Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 6

BÀI TẬP NỘI KHOA 2

CHUYÊN ĐỀ 1

SVTH: LÊ THỊ NHẬT NGUYÊN - MSSV: 19112125


HUỲNH THANH NHÀN - MSSV: 19112129
NGUYỄN THỊ HỒNG NHI - MSSV: 19112132
LỚP: NỘI KHOA 2 THỨ 6 TIẾT 7
NHÓM: 62
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS LÝ HỒNG SƠN

I/ THẢO LUẬN VỀ CA BỆNH


1. Hãy phân tích về sự bất thường (nếu có) ghi nhận được của sữa trong trường hợp
này và cho biết nguồn gốc phát sinh?
Sự bất thường: sữa vón cục, hơi đặc lại, có ngả sang vàng nhạt
Nguồn gốc có thể là do kết quả của quá trình viêm, vi khuẩn xâm nhập, tăng sinh, tạo
ra độc tố và enzym kích thích giải phóng các chất trung gian gây viêm. Các chất trung gian
kéo các tế bào miễn dịch như bạch cầu, chủ yếu là bạch cầu đa nhân và đại thực bào về phía
mô bị nhiễm bệnh và vào ống dẫn sữa (Mattila, 1986). Viêm tiết dịch, kết hợp với tế bào bạch
cầu và protein trong sữa tạo thành màng mỏng phủ trên niêm mạc ống dẫn sữa, khi vắt sữa
sẽ bong tróc, tạo thành sữa vón và cặn sữa, đồng thời làm thay đổi màu sữa.
Ngoài ra còn do sự biến tính của protein trong sữa bò bởi β-lactoglobulin (β-lg), một
chất trung gian của phản ứng biến tính, có thể kết hợp với các protein khác hoặc bị hấp thụ
tạo các cặn sữa (Felfoul và cs, 2015).
2. Những nguyên nhân và các phương pháp được áp dụng để chẩn đoán chính xác
nguyên nhân gây bệnh?
2.1 Nguyên nhân
Các nguyên nhân có thể gây ra tình trạng trên là:
Viêm vú bò do nhiễm trùng trong vú (intra-mammary infection) gây ra bởi vi khuẩn.
Nhiều loài vi khuẩn đã được xác định là tác nhân gây bệnh viêm vú ở bò. Có thể nhiễm trùng
do vi khuẩn truyền nhiễm từ bò này sang bò khác, đặc biệt trong quá trình vắt sữa (Schreiner
và Ruegg, 2002) hoặc từ môi trường (Lakew và cs, 2019).
Các mầm bệnh truyền nhiễm như Staphylococcus aureus và Streptococcus agalactiae
và các loài ít phổ biến hơn như Mycoplama bovis và Corynebacterium , sống trên bầu vú và
da núm vú của bò (Kibebew, 2017). Mầm bệnh môi trường thường là mầm bệnh cơ hội, tồn
tại trong ổ và chuồng của đàn. Các loài vi khuẩn đã được báo cáo là gây ra bệnh viêm vú do
môi trường là Streptococcus spp., các loài coliforms như E. coli , Klebsiella spp.,
Enterobacter spp., Pseudomonas spp.,… (Bogni C và cs, 2011).
Do dinh dưỡng không hợp lý, bởi trong thời kỳ tiết sữa, bò sữa có nhu cầu cao hơn về
năng lượng và chất dinh dưỡng để tổng hợp sữa non và sữa. Cân bằng năng lượng âm có liên
quan đến chế độ ăn thiếu hụt các nguyên tố vi lượng (ví dụ: selen, sắt, đồng, kẽm, coban,
crom), axit amin (ví dụ: lysine, L-histidine) và vitamin (ví dụ: A, C, E , β-caroten, lycopene),
dẫn đến ức chế miễn dịch ở cấp độ tế bào và thể dịch trong thời kỳ bắt đầu tiết sữa, do đó làm
tăng khả năng nhiễm trùng (M và Ha, 2015; Matsui, 2012).
Do yếu tố di truyền và giống bò sữa, giống có năng suất cao, đặc biệt là bò Holstein-
Friesian, dường như dễ bị viêm vú về mặt di truyền hơn so với các giống cho năng suất trung
bình. Hơn nữa, những con bò đẻ nhiều như trong ca bệnh dễ bị nhiễm trùng vú hơn so với
những con bò cái đầu tiên do suy giảm miễn dịch (M và Ha, 2015).
Ngoài ra điều kiện môi trường và quản lý đàn gia súc có ảnh hưởng quyết định đến
sức khỏe và phúc lợi của động vật. Mật độ nuôi cao, nền chuồng bị ô nhiễm, chất độn chuồng
ẩm ướt, thông gió kém và khí hậu nóng ẩm có thể thúc đẩy sự phát triển của mầm bệnh viêm
vú và tăng khả năng tiếp xúc của bò, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh viêm vú cao hơn (Abebe và cs,
2016; M và Ha, 2015; Zeinhom và cs, 2016).
2.2 Các phương pháp chẩn đoán
a) Chẩn đoán viêm vú bằng CMT (California Mastitis Test)
CMT là một công cụ chẩn đoán để hỗ trợ chẩn đoán nhanh bệnh viêm vú ở bò sữa và
quản lý sức khỏe bầu vú. CMT sẽ chỉ kích hoạt phản ứng nhìn thấy được với nồng độ từ
400.000 tế bào bạch cầu/ml trở lên. Sữa từ vú bị viêm có xu hướng đông lại khi thử nghiệm.
Mức độ keo hóa cho thấy sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của viêm vú (Macdonald
Campus Farm Cattle Complex, 2018).
b) Nuôi cấy phân lập
Phát hiện mầm bệnh dựa trên nuôi cấy vi khuẩn vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng mặc
dù có nhiều điểm khác biệt và bất tiện (Hogan và cs, 1999). Theo Trần Trung Mỹ và cs (2020),
mẫu sữa sau khi thu thập, được ria cấy (10 - 30μl) trên môi trường thạch máu và đem ủ ở
37±1oC trong 18 – 24 giờ, kết quả cho thấy các tác nhân gây bệnh có nguồn gốc từ môi trường
chiếm tỷ lệ 51,57% tổng số các tác nhân gây bệnh (chủ yếu là vi khuẩn E. coli, Klebsiella,
Streptococcus spp, Entorococus,...).
c) Phương pháp PCR
Phương pháp PCR có thể phát hiện không chỉ các loài vi khuẩn mà còn nấm men, nấm
mốc, ký sinh trùng và vi-rút trong hỗn hợp sữa. PCR có độ đặc hiệu và độ nhạy cao nhưng
khá tốn kém khi sử dụng như một công cụ chẩn đoán thông thường (Perreten và cs, 2013).
PCR nhạy hơn, nhanh hơn. và đáng tin cậy so với phương pháp nuôi cấy vi khuẩn để phát
hiện các bệnh viêm vú mầm bệnh khác nhau (Cantekin và cs, 2015).
c) Phương pháp thử nghiệm Blue Methylen (Blue Methylen Test)
Thử nghiệm này dựa trên thực tế là màu xanh lam của dung dịch Blue Methylen được
thêm vào, sữa sẽ bị mất màu khi oxy có trong sữa cạn kiệt do hoạt động của vi sinh vật. Sự
mất màu càng sớm thì chất lượng vi khuẩn của sữa càng kém, theo Nếu mất màu trước 15
phút: sữa nhiễm vi sinh rất nhiều. Theo IS 1479-3 (1997):
Nếu mất màu sau 20 phút đến 2 giờ: sữa bị nhiễm nặng.
Nếu mất màu sau 2 – 5 giờ: sữa bị nhiễm nhẹ.
Nếu mất màu sau hơn 5 giờ: sữa được coi như đạt tiêu chuẩn.
d) Đếm số lượng tế bào soma (Somatic Cell Counter – SCC)
Số lượng tế bào soma (SCC) là một chỉ số chính về chất lượng sữa. Phần lớn các tế
bào soma là bạch cầu - xuất hiện với số lượng ngày càng tăng trong sữa thường là phản ứng
miễn dịch đối với mầm bệnh gây viêm vú và một số lượng nhỏ tế bào biểu mô được thải ra
từ bên trong bầu vú khi bị nhiễm trùng. SCC được định lượng bằng số lượng tế bào trên mỗi
ml sữa. Theo Agriculture and Horticulture Development Board, 2023:
• Một cá thể bò có SCC từ 100.000 trở xuống cho thấy bò không bị nhiễm bệnh,
tức là không có tổn thất sản xuất đáng kể do viêm vú cận lâm sàng.
• Ngưỡng SCC là 200.000 sẽ xác định liệu một con bò có bị nhiễm bệnh viêm vú
hay không. Những con bò có kết quả lớn hơn 200.000 có khả năng cao bị nhiễm
bệnh
• Bò bị nhiễm mầm bệnh đáng kể có SCC từ 300.000 trở lên.

2.3 Chẩn đoán


Chẩn đoán: Viêm vú cận lâm sàng.
Vì qua khám lâm sàng bầu vú của bò không có biểu hiện gì bất thường, nhiệt độ trực
tràng ở mức bình thường, bò không sốt và ăn uống bình thường, nhu động dạ cỏ tốt. Tuy
nhiên sữa có dấu hiệu vón cục, có cặn sữa và thay đổi màu sắc.
Viêm vú cận lâm sàng được đặc trưng bởi tình trạng viêm nhẹ của tuyến vú không thể
chẩn đoán được khi kiểm tra bên ngoài bầu vú do các dấu hiệu lâm sàng tiềm ẩn. Không có
thay đổi có thể nhìn thấy được ở cả bầu vú và sữa trong giai đoạn cận lâm sàng của bệnh,
không ghi nhận tình trạng viêm rõ ràng và không có triệu chứng (Bobbo và cs, 2017).
Các dấu hiệu khác của viêm vú cận lâm sàng bao gồm tăng số lượng vi khuẩn
trong sữa, giảm sản lượng sữa và thay đổi thành phần và chất lượng sữa (Bian và cs, 2014).
2.4 Các biện pháp được áp dụng để phòng bệnh và điều trị bệnh
a) Phòng bệnh
Thực hiện vắt sữa đúng quy trình và đúng kỹ thuật: Trước vắt sữa cần rửa sạch, sát
trùng, lau khô vú, nhất là núm vú. Vệ sinh sạch tay người vắt sữa hoặc máy vắt sữa. Cần vắt
sữa vào thời điểm nhất định, vắt kiệt sữa để kích thích tiết sữa đồng thời giảm nguy cơ viêm
vú. Vắt theo thứ tự: bò cho sữa lứa đầu tiên, bò bình thường, bò có số lượng tế bào bạch cầu
trong sữa cao và bò bị nhiễm trùng vắt sau cùng.
Sau khi vắt sữa: Nhúng đầu vú vào dung dịch thuốc sát trùng, Iodine, Biodine, Revanol.
Không để bò nằm ngay sau khi vắt sữa, cho bò ăn thức ăn để bò đứng sau khi vắt sữa tránh
cho bầu vú và núm vú tiếp xúc trực tiếp với nền chuồng.
Vệ sinh, sát trùng chuồng trại, chất lót chuồng, dụng cụ chăn nuôi. Đảm bảo chuồng
luôn khô ráo, thoáng mát. Dùng vaccin phòng bệnh viêm vú bò sữa, định kỳ 6 tháng 1 lần
(Tạp Chí Chăn Nuôi Việt Nam, ).
Nâng cao sức đề kháng bằng cách cân bằng khẩu phần đảm bảo về glucid, lipid, protein,
chất xơ, cần phải cung cấp đủ những loại đa khoáng, vi khoáng và vitamin. Đảm bảo chế độ
vận động cho bò và hạn chế tối đa những tác động gây stress cho bò (Nguyễn Văn Phát, 2010)
Sử dụng kháng sinh có hoạt tính kéo dài bơm vào vú ở lần vắt sữa cuối cùng làm giảm
được tỉ lệ nhiễm trùng mới trong suốt thời gian cạn sữa (Cheng và Han, 2020).
b) Điều trị
Kháng sinh: Phân lập vi khuẩn, thử kháng sinh đồ để chọn kháng sinh phù hợp. Trong
thời gian đợi kết quả kháng sinh đồ, có thể chọn kháng sinh phổ rộng như penicillin, ceftiofur,
tetracycline, sulfonamide-trimethoprim, macrolide. Điều trị kết hợp bằng đường tiêm và bơm
kháng sinh trực tiếp vào thùy vú cho kết quả nồng độ kháng sinh trong mô vú cao hơn và tỉ
lệ khỏi bệnh cũng cao hơn (Pyörälä, 2009).
Dùng chất kháng viêm glycyrrhizin bơm vào thùy vú viêm làm giảm số lượng tế bào
bản thể trong sữa (Nguyễn Văn Phát, 2010). Tăng cường vắt sữa để loại thải mầm bệnh.
Quản lý chế độ ăn hợp lý trong giai đoạn chuyển tiếp như bổ sung vitamin E và kẽm
là rất quan trọng để ngăn ngừa nhiễm trùng viêm vú và tăng tiết sữa (Bayril và cs, 2015;
Chandra và cs, 2013).

II/ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Mỹ T. T., Thiện L. V., Hiệp P. T., & Bình Đ. X. (2020). Kết quả phân lập một số vi
khuẩn gây bệnh viêm vú bò tại các trang trại bò sữa TH. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y,
7, Article 7.
Phát N. V. (2010). BỆNH VIÊM VÚ BÒ SỮA VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ.
Phòng và trị bệnh viêm vú trên bò sữa—Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam. (n.d.). Retrieved April
14, 2023, from https://nhachannuoi.vn/phong-va-tri-benh-viem-vu-tren-bo-sua/
Abebe, R., Hatiya, H., Abera, M., Megersa, B., & Asmare, K. (2016). Bovine
mastitis: Prevalence, risk factors and isolation of Staphylococcus aureus in dairy herds at
Hawassa milk shed, South Ethiopia. BMC Veterinary Research, 12(1), 270.
https://doi.org/10.1186/s12917-016-0905-3
Bayril, T., Yildiz, A. S., Akdemir, F., Yalcin, C., Köse, M., & Yilmaz, O. (2015). The
Technical and Financial Effects of Parenteral Supplementation with Selenium and Vitamin
E during Late Pregnancy and the Early Lactation Period on the Productivity of Dairy Cattle.
Asian-Australasian Journal of Animal Sciences, 28(8), 1133–1139.
https://doi.org/10.5713/ajas.14.0960
Bian, Y., Lv, Y., & Li, Q. (2014). Identification of Diagnostic Protein Markers of
Subclinical Mastitis in Bovine Whey Using Comparative Proteomics. Bulletin of the
Veterinary Institute in Pulawy, 58(3), 385–392. https://doi.org/10.2478/bvip-2014-0060
Bobbo, T., Ruegg, P. L., Stocco, G., Fiore, E., Gianesella, M., Morgante, M., Pasotto,
D., Bittante, G., & Cecchinato, A. (2017). Associations between pathogen-specific cases of
subclinical mastitis and milk yield, quality, protein composition, and cheese-making traits
in dairy cows. Journal of Dairy Science, 100(6), 4868–4883.
https://doi.org/10.3168/jds.2016-12353
Chandra, G., Aggarwal, A., Singh, A. K., Kumar, M., & Upadhyay, R. C. (2013).
Effect of vitamin e and zinc supplementation on energy metabolites, lipid peroxidation, and
milk production in peripartum sahiwal cows. Asian-Australasian Journal of Animal
Sciences, 26(11), 1569–1576. https://doi.org/10.5713/ajas.2012.12682
Cheng, W. N., & Han, S. G. (2020). Bovine mastitis: Risk factors, therapeutic
strategies, and alternative treatments — A review. Asian-Australasian Journal of Animal
Sciences, 33(11), 1699–1713. https://doi.org/10.5713/ajas.20.0156
Felfoul, I., Lopez, C., Gaucheron, F., Attia, H., & Ayadi, M. A. (2015). A laboratory
investigation of cow and camel whey proteins deposition under different heat treatments.
Food and Bioproducts Processing, 96, 256–263. https://doi.org/10.1016/j.fbp.2015.09.002
Hogan, J.S., Gonzalez, R.N., Harmon, R.J., Nickerson, S.C., Oliver, S.P., Pankey, J.W.
and Smith, K.L., 1999. Laboratory handbook on bovine mastitis, National Mastitis Council,
Madison, WI, 6–10
IS 1479-3 (1977): Methods of Test for Dairy Industry, Part III: Bacteriological
Analysis of Milk [FAD 19: Dairy Products and Equipment]
Kibebew, K. (2017). Bovine Mastitis: A Review of Causes and Epidemiological Point
of View. Journal of Biology, Agriculture and Healthcare, 7(2), Article 2.
Lakew, B. T., Fayera, T., & Ali, Y. M. (2019). Risk factors for bovine mastitis with
the isolation and identification of Streptococcus agalactiae from farms in and around
Haramaya district, eastern Ethiopia. Tropical Animal Health and Production, 51(6), 1507–
1513. https://doi.org/10.1007/s11250-019-01838-w
M, S., & Ha, T. (2015). A Treatise on Bovine Mastitis: Disease and Disease
Economics, Etiological Basis, Risk Factors, Impact on Human Health, Therapeutic
Management, Prevention and Control Strategy. Advances in Dairy Research, 04(01).
https://doi.org/10.4172/2329-888X.1000150
Matsui, T. (2012). Vitamin C nutrition in cattle. Asian-Australasian Journal of Animal
Sciences, 25(5), 597–605. https://doi.org/10.5713/ajas.2012.r.01
Perreten, V., Endimiani, A., Thomann, A., Wipf, J. R. K., Rossano, A., Bodmer, M.,
Raemy, A., Sannes-Lowery, K. A., Ecker, D. J., Sampath, R., & Bonomo, R. A. (2013).
Evaluation of PCR electrospray-ionization mass spectrometry for rapid molecular diagnosis
of bovine mastitis. Journal of Dairy Science, 96(6), 3611–3620.
https://doi.org/10.3168/jds.2012-6124
Pyörälä, S. (2009). Treatment of mastitis during lactation. Irish Veterinary Journal,
62(4), S40. https://doi.org/10.1186/2046-0481-62-S4-S40
Quinn, P.J. Carter, M.E. Markey, B. K. and Carter, G. R. (2002): Veterinary
Microbiology and Microbial Diseases, Bacterial Causes of Bovine Mastitis, 8th Edition,
Mosby International Limited, London, pp. 465 475
Weigel, K. A., & Shook, G. E. (2018). Genetic Selection for Mastitis Resistance. The
Veterinary Clinics of North America. Food Animal Practice, 34(3), 457–472.
https://doi.org/10.1016/j.cvfa.2018.07.001
Z. Cantekin, Y. Ergün, G. Dogruer, M. Sarıbay, H. Solmaz. (n.d.). Comparison of PCR
and culture methods for diagnosis of subclinical mastitis in dairy cattle. | Semantic Scholar.
Retrieved April 15, 2023, from https://www.semanticscholar.org/paper/Comparison-of-
PCR-and-culture-methods-for-diagnosis-Cantekin-
Erg%C3%BCn/66dd72862d812a55a3c20ffe05e9a9e1a8726633
Zeinhom, M. M. A., Abdel Aziz, R. L., Mohammed, A. N., & Bernabucci, U. (2016).
Impact of Seasonal Conditions on Quality and Pathogens Content of Milk in Friesian Cows.
Asian-Australasian Journal of Animal Sciences, 29(8), 1207–1213.
https://doi.org/10.5713/ajas.16.0143

You might also like