
ngữ, thể loại, kết cấu với những dấu ấn rất riêng trong việc sử dụng các biểu
hiện nghệ thuật để chuyển tải nội dung.
4. Từ góc độ thẩm mĩ, hệ thống từ vựng đã giúp Văn Công Hùng khẳng
định ông là một thi sĩ trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại có phong cách, lối
sống và nhân cách đáng quý. Nhà thơ được bạn đọc nhiều thế hệ yêu mến,
được đồng nghiệp và đàn em tin tưởng, nể trọng. Ông vui vẻ, dí dỏm và lịch
thiệp với mọi người nhưng với bản thân lại có phần khe khắt. Tác giả sống
giản dị nhưng khi tiếp xúc với mọi người lại rất linh hoạt tự tin. Ngôn ngữ thơ
ông có nét rất riêng, không chỉ nằm ở ngữ nghĩa mà còn ở kĩ thuật kết hợp từ
vựng. Nhìn bề ngoài thì có vẻ cứng, thô tháp nhưng bên trong ngữ nghĩa lại
mềm mại, uyển chuyển, bên ngoài thì có vẻ chỉ là những bài thơ luận lý, tỉnh
táo nhưng thật sự triết luận chỉ là một phần phát sinh từ gốc cảm xúc sâu sắc,
dạt dào yêu thương, thấu hiểu và tôn trọng cuộc sống và con người.
Để đánh giá rõ những nét đẹp trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ của Văn
Công Hùng từ góc độ từ vựng, không chỉ thông qua những con số thống kê,
tần số xuất hiện mà còn cần phải đánh giá những liên tưởng có được từ sự kết
hợp từ vựng một cách linh hoạt, đa dạng, thần tình, linh động và nhuần
nhuyễn giàu sự nghiền ngẫm và chiêm nghiệm trong từng bài thơ. Tìm hiểu
thế giới thẩm mĩ của từ vựng trong ngôn ngữ thơ của ông, chúng ta có thể
nhận thấy bên cạnh những bài thơ hay, giàu cảm xúc, ý nghĩa, thì nhà thơ
cũng có những bài thơ chưa hay, khó đọc, khó hiểu, khó cắt nghĩa. Hơn nữa,
111

thơ ông chưa được đưa vào nghiên cứu nhiều trong nhà trường, do vậy, còn
có nhiều người yêu thơ vẫn chưa có dịp tiếp xúc và tìm hiểu. Vì vậy, nghiên
cứu về thơ của Văn Công Hùng chưa nhiều, chủ yếu là những bài viết nhỏ lẻ,
những nhận xét ngắn gọn mà ít có một công trình hoàn chỉnh nghiên cứu, vì
những lý do trên, mà người viết khi đi nghiên cứu về Đặc trưng từ vựng trong
thơ của Văn Công Hùng đã gặp không ít khó khăn trong việc lý giải và thấu
hiểu chiều sâu phong cách nghệ thuật thơ ông.
5. Luận văn này chỉ là bước khởi đầu cho một công trình khoa học quy
mô hơn về ngôn ngữ thơ ca của Văn Công Hùng - một tác giả mà theo nhiều
người là có vai trò quan trọng ở Tây Nguyên trong quá trình cách tân thơ Việt
Nam đương đại. Và vì vậy, việc tìm hiểu thơ ông cần được quan tâm nghiên
cứu nhiều hơn nữa. Có như thế, chúng ta sẽ có những căn cứ xác đáng hơn,
toàn diện hơn về gương mặt thơ ca đương đại Việt Nam.
112

NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT

1. Văn Công Hùng (1992), Hát rong (thơ), NXB Đà Nẵng.


2. Văn Công Hùng (1999), Bến đợi (thơ), Hội văn học nghệ thuật Gia Lai.
3. Văn Công Hùng (2009), Đêm không màu(thơ), NXB Hội Nhà văn, HN.
4. Văn Công Hùng (2010), Lục bát (thơ), NXB Hội Nhà văn, HN.
5. Văn Công Hùng (2012), Vòm trời khác, NXB Hội Nhà văn, HN.
6. Văn Công Hùng (2016), Cầm nhau mà đi (thơ), NXB Hội Nhà văn, HN.
7. Văn Công Hùng (2019), Trong mơ có thực (thơ), NXB Hội Nhà văn, HN.
113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đào Duy Anh (1999), Từ điển Hán Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[2] Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
[3] Lại Nguyên Ân (1999), Từ điển Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ
XIX), NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4] Vũ Thị Ân (2013), Đặc trưng từ vựng Thơ mới 1932 – 1945, NXB Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
[5] Phạm Quốc Ca (2002), “Ý thức cá nhân trong thơ trữ tình Việt Nam sau
1975”, Tạp chí Văn học, số 12, Hà Nội.
[6] Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000 (chuyên
luận), NXB Hội nhà văn.
[7] Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000 (chuyên
luận), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[8] Đỗ Hữu Châu (1993), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
[9] Nguyễn Văn Dân (1998), Nghiên cứu văn học, lý luận và ứng dụng, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[10] Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận và so sánh, NXB KHXH, Hà Nội.
[11] Miên Di (2010), Lục bát Văn Công Hùng – rời ngang một giọt không tên,
http://www.miendi.com/2010/luc-bat-van-cong-hung-ngang-mot giot
[12] Trần Thị Vân Dung (2012), “Thơ Văn Công Hùng nhìn từ hình tượng cái
tôi trữ tình chiêm nghiệm - triết lý", Tạp chí sông Hương, số 283.
[13] Trần Thị Vân Dung (2012), Thế giới nghệ thuật thơ Văn Công Hùng,
Luận văn thạc sĩ.
[14] Chử Anh Đào (2000), “Có một thời lưu luyến”, Gia Lai cuối tuần, ngày
ngày 16/3/2000.
114

[15] Nguyễn Thị Anh Đào (2007), Đọc tập thơ Gõ chiều vào bàn phím của
Văn Công Hùng, báo Đà Nẵng cuối tuần,18/01/2007.
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=4022
[16] Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam (tái bản lần 1), NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
[17] Hữu Đạt (chủ biên) (2006), Cơ sở tiếng Việt, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
[18 ] Phan Duy Đồng (2004), “Cảm nhận trong mưa của Văn Công Hùng”,
Báo Gia Lai, ngày 11/ 2/2004.
[19] Đinh Văn Đức (chủ biên) (2018), Tiếng Việt lịch sử - Một tham chiếu hồi
quan, NXB Văn học, Hà Nội.
[20] Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ và hình thức thơ, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
[21] Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[22] Hà Minh Đức (chủ biên) (1991), Trao đổi ý kiến: Mấy vấn đề lý luận văn
nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB Sự thật, Hà Nội.
[23] Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lí thơ, NXB Văn học.
[24] Trinh Đường (biên soạn) (1991), Ngày hội thơ, NXB Văn học, Hà Nội.
[25] Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học.
[26] Nguyễn Thiện Giáp (2011), Vấn đề “từ” trong tiếng Việt, NXB Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
[27] Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm Ngôn ngữ học, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
[28] Hồ Thế Hà - Mã Giang Lân (1993), Sức bền của thơ, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
[29] Hồ Thế Hà (2007), Những khoảnh khắc đồng hiện, NXB Văn học, Hà Nội.
[30] Hồ Thế Hà (2012), Văn Công Hùng – những nẻo đường hát rong
http://www.tapchinhavan.vn/new/Tac-pham-van-Du-luan/ Thơ Văn
115

Công Hùng Những nẻo đường hát rong.


[31] Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đh Quốc gia Hà Nội.
[32] Nguyễn Phan Hách (biên soạn) (2007), Tinh hoa thơ Việt (T1,2,3), NXB
Hội nhà văn.
[33] Nguyễn Văn Hạnh (1998), Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ sau 1975, Tạp
chí Văn học, số 9, Hà Nội.
[34] Nguyễn Văn Hạnh (1998), "Về quá trình hiện đại hóa của văn học Việt
Nam", Tạp chí Văn nghệ, số 51, Hà Nội.
[35] Nguyễn Văn Hạnh (1998), Về thi pháp học - Mấy vấn đề về ngôn ngữ và
văn học, NXB KHXH, Hà Nội.
[36] Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học, vấn
đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[37] Trần Mạnh Hảo (1994), "Thơ hiện đại và hiện đại thơ", Tạp chí Văn
nghệ, số 19, Hà Nội.
[38] Nguyễn Thái Hoà (2005), Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[39] Văn Công Hùng (1992), Bến đợi, Hội văn học nghệ thuật Gia Lai [40]
Văn Công Hùng (2011), “Pơ thi khắc khoải tượng mồ”
http://www.vanconghung.com/2010/po-thi-khac-khoai-tuong-
mo.html
[40] Văn Công Hùng (2012), Lời nhắn dã quỳ,
http://www.vanconghung.com/2010/loi-nhan-da-quy.html
[41] Hoàng Hưng (1993), “Thơ mới và thơ hôm nay", Tạp chí văn học, số 2,
Hà Nội.
[42] Trần Hoàng Thiên Kim (2011), Nhà thơ Văn Công Hùng Tôi là người ham
chơi nghiêm túc, http://vncacand.com.vn/doi-song-van-hoa/ Nha-tho-
Van-Cong-Hung-Toi-la-nguoi-ham-choi-nghiem-tuc-329308
116

[43] Đinh Trọng Lạc (chủ biên) (1997), Phong cách học Tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[44] Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[45] Mã Giang Lân (1995), “Đi tìm một định nghĩa cho thơ”, Tạp chí văn học,
số12, Hà Nội.
[46] Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, NXB Thanh niên, Hà Nội.
[47] Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[48] Thu Loan (2007), Đề tài nghiên cứu lịch sử Văn học Gia Lai giai đoạn
1945 - 2008, theo quyết định số 1694/ QĐ-UBND ngày 03/10/2007
của UBND tỉnh Gia Lai.
[49] Lưu Ly (2012), “Ấn tượng Tây Nguyên trong thơ Văn Công Hùng", Tạp
chí nhà văn, số tháng 9/2012.
[50] Phương Lựu (2005), Lý luận văn học hiện đại phương Tây, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
[51] M.B. Khrápchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, (Lê Sơn dịch), NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
[52] Hoàng Như Mai (1961), Văn học Việt Nam hiện đại (1945 – 1960), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[53] Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Văn
học, Hà Nội.
[54] Ngô Quân Miện (1994), “Chuyển biến các thể thơ trong tiến triển của
thơhôm nay”, Tạp chí Văn nghệ, số 31, Hà Nội.
[55] Ngô Quân Miện (1994), “Chuyển biển các thể thơ trong tiến triển của thơ
hôm nay”, Tạp chí Văn nghệ số 31, Hà Nội.
[56] Nguyễn Hữu Hồng Minh, Thế hệ các nhà thơ Việt Nam sau 1975 - Một
hành trình thơ Việt, Nguồn hnv.vn.
117

[57] Nguyễn Thanh Mừng (1999), “Văn Công Hùng – người hát rong phố
núi”, Tạp chí Sông Hương, số 191.
[58] Nguyễn Thanh Mừng (2005), “Văn Công Hùng với hoa tường vi trong
mưa", Báo Gia Lai tháng 12.
[59] Triều Nguyên (2017), Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt địa phương
vùng Huế, NXB Thuận Hoá, Huế.
[60] Thuận Nghĩa, Lồng lộng sắc màu, http://thuannghia.vnweblogs.com/post
[61] Vũ Đức Nghiệu (2011), Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, NXB Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
[62] Nguyễn Tri Nguyên (1994), “Nội sinh như là động lực của hiện đại hóa
thơ ca Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 11, Hà Nội.
[63] Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học,NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[64] Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
[65] Nhiều tác giả (1991), “Sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân của
cái tôi trữ tình trong thơ hôm nay", Tạp chí văn học, số 4, Hà Nội.
[66] Nhiều tác giả (1999), Một số vấn đề văn học Việt Nam, NXB Văn học,
Hà Nội.
[67] Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế Giới.
[68] Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
[69] Phạm Phú Phong (2009), Mây trời của gió rồi sẽ mang đi, NXB Lao
động Hà Nội
[70] R.Jakobson, Trần Huy Châu biên khảo (2008), Thi học và ngữ học lý
luận văn học phương Tây hiện đại, NXB Văn học.
[71] Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm,
TP. HCM.
[72] Trần Đình Sử (1994), “Hành trình thơ Việt Nam hiện đại", Tạp chí Văn
118

nghệ, Hà Nội.
[73] Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
[74] Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[75] Trần Đình Sử (1999), “Ngôn ngữ và việc lĩnh hội tác phẩm thơ”, Tạp chí
văn học, số 10, Hà Nội.
[76] Tạ Văn Sỹ (2011), Văn Công Hùng – nỗi buồn loãng cả cơn say
http://phongdiep.net/default.asp?action=articleID=4829
[77] Hoài Thanh, Hoài Chân (1997), Thi nhân Việt Nam - NXB Văn học, Hà Nội.
[78] Phạm Hùng Việt (chủ biên) (2018), Từ ngữ Hán Việt – Tiếp nhận & sáng
tạo, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[79] Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

You might also like