Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 38

Đề Ôn

Câu 1:Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặc cách mạng
trong lịch sự triết học?
Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời triết học Mác Triết học Mác không phải là một sản phẩm có tính chất chủ
quan, đồng thời nó cũng không phải từ trên trời rơi xuống. Triết học đó là sản phẩm tất yếu của lịch sử.
- Triết học Mác đã kế thừa và có phê phán toàn bộ triết học trước đó nhất là triết học duy vật và phép biện
chứng. Đó là những tiền đề lý luận không thể thiếu được của triết học Mác.
-Triết học Mác ra đời còn gắn liền với những điều kiện khách quan của sự phát triển kinh tế-xã hội và sự
phát triển của khoa học đương thời. Trong khoa học tự nhiên thế kỷ XIX đã có ba phát minh lớn: định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; học thuyết tế bào; học thuyết tiến hoá. Đồng thời về mặt xã hội thế kỷ
XIX cũng là thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ những mâu thuẫn xã hội sâu sắc. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn ấy được biểu hiện thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp hết sức
sôi động và quyết liệt ở châu Âu. Trước tình hình trên, cần phải có một sự kiến giải mới về sự phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Và tất yếu xuất hiện một học thuyết mới đó là học thuyết triết học khoa học, do
Mác và Ăngghen đề xướng, sau này được Lênin phát triển.
- Sự ra đời của triết học Mác - Lênin là một bước ngoặt cách mạng trong triết học Cơ sở của chủ nghĩa Mác
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với cơ sở này, lần đầu tiên giai cấp vô sản và
nhân dân lao động đã có một vũ khí tinh thần để đấu tranh giải phóng giai cấp mình và cả xã hội ra khỏi sự
áp bức bóc lột. Như vậy, triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là lực
lượng "vật chất" của triết học Mác. Sự thống nhất chặt chẽ giữa triết học Mác với giai cấp vô sản, làm cho
triết học Mác thực sự thể hiện tính cách mạng của mình và giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch
sử là lật đổ xã hội cũ, từng bước xây dựng một xã hội mới.
- Khác với tất cả các hệ thống triết học trước đó, triết học Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động
thực tiễn trong sự tồn tại, phát triển của xã hội và trong nhận thức. Nếu không hiểu đúng vai trò của thực
tiễn, nhất là thực tiễn sản xuất xã hội, thì tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy tâm. Trong nhận thức, thực tiễn là cơ
sở, động lực, mục đích của nhận thức, là nơi mà lý luận hướng đến để giải thích và cải tạo thế giới. Mác đã
cho rằng: "Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ
cải tạo thế giới". Tất nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động thực tiễn, Mác và Ăngghen không coi
nhẹ vai trò của lý luận. Các ông cho rằng, lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng, sẽ trở thành lực lượng
vật chất vô cùng to lớn.
- Bước ngoặt cách mạng vĩ đại nhất mà chủ nghĩa Mác thực hiện là đã đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử.
Trước Mác, các nhà triết học hiểu sự phát triển của xã hội một cách duy tâm - coi động lực phát triển của xã
hội là ở trong ý thức, tinh thần của con người. Đối lập với quan điểm trên, Mác, Ăngghen đã giải quyết đúng
đắn vấn đề cơ bản của triết học trong đời sống xã hội; không phải ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội, mà
ngược lại tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào nguyên nhân vật
chất, chứ không phụ thuộc vào ý thức của con người; sự phát triển của xã hội mang tính quy luật, là quá trình
lịch sử tự nhiên. Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay thế
nhau một cách khách quan độc lập với ý chí và ý thức của con người; trong sự phát triển ấy, quần chúng
nhân dân là lực lượng quyết định sáng tạo ra lịch sử... Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ
của nó với các khoa học khác. Triết học Mác đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận. Các tri thức
của các khoa học cụ thể là cơ sở để cụ thể hoá và phát triển triết học Mác. Lênin đã bảo vệ và tiếp tục phát
triển triết học Mác trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông cho rằng,
đây là thời kỳ cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, và ông đã trực tiếp lãnh đạo, thực
hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Lúc này, khoa học có nhiều phát minh lớn, nhất là trong vật lý học,
Lênin đã khái quát những thành tựu của khoa học, phát triển hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Câu 2:Dựa vào cơ sở nào để khẳng định trường phái triết học là duy vật duy tâm
hay nhị nguyên, vai trò của chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm( Vấn đề cơ bản
của triết học)
Dựa vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ
bản của triết học, từ trong lịch sử triết học đã được phân chia thành những trường phái lớn sau đây:
 Trường phái 1: Những nhà triết học cho rằng vật chất, giới tự nhiên có trước và giữ vai trò quyết định
được gọi là các nhà duy vật và học thuyết của học hợp thành chủ nghĩa dTuy vật.
 Trường phái 2: Những người cho rằng tinh thần là cái có truớc, quyết định VẬT CHẤT được gọi là
các nhà triết học duy tâm và học thuyết của học được tập hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
 Trường phái 3: Những nhà triết học cho rằng VẬT CHẤT và Ý THỨC là hai nguyên thể song song
tồn tại không cái nào quyết định cái nào, cả hai cùng là nguồn gốc tạo ra thế giới được gọi là các nhà
nhị nguyên và học thuyết của học hợp thành học thuyết nhị nguyên luận (Decacton)
* Trường phái triết học duy vật có lịch sử hình thành, phát triển thông qua 3 hình thái chủ yếu:
-Khi giải quyết mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) nếu trả lời VẬT CHẤT có trước, Ý THỨC có sau, Ý THỨC
được sản sinh từ kết cấu VẬT CHẤT nhất định và VẬT CHẤT giữ vai trò quyết định Ý THỨC thì hợp thành
chủ nghĩa duy vật.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ và trong khi thừa nhận tính thứ nhất của VẬT
CHẤT đã đồng nhất VẬT CHẤT với 1 hay 1 số chất cụ thể và nhữnh kết luận của nó chủ yếu dựa trên quan
sát trực tiếp, cảm tính chưa có cơ sở khoa học. Họ cho rằng VẬT CHẤT, thế giới tự nhiên là cái có trước, Ý
THỨC, linh hồn con người là cái có sau cho dù quan điểm còn mộc mạc, giản đơn nhưng nó chứa đựng
những phỏng đoán thiên tài, là cơ sở cho thế giới quan triết học sau này. Họ đã cố gắng lấy thế giới để giải
thích thế giới mang tính trực quan cảm tính, chưa dựa trên cơ sở khoa học nào. (âm dương ngũ hành ở Trung
quốc - Đất, nước, lửa, khí ở ấn độ -Khí ...phương Tây)
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc ở thế kỷ 17, thế kỷ 18. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điểm thu thập
được những thành tựu
rực rỡ nên khi tiếp tục ptriển quan điểm của CHỦ NGHĨA DUY VẬT thời cổ đại, CHỦ NGHĨA DUY VẬT
thời kỳ này đã chịu tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc nó xem xét, quan niệm
thế giới như một hệ thống máy móc phức tạp bao gồm nhiều bộ phận không có liên hệ với nhau, không vận
động không phát triển, bất biến, ngưng đọng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng có đặc điểm nổi bật: là CHỦ NGHĨA DUY VẬT có sự thống nhất, kết hợp
chặt chẽ với phép biện chứng, đồng thời khái quát được thành tựu của các khoa học chuyên ngành. Đây là
hình thức cao nhất do Mác – Eng ghen sáng lập và Lênin phát triển được hình thành vào n năm 40 của thế kỷ
19, nó khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước nó, nó xem xét thế giới trong tính chỉnh thể,
thống nhất trong sự tác động qua lại biện chứng với nhau, nó là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để
nghiên cứu và tìm hiểu thế giới. Ngoài ra trong lịch sử phát triển của CHỦ NGHĨA DUY VẬT còn có hình
thái chủ nghĩa duy vật tầm thường (đồng nhất vật chất với Ý THỨC và xem nhẹ vai trò của Ý THỨC), và
hình thái chủ nghĩa CHỦ NGHĨA DUY VẬT kinh tế (trong đó xem kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định ạư
tồn tại và phát triển của xã hội). Điều nay được Đảng cộng sản VN khẳng định con đường đi lên xây dựng
CNXH là không coi kinh tế là quyết định tất cả.
* Trường phái triết học Duy tâm tồn tại và phát triển dưới hai hình thức sau đây:
Chủ nghia duy tâm xuất hiện ngay từ khi triết học ra đời. Sở dĩ gọi là duy tâm vì nó trả lời Ý THỨC là cái có
trước, VẬT CHẤT, thế giới khách quan là cái có sau, Ý THỨC quyết định VẬT CHẤT.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM khách quan (Pla ton, Heghen) cho rằng có một thực thể tinh thần hay ý niệm
tuyệt đói tồn tại bên ngoài độc lập với con người có trước con người đã sinh ra vạn vật, quyết định sự tồn tại
và phát triển của thế giới và con người.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM chủ quan (Becoli) cho rằng cảm giác và Ý THỨC của con người là cái có trước
và tồn tại sẵncó trong con người, mọi sự vật hay thế giới vật chất chỉ là kết quả của sự phức hợp của cảm giác
mà thôi. Do đó, toàn bộ cái thế giới khách quan bên ngoài chỉ là “phức hợp” của những cảm giác do cái
“Tôi” sinh ra. (ĐH VI của Đảng phân tích sự chủ quan duy ý trí....)
Tóm lại, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho dù có những biến thái, cách giải quyết khác nhau
về mặt thứ nhất song nó giống nhau ở chỗ đều coi Ý THỨC, tinh thần là cái có trước, quyết định VẬT
CHẤT, nó thường là đồng minh của tôn giáo, là vũ khí của giai cấp thống trị trong việc nô dịch quần chúng
nhân dân, nó chống lại khoa học và những tư tưởng tiến bộ.
* Ngoài ra còn có trường phái nhị nguyên luận, họ cho rằng cả VẬT CHẤT và tinh thần đều tồn tại song
song, chúng độc lập với nhau, VẬT CHẤT sinh ra VẬT CHẤT, tinh thần sản sinh ra các hiện tượng tinh
thần. Đại biểu của nó chính là Đề các tơ.
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học,chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba
hình thức cơ bản là:
Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất
của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một hoặc một số
dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới. Những lý giải đó được
thể hiện trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân vật
chất của giới tự nhiên để giải thích về thế giới.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu trong lịch
sử triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Đặc điếm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là phương pháp
tư duy siêu hình trong việc nhận thức về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu
hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử
chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen
sáng lập, V.I.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học
thuyết triết học truớc đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy
vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại
và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến
và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học
và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách
khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải
thích thế giới. VD:quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit... chủ nghĩa duy vật đã phát
triển khoảng năm 600 TCN với các tác phẩm của Ajita Kesakambali, Payasi, Kanada
*chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm ra đời từ hai nguồn gốc:
Một là, nguồn gốc nhận thức luận: Đó là sự tuyệt đối hóa, thổi phồng mặt tích cực của nhân tố ý thức con
người, trong nhận thức và thực tiễn. Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm triết học biểu hiện ở việc khẳng định về
sự tồn tại trước và có vai trò quyết định của nhân tố ý thức, tinh thần đối với nhân tố vật chất trước hết bắt
nguồn từ chỗ trong cuộc sống con người (cả trong nhận thức và thực tiễn), ý thức có vai trò rất to lớn, tích
cực. Chính xuất phát từ khả năng sáng tạo của ý thức, tư duy con người với những “mô hình” tồn tại trong
đầu, thông qua hoạt động thực tiễn của con người đã cho ra đời cả một thế giới các sự vật mới, đã làm cho bộ
mặt của thế giới vật chất, của xã hội biến đổi sâu sắc.
Tương tự, trong nhận thức cũng vậy, để đi tới sự đánh giá nhất định về sự vật, hiện tượng bên ngoài, đòi hỏi
người ta phải thông qua ý thức, cảm giác, phải dựa vào vốn hiểu biết cũng như năng lực tư duy nhất định của
mình. Từ thực tế đó, các nhà triết học duy tâm đi tới quan điểm cho rằng nhân tố ý thức, tinh thần có trước sự
vật bên ngoài, tồn tại độc lập với sự vật bên ngoài, thậm chí quyết định sự tồn tại sự vật bên ngoài. Họ không
biết rằng hay cố tình không biết, xét cho tới cùng, những hình ảnh trong đầu, những “mô hình” có sẵn, chỉ có
thể có được thông qua sự phản ánh các sự vật hiện tượng bên ngoài vào đầu óc của con người. Có thể khẳng
định, chủ nghĩa duy tâm thể hiện một quan điểm phiến diện, đối với vai trò nhân tố ý thức, tinh thần.
V.I.Lênin cũng từng chỉ rõ: “Theo quan điểm của một chủ nghĩa duy vật thô lỗ, giản đơn, siêu hình, thì chủ
nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
thì chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá (...) của
một trong những đặc trưng, của một trong những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành
một cái tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa” .
Hai là, nguồn gốc xã hội: Đó là sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong các chế độ xã hội
có sự phân chia giai - tầng, đẳng cấp: thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Trong chế độ xã hội này, sự
tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay được biểu hiện cụ thể bằng địa vị thống trị của lao động trí
óc đối với lao động chân tay. Tình trạng đó đã dẫn tới quan niệm cho rằng nhân tố tinh thần, tư tưởng có vai
trò quyết định tới sự biến đổi, phát triển của xã hội nói riêng, thế giới nói chung. Chẳng hạn như Nho giáo
quan niệm rằng yếu tố đạo đức đóng vai trò quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội. Quan điểm duy
tâm này lại được các giai cấp thống trị đương thời ủng hộ, bảo vệ để làm cơ sở lý luận cho các quan điểm
chính trị - xã hội nhằm duy trì địa vị thống trị của mình. Chính vì thế mà trong lịch sử triết học, cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và của nghĩa duy tâm thường gắn liền với các cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng
chính trị. Chủ nghĩa duy vật thường gắn liền với tư tưởng chính trị dân chủ, tôn trọng các quyền lợi cơ bản
của giới lao động chân tay, bị trị trong xã hội. Chủ nghĩa duy tâm thường gắn liền với tư tưởng chính trị độc
đoán, phi dân chủ, thiếu tôn trọng, thậm chí không quan tâm tới quyền lợi của người lao động bị trị.
Vai trò của chủ nghĩa duy tâm biểu hiện ở chỗ, nhấn mạnh tới vai trò hết sức to lớn của nhân tố tinh thần, lý
tính đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Mặc dù diễn giải về nhân tố tinh thần, lý tính bằng một hình thức
duy tâm thần bí, mà thực chất là sự tuyệt đối hóa các nhân tố này, tách rời sự tồn tại của nó ra khỏi hoạt động
của con người, song việc chú trọng xem xét, phân tích, đánh giá vai trò của nhân tố tinh thần của chủ nghĩa
duy tâm đã góp phần quan trọng vào sự phát triển tư duy lý luận của nhân loại, tạo nên một hiện tượng mà
V.I.Lênin gọi là “chủ nghĩa duy tâm thông minh”.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một
dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Vd quan niệm của beccoly,Platon, Hêghen.
Một số truyền thống ấn độ giáo và tông phái phật giáo có thể được coi là theo chủ nghĩa duy tâm. Một số
tông phái Phật giáo được gọi là các phái duy thức vì họ chú trọng vào ý thức mà không có một Thượng đế
hay linh hồn.

Câu 3:Các hình thức của chủ nghĩa duy vật, tại sao nói chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học,chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba
hình thức cơ bản là:
Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi thừa nhận tính thứ
nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một
hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới.
Những lý giải đó được thể hiện trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và
Hy Lạp.Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì nó đã lấy
bản thân vật chất của giới tự nhiên để giải thích về thế giới.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu
trong lịch sử triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Đặc điếm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ
này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức về thế giới.Tuy chưa phản ánh đúng thế
giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần quan
trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ
thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh
hoa của các học thuyết triết học truớc đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên
đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình
độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn
hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách
khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới.
VD:quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit... chủ nghĩa duy vật đã phát triển khoảng năm 600 TCN với các
tác phẩm của Ajita Kesakambali, Payasi, Kanada
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen là hình thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử triết học, vì:
- Một là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật để giải thích các tồn tại trong giới tự nhiên (như
chủ nghĩa duy vật siêu hình cổ đại), mà còn đứng trên lập trường duy vật để giải thích các hiện tượng,
quá trình diễn ra trong đời sống xã hội của con người đó là các quan điểm duy vật. lịch sử hay chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Thứ hai, Người không chỉ đứng trên quan điểm duy vật trong quá trình định hướng ý thức và cải tạo
thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình này. Nhờ đó tạo ra tính đúng đắn,
khoa học trong việc giải thích thế giới và cải tạo thế giới.
- Thứ ba, nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở kế thừa những tinh hoa
của lịch sử triết học và trên cơ sở tổng hợp những thành tựu vĩ đại của khoa học và thực tiễn trong
thời đại mới; nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và lực
lượng tiến bộ ngày nay.
Câu 4:Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất( định nghĩa vật
chất của lenin ấy), quan điểm này khắc phục những thiếu sót nào trong quan niệm
vật chất trước Mac?
Đối lập với CN duy tâm coi ý thức là cái có trước quyết định vật chất, CNDV khẳng định vật chất có trước
quyết định ý thức, vật chất là vốn có không ai sinh ra và tồn tại vĩnh viễn. Nhưng khi trả lời câu hỏi vật chất
là gì thì các nhà TH duy vật trả lời theo nhiều cách khác nhau.
Triết học Mác Lênin ra đời vào giữa TK19 đã theo một đường lối khác trong quan niệm về phạm trù vật
chất.Là CN duy vật biện chứng, TH Mác một mặt thừa nhận vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất tự
nó tồn tại không do ai sinh ra không bị tiêu diệt, mặt khác Triết học Mác Lênin cho rằng thế giới vật chất là
vô cùng lên cả trong không gian và trong thời gian, thế giới không có khởi đầu và không có kết thúc, tất cả
đều vận động biến đổi không ngừng và không gian, thời gian cũng như vận động là những thuộc tính, những
hình thức tồn tại của vật chất không thể quy vật chất về một dạng cụ thể nào đó của nó như nguyên tử, hay
nước,lửamà phải coi vật chất là mộ tphạm trù khái quát tất cả các sự vật hiện tượng cụ thể. Trong tác phẩm
"Biện chứng tự nhiên" ănghen viết " thực thể, vật chất không phải là cái gì khác hơn là tổng số những vật cụ
thể, tự do người ta rút ra khái niệm ấy = con đường hiện tượng hoá. Nhưng Mác và ănghen điều kiện một
định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất.
*Định nghĩa của LêNin về vật chất:” Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đemlại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại,phản ánh và tồn tại không thuộc
vào cảm giác.”
Định nghĩa của LêNin về vật chất trước hết là sự kế thừa quan điểm của Mác và ănghen coi vật chất là một
phạm trù Th khái quát thuộc tính của tất cả các sự vật hiện tượng chư không quy vật chất về một dạng cụ thể
nào như các nhà triết học trước Mác đã làm Lênin đòi hỏi phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù
TH với vật chất trong quan niệm của KH tự nhiên. KHTN nghiên cứu những thuộc tính chung nhất, phổ biến
của mọi sự vật hiện tượng và phản ánh chúng trong hệ thống phạm trù của mình như vật chất, vận động,
không gian,thời gian…Vậy phạm trù vật chất phản ánh thuộc tính nào của các đối tượng vật chất? Đó là
thuộc tính "Thực tại khách quan tồn tại đối lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh"
chính thuộc tính đó cho phép con người phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của TH trên lập trường
của CNDVBC, phân biệt về nguyên tắc với CN duy tâm bất khả tri luận, đồng thời cũng khắc phục được
những hạn chế của CNDV siêu hình trong quan niệm coi nguyên tử là giới hạn cuối cùng của vật chất, củng
cố niềm tin cho các KH tin tưởng vào giá trị khách quan của cac thành tựu khoa học hiện đại, tin tưởng vào
khả năng của con người có thể nhận thức đúng về thế giới vật chất.

Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất, mà cụ thể là định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã khắc
phục được một số hạn chế cơ bản sau của triết học trước Mác về vật chất:

- Thứ nhất, bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất và mối quan hệ giữa vật chất với ý
thức – đó là quan niệmphủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của các sự vật, hiện tượng của thế giới; và
cho rằng, bản chất thế giới và ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước
và quyết định vật chất.
- Thứ hai, bác bỏ thuyết không thể biết, vì về nguyên tắc, con người có thể nhận thức được thế giới vật
chất. Trong thế giới vậtchất không có là gì là không thể biết, chỉ có những cái đã biết, đang biết và sẽ
biết.
- Thứ ba, khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm duy vật chất phác thời cổ đại và
duy vật siêu hình thời cậnđại về vật chất. Không có một dạng cụ thể cảm tính nào của vật chất hay
một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.
Vật chất với tính cách là phạm trù triết học là sản phẩm của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá nên
không có các thuộc tính cụ thể như độ dài, ngắn, cao, thấp mà chúng ta có thể cảm nhận trực tiếp
bằng giác quan. Như vậy, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Thứ tư, quan niệm vật chất của triết học Mác-Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh
vực xã hội. Đây là điều màcác nhà duy vật trước C.Mác cũng chưa đạt tới. Nó giúp cho các nhà khoa
học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản
xuất; trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát
triển.

Câu 5:Phương thức và hình thức tồn tại vật chất(phần vận động k gian và thời
gian, ptich vận động k gian và thời gian)
- Vận động : là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất.
- Vận động không gian và thời gian là một hình thức tồn tại của vật chất.
- Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất
định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương
quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian. Mặt khác sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện
ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hoá… những hình thức tồn tại như vậy được
gọi là thời gian.
- Ăng-ghen cho rằng: “Các hình thức cơ bản của mọi sự tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài
thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”. Do đó có thể hiểu không có vật chất
nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không có không gian và thời gian nào tổn tại
bên ngoài vật chất.
- Không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất đó là tính khách
quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Không gian có thuộc tính 3 chiều (chiều dài, chiều rộng,
chiều cao) còn thời gian chỉ có 1 chiều (từ quá khứ đến tương lai).Tính 3 chiều của không gian và
tính 1 chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất
vận động.

Câu 6:Trong các yếu tố cấu thành ý thức, tri thức giữ vai trò quan trọng nhất
- Theo các yếu tố hợp thành ý thức bao gồm các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau như tri thức, tình
cảm, niềm tin, ý chí, lý trí,… trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi và quan trọng nhất. Tri thức là
phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con ngưừi, là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế
giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác
- Tri thức có nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người, có nhiều cấp độ
như tri thức thông thường, tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính
và tri thức lý tính,…
- Ngày nay, tri thức là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Loài người đang bước
vào nền kinh tế tri thức, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốn cho sự tăng trưởng kinh tế dài
hạn
- Vậy nên tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác

Câu 7:Cơ sở lí luận và yêu cầu của ngta tôn trọng khách quan và phát huy tính
năng động chủ quan. Vận dụng
Cơ sở lý luận chung của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan” là quan điểm của chủ nghĩa duy vật khoa học về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vật chất : Theo định nghĩa của V.I Lê Nin trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán thì vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con người biết được là nhờ
cảm giác. Cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh nhưng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất.
Như vậy vật chất tồn tại bằng hình thức vận động, thông qua vận động mà biểu hiện ra nó là gì?nhận thức sự
vận động của vật chất là nhận thức chính bản thân sự vật, hiện tượng.
- Vận động của vật chất là sự vận động tự thân, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất đều do các mặt,
các yếu tố hợp thành, sự liên hệ tác động giữa chúng làm cho vật chất vận động.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất mà vật chất không do ai sinh ra và không bao giờ mất đi, chỉ
chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh điều
đó.
- Vận động của vật chất có nhiều hình thức khác nhau, nhưng có 5 hình thức vận động cơ bản sau:
+ Vận động cơ học: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý: Đó là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản: đIện từ,
nhiệt...
+ Vận động hoá học: Đó là sự vận động của các nguyên tử, sự hoá hợp và phân giải của các chất.
+ Vận động sinh học: Đó là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môI trường.
+ Vận động xã hội: Đó là sự thay đổi, sự thay thế các quá trình vận động của các hình thái kinh tế xã hội.
Năm hình thức vận động trên từ thấp đến cao, chúng khác nhau về chất nhưng có quan hệ biện chứng với
nhau.Hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp trong đó nhưng không được lẫn lộn giữa
các hình thức vận động, không được quy định hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp.Mỗi sự
vật, hiện tượng bao giờ cũng được đặc trưng bởi 1 hình thức vận động tiêu biểu.
- Vận động là tuyệt đối còn đứng yên là tương đối, trạng thái cân bằng của sự vật là tạm thời trong quá trình
vận động của nó.
Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy lý luận trong đó tri
thức là phương tiện tồn tại của ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là
bé não người, nó phản ánh sự sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động và ngôn
ngữ.
*Nguồn gốc của ý thức:
- Nguồn gốc tự nhiên: Chính bộ óc của con người cùng với thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: là lao động, thực tiễn xã hội và ngôn ngữ, đó là nguồn gốc
quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức. Nhờ có lao động, con người tác động vào các
đối tượng, buộc các đối tượng bộc lộ đặc điểm, tính chất của nó, sau đó các đặc điểm, tính chất đó lại tác
động vào bộ óc con người. Từ đó con người nhận thức được quy luật, hiện tượng của sự vật trong thế giới tự
nhiên. Như vậy quá trình hình thànhý thức là kết quả hoạt động chủ quan của con người thông qua hoạt động
thực tiễn để cải
tạo thế giới. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ của tư duy.Ýthức là một hiện tượng có
tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và
phát triển được.
* Bản chất của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Đây không
phải là sự phản ánh đơn giản, là bản sao thụ động máy móc của sự vật. Ý thức là hình ảnh tinh thần của thế
giới khách quan hình thành trong quá trình con người tác động cải tạo nó. Cho nên, ý thức con người là sự
phản ánh có tính năng động sáng tạo, hay nói cách khác, ýthức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính tích cực sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: trên cơ sở cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự
vật, có thể tưởng tượng ra những cái không thể có trong thực tế, có thể dự đoán về hiện tượng trong tương lai
có thể tạo ra những ảo tưởng, những giả thuyết, những lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng khái quát... . Dù
sáng tạo của ý thức không đối lập, không loại trừ và không tách rời sự phản ánh, mà ngược lại thống nhất với
phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của thức.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vật chất vàý thức là hai phạm trù triết học, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó vai trò quyết định
thuộc về vật chất, mặt khác ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
* Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, được thể hiện ở những mặt
sau đây:
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định sự hình thành của ý thức;
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Bởi vì ý thức của chúng ta là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc của con người, nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Vật chất quyết định sự biến đổi, sự phát triển của ý thức: Bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan trong điều kiện tự nhiên thay đổi, quan hệ vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức: Mỗi một cá nhân, mỗi một tổ chức đều có những ý niệm và
mục đích riêng, do đó phải có vật chất thì những ý nguyện đó mới thành hiện thực.
* Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua sự chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người, được diễn ra theo 2 chiều hướng:
- Hướng thứ nhất: Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, trên cơ sở đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của con người và đưa hoạt động thực tiễn của con người đi đến thành công.
- Ngược lại, nếu ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan mà dùa vào đó để chỉ đạo hoạt động thực
tiễn của con người thì sẽ làm cho hoạt động thực tiễn của con người mang tính chủ quan, duy ý chí, hành
động trái quy luật, thậm chí dẫn đến mù quáng.
Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “tôn trọng khách quan và phát huy tính năng động chủ
quan” trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:
 Xuất phát từ thực tế khách quan tức là phải xuất phát từ bản thân sự vật với tất cả
 các đặc tính, các thuộc tính của sự vật và các quan hệ của nó để tìm ra bản chất, ra xu hướng vận
động phát triển theo quy luật. Từ đó rút ra kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó mà đề ra
phương hướng và các giải pháp tác động cải biến sự vật, thế giới tự nhiên phục vụ lợi ích của con
người, không được áp đặt ý muốn chủ quan của chủ thể nhậnthức vào sự vật.
 Phát huy tính năng động chủ quan trước hết là phát huy tính tích cực sáng tạo của ý thức trong quá
trình phản ánh sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất quy luật của nó và đề ra đường lối, biện pháp cải
biến nó phục vụ lợi ích con người. Phát huy tính năng động chủ quan còn có nghĩa là không thụ động
ngồi chờ điều kiện chín muồi mới hành động mà trái lại phải biết tạo ra những điều kiện thích hợp,
làm cho điều kiện này tác động vào điều kiện khác để nảy sinh ra điều kiện cần thiết cho hoạt động
của con người.
 Vai trò của ý thức về thực chất là nói tới vai trò của con người, ý thức là ý thức của con người nhưng
bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực, cho nên muốn thực hiện tư
tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động; ý thức
tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ
sở những điều kiện cụ thể, điều kiện khách quan nhất định.
Ý thức của con người không tách rời điều kiện vật chất, con người phải biết dựa vào vào những điều kiện vật
chất đã có và phản ánh đúng quy luật khách quan một cách chủ động sáng tạo với ý chí và nhận định cao,
một mặt phải chống chủ quan duy ý chí, mặt khác phải chống bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ thụ động, trông
chờ, ỷ lại.

-Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta cần phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng lực nhận
thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của
các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội... Những đánh giá có giá trị hơn, những các giải
quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng
trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó.vì vậy tính khách quan
trong xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc chính đảng . việc xem thường nguyên tắc này
dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của các nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách
quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.

Vận dụng nguyên tắc khách quan trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Nguyên tắc khách quan trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đòi hỏi con người trong
hoạt động thực tiễn sẽ cần phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở,
phương tiện hoạt động cách mạng.

Những đường lối, chủ trương, chính sách trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ cần
phải xuất phát từ thực tế xã hội trong từng giai đoạn khác nhau. Trong các cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam trước đây, chúng ta vẫn luôn xác định điều kiện tất yếu diễn ra cuộc
cách mạng và cũng đã từ đó mà có thể đề ra chủ trương, đường lối phù hợp với tình hình đất
nước.

Một số các điều kiện khách quan mà chúng ta có thể kể đên trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam như: sự chín muồi của mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội tạo nên cuộc khủng
hoảng về chính trị sâu sắc hay là sự vực dậy của nông dân khi bị áp bức, sự bóc lột quá sức chịu
đựng của thực dân.

Vận dụng nguyên tắc khách quan trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt
Nam:

Việc vận dụng nguyên tắc khách quan trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt
Nam xuất phát từ việc tôn trọng các điều kiện tất yếu để nhằm mục đích thực hiện công nghiệp
hóa – hiện đại hóa.

Với sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt trên thị trường, và từ đó cũng đòi hỏi con
người cần phải có khả năng cạnh tranh trên thị trường và các vật các sản phẩm, hàng hóa sẽ cần
phải được sản xuất dựa trên nền tảng vững chắc của cơ sở vật chất và những kỹ thuật hiện đại với
cơ cấu phù hợp và cũng với chi phí có thể bỏ ra của nền kinh tế, từ đó sẽ góp phần tăng khả năng
tích lũy cho nền kinh tế, và thông qua đó cũng sẽ góp phần phát triển nền kinh tế.

Câu 8: Các hình thức của phép biện chứng( chất phác, duy vật, duy tâm). Tại sao
nói phép biện chứng duy vật là là hình thức phát triển cao nhất của phép biện
chứng

Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại,
phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó là một nội dung
cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ dại. Tiêu biểu cho nhũng
tư tưởngng biện chứng của triết học Trung Quốc là "biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý,
quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và "ngũ hành luận" (học thuyết về những nguyên tắc tương
tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện
rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù "vô ngã", "vô thường",
"nhân duyên". Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện
chứng tự phát. Ph.Ăngghen viết: "Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự
phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu
những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng... Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét
về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được
Hêraclit trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang
trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi sự vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong"'. Tuy
nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ, chất phác.
Ph.Ăngghen nhận xét: "Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự
nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu... Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ
mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng
về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thế ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được
chứng minh về chi tiết: đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Phép biện
chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài,
bằng trực quan chất phác, ngây thơ, còn thiếu sự chứng minh bởi những thành tựu phát triển của khoa
học tự nhiên.

- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen. Theo
Ph.Ăngghen:"Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học
tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen".Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình
bày nhũng tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy
tâm trong triết học Hêghen biểu hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của "ý
niệm tuyệt đối", coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hêghen, "ý niệm
tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự "tha hóa" thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó
trong tồn tại tinh thần, "... tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một
bản sao chép của ý niệm". Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây dựng
phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgích chặt chẽ của ý thức, tinh
thần. V.I.Lênin cho rằng: "Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những
hiện tượng, của thế giới, của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm". Ph.Ăngghen cũng nhấn
mạnh tư tưởng của C.Mác: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen
tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức
những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu
xuống đất. Chỉ cẩn dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nỏ ở đằng sau cái vỏ thần
bí của nó.
- Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hêghen là hạn chế
cần phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng
duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa
trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ph.Ăngghen tự nhận xét: "Có thể nói
ràng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học
duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử".
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen là hình thức - trình độ phát triển cao nhất của
chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học, vì:
+Một là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật để giải thích các tồn tại trong giới tự nhiên (như chủ
nghĩa duy vật siêu hình cổ đại), mà còn đứng trên lập trường duy vật để giải thích các hiện tượng, quá trình
diễn ra trong đời sống xã hội của con người - đó là các quan điểm duy vật. lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
+ Thứ hai, Người không chỉ đứng trên quan điểm duy vật trong quá trình định hướng ý thức và cải tạo thế
giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong quá trình này. Nhờ đó tạo ra tính đúng đắn, khoa học
trong việc giải thích thế giới và cải tạo thế giới.
+Thứ ba, nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của
lịch sử triết học và trên cơ sở tổng hợp những thành tựu vĩ đại của khoa học và thực tiễn trong thời đại mới;
nó trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và lực lượng tiến bộ ngày
nay.
Câu 9:Cơ sở lí luận và yêu cầu của nguyên tắc toàn diện, vận dụng
-Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: phép biện chứng duy vật khẳng
định mọi sự vật, hiện tượng luôn nằm trong các mối liên hệ đa dạng, phổ biến.
-Khái niệm mối liên hệ. Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối rành buộc tương hỗ, quy
định ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau.
-Mối liên hệ là sự tác động ràng buộc, thâm nhập… lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn
vật) mà trong đó sự thay đổi của cái này mà tất yếu kéo theo sự thay đổi của các kia. Đối lập với mối liên hệ
là sự khác biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng hay quá trình nhưng sự
thay đổi của cái này sẽ ko tất yếu kéo theo sự thay đổi của cái kia. Do vậy mà vạn vật trong thế giới đều luôn
tác động lẫn nhau, nhưng có một số tác động dẫn đến sự thay đổi, tức còn nằm trong trạng thái ổn định. Vạn
vật vừa tách biệt vừa liên hệ, vừa là nó vừa ko là nó. Thế giới vật chất là một hệ thống thống nhất mọi yếu tố,
bộ phận của nó. Chính nhờ sự thống nhất vật chất mà vạn vật luôn tác động qua lại lẫn nhau.
+ Mối liên hệ mang tính khách quan, tính phổ biến.
+ Mối liên hệ mang tính đa dạng.
Nó có thể được chia ra thành: MLH bên trong và MLH bên ngoài; MLH trong tự nhiên, MLH trong xã hội và
MLH trong tư duy; MLH riêng, MLH chung và MLH phổ biến;… Vai trò các MLH khác nhau là ko giống
nhau.
-Khái niệm mối liên hệ phổ biến: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ xảy ra một cách phổ biến
ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng, ở mọi lĩnh vực của thế giới: tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
-Tính chất của mối liên hệ phổ biến:
+ Tính khách quan: các mối liên hệ phổ biến xuất hiện một cách khách quan trong sự tồn tại, phát triển của
thế giới.
+ Tính phổ biến: các mối liên hệ phổ biến tồn tại trong mọi lĩnh vực của thế giới
+ Tính đa dạng, phong phú: các mối liên hệ xuất hiện và tồn tại một cách đa dạng và phong phú trong từng
lĩnh vực, từng sự vật, hiện tượng.
+ MLH phổ biến được nhận thức trong các (cặp) phạm trù biện chứng như MLH giữa: mặt đối lập - mặt đối
lập; chất - lượng; cái cũ – cái mới; cái riêng – cái chung; nguyên nhân - kết quả; nội dung – hình thức; bản
chất - hiện tượng; tất nhiên - ngẫu nhiên; khả năng - hiện thực.
Yêu cầu phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi
phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt. Phải xem xét sự vật từ khắp góc độ, từ nhiều phương diện càng
tốt;
- Phân loại để xác định những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) nào là bên
trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…)
nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
- Dựa trên những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản, tất nhiên,
ổn định… để lý giải được những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua
đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) chi phối sự
vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiểu công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước
hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những MLH, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó
- Nắm vững sự chuyển hóa các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân
sự vật, kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế sự tác động
của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
Vận dụng đối với bản thân:
_Đối với sinh viên việc vận dụng nguyên tắc toàn diện trong cuộc sống là khá quan trọng
trong học tập, giải quyết vấn đề cũng như phục vụ cho mục đích phát triển bản thân.
Nguyên tắc này góp phần định hướng cho các hoạt động nhận thức, thực tiễn và hoạt
động cải tạo bản thân. Nhưng để đạt được hiệu quả cao nhất khi thực hiện nguyên tắc toàn
diện ta phải biết cách vận dụng làm sao để tốt cho bản thân và phù hợp với từng khoảng
thời gian và không gian thích hợp.
Áp dụng trong học tập:
_Đối với sinh viên việc học có lẽ là ưu tiên hàng đầu. Để đạt được hiệu quả trong học tập
sinh viên cần có phương pháp học thích hợp và phải biết linh hoạt trong việc tiếp cận và
tiếp thu kiến thức từ giảng viên cũng như từ các nguồn tài liệu. Về phương pháp học mỗi
sinh viên sẽ có một phương pháp học khác nhau. Vì vậy, để tìm được phương pháp học
phù hợp việc vận dụng nguyên tắc toàn diện là vô cùng quan trọng. Cụ thể là khi áp dụng
nguyên tắc toàn diện ta sẽ đặt việc học vào các mối liên hệ như: học gì, học như thế nào,
khi nào học, … và khi rút ra được mối liên hệ giữa chúng, ta sẽ có được một hệ thống
kiến thức, phương pháp học thích hợp. Về việc tiếp cận và tiếp thu kiến thức sinh viên
không nên quá rập khuôn đối với những gì được truyền đạt từ giảng viên hay đọc trên
sách vở, rập khuôn ở đây không phải nói những trí thức nhận được từ giảng viên hay sách
vở là sai mà nó có nghĩa là sinh viên không nên quá tuyệt đối hóa những trí thức đó mà
không bổ sung, không phát triển. Ví dụ: khi ta học môn hóa có kiến thức mà trong môn
học chỉ nói khái quát, chung chung nhưng khi ta học môn khác chẳng hạn môn sinh thì
những vấn đề đó sẽ được nói cụ thể hơn và lúc đó chúng ta cần phải tìm hiểu vấn đề đó để
hiểu rõ, sâu sắc hơn và phải tiếp thu những quan điểm khác nhau để so sánh. Và như ta đã
biết thì “học đi đôi với hành” do vậy ta còn phải áp dụng những kiến thức đó vào thực tế
để biết chúng đã đúng chưa hay vẫn còn phát sinh những vấn đề khác
Áp dụng trong cuộc sống:
_Đối với cuộc sống hằng ngày thì nguyên tắc toàn diện cũng rất quan trọng đối với tất cả
mọi người. Ví dụ: khi kết bạn một số người đưa ra lựa chọn kết bạn và đánh giá người
khác dựa trên vẻ bề ngoài tuy nhiên quan điểm này sẽ hoàn toàn sai nếu bạn đang tìm
kiếm những người bạn tốt, vì ngoại hình và tính cách là hai mặt khác nhau của một con
người nên việc đánh giá một người qua vẻ bề ngoài là hành động phiến diện và dẫn đến
những sai lầm khi chọn bạn. Vì đôi khi những người có vẻ bề ngoài đẹp đẽ chỉ gây cho ta
ấn tượng tốt ban đầu nhưng sau khi tiếp xúc thì bản chất thực sự của họ sẽ làm cho ta phải
ngã ngửa. Vì vậy, việc đánh giá một người là cả một quá trình dài và ta phải áp dụng
nguyên tắc toàn diện để có cái nhìn tổng quát, đa chiều về một người và từ đó mới có thể
đưa ra đánh giá một cách chính xác nhất tránh sai lầm khi chỉ nhìn nhận một cách phiến
diện, một chiều.
Vận dụng nguyên tắc toàn diện ở nước ta hiện nay:
Vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc
toàn diện, tuy nhiên chúng ta không thực hiện rập khuôn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn
đều” và “chính sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh
vực của đời sống xã hội.Chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, giải quyết
những vấn đề của xã hội; Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đi tới bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc.Vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an ninh quốc phòng…trong đó xác
định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Về mặt kinh tế:
Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn diện cũng được Đảng ta áp dụng thể hiện cụ thể ở việc
thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiềuthành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cụ thể là Nhà nước vẫn thừa nhận vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng như thừa
nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi
trọng hình thức sở hữu công cộng với vai trò chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị
trường.Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc trên song song đó là sàng lọc, lựa
chọn và giữ nguyên các tập đoàn quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập đoàn, doanh
nghiệp quốc
doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế.
Về chính trị:
Đổi mới về tư duy Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng
ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách
đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế – xã
hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội”. Ngày càng hoàn thiện cơ
chế Đảng lãnh đạo: Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực
tiễn của Đảng, Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quản lý xã
hội bằng pháp luật. Nước ta đã và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch,có năng lực. Đổi mới chính trị
thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân cấp lãnh đạo của Đảng, dân chủ hóa trước hết từ trong
Đảng. Đổi mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường lối chính trị, thiết chế chính trị được
đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì chính trị trở thành định hướng cho phát triển kinh tế. Đồng
thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để phát triển kinh tế và chính trị còn đóng vai trò can thiệp
điều tiết, khắc phục những mặt trái do đổi mới kinh tế đưa đến. Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội và
nền văn hóa.
Về văn hóa, xã hội:
Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội: Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng
ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của
chế độ ta. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộcsống, phát triển y tế, giáo
dục

Câu 10: Cơ sở lí luận và yêu cầu của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Vận dụng?
Cơ sở lí luận
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm khi xem xét sự vật phải nghiên cứu nó trong điều kiện thời gian và
không gian nhất định. Phải nghiên cứu quá trình vận động của nó trong quá khứ hiện tại và dự kiến tương lai.
- Cơ sở lý luận của quan điểm trên là xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Phải có quan điểm lịch sử cụ thể vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển.
Mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên xem xét sự vật
vừa phải xem quá trình phát triển của sự vật đó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện quá trình cụ thể.
+ Có xem xét toàn diện và lịch sử cụ thể sự vật thì ta mới hiểu được bản chất của sự vật từ đó mới cải tạo
được sự vật.
Vì vậy, nguyên tắc lịch sử - cụ thể được coi là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác – Lênin vì nó
tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, do
đó, hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng chính là phương pháp biện chứng
Những yêu cầu cơ bản cùa nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
1. Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể của
những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa là:
- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào, bị chi phối
bởi những quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra sao, do những quy luật
nào chi phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên những nét cơ bản) trong
tương lai ..
2. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những sự vật
cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn
mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào
3. Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau
đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, những hiện tượng đó đã trải qua những
giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở
thành thế nào”.
Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình hình cụ thể để
thấy được:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ nào; đang
(đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào?...
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang nằm ở giai
đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật?...
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào đang (đã hay sẽ)
phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?..
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay cái đơn
nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế
nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào chỉ là giả
tượng, hiện tượng nào là điển hình …
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình thức nào
phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự
vật biến đổi?..
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả năng
nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao?
4. Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các
biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái ngẫu nhiên thuần túy
của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta
phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy luật, bản chất)
của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới, để qua đó chúng ta
nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử trong sự thống nhất.
Vận dụng của đảng
Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất phát từ tình hình cụ thể của
CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng
lợi ở tất cả các nước TBCN tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi vận dụng nguyên tắc
này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn
là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.
Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc này vào
thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con đường riêng đi lên CNXH.
Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH. Ngày nay, để xây dựng
thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
XHCN; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và
xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Câu 11: Trong cuộc sống phải biết tuân theo qui luật nhưng phải biết nắm bắt cơ
hội, cơ sở lí luận của quan điểm này là gì
“ Trong cuộc sống phải biết tuân theo những quy luật nhưng phải biết nắm bắt cơ hội ” dựa trên cặp phạm trù tất
nhiên & ngẫu nhiên của phép biện chứng duy vật .
- Khái niệm :
+ Tất nhiên là phạm trù chi mối liên hệ bản chất , do nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật , hiện tượng quy định
và trong điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác .
+ Ngẫu nhiên là phạm trù chi mối liên hệ không bản chất , do nguyên nhân , hoàn cảnh bên ngoài quy định nên
có thể xuất hiện , có thể không xuất hiện , có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác .
- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên :
+ Tất nhiên luôn bộc lộ thông qua vô số ngẫu nhiên , còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên , bổ
sung cho tất nhiên .
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò nhất định trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng , trong đó , tất
nhiên đóng vai trò quyết định sự phát triển , còn ngẫu nhiên có thể chi phối , làm cho sự phát triển ấy diễn ra
nhanh hay chậm .
+ Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối , biểu hiện , thậm chí , giữa chúng có chuyển hóa cho
nhau .
- Ý nghĩa phương pháp luận :
+ Thứ nhất , cần dựa vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên .
+ Thứ hai , chỉ có thể tìm ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên .
+ Thứ ba , không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà phải có những phương án dự phòng trường hợp sự cố ngẫu nhiên
xuất hiện bất ngờ
+ Thứ tư , trong thực tiễn , cần tạo ra điều kiện thuận lợi để cái ngẫu nhiên phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên
và tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên .
Cho nên ta thấy:

 Tuân theo quy luật là điều cần thiết để duy trì trật tự và ổn định. Quy luật là những quy tắc, nguyên
tắc bất biến của tự nhiên và xã hội. Khi tuân theo quy luật, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm, rủi
ro không đáng có. Ví dụ, khi tham gia giao thông, chúng ta cần tuân thủ luật giao thông để đảm bảo
an toàn cho bản thân và mọi người xung quanh.
 Nắm bắt cơ hội là điều cần thiết để đạt được thành công. Cơ hội là những điều kiện thuận lợi, thuận
lợi để đạt được mục tiêu. Khi biết nắm bắt cơ hội, chúng ta sẽ có thể đạt được thành công nhanh
chóng và dễ dàng hơn. Ví dụ, một người biết nắm bắt cơ hội đầu tư vào một lĩnh vực mới đang phát
triển sẽ có thể kiếm được nhiều tiền.

Vì vậy, trong cuộc sống, chúng ta cần biết kết hợp hài hòa giữa việc tuân theo quy luật và nắm bắt cơ hội.
Khi tuân theo quy luật, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm, rủi ro không đáng có. Khi nắm bắt cơ hội,
chúng ta sẽ có thể đạt được thành công nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Câu 12: Phân tích cách thức vận động phát triển của các sự vật hiện tượng trong
thế giới. Vận dụng?
Quy luật lượng-chất vạch ra cách thức vận động phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế
giới. Vai trò: Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển.

Nội dung quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ các khái niệm, phạm trù có liên quan.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng, nói lên
sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện
tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác
với các sự vật, hiện tượng khác.

Chất của sự vật là khách quan, nó do thuộc tính của sự vật quy định. Thuộc tính về chất là
một khía cạnh nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các
sự vật, hiện tượng khác. Đó có thể là tính chất, trạng thái, yếu tố,...của sự vật. Ví dụ như: chất
của bạc chi bộc lộ ra khi bạc tác động qua lại với nhiệt độ, không khí, điện,....

Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của
sự vật. Như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không phải có một chất mà có nhiều chất. Chất của
sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới tạo
thành chất của sự vật. Tuy nhiên, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc
tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối.

Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương đối,
song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật không tách rời nhau: chất
là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của nó. Chất biểu hiện trạng
thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các
thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật này không hòa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này
với cái khác. Chất luôn gắn liền với lượng của sự vật.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật,
hiện tượng biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách
quan, vốn có của sự vật, hiện tượng quy định sự vật, hiện tượng ấy là nó.

Một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức
khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật. Sự vật càng ở trình độ cao thông số
về lượng càng phức tạp. Có những lượng có thể đo đếm bằng con số chính xác như vận tốc
của ánh sáng là 342m trong một giây; nhưng có những lượng chỉ có thể cảm nhận bằng
phương pháp trừu tượng hóa như trình độ nhận thức của một người.

Đặc điểm cơ bản của lượng là tính thường xuyên biến đổi. Bản thân lượng không nói lên sự
vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biển đối cùng với sự vận
động biến đõi của sự vật.

Quan hệ giữa chất và lượng: Sự vật, hiện tượng bao giờ cũng là thế thống nhất của hai mặt
đối lập lượng và chất. Lượng nào chất ấy, chất nào lượng ấy. Không có chất lượng tồn tại
tách rời nhau. Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ có ý nghĩa tương đối; có cái trong
mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng. Ví dụ: số
lượng học sinh giỏi của một lớp là 30% thì lớp đó được gọi là lớp tiên tiến. Như vậy số lượng
trên biểu trị chất lượng học tập của lớp đó. Điều đó có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định
thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật.

Sự thống nhất giữa hai mặt chất và lượng diễn ra trong một khoảng giới hạn nhất định.
Khoảng giới hạn này được gọi là độ. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất
giữa lượng và chất, là giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa
làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng. Trong giới hạn của độ, sự vật, hiện
tượng vẫn còn là nó, chưa là cái khác. Vi dụ như: nước khi ở điều kiện áp suất bình thường,
có sự thay đổi nhiệt độ (tăng lên hoặc giảm đi) trong giới hạn từ 0^ C d overline en * 100 deg
* C thì nước vẫn ở trang thải lòng. Ở đây, giới hạn từ 0°C đến 100°C gọi là độ.

Sự vật, hiện tượng biến đổi khi chất lượng biến đổi. Nhưng chất là một tương đối ổn định còn
lượng là mặt biến động mạnh hơn. Lượng khi

biến đổi trong giới hạn độ thì sự vật chưa biến đổi. Đến khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn
độ của nó, đến một giới hạn nhất định, với những điều kiện nhất định, thì sẽ tất yếu dẫn đến
sự thay đổi về chất, làm cho chất cù mất đi, chất mới ra đời. Tại thời điểm lượng đạt đến một
giới hạn nhất định để vật thay đổi về chất gọi là điểm nút. Điểm nút là phạm trù triết học
dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đã dẫn tới sự thay đổi về chất. Ở ví dụ
về độ trên, nếu nhiệt độ tăng lên hoặc giảm đi vượt quá giới hạn từ 0°C đến 100°C thì nước
sẽ biến thủ. Đồng thời, cần biết phát huy vai trò của chất mới trong việc làm thay đổi về
lượng như mong muốn.
Thứ hai, vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật, hiện
tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút. Nên cần phải khắc phục
tư tưởng nôn nóng tả khuynh, do tư tưởng này biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự
tích lũy về lượng mà cho rằng sự phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy
liên tục; mặt khác, khi lượng đã đạt được đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu
khách quan của sự vật, hiện tượng. Do đó, cũng cần phải khắc phục tưởng bảo thủ, hữu
khuynh biểu hiện ở việc không dám thực hiện bước nhảy mặc dù đã tích lũy về lượng cần
thiết.

Thứ ba, vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong
nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho
phù hợp với từng điều kiện, từng tĩnh vực cụ thế. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình
phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ
quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy
quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.

Thứ tư, vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tỉnh quy định
lần nhau, tác động và làm chuyển hóa lần nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiên cần phải
coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương tiện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận toàn
diện về sự vật

Câu13: Phân tích nguồn gốc động lực của sự phát triển? Vận dụng
Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển.
Theo quan điểm biện chứng, nguồn gốc của sự vận động phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập. Mọi sự vật hiện tượng đều có nhiều mặt, nhiều thuộc tính đối lập nhau. Sự thống nhất giữa các mặt
đối lập tạo nên sự tồn tại của sự vật hiện tượng. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc của mọi vận
động, phát triển.

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại, ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt đối lập, trong đó
bên này là lực lượng thúc đẩy sự phát triển, bên kia là lực lượng kìm hãm sự phát triển. Sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập diễn ra theo hai xu hướng:

 Xu hướng thống nhất: Đây là xu hướng làm cho các mặt đối lập hòa nhập, bổ sung cho nhau, tạo nên
sự tồn tại của sự vật hiện tượng.
 Xu hướng đấu tranh: Đây là xu hướng làm cho các mặt đối lập mâu thuẫn, xung đột với nhau, tạo nên
sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng.

Khi sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đạt đến một mức độ nhất định, thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự
vật hiện tượng. Sự thay đổi về chất là sự biến đổi về bản chất, thuộc tính, cấu trúc,... của sự vật hiện tượng.
Sự thay đổi về chất dẫn đến sự hình thành của một sự vật hiện tượng mới, thay thế cho sự vật hiện tượng cũ.

Ví dụ, trong cơ thể người, sự thống nhất giữa các cơ quan, hệ cơ quan tạo nên sự sống của con người. Sự đấu
tranh giữa các cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể người là nguồn gốc của sự phát triển của con người. Khi con
người trưởng thành, các cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể người phát triển không đồng đều. Sự phát triển
không đồng đều này dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ thể người. Ví dụ, xương phát triển mạnh mẽ, dẫn đến
sự thay đổi về chiều cao, cân nặng của con người.

Động lực của sự vận động phát triển là cái làm cho sự vật hiện tượng vận động, phát triển. Động lực của sự
vận động phát triển có thể là:

 Sự tác động của các yếu tố bên ngoài: Đây là những yếu tố nằm ngoài sự vật hiện tượng, tác động vào
sự vật hiện tượng, làm cho sự vật hiện tượng vận động, phát triển. Ví dụ, sự tác động của ánh sáng,
nhiệt độ, nước,... làm cho cây cối sinh trưởng, phát triển.
 Sự tác động của các yếu tố bên trong: Đây là những yếu tố nằm trong sự vật hiện tượng, tác động vào
sự vật hiện tượng, làm cho sự vật hiện tượng vận động, phát triển. Ví dụ, sự tác động của các cơ quan,
hệ cơ quan trong cơ thể người làm cho cơ thể người vận động, phát triển.

Sự tác động của các yếu tố bên ngoài và bên trong có thể cùng tác động hoặc tác động riêng rẽ đến sự vận
động phát triển của sự vật hiện tượng.

Vận dụng:

Hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển có ý nghĩa to lớn đối với nhận thức và hoạt động
của con người.

 Về mặt nhận thức:

Hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển giúp con người nhận thức đúng đắn về thế giới
khách quan. Từ đó, con người có thể có những tri thức khoa học, chính xác về thế giới xung quanh.

 Về mặt hoạt động:

Hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển giúp con người có thể có những hoạt động đúng
đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Từ đó, con người có thể đạt được mục tiêu của mình một cách hiệu
quả.

Ví dụ, trong sản xuất, việc hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển giúp con người có thể
lựa chọn phương pháp sản xuất phù hợp, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

Trong đời sống, việc hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển giúp con người có thể ứng xử
phù hợp với những biến đổi của xã hội, phát triển bản thân và góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp
hơn.

Câu 14: phân tích cách thức và khuynh hướng của sự phát triển. Vận dụng ( quy
luật phủ định của phủ định)
Câu 15: Vai trò thực tiễn đối vs nhận thức, ý nghĩa, pp luận
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của
chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình nhận thức chân lý:
a) Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức Thực tiễn là nơi khởi đầu, là cơ sở
của nhận thức. Mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn.
.Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các
đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng.
Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm
vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức
Nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt
động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối
liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận
thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
6 Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực
tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
nếu xa rời thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát
sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng
đắn và sâu sắc về thế giới nến nó xa rời thực tiễn Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta
phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai
lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của
thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa
thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận
lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận
suông, ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành
thực tiễn mù quáng.
b) Thực tiễn là động lực của nhận thức: Thực tiễn là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong quá
trình thực tiễn, con người luôn luôn gặp phải những vấn đề, những mâu thuẫn cần phải giải quyết.
Những vấn đề, mâu thuẫn đó là động lực thúc đẩy con người tìm tòi, khám phá, sáng tạo ra tri thức
mới.
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác,
nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những
tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người phải nhận thức về thế giới.
Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con người nhận
thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới. Ví dụ: Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn con người cần phải “đo đạc
diện tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” MÀ toán
học đã ra đời và phát triển c) Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới. Nhấn mạnh
vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực hoạt động để
đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển
nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần
giải quyết.
Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu
biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức
đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại Ví dụ : những thành tựu mới nhất của y học về điều chế
vắc-xin cũng ra đời từ thực tiễn ,mục đích chữa trị và ngăn chặn nhũng mối hiểm họa từ dịch Bệnh cho nhân
loại d) Thực tiễn là tiêu chuẩn tiêu chuẩn của chân lý: Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai.
Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính xác
nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý hay không
c) Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức: Tri thức của con người chỉ có giá trị khi nó
được kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá tính
đúng đắn, tính chân lý của tri thức.

Ý nghĩa của phương pháp luận


Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan
điểm này yêu cầu:
Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải đi
đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc,
quan liêu.
Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghĩa thực dụng. IV. Liên hệ quan điểm thực tiễn vào hoạt đông học tâ ̣ p và thực tiễn của ̣ bản thân
Khi xem xét sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
 Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức, khoa học và để vận dụng vào thực tiễn.
 cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học
trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện
tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của
xã hội.
Câu 16: Các tính chất của chân lí, vì sao nói chân lí tuyệt đối bằng tổng số vô hạn
của các chân lí tương đối
Tính chất của chân lý:Mọi chân lý đều mang bốn thuộc tính: tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối
và tính cụ thể.
-Các tính chất của chân lí:
+Tính khách quan
Chân lý là tri thức chứ không phải bản thân hiện thực khách quan, nhưng tri thức đó phải phản ánh đúng hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng. Cho nên, theo nghĩa đúng của từ này, chân lý bao
giờ cũng là khách quan vì nội dung phản ánh của nó là khách quan, là phù hợp với khách thể của nhận thức.
V.I. Lênin nhấn mạnh; “Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý không phụ thuộc vào con người và loài
người” chỉ phụ thuộc vào thực tại khách quan, không phụ thuộc vào tính đơn giản hay tính chặt chẽ của
lôgíc, không phụ thuộc vào lợi ích hay sự quy ước, v.v.. V.I. Lênin cũng khẳng định “là người duy vật, có
nghĩa là thừa nhận chân lý khách quan”.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con
người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa
là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập
tùy tiện của con người hoặc có sẵn trong nhận thức; trái lại, nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế
giới khách quan qui định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý của
chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự
tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó.
+Tính tuyệt đối và tính tương đối
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với
hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách
quan không tồn tại một sự vật, hiên tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng
đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng
thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối
tượng được phản ánh. Do đó chân lý có tính tương đối.

Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri
thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý
với khách thể được phản ánh chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía
cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau.
Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính
tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối
đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn;
mỗi chân lý khoa học, dù có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.

Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý có
một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành
động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu
hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ
thấp vai trò của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa
xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.
Tính cụ thể
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định
cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một
nội dung cụ thể xác định. Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn
luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó,
trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử
cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ
rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là chân
lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin đẫ khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là
cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con
người phải dựa trên quan điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng
những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể
mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch
sử trong một thời điểm cụ thể nhất định.

-VÌ SAO NÓI CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI BẰNG TỔNG SỐ VÔ HẠN CỦA CHÂN LÝ TƯƠNG ĐỐI
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: Mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng Trong một giới hạn nhất
định, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng. Mặt khác, mỗi chân lý trong điều kiện xác định nó mới
chỉ phản ánh được một phần thực tai khách quan .Ví dụ trong giới hạn phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng
các góc trong của tam giác tuyệt đối bằng 2 vuông ( tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có
độ cong khác 0 ) thì định lý đó không cần đúng nửa( tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý
mới.
Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan, còn chân lý tuyệt đối là
chân lý phản ánh được đầy đủ đôi với thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý tuyệt đối chính là tổng số
của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại.
Ví dụ, 2 khẳng định sau đây đều là chân lý nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh sáng có đặc
tính sóng, (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định
đầy đủ hơn ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt .
Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện
thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến tính tuyệt đối của chân lý (chân lý tuyệt đối). Bởi vì,
trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận
thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những
điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối
tượng được phản ánh. Do đó chân lý lại có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những
tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản
ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện
nhất định.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với
nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang
tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết: "Chân lý tuyệt đối
được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh
tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính
xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt
đối".Chân lý tuyệt đối là sự tổng hợp vô tận những chân lý tương đối. Không một tri thức cụ thể nào của con
người có thể xem là chân lý tuyệt đối mà chỉ là một phần rất nhỏ của chân lý tuyệt đối.chân lý tuyệt đối chỉ
phát hiện dần dần từng bước một tùy theo sự tiến triển của nhận thức của con người. “ bản tính của tư duy
con người là có thể đem lại và thực sự đem lại cho chúng ta chân lý tuyệt đối ; nhưng trong mỗi nguyên lý
khoa học, giới hạn của sinh lý đều là tương đối nó tùy theo với sự tiến triển của khoa học là khi thì mở rộng,
khi thì thu hẹp”
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý có
một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và trong
hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm
siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý,
hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan,
chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và không thể biết.
Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, nó
mới phản ánh đúng một mặt một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan trong những điều kiện giới hạn
xác định. Tương đối ở đây là do điều kiện lịch sử chế ước chứ không phải là phản ánh sai. Tính tuyệt đối của
chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý phản ánh đầy đủ toàn diện hiện thực khách quan ở một giai
đoạn lích sử cụ thể xác định. Con người ngày càng tiến gần đến chân lý tuyệt đối chứ không thể đạt chân lý
tuyệt đối một cách chọn vẹn, toàn diện theo nghĩa đen của từ . Sự phân biệt giữa tính tương đối và tính tuyệt
đối của chân lý cũng chỉ là tương đối. Đường ranh giới này có thể vượt qua được . Trong hoạt động thực tiễn
cần chống cả hai khuynh hướng: hoặc cường điệu tuyệt đối hóa tính tuyệt đối phủ nhận tính tương đối của
chân lý và ngược lại

Câu 17: tại sao nói phương thức SX là nhân tố quyết định sự tồn tại và Phát triển
của xã hội?
PTSX là cách thức mà con người dùng để chỉ ra của cải vật chất cho mình trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với tự nhiên và có những quan hệ với nhau trong
sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có PTSX nhất định. Các PTSX trong lịch sử được thay thế lẫn nhau
một cách tất yếu khách quan bằng các cuộc cách mạng xã hội PTSX sau bao giờ cũng tiến bộ hơn PTSX
trước.
* PTSX là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội vì:
- Quyết định sự tồn tại của xã hội loài người chính là sản xuất vật chất, nếu không sản xuất thì bất cứ nước
nào, xã hội cũng bị diệt vong. Mà sản xuất bao giờ cũng được con người tiến hành theo những cách thức
nhất định. Nến có thể nói chính phương thức sản xuất quết định sự tồn tại của loài người.
+ PTSX là tiêu chuẩn để phân biệt các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội loài người. Mác nói, các thời
đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ sản xuất bằng cái gì? với những phương tiện gì?
+ Tính chất và kết cấu của xã hội như thế nào không phải do nguyện vọng, ý muốn chủ quan của con người
cùng không do tư tưởng, lý luận quết định mà do PTSX quyết định.
- PTSX quyết định sự phát triển của xã hội vì bản thân PTXH luôn thay đổi và cải tiến công cụ (trong quá
trình khái quát để giảm nhẹ và tăng năng suất con người luôn tìm cách thay đổi và cải biến công cụ. Chính
điều này đã làm cho TLSX thay đổi, LLSX đã tác động dẫn người lao động làm cho trình độ, kỹ năng sản
xuất của họ cũng thay đổi, như vậy toàn bộ lực lượng được thay đổi theo nó là sự biến đổi của QHSX cho
phù hợp với tính chất và trình độ mới của LLSX, PTSX thayđổi làm cho mọi mặt khác của đời sống xã hội
cũng thay đổi theo như vậy PTSX làm cho xã hội phát triển từ thấp đến cao. Có thể nói lịch sử xã hội loại
người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các PTSX

- Câu18: Phân tích nội dung và kết cấu của LLSX. Tại sao nói trong thời đại hiện
nay khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp của Xã hội.

a) Nội dung và kết cấu của LLSX.


Lực lượng sản xuất:
* Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ sản xuất) và con
người với kinh nghiệm, kỹ năng tri thức lao động của họ.
+ Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong qúa trình sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan.
+ Kết cấu của lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất bao gồm 2 yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động.
Tư liệu sản xuất gồm:
+ Tư liệu lao động: có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong quá trình sản
xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm.
+ Đối tượng lao động là những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con người tạo ra và được con
người sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Yếu tố con người. Đó chính là người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ. Các yếu
tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó con người giữ vị
trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở thành các lực lượng sản xuất
trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất có thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó
là khoa học.
b) Khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp vì:
Không thể phát triển sản xuất nếu thiếu tham gia của khoa học. Những sáng chế phát minh trong khoa học
được áp dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất và trở thành một mắt khâu của quá trình sản xuất.
-Khoa học được kết tinh vào mọi nhân tố của quá trình sản xuất (vào đối tương lao động,vào tư liệu lao động
vào phương pháp công nghệ và cả trong tri thức của người lao động)
-Khoa học trở thành điểm xuất pháp cho những biến đổi to lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất
mới kết hợp khoa học với kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ mới
đem lại hiệu quả cao trong sản xuất./.

Câu 19: Nội dung quy luật cơ bản phổ biến nhất chi phối sự vận động và phát
triển của xh, ý nghĩa pp luận
a) Một số khái niệm:
- LLSX biểu hiện mối quan hệ con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
QHSX: biểu hiện mối quan hệ con người với con người trong quá trình SXLLSX và quan hệ sản xuất hợp
thành phương thức sản xuất của xã hội.
- Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật chất cho mình trong một giai
đoạn lịch sử nhất định với tự nhiên và co những quan hệ với nhau trong sản xuất.
- Tính chất của LLSX: là xét về tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Có hai loạitính chất của
LLSX. + Tính chất cá nhân
+ Tính chất xã hội
- Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm. Kỹ
năng lao động của con người, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội xét những yếu tố trên ta
thấy:
+ LLSX có trình độ cao.
+ LLSX có trình độ thấp.
b) Phân tích quy luật sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX.
- Trước hết cần phải hiểu sự phù hợp của QHSX có nghĩa là LLSX có tính chất và trình độ như thế nào thì
QHSX cũng có tính chất lượng đó là thống nhất biện chứng có chúa đựng mâu thuẫn tiêu chí của sự phù hợp
này là năng suất lao động tăng. LLSX đảm bảo nhưng điều kiện xã hội và môi trường.
Thứ nhất: QHSX được hình thành biến đổi, phát triển đưa ảnh hưởng quyết định của LLSX.
+ LLSX là yếu tố luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử. Sự phát triển từ LLSX bao giờ cũng
được bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, của quá trình phân công lao động. Nhưng
giai đoạn khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu về
TLSX.
+ Sự biến đổi của LLSX và QHSX sớm muộn cũng kéo theo sự biến đổi của QHSX.
+ Mâu thuẫn của LLSX và QHSX tất yếu sẽ dẫn đến phải xoá bỏ "Xiềng xích trói buộc" LLSX để xác lập
QHSX mới phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX (trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa
LLSX và QHSX thường dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó CNXH)
Thứ hai: QHSX tác động trở lại LLSX (QHSX được hình thành biến đổi theo yêu cầu phát triển của LLSX
song nó có tính độc lập tương đối). Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:
+ Nếu QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.
+ Nếu QHSX không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX, với
hai nền sản xuất có LLSX tương đương (Cơ khí, đại công nghiệp…) song tính chất của QHSX khác nhau sẽ
dẫn đến mục đích của sản xuất năng suất lao động khác nhau.
Chú ý: QHSX có thể tác động mở đường cùng với sự phát triển của LLSX tác dụng đó có giới hạn của nó.
Bao giờ QHSX cũng bị LLSX quyết định. Như vật có thể nói, sự liên hệ tácđộng qua lại biên chứng giữa
LLSX và QHSX trong một phương thức SX đã hình thành nên quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử xã hội
loài người: quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX quy luật này tri phối toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại nó làm cho lịch sử là một dòng chảy liên tục song mang tính chất giám đoạn.
Trong từng giai đoạn lịch sử, quy luật này có những biểu hiện đặc thù của nó.
Ý nghĩa pp luận: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc nhận thức đúng đắn quy luật này giúp cho việc nắm bắt quan điểm,
hoạch định đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức rõ sự đổi mới trong tư duy kinh tế của
Đảng và Nhà nước ta.
Khi có xuất hiện mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự lạc hậu của quan hệ sản xuất thì
cần phải có những cuộc cải cách, đổi mới mà cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết
được mâu thuẫn, từ đó từng bước khôi phục, tạo lập sự phù hợp giữa chúng.
Câu 20: Qui luật phản ánh mối quan hệ kt và chính trị, ý nghĩa pp luận
Câu 21: Tại sao nói đấu tranh giai cấp là 1 trong những động lực phát triển của xh
có giai cấp
Nói đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp vì:
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp.Đỉnh cao của
cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất
cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra
địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy
sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đỉnh
cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi
các hình thái kinh tế - xã hội. Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc
hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức
sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến
trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân
chủ và tiến bộ xã hội... không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống
các thế lực thù địch, phản động.
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu
hiện về mặt xã hội, mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột. Mâu thuẫn sản xuất
xã hội chỉ có thể được giải quyết bằng cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp bị bóc lột
chống lại giai cấp bóc lột mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội thay thế quan hệ sản xuất
cũ buàng quan hệ sản xuất mới tạo điều kiện cho sản xuất xã hội phát triển có thể nói ở xã hội
có giai cấp đối kháng sản xuất xã hội muốn phát triển được phải thông qua đấu tranh giai cấp
mà giải quyết được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
Khi sản xuất phát triển nó sẽ làm cho mọi mặt đời sống xã hội phát triển.

Câu 22: tại sao nói các hình thái xã hội là 1 quá trình lịch sử tự nhiên, liên hệ vs
vn
1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử chịu sự tác động, chi
phối của các quy luật xã hội khách quan.
– Mỗi hình thái kinh tế-xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng.
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tế-xã hội khác bắt nguồn sâu
xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất hiện tồn trở nên mâu
thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì tất yếu sẽ diễn ra cách mạng xã hội để
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương ứng. Và đương nhiên,
hình thái kinh tế-xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái kinh tế-xã hội cũ.
Như thế, sự phát triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế-xã hội chịu sự tác động, chi
phối của các quy luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở
hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng.
Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử-tự nhiên. Tức là quá trình này không phải ngẫu nhiên. Tuy là quá trình
diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính “lịch sử”), nhưng không phải do con người, vĩ
nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt, mà là quá trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính
“tự nhiên”).
2. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế-xã hội là quy luật xã hội, thể hiện thông qua hoạt động của con
người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách quan.
Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược lại, khi xét đến cùng, quy
luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội được coi như một
cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật vốn có của nó.
Sống trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là xã hội. Nhưng xã hội của
con người vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, không
phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.
– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế-xã hội. Quá trình tiến hóa là quá trình
kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế-xã hội như: Xã hội cộng sản nguyên thủy được kế tiếp bằng xã hội
chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế tiếp bằng xã hội phong kiến, tiếp đó là sự kế tiếp của xã hội tư bản chủ
nghĩa… Quá trình tiến hóa đó là khách quan, là quá trình lịch sử-tự nhiên.
3. Lịch sử phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự riêng biệt đó vẫn là
một bộ phận của quá trình lịch sử-tự nhiên.
– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, C. Mác đi đến kết luận khoa học rằng
sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế-xã hội mới thay thế cho hình thái tư bản chủ nghĩa: Đó là hình thái kinh tế-
xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là hình thái xã hội chủ nghĩa.
Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân loại đã được kiểm chứng
kết luận của Mác.
Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà là sự thất bại của một mô
hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung Quốc đã phần nào đã chứng minh điều này.
– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội trên thực tế
đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá trình lịch sử-tự nhiên.
Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch sử, không gian và thời gian,
không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế-xã hội một cách tuần tự, mà có thể bỏ
qua một hoặc một vài hình thái kinh tế-xã hội nào đó.
Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để quá độ từ hình thái phong
kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.
Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào… dù là quốc gia riêng biệt nhưng vẫn là bộ phận thuộc nhân
loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa ở các quốc gia đó không hề mâu thuẫn với tính
tuần tự của các hình thái kinh thế-xã hội trên toàn nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn nhân loại, nên nếu chỉ lấy
hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa phản bác thì minh họa đó không mang có giá
trị.
– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế-xã hội ở một số quốc
gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người.
Quy luật kế thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp, cơ sở kinh tế lạc hậu có
thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác đang có trình độ phát triển cao hơn.
Trong lịch sử nhân loại thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, kỹ thuật,
văn hóa, chính trị… Nhờ có quá trình giao lưu, hợp tác với các trung tâm đó, nhất là trong bối cảnh của toàn
cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0), một số nước vốn có xuất phát điểm thấp
có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử các hình thái
kinh tế-xã hội.
– Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia như
Việt Nam chẳng những không mâu thuẫn với quy luật phát triển theo một quá trình lịch sử-tự nhiên, mà còn
là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử-tự nhiên ấy.
Chỉ khi người ta “rút ngắn” quá trình phát triển một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan thì lúc đó
chiến lược “rút ngắn” mới đối lập với quá trình lịch sử-tự nhiên.
Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay chính
là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở thực tế để Việt Nam thực hiện thành công công cuộc Đổi Mới
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội trong lịch sử chịu sự tác động, chi
phối của các quy luật xã hội khách quan.
 Hình thái KT-XH vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, vừa bị chi phối bởi các quy luật phổ
biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật riêng, đặc thù: quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ ptriển
của LLSX, quy luật CSHT quyết định KTTT và các quy luật khác.
– Mỗi hình thái kinh tế-xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng.
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tế-xã hội khác bắt nguồn sâu
xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất hiện tồn trở nên mâu
thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì tất yếu sẽ diễn ra cách mạng xã hội để
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương ứng.Và đương nhiên,
hình thái kinh tế-xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái kinh tế-xã hội cũ. Như thế, sự phát
triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế-xã hội chịu sự tác động, chi phối của các quy
luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra
kiến trúc thượng tầng.
Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử-tự nhiên. Tức là quá trình này không phải ngẫu nhiên. Tuy là quá trình
diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính “lịch sử”), nhưng không phải do con người, vĩ
nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt, mà là quá trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính
“tự nhiên”).
4. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế-xã hội là quy luật xã hội, thể hiện thông qua hoạt động của con
người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách quan.
Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược lại, khi xét đến cùng, quy
luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội được coi như một
cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật vốn có của nó.
Sống trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là xã hội. Nhưng xã hội của
con người vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, không
phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.
– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quá trình tiến hóa là quá trình kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế-xã hội như: Xã hội cộng sản nguyên
thủy được kế tiếp bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế tiếp bằng xã hội phong kiến, tiếp đó là sự kế
tiếp của xã hội tư bản chủ nghĩa… Quá trình tiến hóa đó là khách quan, là quá trình lịch sử-tự nhiên.
 HTKT-XH vận động, ptriển từ thấp đến cao bắt nguồn từ sự ptr của LLSX. LLSX ptr qđịnh sự thđổi
QHSX. QHSX tđổi sẽ làm cho KTTT tđổi theo, và do đó mà các HTKTXH vđộng, ptr từ thấp đến cao, từ
HTKT-XH này lên HTKT-XH khác cao hơn.
Lịch sử phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự riêng biệt đó vẫn là một
bộ phận của quá trình lịch sử-tự nhiên.
– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, C. Mác đi đến kết luận khoa học rằng
sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế-xã hội mới thay thế cho hình thái tư bản chủ nghĩa: Đó là hình thái kinh tế-
xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là hình thái xã hội chủ nghĩa.
Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân loại đã được kiểm chứng
kết luận của Mác.
Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà là sự thất bại của một mô
hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung Quốc đã phần nào đã chứng minh điều này.
– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội trên thực tế
đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá trình lịch sử-tự nhiên.
Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch sử, không gian và thời gian,
không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế-xã hội một cách tuần tự, mà có thể bỏ
qua một hoặc một vài hình thái kinh tế-xã hội nào đó.
Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để quá độ từ hình thái phong
kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.
Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào… dù là quốc gia riêng biệt nhưng vẫn là bộ phận thuộc nhân
loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa ở các quốc gia đó không hề mâu thuẫn với tính
tuần tự của các hình thái kinh thế-xã hội trên toàn nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn nhân loại, nên nếu chỉ lấy
hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa phản bác thì minh họa đó không mang có giá
trị.
– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội ở một số quốc
gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người.
Quy luật kế thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp, cơ sở kinh tế lạc hậu có
thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác đang có trình độ phát triển cao hơn.
Trong lịch sử nhân loại thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, kỹ thuật,
văn hóa, chính trị… Nhờ có quá trình giao lưu, hợp tác với các trung tâm đó, nhất là trong bối cảnh của toàn
cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0), một số nước vốn có xuất phát điểm thấp
có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử các hình thái
kinh tế-xã hội.
– Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia như
Việt Nam chẳng những không mâu thuẫn với quy luật phát triển theo một quá trình lịch sử – tự nhiên, mà còn
là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử-tự nhiên ấy.
Chỉ khi người ta “rút ngắn” quá trình phát triển một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan thì lúc đó
chiến lược “rút ngắn” mới đối lập với quá trình lịch sử-tự nhiên.
Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay chính
là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở thực tế để Việt Nam thực hiện thành công công cuộc Đổi Mới
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Liên hệ VN
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy
luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế – xã hội cao
hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát
triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là
phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát
triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu
của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến.
Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp
hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức
quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã
hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Câu 23: nguồn gốc, bản chất , đặc trưng chức năng của nhà nc đặc điểm của nhà
nước pháp quyền vn
A. Nguồn gốc Nhà nước:
- Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ph. Ăngghen cho rằng: “Nhà
nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định” khi “xã hội đó đã bị phân thành
những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được”.
- Chế độ công xã nguyên thủy:
+ Hình thức cộng đồng: thị tộc, bộ lạc
+ Chưa xuất hiện nhà nước
+ Xã hội tồn tại theo thể chế tự quản
- Giai đoạn cuối của XH cộng sản nguyên thủy:
+ Xuất hiện chế độ tư hữu
+ Sự bất bình đẳng, phân hóa giai cấp diễn ra phổ biến
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị diễn ra gay gắt, không thể điều hòa + Để bảo vệ và duy
trì địa vị thống trị của mình, giai cấp thống trị đã sử dụng cộng cụ quyền lực để đàn áp sự đấu tranh của giai
cấp bị trị => sự ra đời của Nhà nước.
→ Nguyên nhân xuất hiện nhà nước:
-Nguồn gốc của Nhà nước
+Nguyên nhân sâu xa: Do sự phát triển của LLSX làm dư thừa của cải xã hội dẫn đến xuất hiện chế độ tư
hữu
+Nguyên nhân trực tiếp: Do mâu thuẫn giai cấp trong XH gay gắt không thể điều hòa
Nhà nước là một hiện tượng mang tính lịch sử
B. Bản chất của nhà nước:
- Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử như Ăngghen đã từng chỉ ra rằng: nhà nước “chẳng qua là
một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ Cộng hòa dân chủ
cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”.
- Giai cấp thống trị lập ra và sử dụng nhà nước như một công cụ quyền lực để:
+ Trấn áp giai cấp bị trị, duy trì trật tự xã hội
+ Bảo vệ địa vị và quyền lợi của mình
Bản chất của nhà nước: Nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị vềmặt kinh tế nhằm bảo
vệtrật tự hiện hành vàđàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc, bản chất của một giai cấp duy nhất, giai cấp tổ chức, SD nó. Vì:
+ Nhà nước ra đời từ XH có giai cấp, liên quan đến giai cấp.
+ Nhà nước là bộ máy chuyên chính, công cụ bạo lực, trấn áp của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ địa vị,
quyền lợi của giai cấp thống trị.
Như vậy, nhà nước là một bộ phận quan trong nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất
cả những hoạt động chính trị, kinh tế văn hóa xã hội do nhà nước tiến hành xét cho cùng đều xuất phát từ lợi
ích của giai cấp thống trị. Điều này đã được Ăngghen nhấn mạnh: “Nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh,
dưới hình thức tập trung của những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”.
C. Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
-Quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
• Đây là sự khác biệt so với các tổ chức của XH thị tộc, bộ lạc và các tổ chức chính trị XH khác.
• Quyền lực nhà nước có hiệu lực đối với tất cả mọi thành viên trong biên giới quốc gia không phụ thuộc vào
huyết thống, giới tính và chính kiến.
-Có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế XH
• Khác với với cơ quan điều hành chung trong xã hội thị tộc, nhà nước có đặc trưng quan trọng nhất là sự
thiết lập quyền lực công cộng đối với xã hội. Trong các bộ phận của quyền lực công cộng đối với xã hội, thì
bộ máy công chức thường trực, các đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát), các cơ quan tình báo, toà án,
nhà tù, trại tập trung v.v... là những bộ phận quan trọng nhất. • • Việc thiết lập quyền lực công cộng đối với
xã hội trước tiên được thể hiện ở quá trình xây dựng bộ máy công chức nhà nước và việc hợp pháp hóa nó về
mặt xã hội để khẳng định sự thống trị xã hội của những giai cấp thống trị.
-Hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai tri
• Một chế độ đóng góp có tính chất cưỡng chế đối với toàn bộ xã hội. Đây là một trong những nguồn thu
ngân sách nhà nước quan trọng nhất để duy trì bộ máy công chức nhà nước, đồng thời để duy trì sự tồn tại và
phát triển của nhà nước.
• Về hình thức, tùy theo những điều kiện lịch sử xã hội nhất định mà các nhà nước khác nhau có chế độ thuế
khóa khác nhau. Nhưng xét về bản chất chế độ thuế khóa của nhà nước giai cấp thống trị là sự bóc lột đã
được hợp thức hóa về mặt xã hội đối với những giai cấp bị trị, bị bóc lột.
Liên hệ:
❖ Bản chất của nhà nước Việt Nam:
- Với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mang những đặc trưng riêng và bản chất riêng điển
hình:
+ Nhà nước Việt Nam là nhà nước do dân, vì dân, tất cả vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
+ Nhà nước Việt Nam mọi hoạt động được dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
+ Nhà nước Việt Nam thực hiện duy trì và đảm bảo vị trí tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội, mọi
hoạt động vận hành trong khuôn khổ pháp luật.
+ Nhà nước Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Nhà nước ta mang bản chất công dân thể hiện tính nhân dân và tính dân tộc.
Câu 24: Yếu tố chính của tồn tại xã hội là phương thức sản
xuất
Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của xã hội như điều kiện địa lý điều kiện dân số và PTSX. Trong
đó PTSX đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội và vai trò của nó trong đời sống xã hội.
- 3 yếu tố cơ bản tạo nên tồn tại xã hội đó là:
+ Điều kiện địa lý đó là những điều kiện đất đai, khí hậu, sông ngòi, biển đông, thực vật, nguyên liệu, khoản
sản. Điều kiện địa lý là điều kiện thường xuyên và tất yếu của sự tồn tại và phát triển của xã hội, nó có thể
gây ảnh hưởng khó khăn hoặc thuận lợi cho đời sống của con người và sản xuất xã hội.
+ Điều kiện dân số đó là số lượng dân cư, sự tăng về mật độ dân cư là điều kiện đối với đời sống xã hội vì nó
ảnh hưởng thuận lợi hoặc khó khăn đối với đời sống sản xuất.
(Phân tích vấn đề dân số hiện nay)
Hai yếu tố điều kiện dân số và điều kiện địa lý có vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội nhưng chúng
không đóng vai trò quyết định.
+ PTSX là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật chất cho mình trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, theo cách đó con người có những quan hệ với nhau trong sản xuất. Phương thức đóng vai trò quyết định
trong đời sống xã hội vì xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở của sản xuất mà sản xuất bao giờ
cũng có cách thức nhất định. Chính sự thay đổi của PTSX làm cho đời sống xã hội cũng phát triển. Lịch sử
xã hội loài người là lịch sử của các PTSX thay thế kế tiếp nhau.

Câu 25: Qui luật phản ánh mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã
hội, ý nghĩa pp luận
3.Ý nghĩa phương pháp luận
– Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy công
cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý
thức xã hội.
– Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội. Mặt khác,
cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn
trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với điều kiện
xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt
phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã
hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người
mới.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương
thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Câu 26: Quan điểm chủ nghĩa duy vật về con người , vận dụng quan điểm này
vào việc phát huy nguồn lực con ng ở vn hiện nay
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con người.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương
diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự
nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết
luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là
học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “ thân thể vô
cơ của con người”.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây:
Một là, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải chỉ có nguồn gốc
từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là
nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát
triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn
chỉnh học thuyết về nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp
đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của nó luôn luôn bị
chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng
có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà
không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản tính người” của
con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy
tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắt tắt nhưng quan niệm đó và
xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa phương
diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do
đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển
của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý
giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử xã hội.
- Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động
thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì
đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người có thể thấy:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ
phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản
tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế – xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử
của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn
động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng
vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế – xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy:
Một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để
các quan hệ kinh tế – xã hội áp bức và bóc lột ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
– những chủ thể sáng tạo đích thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại; thông qua cuộc cách mạng đó nó cũng có
thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế – xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này
trở thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thưc hiện triết lý đạo đức nhân
sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mình vì mọi người; mọi người vì mình”.
2. Sự vận dụng ở nước ta hiện nay.
Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là vấn đề con người trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Đảng ta đã và đang xây dựng và phát triển đất
nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con
người: Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng,
cũng như trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát triển
đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người, không để con người đi lệch tư tưởng.
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên mới, mở
ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con đường khả quan nhất cho sự nghiệp
phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong đời sống xã hội thực tiễn
cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban
chấp hành trung ương Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người
Việt Nam toàn diện với tư cách là "Động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội". Đó là "con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức". Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước". Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài
hoà về mặt bản thể của mỗi cá nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà về
đạo đức, trí tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản và
quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hội và lịch sử của chính
mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi
cách mạng giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người
việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã
làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại
đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao trình
độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa
học thấm nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao
động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ cán
bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt những thành tựu vượt bậc, thì sự
phát triển con người không chỉ là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác mà các trị
của các tư tưởng các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn hoá bản địa đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa
Mác - Lênin thâm nhập, nó như một hệ tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng nó
cũng chịu sự chi phối tác động đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích
cực đã thúc đẩy, còn các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển của con người.
Do đó, Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính
trị của đất nước, việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, trên thế
giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý
và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
Câu 27: Quần chúng nhân dân là gì vì sao nói quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo ra ls
*Khái niệm quần chúng nhân dân:
- khái niệm: là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, tầng lớp và
các giai cấp, liên kết lại thành một tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng
phái nhằm giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.- Lực lượng cơ bản
gồm:
+ Những người lao động sản xuất ra vật chất và các giá trị tinh thần .
+ Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
+ Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
* Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo ra chân chính là vì:
+Thứ nhất: quần chúng nhân dân là người làm ra của cải vật chất, cơ sở của sự tồn tại và phát triển của XH.
+Bằng lao động sản xuất của mình quần chúng nhân dân sáng tạo ra những thứ cần thiết cho nhu cầu ăn mặc,
ở, không có hoạt động lao động sản xuất thì Xh không thể tồn tại được.
+Trong quá trình lao động, loài người ngày nay tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất và chế tạo công cụ
sản xuất ngày nay càng tinh xảo làm cho LLSX phát triển dẫn đến sự thay đổi về QHSX làm cho toàn bộ
KTTT của xã hội cũng thay đổi.
+ Hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân và điều kiện cơ bản quyết định tồn tại và phát triển của xã
hội, là cơ sở cho sự phát triển về mọi mặt của xã hội.
+ Thứ hai: quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.Trong xã hội có giai
cấp, nếu không có cách mạng xã hội thì xã hội không thể phát triển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình
thái kinh tế xã hội cao hơn, quần chúng nhân dân là những người tham gia trực tiếp vào LLSX phát triển,
quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi cho phù hợp với LLSX. Như vậy, cách mạng xã hội đã làm nên cho đời
sống kinh tế của xã hội phát triển (đấu tranh giai cấp giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị).
+Thứ ba: Quần chúng nhân dân còn là người sáng tạo những giá trị tinh thần.
Nhưng ca dao, hò, vẻ… là do quần chúng lao động sáng tạo nó phản ánh cuộc sống của họ.
Nguyện vọng, tâm tư tình cảm và hoạt động lao động của họ là nguồn vô tận cho việc sáng tác của những
người làm văn học nghệ thuật chuyên nghiệp.
Lịch sử phát triển của khoa học kỹ thuật cũng chứng minh vai trò to lớn của quần chúngnhân dân.
Nhân dân lao động là những người trực tiếp áp dụng những thành tựa khoa học kỹ thuật vào sản xuất…
Như vậy, ở ba mặt của đời sống xã hội chúng ta đều thấy rõ quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân
chính ra lịch sử.

Vì sao nói quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử?
Quần chúng nhân dân được xem như là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử và là lực lượng quyết định sự
phát triển của lịch sử thông qua các biểu hiện:
 Quần chúng nhân dân là là lực lượng sản xuất chính của toàn xã hội, trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chấtcđáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và toản bộ xã hội. Con người
muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có những điều kiện vật chất nhất định, mà những điều
kiện ấy chỉ có thể được đáp ứng thông qua hoạt động sản xuất.

 Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của các cuộc cách mạng. Lịch sử đã chúng minh
không có cuộc chuyến biến cách mạng nào không có sự hoạt động đông đảo của quần chúng
nhân dân, vậy nên họ là động lực cơ bản, quyết định sự thắng lợi của của cuộc cách mạng.
Trong thực tế, xã hội có vô vàn các cuộc cách mạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, song, suy
đến cùng, các cuộc cách mạng đều bắt đầu từ các hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng
nhân dân. Bởi vậy, quần chúng nhân dân là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội
và là động lực cơ bản của các cuộc cách mạng.

 Quần chúng nhân dân là tác giả của các giá trị văn hóa tinh thàn đặc sắc. Chính nhân dân là
người đã đóng góp công lao to lớn, những thành tựu vĩ đại vào các hoạt động xã hội trên nhiều
lĩnh vực: khoa học, nghệ thuật, văn học và áp dụng những thành tựu ấy vào đời sống thực tiễn.
Đời sống của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sự sáng tạo tinh thần
trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần cũng chỉ có thể tồn tại khi được
đông đảo quần chúng nhân dân đón nhận, yêu thích và truyền bá sâu rộng.

You might also like