Công ty A là một bên trong quan hệ tranh chấp tài sản
trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa . Cụ thể, Giữa công ty A và chị T có giao kết một hợp đồng mua bán hàng hóa, tuy nhiên, chị T đạ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho Công ty A, dẫn đến số nợ gần 3 tỷ đồng. Công ty A cho rằng bên phía mình quyền và lợi ích hợp pháp đang bị bị đơn là chị T xâm phạm bởi Công ty A đã thực hiên đầy đủ các nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, Hộ Kinh Doanh Thảo H đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho công ty A. => Chị T thừa nhận đã ký kết hợp đồng và còn nợ số tiền theo đúng những gì Công Ty A trình bày với số tiền nợ gốc đã được toà án xác nhận là 2,973,429,986 đồng => Do đó, Công ty A đã làm đơn khởi kiện chị T gửi đến Tòa án. 2.Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn của công ty cổ phần A là ông Mai Hùng Công ty A là người khởi kiện. " người khác" ở đây lúc này là Đại diện theo ủy uyền của Công ty A_ông Mai Hùng. 3.Đơn khởi kiện của công ty A về việc mua bán hàng hóa phát sinh tranh chấp với T đã được Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp thụ lý vụ án lý vụ án => Công ty A hoàn toàn đáp ứng đủ các điều kiện để tham gia tố tụng với vai trò là nguyên đơn Phần *màu đỏ là phần nhóm chấm bài đã sửa. Bị đơn là chị T – chủ hộ kinh doanh Thảo H - Giải thích: 1.Chị T là bên còn lại trong quan hệ pháp luật tranh chấp về tài sản với nguyên đơn, giữa chị T và Công ty A tồn tại hợp đồng mua bán hàng hóa. Cụ thể, lúc này chị T là bên đang bị nguyên đơn ( công ty A) có hành vi vi phạm hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công ty A (không thanh toán tiền hàng) có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công ty A là không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán tiền hàng 2.Chủ hộ kinh doanh H bị công ty A khởi kiện do không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thanh toán tiền hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng. => Vào ngày 25/8,2020, chị T còn nợ Công Ty A với tiền nợ gốc là 5,463,001,986 đồng. Đến thời điểm vào ngày 1/2/2021 thì chị T đã trả thêm 1,424,590,000 đồng. Đến ngày 26/5/2021 chị T đã trả thêm số tiền gốc với tổng là 1,064,982,000 đồng. Việc này chị T cùng với bà D liên đới với nhau để trả khoản nợ này. Cùng với đó Toà án đã xác nhận khoản nợ còn lại của chị T với Công Ty A là 2,793,429,986 là phù hợp. Chị T bị nguyên đơn là công ty A khởi kiện yêu cầu thanh toán số nợ hơn 2,7 tỷ đồng. 3.Đơn khởi kiện của công ty A về việc mua bán hàng hóa phát sinh tranh chấp với T đã được Toà án có thẩm quyền Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp thụ lý vụ án" Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh T1 ( chồng chị T ) và bà D - Giải thích: 1. Anh T1 và bà D là người không bị ai khởi kiện và cũng khong khởi kiện ai trong vụ án dân sự này. Nhưng giả thiết rằng Anh T1 và bà D có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án. Cụ thể, Chị T và bà D xác nhận cam kết về chịu trách nhiệm liên đới thanh toán toàn bộ khoản nợ cho công ty A. Anh T1 là chồng chị T nên trách nhiệm liên đới giải quyết khoản nợ với công ty A do hợp đồng mua bán hàng hóa công nợ với công ty A đều phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa anh T1 và chị T 2.Bà D tự mình đề nghị tham gia vào VADS vì có trách nhiệm liên đới cùng với chị T trả khoản nợ cho công ty Cổ phần A Hợp đồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên chị T đã ý kiến là anh T1 cũng phải chịu liên đới trả khoản nợ chung này, Tòa án đề nghị anh T1 tham gia vào vụ án vì anh T1 và chị T có quan hệ vợ chồng trong thời điểm Hợp đồng mua bán hàng hóa và công nợ với Công ty A đều phát sinh trong thời kỳ hôn nhân => Toà án đã chấp nhận toàn bộ điều kiện của Công Ty A về việc anh T1 và bà D phải chịu liên đới trách nhiệm thanh toán khoản nợ cùng với chị T với tổng số tiền là 2,973,429,896 đồng 3.Đơn khởi kiện của công ty A về việc mua bán hàng hóa phát sinh tranh chấp với T đã được Tòa án có thẩm quyền Toà ân nhân dân tỉnh Đồng Tháp thụ lý vụ án