Professional Documents
Culture Documents
Nguoilaidosong Da
Nguoilaidosong Da
…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy
bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom
đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân
vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa,
đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng
trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái.
Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải
phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần
sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu
vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn
sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố
trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng
thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà
lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền
xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh
mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã
bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không
ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba
nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở
ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền
vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền
như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế
là hết thác….
Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xétcái nhìn mang tính
phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân
- Vấn đề cần nghị luận: Nhân vật ông lái đò trong đoạn trích thể hiện rõ cách nhìn mang tính
phát hiện của ông về con người lao động Việt Nam
3.2.Thân bài: 3.50
b. Cảm nhận vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích: 2.5đ
+ Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ ở hình ảnh ông lái đò:
++ Ông lái đò được đặt trong tình huống thử thách đặc biệt: chiến đấu với thác dữ sông Đà, vượt
qua ba trùng vi thạch trận bằng tài nghệ “tay lái ra hoa”.
++ “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”và ung dung chủ động trong hình ảnh “trên
thác hiên ngang người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất
yếu của dòng nước Sông Đà”
++ Rất nghệ sĩ trong hình ảnh “nắm chắc lấy cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái,
bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh…”;với lũ đá nơi ải nước, “đứa thì
ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, con
thuyền trong sự điều khiển của ông lái: “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được.”…
++ Nhận xét: Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận
sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.
+Vẻ đẹp trí dũng ở hình ảnh ông lái đò:
++Một mình một thuyền, ông lái giao chiến với sóng thác dữ dội như một viên dũng tướng luôn
bình tĩnh đối đầu với bao nguy hiểm: “ông lái đò cố nén vết thương…hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái…” , mặc dù “mặt méo bệch đi” vì nhữngluồng sóng “ đánh đòn âm, đánh đòn tỉa”,
“nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm
lái” …
++ Đối mặt với thác dữ sông Đà, ông đò có một lòng dũng cảm vô song: “Cưỡi lên thác sông
Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ” …
++ Ông lái đò khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh, đưa con thuyền vượt thác an
toàn khi “ những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”, còn lũ đá thì “thất vọng thua cái thuyền”…
Cuộc đọ sức giữa con người với thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người
đã chiến thắng.
++ Nhận xét:Vẻ đẹp người lái đò Sông Đà là vẻ đẹp của người anh hùng lao động trong công
cuộc dựng xây cuộc sống mới của đất nước.
- Về nghệ thuật: ( 0.5)
+Tạo tình huống đầy thử thách cho nhân vật; chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ; sử dụng ngôn
ngữ phong phú, sáng tạo, tài hoa;
+Kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc, bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng
độc đáo, thú vị;
+Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng
và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
c. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.0.75đ
- Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động
mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường làm việc và trong
công việc của mình khi dám đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công
việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ
thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng
đầy cảm hứng, say mê…
- Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào về con
người lao động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh hùng trong chiến đấu,
người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang bóng một thời”thì đến tác phẩm này,
ông tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ ngay trong con người lao động thường ngày, trong công việc
bình thường và trong nghề nghiệp cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta
rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại
xâm mà còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.
b. Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lái đò trong đoạn văn:
* Đoạn văn miêu tả về cuộc chiến giữa người lái đò và con sông Đà. Qua đó làm nổi bật vẻ đẹp
của người lái đò:
- Vẻ đẹp của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc
liệt của cuộc sống: Ở vòng vây thứ nhất, trước con thủy quái khổng lồ, độc dữ, ông lái vẫn bình
tĩnh, tự tin; dù sóng thác đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, ông lái bị thương nhưng vẫn cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt trong tư thế sừng sững của người chỉ huy..
- Vẻ đẹp của sự tài trí, tài hoa, giàu kinh nghiệm: Ở vòng vây thứ hai, ông thay đổi chiến thuật,
ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá…Ông
đò hiện lên như một nghệ sĩ đang phô diễn hết tài năng bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết tường
tận về đối thủ của mình.
-> Ông đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền Tây Bắc: âm thầm,
giản dị nhưng đã làm nên những kì tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung
dữ.
* Miêu tả cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng tri thức
của nhiều lĩnh vực; sử dụng phép so sánh; câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu; từ ngữ mới lạ, giàu
hình ảnh…
3. Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn
Tuân đang tìm kiếm
- Qua cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người lao
động miền Tây Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua
những thử thách khốc liệt của cuộc sống và vẻ đẹp của sự tài trí, tài hoa, giàu kinh nghiệm. Đây
chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân
đang tìm kiếm.
- Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân sau
cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người
đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có
thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
“…Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám
mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước
Sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của nước Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân
Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng cái tên Tây láo lếu, rồi cứ như thế
mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông
Đà như nhìn một cố nhân. Chuyến ấy ở từng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng.
Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, thấy
trước mắt loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn thấy
cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm Sông Đà. Chao ôi, trông con sông,
vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi dừng dài
ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người
cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bắn tính và gắt
gỏng thác lũ ngay đấy…”
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân.
Ngữ Văn 12, Tập một, NXBGiáo dục Việt Nam, 2020).
Phân tích hình tượng con Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nêu nhận xét về cái tôi trữ tình
của Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích.
Phân tích hình tượng của con Sông Đà – con sông trữ tình
*Góc nhìn từ trên cao (tàu bay), Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân.
- Dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt và duyên dáng.
- Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc
mĩ miều.
* Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả đã phát hiện ra những sắc màu tươi
đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong
cách so sánh rất cụ thể:
- Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh
- Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
- Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân Pháp đã “đè
ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi bằng cái tên lếu láo Sông Đen.
* Góc nhìn từ bờ bãi sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”.
- Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng
như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một cách hồn nhiên và trong
sáng
- Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên
một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về
Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
- Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu vườn cổ tích “bờ sông
Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
-> nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời
gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
*Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng bất
ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để
miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ
mộng và trữ tình.
Nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân
- Cái tôi tài hoa nghệ sĩ – suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp
- Cái tôi luôn có cảm hứng mãnh liệt với những cái tuyệt mĩ
- Cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước
=====================================================================
* Bình luận về cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên của nhà văn
Nguyễn Tuân qua việc “tìm kiếm chất vàng” của thiên nhiên Tây Bắc
- Nguyễn Tuân đến Sông Đà với mục đích trước tiên là tìm chất vàng của
thiên nhiên. Đằng sau những biểu hiện hung bạo của Đà giang, nhà văn phát
hiện ra vẻ đẹp hoang dại, hùng vĩ và tiềm năng thủy điện to lớn của Sông
Đà. Khi nghĩ đến những tuyếc-bin thủy điện, có lẽ nhà văn đã dự cảm được
vị trí, vai trò của Đà giang trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
- Dưới cái nhìn của Nguyễn Tuân, thiên nhiên không thuần túy là thiên
nhiên, mà thiên nhiên cũng là một sản phẩm nghệ thuật vô giá của tạo hóa.
Vì thiên nhiên chính là phông, nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp con
người - người lái đò trên dòng sông hung bạo.
* Đánh giá chung
- Qua đôi mắt tinh tế của Nguyễn Tuân, Sông Đà tạo nên những dòng cảm
xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này,
cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp không phải nơi nào cũng
có được. Và Sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ
ngàng.
- Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh con Sông Đà trong tùy bút “Người lái
đò Sông Đà” lại ám ảnh người đọc cho đến sau này. Một vẻ đẹp hùng vĩ,
hung dữ của thiên nhiên đan xen sự thơ mộng, nhẹ nhàng như chốn bồng
lai. Đó chính là sự thành công của Nguyễn Tuân.
Câu 2.
“Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây
thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp
làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông
Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi
cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc
bản đồ sông núi, thì mỗi lúc mà ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc
bao la, càng thấy quen thuộc với từng nétsông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới
chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của Sông Gâm , Sông Lô. Mùa thu
nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ
ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo
lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn
Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng.
Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước
mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái
miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày
rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố
nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng
thác lũ ngay đấy.
(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD 2012)
Phân tích vẻ đẹp của Sông Đà. Từ đó nêu một vài nhận xét về cái tôi của Nguyễn Tuân
được thể hiện trong văn bản.
* Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” và vấn đề
cần nghị luận
- Người lái đò Sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ
tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con Sông Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo
và trữ tình đã được khắc họa thật đậm nét.
- Để có thể khách thể hóa được đối tượng và đóng đinh nó vào trí nhớ độc giả,
Nguyên Tuân đã tung ra nhiều độc chiêu ngôn ngữ tưởng chỉ mình không mới có.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao
nhìn xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một
người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất
nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc
độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng
điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc
trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà.
Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ,
áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Nguyên cả
cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng
sông. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự
bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người đàn
bà kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn
cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người
đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban
hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Sự nhân cách hóa đó làm
sông Đà gợi cảm biết bao!
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây
Bắc thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông
Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không
trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh
thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây
trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp
của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc
bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh
ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành.
Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ
như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp
đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã
làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội
ngàn đời của con sông Tây Bắc.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để
cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân
đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào
mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn
trong ánh sáng “loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu”. (Ths Phan Danh Hiếu) Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường
nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – Nguyễn
Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc.
Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng
lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả,
liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng
kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được
sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
- Yêu Sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam - những
đồng tác giả của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên trăm dáng sông
xuôi (ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm).
- Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc
sắc của văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng
một tài năng, một tấm lòng, một Nguyễn Tuân - con người suốt cuộc đời đi tìm
cái đẹp trong cuộc sống để sáng tạo nên những áng văn đẹp, làm phong phú, giàu
có thêm đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.