Chiếc Thuyền Ngoài Xa

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

I.

GIỚI THIỆU CHUNG

1. TÁC GIẢ: Nguyễn Minh Châu - người mở đường tinh anh

- Sinh ngày 23/10/1930 trong một gia đình nông dân ở làng Thơi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- CON NGƯỜI:

+ Dưới cái bề ngoài không gì nổi bật, thậm chí hơi dè dặt, ngần ngại trước đám đông, là người có nhiều ưu tư
trăn trở.

+ Có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn của mình và một ý chí kiên định con đường đã lựa chọn, dám chấp
nhận mọi sự khó khăn, thách thức.

+ Ý thức trách nhiệm của ngòi bút trước thời thời đại.

- PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:

- Tư tưởng nhân bản: Dùng ngòi bút trợ lực cho con người trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, đồng
thời luôn đặt niềm tin vào con người, ở khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi người.

- Năng lực miêu tả và phân tích tâm lí: “Cần phải mô tả con người tham gia vào các vụ việc với tất cả chiều sâu
của tiến trình diễn biến tâm lí và tính cách”. (Nói về truyện ngắn của mình).

- Hướng về những vẻ đẹp trong sáng và chất trữ tình: khám phá những vẻ đẹp tiềm ẩn, bền vững trong con
người, trong thiên nhiên cùng với chất trữ tình đằm thắm.

- QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC: chia làm 2 chặng phản ánh trung thành bước đi của thời đại đổi mới:
+ TRƯỚC 1975: chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ SAU 1975: chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh, thể hiện sự thấu
hiểu, cảm thông sâu sắc với số phận người dân lao động nghèo khổ trong cuộc sống mưu sinh, vất vả.

- Tác phẩm chính: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Những người đi từ trong
rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985),
Chiếc thuyền ngoài xa (1987), ...
- Năm 2000 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học.

2. TÁC PHẨM:
A. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC
- 8/1983, “Chiếc thuyền ngoài xa” được in lần đầu trong tập “Bến quê”.
- 1987, được tác giả lấy làm tên chung cho cả tập truyện ngắn.
→ Ra đời trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã kết thúc, đất nước thống nhất trong nền độc
lập, hòa bình, cuộc sống với “muôn mặt đời thường” đã trở lại sau chiến tranh. Nhiều vấn đề của đời sống văn
hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Nhiều quan niệm đạo
đức phải được nhìn nhận lại trong tình hình mới, nhiều yếu tố mới nảy sinh nhất là khi đất nước bước vào công
cuộc đổi mới.
B. NHAN ĐỀ
- “Chiếc thuyền ngoài xa” là một hình ảnh mà Phùng phát hiện ra trong một chuyến đi về vùng biển, nơi trước
đây anh từng chiến đấu.
+ Cảm nhận ban đầu: hiện thân của cái đẹp tuyệt vời khi nó hài hòa với vẻ đẹp của buổi bình minh nơi cửa biển.
+ Khi thâm nhập thực tế đời sống: Phùng mới nhận ra, đằng sau vẻ đẹp tuyệt vời kia là một hiện thực trần trụi
của cuộc sống con người.
⇨ “Chiếc thuyền ngoài xa” trở thành một ẩn dụ nghệ thuật: mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời; giữa cái
đẹp với cái thật để từ đó bộc lộ những trăn trở về nghệ thuật của nhà văn.

⇨ Nghệ thuật chân chính không thể chỉ tìm kiếm cái đẹp mà cần gắn bó, trải nghiệm thực tế đời sống để tác
phẩm nghệ thuật thực sự là tiếng nói cất lên từ cuộc sống. Đồng thời, nhà văn cũng gửi gắm một băn khoăn về
trách nhiệm của nhà văn trước cuộc sống, con người.

C. TÓM TẮT

Nghệ sĩ Phùng Đến vùng biển chụp ảnh

Cảnh bạo lực gia đình Ảnh đẹp – Cảnh đất trời

Người đàn bà

Câu chuyện ở toà án Tấm ảnh trong bộ lịch

Chánh án Đẩu
Cách nhìn nhận con người

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1. TÌNH HUỐNG TRUYỆN:

* Xét trên khía cạnh NGHỊCH LÍ:


- Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng:
+ Bức tranh nghệ thuật: “cảnh đắt trời cho” đẹp như một bức tranh toàn bích.
+ Bức tranh đời sống: cảnh tượng vô nhân tính: chồng bạo hành, vũ phu với người vợ của mình.
=> Cùng một góc độ, một thời điểm thậm chí là cùng một lăng kính, người nghệ sĩ đã phát hiện ra hai bức tranh
tương phản - bên trong vẻ bề ngoài thánh thiện, hoàn mỹ lại là cái ác, cái xấu đến phũ phàng.

- Tại tòa án huyện:


+ Phùng và Đẩu, vì bất bình trước sự bạo lực của người chồng, trước cái ác cái xấu nên đã khuyên người đàn bà
ấy “hãy tự giải thoát cho mình”.

+ Thế nhưng, thật không ngờ rằng người đàn bà ấy lại một mức và kiên quyết không bỏ chồng thậm chí còn
bênh vực trước tòa án. Hiện thực với những mâu thuẫn éo le bên trong người đàn bà sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời đã
khiến Đẩu và Phùng nhận ra sự thiếu thực tế của họ, vô hình chung đã khiến họ trở thành những người nông
cạn: lòng tốt của các anh - phi thực tế.

*Xét trên khía cạnh NHẬN THỨC.

- Nhận thức về nghệ thuật: Nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc đời, dẫu có nhọc nhằn thậm chí là khổ cực và cay
đắng. Và nghệ thuật chân chính phải biết quay lại phục vụ cho cuộc sống, làm thay đổi cuộc sống.
- Nhận thức về con người và xã hội:
+ Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống (ban đầu Phùng ngây ngất trước cái đẹp bề ngoài
của hình ảnh con thuyền, về sau anh nhận ra vẻ đẹp ngoại cảnh đó đã che lấp cuộc sống nhức nhối bên trong
con thuyền).
+ Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài, Phùng lại thấy cuộc sống nhức
nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít thành viên trong gia đình).
=> Anh đã nhận ra rằng để hiểu được sự thật đời sống không thể nhìn một cách đơn giản, phải đi sâu vào thực tế
cuộc sống để hiểu được thực tế cuộc sống, những nghịch lí nhưng cổ lí của cuộc sống.

2. HAI PHÁT HIỆN CỦA NGHỆ SĨ PHÙNG:

A, PHÁT HIỆN THỨ NHẤT – BỨC TRANH THIÊN NHIÊN VÙNG BIỂN

- Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đến một vùng biển từng là
chiến trường cũ của anh.

- Tại đây anh phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương.

- Cảnh tượng: một chiếc thuyền lưới vó đang lướt thẳng vào bờ trên mặt biển mờ sương như “một bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ”.

+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng sữa có pha đôi chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào”

+ “vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum đang hướng mặt
vào bờ”

+ “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích”.

- Tâm trạng của người nghệ sĩ: trở nên “bối rối”

+ cảm thấy “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”
+ trong khoảnh khắc ấy, anh phát hiện ra “cái đẹp chính là đạo đức”

+ “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

=> Đó là phút giây hạnh phúc tột đỉnh bởi người nghệ sĩ đã cảm nhận được cái chân thiện mĩ của cuộc đời.

B, PHÁT HIỆN THỨ HAI – BI KỊCH CỦA GIA ĐÌNH LÀNG CHÀI

- Cảnh tượng: một người đàn bà thô kệch, xấu xí, mệt mỏi, cam chịu; một người đàn ông dữ dằn độc ác, đánh
vợ một cách tàn nhẫn; một đứa bé vì thương mẹ đã xông vào đánh cha với lòng căm hận.

- Thái độ của người nghệ sĩ trước cảnh tượng này:

+ Kinh ngạc đến sững sờ, anh không ngờ đằng sau cái vẻ toàn bích của tạo hóa lại có cái xấu, cái ác đến mức
không thể tin được.

+ Không thể chịu được khi thấy cảnh tượng ấy, Phùng đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới.

C. Ý NGHĨA

- Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, không phải bao giờ cũng đẹp, cũng là nghệ thuật mà nó chứa đựng
nhiều nghịch lí, mâu thuẫn giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác.

- Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong mối quan hệ đa chiều, bằng nhiều góc độ khác nhau.

3. CÁC NHÂN VẬT

A. NHÂN VẬT PHÙNG

- Từng là một người lính cầm súng chiến đấu thời chống Mĩ, Phùng từng gắn bó với vùng biển miền Trung và
có một người đồng đội cũ hiện đang làm việc ở nơi này.
- Là một phóng viên nhiếp ảnh, công việc của Phùng gắn với những nhiệm vụ của cơ quan song cũng gắn với
khả năng và cảm hứng nghệ thuật của riêng anh.

- Là người nghệ sĩ chân chính, có tâm hồn nhạy cảm, say mê trước vẻ đẹp của tạo hóa:

+ Khi bắt gặp “cảnh đắt trời cho” (màu hồng hồng của sương mai, không gian cửa biển yên tĩnh, thanh bình) và
vẻ đẹp của đời sống (chiếc thuyền lưới vó)

→ Phùng đã xúc động mạnh mẽ: “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và tâm hồn anh như bừng sáng “tưởng
chính mình vừa khám phá ra chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
Trong suy nghĩ của anh lúc ấy, bản thân cái đẹp cũng là đạo đức bởi nó khiến tâm hồn con người được thanh
lọc để trở nên trong sáng hơn, hạnh phúc hơn.

+ Anh bấm máy liên tục hết gần một phần tư cuộn phim để ghi lại cái khoảnh khắc tuyệt vời đó.
- Là người có tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp:

+ Khi trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp bức ảnh cảnh biển buổi sáng có sương mù, lúc đầu Phùng ngần ngại vì
cho rằng biểm mùa này làm gì có sương mù. Thế nhưng anh vẫn sẵn sàng bỏ ra hàng tuần để săn lùng bức ảnh
đẹp.

+ Phùng đã chụp khá nhiều bức ảnh, đã phân tích những điểm chưa đạt trong những bức ảnh đó để rồi lại tiếp
tục cuộc hành trình tìm kiếm của mình

→ Phùng không hề dễ dãi với nghệ thuật và với chính mình.

+ Ngay cả khi đã có những bức ảnh làm hài lòng vị trưởng phòng khó tính, được nhiều gia đình sành nghệ thuật
mua về treo, Phùng vẫn chưa thôi trăn trở, chưa hoàn toàn thỏa mãn với những gì đã có.

- Là người có tình yêu thương con người:

+ Tại bãi biển, khi chứng kiến cảnh người đàn ông đánh người đàn bà trên bãi biển, dù không quen biết họ,
Phùng vẫn xông vào bảo vệ người phụ nữ đáng thương.

+ Tại tòa án huyện, khi người đàn bà hoảng hốt, sợ hãi và kiên quyết từ chối chuyện phải bỏ chồng, Phùng đã
thất vọng đến mức cảm thấy căn phòng đang lộng gió biển như bị rút cạn hết không khí.

+ Kiên nhẫn, lắng nghe hết câu chuyện, suy nghĩ và mong muốn của người đàn bà hàng chài.

- Là người không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình:

+ Ban đầu cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người.

+ Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài,
anh đã nhận ra những điều mới:

 Về mối quan hệ giữa cái đẹp bề ngoài với cái thật ở bên trong: đằng sau khung cảnh thơ mộng, bình yên,
cuộc sống vẫn dữ dội bởi đói nghèo và đau khổ.
 Về cách nhìn con người và cuộc sống: phải đặt mình vào trong cuộc, cảm thông và thấu hiểu để thấy vẻ đẹp
khuất lấp đằng sau bề ngoài thảm hại, tầm thường.

B. NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI

“ VỎ BỌC THÔ RÁP”

* Ngoại hình:
+ Trạc ngoài 40, thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt.
+ Khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt.
+ Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới

=> Vóc dáng, diện mạo ấy đã hằn in những nhọc nhằn lam lũ nghèo túng của người đàn bà hàng chài, đồng thời
hé lộ một số phận khổ đau.

* Số phận:
- Lúc trẻ:
+ Bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt.

+ Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên với ai.

+ Có mang với anh con trai nhà hàng chài hay đến mua đồ đan lưới nên họ đã trở thành vợ chồng.

- Sau khi lấy chồng:

+ Gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp, nghèo túng quanh năm.

+ Những ngày không đi biển được, phải ăn xương rồng luộc chấm muối.

+ Bạo hành về thể xác:

 Người chồng chị vốn hiền lành nhưng bị cái nghèo, cái khổ đè nặng nên biến đổi tâm tính thường xuyên
đánh vợ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ khi nào lão thấy khổ quá lại lôi vợ ra đánh, trút
giận với những lời lẽ cay độc”.
 Người đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu đựng “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy
trốn”.

+ Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần:

 Chứng kiến đứa con căm ghét bố đến tột cùng mà không có cách nào để xóa đi sự thù hằn đó
 Chị đã cho con về sống với ông ngoại ở trên rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, thằng bé
lại không thể làm ngơ khi mẹ bị đánh.

 Với sự bồng bột của tuổi trẻ, đứa con sẵn sàng giấu con dao trong người để giết cha, khiến người mẹ vô
cùng đau đớn.

“HẠT NGỌC ẨN GIẤU BÊN TRONG TÂM HỒN”

* ẤN TƯỢNG BAN ĐẦU: NHẪN NHỤC, CAM CHỊU:

- Khi bị chồng đánh: không chống cự. Lời cầu xin duy nhất là xin chồng đưa mình lên bờ để đánh.
- Khi được Phùng và Đẩu giúp đỡ, có thể nhờ luật pháp can thiệp để thoát khỏi lão chồng, chị ta hoảng hốt quỳ
sụp xuống van xin rối rít “Con lạy quý tòa, quý tòa phạt con cũng được, bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt
con bỏ nó”.

* TRONG QUÁ TRÌNH NÓI CHUYỆN:

+ Hiểu cuộc sống lao động trên biển bấp bênh nên rất cần bàn tay chèo lái của người đàn ông.
+ Hiểu gánh nặng gia đình cả cần có người đàn ông cùng chăm lo nuôi dưỡng.

+ Hiểu chồng vốn chỉ vì khổ quá mà thành độc ác vũ phu.
+ Hiểu con (thằng Phác) vốn hiếu thảo nhưng nóng tính và có xu hướng giải quyết mọi chuyện bằng bạo lực
như bố nó.

=> Chị cũng thông cảm cho sự nông nổi, ngây thơ của Phùng và Đẩu: Họ mới chỉ nhìn hiện thực cuộc sống đơn
giản, một chiều nên chưa thấy được bản chất bên trong.
=> Khiến cho cả Phùng và Đẩu vừa “ngộ” ra một nghịch lí của đời sống, nguyên nhân sâu sa của tình trạng bạo
hành; mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa người nghệ sĩ và cuộc đời.

- Một người mẹ giàu lòng hi sinh, hết lòng vì con để chắt chiu hạnh phúc gia đình:
+ Với chị, “gánh lấy cái khổ vì con” là lẽ đương nhiên

→ Vất vả ngày đêm kéo lưới hay chịu đựng trận đòn như cơm bữa của chồng là vì con, vì muốn trên thuyền có
người đàn ông chèo chống tay thuyền cùng nuôi đàn con khôn lớn.

+ Chị không muốn các con phải chứng kiến nỗi đau khổ của mẹ và sự tàn độc của cha bởi sẽ làm tổn thương
đến nhân cách, tâm hồn trong sáng của lũ trẻ thơ nên chị đã xin với lão “đưa tôi lên bờ mà đánh”.

+ Khi thấy thằng Phác tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền “nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó
không bị đánh”, chị đã gửi ngay con lên rừng nhờ bố mình nuôi hộ, sợ có điều gì dại dột

+ Đặc biệt, trong tình cảnh đau xót, khi bị chồng đánh, bà nhẫn nhục chịu đựng thế nhưng, khi thằng Phác bị
người cha yêu quý của mình ra tay tàn ác, bà ngồi xệp xuống đất “ôm con khóc”.
+ Tình mẫu tử của người đàn bà còn được thể hiện qua niềm vui hiếm hoi, ít ỏi : “vợ chồng con cái chúng tôi
hòa thuận, vui vẻ” và “vui nhất là nhìn đàn con được ăn no”.

 Hình ảnh người đàn bà hàng chài chính là một hình ảnh đẹp về người lao động, trong lam lũ, vất vả khổ đau
bất hạnh, vẫn thắp sáng tình mẫu tử, cảm thông tha thứ cho chồng, tha thiết một mái ấm gia đình hạnh phúc
trọn vẹn. Chị còn là người có lòng tự trọng, hiểu thấu lẽ đời. Vẻ đẹp, lòng vị tha, tình yêu thương và đức hi
sinh ấy thể hiện cái nhìn nhân đạo của nhà văn khám phá ra vẻ đẹp “những hạt ngọc ẩn giấu bề sâu tâm hồn
con người”.

C. NGƯỜI ĐÀN ÔNG:

- Ngoại hình:
+ Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền.

+ Mái tóc tổ quạ, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ.
+ Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn.
- Lai lịch, gia cảnh:
+ Không tên, không tuổi.
+ Làm nghề chài lưới.
+ Nghèo khổ và túng quẫn.

- Tính cách
+ Xưa: hiền lành, cục tính, không bao giờ đánh vợ.

+ Nay: lúc nào khổ là lôi vợ ra đánh: “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp
vào lưng người đàn bà”, giọng lão lại “rên rỉ đau đớn”.

- Nguyên nhân: Gánh nặng mưu sinh đè lên đôi vai, biến người “con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa thành
một anh chồng vũ phu, thô bạo.

c. Thái độ của mọi người với người đàn ông

- Với người đàn bà: người đàn ông vũ phu- nạn nhân của hoàn cảnh => đáng được cảm thông, chia sẻ.
- Phùng, Đẩu: người đàn ông vũ phu- nạn nhân gây ra đau khổ cho người đàn bà

=> ích kỉ, độc ác, đáng lên án, đấu tranh.
- Phác: nhìn dưới góc độ thơ ngây của một đứa trẻ, thương mẹ nên căm ghét bố.

=> Vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây đau khổ cho những người thân.

=> Phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống và con người.

D. BÉ PHÁC:

a. Phác là đứa trẻ vùng biển, hồn nhiên, hiểu biết và giàu lòng tự trọng

- “Tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới tơ”, “tỏa ra mùi nước mặn”.
- “Cặp mắt đầy vẻ ngây thơ” như cặp mắt của một “chú hổ con từ miền rừng vừa lạc về” nét ngây thơ, hồn
nhiên cùng nét hoang sơ của núi rừng.

- Phác có vốn am hiểu về thiên nhiên và cuộc sống núi rừng rất phong phú:

+ “Giải thích cặn kẽ” cho Phùng nghe “cuộc sống của những giống chim trên rừng”.

=> Sống gắn bó với thiên nhiên, là một đứa bé nhiệt tình, hòa đồng và thân thiện.

- Giàu lòng tự trọng: Sau cái lần Phùng chứng kiến cảnh cha nó đánh mẹ nó, thằng bé có những thay đổi trong
cách xử sự với Phùng:

+ “Thằng bé không cho tôi lại gần”.


+ “Đâm ra thù ghét tôi, hết sức thù ghét”.
+ “Đối xử như một kẻ hoàn toàn xa lạ”.
+ “Nhìn tôi bằng con mắt âm thầm, giấu kín đầy sự thù ghét”.

=> “Một đức trẻ con kì lạ nhất trần đời”, giàu lòng tự trọng, mang cảm giác xấu hổ khi Phùng đã biết rõ hoàn
cảnh gia đình nó .

b. Phác là đứa con giàu lòng yêu thương mẹ

- Tuy sống xa mẹ từ nhỏ nhưng Phác vẫn luôn cảm nhận được tình thương của mẹ

- Khi trông thấy cảnh người cha đánh mẹ mình:


+ “chạy một mạch”, đầy “sự giận dữ căng thẳng”.

+ “Như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”, thằng bé lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông”.

+ Phác “giằng chiếc thắt lưng, vươn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ”.

=> Thể hiện tình cảm yêu thương, lo lắng cho mẹ. Vì mẹ mà Phác lao vào cha, không suy nghĩ để bênh vực cho
mẹ, như một người đàn ông mạnh mẽ bảo vệ người mình thương yêu.

+ “Chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông”.

+ Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt”
=> Muốn lau đi tất cả những khổ đau mà mẹ gánh phải.

=> Đứa con hiểu được nỗi đau đớn mà người mẹ đã chịu đựng, quan tâm và lo lắng cho mẹ. Tình cảm thiêng
liêng, đáng trân trọng từ một đứa trẻ.

c. Phác là nạn nhân của bạo hành gia đình

- Tuy hành động của Phác khi lao vào đánh người đàn ông đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương mẹ, không
muốn thấy mẹ mình chịu đau đớn, nhưng đó cũng chỉ là hành động nông nổi, chưa hiểu hết sự tình bên trong
của Phác.

- Hành động đó cũng cho thấy, Phác vừa đối nghịch cũng vừa thống nhất với người đàn ông:

+ Giống người bố độc ác từ hình thức đến tính tình: đều mạnh mẽ, liều lĩnh

+ Ý định dùng “con dao găm” để đâm chết cái người làm mẹ khổ chính là hành động bạo lực, ảnh hưởng bởi
cha nó.

=> Hành động chạy lao đến để ngăn cha đánh mẹ, “nhảy xổ vào cái lão đàn ông” cho thấy sự căm thù của Phác
đối với cha, mặt khác cũng phản ánh sự ảnh hưởng những hành động bạo lực của người đàn ông đối với Phác.

- Những hành động phản kháng ngày càng tăng tiến về mức độ đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cả xã hội khi
Phác thật sự trở thành nạn nhân của nạn bạo hành gia đình, là mối quan tâm lớn khi thằng bé định dùng “con
dao găm” để giết cha mình.

=> Trong tâm trí của thằng bé giờ đây chỉ còn sự thù hận, căm ghét. Điều đó đã làm mất đi sự hồn nhiên, đã tổn
thương về tinh thần của một đứa trẻ đang trưởng thành.

=> Mai đây, Phác cũng có thể trở thành người đàn ông thứ hai và tương lai cũng sẽ giống như cha nó.

=> Đó chính là vấn đề bức thiết được đặt ra trong tác phẩm: Hãy cứu lấy nhân tính của những con người, đặc
biệt là những đứa trẻ đáng thương và tội nghiệp!

4. TẤM ẢNH CHO BỘ LỊCH NĂM ẤY:

- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương
mai”, nhìn lâu hơn nữa bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh...”

+ “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai chính là chất thơ của cuộc sống, là cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là
biểu tượng của nghệ thuật.

+ “Người đàn bà bước ra từ tấm ảnh” là hiện thân cho những lam lũ, khốn khó đời thường, là sự thật cuộc đời
đằng sau bức ảnh.

=> Quan niệm của nhà văn về nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời và phải là cuộc
đời, luôn luôn vì cuộc đời.

III. TỔNG KẾT


1. NỘI DUNG: Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa
diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất sự thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.”

2. NGHỆ THUẬT:

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện về đời sống. Tác giả đã tạo ra nhiều
tình huống như thế vừa nối tiếp nhau trong mạch truyện, lại vừa đột ngột, bất ngờ giúp người đọc nhận ra bản
chất của sự việc một cách thú vị, thấm thía để hiểu sâu sắc chủ đề của tác phẩm. Các tình huống truyện cứ thế
nối tiếp nhau và được NMC đẩy lên cao trào, ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện, khám phá tính cách con
người và sự thật cuộc đời.

- Nghệ thuật kể chuyện sinh động: người kể chuyện là Phùng. Quan đó tác giả đã tạo ra một điểm nhìn trần
thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể trở nên khách quan, chân
thực, giàu tính thuyết phục.

- Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ phần tâm hồn bên trong nhân vật.

You might also like