tiểu luận tố tụng hành chính

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÀI THI HẾT MÔN, HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021- 2022

HỌC PHẦN: LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

ĐỀ TÀI

Đề số 3: Nghiên cứu bản án sơ thẩm số: 03/2021/HC-ST, về


việc khiếu kiện hành vi hành chính trong giải quyết khiếu nại.
Trên cơ sở kiến thức đã học trong học phần Luật tố tụng hành
chính, hãy: tóm tắt bản án và phân tích, bình luận về bản án.

HỌ VÀ TÊN : ĐỖ THỊ THÙY DUNG

LỚP : K65B

MÃ SINH VIÊN : 20061050

GIẢNG VIÊN : TS. NGUYỄN THỊ MINH


HÀ NỘI - 2022
1
Mục lục
MỞ ĐẦU..............................................................................................................3

NỘI DUNG..........................................................................................................4

I. Tóm tắt bản án..............................................................................................4

1. Nội dung vụ án.........................................................................................4

2. Yêu cầu của các bên trong vụ án..............................................................4

3. Nhận định của Tòa án...............................................................................5

4. Quyết định của Tòa án.............................................................................6

II. Phân tích, bình luận bản án..........................................................................6

1. Thời hiệu khởi kiện..................................................................................6

2. Đối tượng khởi kiện.................................................................................6

3. Thẩm quyền giải quyết vụ án...................................................................7

4. Áp dụng pháp luật giải quyết vụ án..........................................................7

5. Yêu cầu và lập luận của các đương sự.....................................................7

6. Nhận định và quyết định của HĐXX.......................................................9

TỔNG KẾT........................................................................................................10

Danh mục tài liệu tham khảo..............................................................................10

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại hành chính có hiệu
lực pháp luật đã được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai nghiêm túc nhưng
nhiều nơi vẫn còn hiện tượng thi hành chậm, thiếu quyết liệt; nhiều vụ việc phức tạp,
tồn đọng kéo dài từ 2-3 năm, có trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại hành chính
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị xem xét lại nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình
thực hiện... Đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc
thu hồi, bồi thường đất cho nhân dân để xây dựng diễn ra rất nhiều. Chính vì vậy em
lựa chọn một bản án sơ thẩm về việc khiếu kiện hành vi hành chính trong giải quyết
khiếu nại để phân tích, bình luận.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là làm rõ bản án sơ thẩm số
03/2021HC-ST. Qua đó có được nhận thức đầy đủ, rõ ràng, nắm vững được lý thuyết
và biết cách áp dụng vào thực tế.

Để đạt được mục đích trên, tiểu luận này có nhiệm vụ: tóm tắt lại bản án và
phân tích, bình luận các khía cạnh về thời hiệu, lập luận của đương sự, nhận định và
quyết định của Hội đồng xét xử.

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu là phân tích – chứng minh, liệt kê, phân tích – tổng
hợp,….

4. Kết cấu bài

Kết cấu bài gồm phần mở đầu, 2 chương, tổng kết và danh mục tài liệu tham khảo

3
NỘI DUNG
I. Tóm tắt bản án

1. Nội dung vụ án

Ngày 01 tháng 09 năm 1999, ông L Văn N được Ủy ban nhân dân thị xã 2 Sơn
La (nay là UBND thành phố S) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 6.951 m2 đất,
trong đó diện tích đất thổ cư l250 m2, thời hạn sử dụng lâu dài. Diện tích còn lại là đất
nương rẫy, trồng lúa. Năm 2002, Nhà nước mở rộng Quốc lộ 6 đã chiếm dụng vào đất
của gia đình ông là 432.3 m2. Trong đó có 250 m2 đẩt thổ cư nhưng gia đình ông mới
chỉ được bồi thường 50 m2 đất thổ cư. Do không nhất trí với nội dung bồi thường nên
ông đã nhiều lần gửi đơn đề nghị đến Ủy ban nhân dân thành phố S yêu cầu bồi
thường 200 m2 đất thổ cư tuy nhiên không nhận được trả lời. Năm 2020 ông làm đơn
khởi kiện hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố S về việc
không trả lời đơn đề nghị của ông. Ngày 11/7/2020, ông L Văn N nhận được Công văn
số 2452/UBND- TNMT ngày 02/10/2019 và công văn số 1885/UBND-TTr ngày
10/7/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố S về việc trả lời đơn đề nghị của ông. Sau
khi nghiên cứu, ông không nhất trí nội dung 2 công văn trên của Ủy ban nhân dân
thành phố S, ngày 03/8/2020, ông L Văn N có đơn khiếu nại đề ngày 24/7/2020 gửi tới
Ủy ban nhân dân thành phố S

Tuy nhiên, sau khi gửi đơn khiếu nại cho đến nay, ông N vẫn chưa nhận được
văn bản giải quyết khiếu nại nào của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố S. Do vậy
ông làm đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đề nghị buộc Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố S phải giải quyết khiếu nại của ông theo đúng quy định của pháp
luật. Bà Quàng Thị X - là vợ của ông L Văn N hoàn toàn đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của ông L Văn N là buộc Chủ tịch UBND thành phố S tỉnh Sơn La phải giải quyết đơn
khiếu nại đề ngày 24/7/2020 của ông theo đúng quy định của pháp luật.

2. Yêu cầu của các bên trong vụ án

* Người khởi kiện, ông L Văn N:

Đề nghị buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố S phải giải quyết khiếu nại
của ông theo đúng quy định của pháp luật.
4
* Người bị kiện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố S:

Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xem xét giải quyết vụ án một cách khách
quan, dân chủ, bình đẳng đúng người, đúng vi phạm của những người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan không để oan sai và ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân, hộ gia
đình và lợi ích của Nhà nước; xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan để xử lý
theo quy định của pháp luật.

3. Nhận định của Tòa án

Xét việc khởi kiện của ông N đảm bảo về thời hiệu và đúng chủ thể có quyền
khởi kiện theo quy định; người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố S nên
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Ông L Văn N khiếu
kiện yêu cầu Chủ tịch UBND thành phố S trả lời đơn khiếu nại của ông theo quy định
của pháp luật nên xác định quan hệ pháp luật giải quyết là “Khiếu kiện hành vi hành
chính trong giải quyết đơn khiếu nại.”

Nội dung hướng dẫn đề nghị công dân (ông Nọi) thực hiện việc khởi kiện ra
Tòa án nếu không nhất trí với nội dung giải quyết đơn đề nghị của chủ tịch UBND
thành phố S là không đảm bảo quyền lợi của công dân theo quy định tại Điều 7 Luật
Khiếu nại 2011.

Chủ tịch UBND thành phố S đã có hành vi hành chính là không thực hiện giải
quyết đơn khiếu nại của ông L Văn N vì tính từ thời điểm ông N nộp đơn khiếu nại
đến thời điểm ông N làm đơn khởi kiện ra Tòa án là 93 ngày, ông N vẫn không nhận
được bất kỳ văn bản nào liên quan đến việc giải quyết nội dung đơn khiếu nại ông đã
nộp. Hành vi nêu trên của Chủ tịch UBND thành phố S đã vi phạm quy định tại Điều
27 Luật Khiếu nại 2011.

Nội dung đơn đề nghị của ông L Văn N đã được giải quyết 01 lần thông qua
văn bản số 2452/UBND-TNMT, do không nhất trí với nội dung đơn đề nghị nên ông
N đã làm đơn khiếu nại đề nghị hủy bỏ văn bản nêu trên. Tại thời điểm nêu trên, ngoài
gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố S, ông N không hề gửi đơn khiếu
nại đến bất cứ cơ quan chức năng nào khác. Như vậy xác định đây là khiếu nại lần đầu
của ông L Văn N đối với Quyết định hành chính của Chủ tịch UBND thành phố S, cụ
thể là Văn bản số 2452/UBND- TNMT ngày 02/10/2019. UBND thành phố S cho rằng

5
nội dung đơn đã được trả lời để xếp lưu đơn theo quy định tại Điều 28 Thông tư
07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 là không chính xác.

4. Quyết định của Tòa án

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L Văn N. Buộc Chủ tịch UBND thành
phố S tỉnh Sơn La phải giải quyết đơn khiếu nại đề ngày 24/7/2020 của ông L Văn N
theo quy định của Luật Khiếu nại 2011. Người bị kiện Chủ tịch UBND thành phố S
phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

II. Phân tích, bình luận bản án

1. Thời hiệu khởi kiện

Theo khoản 1, Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 sửa đổi, bổ sung 2019
“Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền khởi kiện
để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.”

Theo như bản án, ngày 11/7/2020, Công chức UBND thành phố S đã giao tận
tay Công văn số 2452/UBND - TNMT ngày 2/10/2019 và Công văn số 1885/UBND-
TTr ngày 10/7/2020 cho ông L Văn N. Do không đồng ý với quyết định của chủ tịch
UBND thành phố S nên ông đã nộp đơn khiếu nại. Tuy nhiên sau 93 ngày kể từ gửi
đơn khiếu nại, ông N vẫn chưa nhận được văn bản giải quyết khiếu nại nào của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố S nên ngày 12/11/2020, ông N đã làm đơn khởi kiện
vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

Theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 sửa
đổi, bổ sung 2019 thời hiệu khởi kiện là “ 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết
được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc”.

Vì vậy, tính từ ngày ông N nhận được quyết định hành chính của chủ tịch
UBND thành phố S vào ngày 11/7/2020 đến ngày ông N nộp đơn khởi kiện ra Tòa án
nhân dân tỉnh Sơn La vào ngày 12/11/2020 là 124 ngày ( thỏa mãn thời hiệu khởi kiện
theo điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính). Vì vậy việc khởi kiện của ông
N đảm bảo theo đúng pháp luật về thời hiệu.

6
2. Đối tượng khởi kiện

Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ
nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác.

3. Thẩm quyền giải quyết vụ án

- Quyết định hành chính bị khởi kiện không thuộc khoản 1 điều 30 Luật tố tụng hành
chính 2015 sửa đổi, bổ sung 2019 nên khiếu kiện của ông N thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án.

Quyết định hành chính bị khởi kiện là của chủ tịch UBND thành phố S, theo khoản 4
điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015 sửa đổi, bổ sung 2019 “Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của ủy ban nhân dân cấp huyện, chủ tịch ủy ban nhân
cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với tòa án” thì thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án cấp tỉnh. Vì vậy, tòa án nhân dân tỉnh Sơn La có thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính này.

4. Áp dụng pháp luật giải quyết vụ án

Áp dụng Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm b khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật
tố tụng hành chính 2015, cụ thể như sau:

- Điều 30: xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án

- Khoản 4 Điều 32: xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp tỉnh

- Điểm b khoản 2 Điều 193: xác định thẩm quyền của Hội đồng xét xử

- Khoản 1 Điều 348: Nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm

Áp dụng Điều 7, 8, 9, 27 Luật Khiếu nại 2011, cụ thể như sau:

- Điều 7: Tòa án căn cứ xác định trình tự khiếu nại của ông N đúng pháp luật không

- Điều 8: Tòa án căn cứ xác định hình thức khiếu nại của ông N đúng pháp luật không

- Điều 9: Tòa án căn cứ xác định thời hiệu khiếu nại của ông N đúng pháp luật không

- Điều 27: Tòa án căn cứ xác định thời gian thụ lý giải quyết khiếu nại của chủ tịch
UBND thành phố S và hình thức thông báo kết quả cho ông N.

7
Áp dụng khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.

5. Yêu cầu và lập luận của các đương sự

* Đối với người khởi kiện là ông Lò Văn N

- Ngày 02/10/2019, Chủ tịch UBND thành phố S có Văn bản số 2452/UBND- TNMT
về việc trả lời đơn đề nghị của ông L Văn N với nội dung yêu cầu bồi thường của ông
N là không có căn cứ để giải quyết. Như vậy, tại thời điểm này đã phát sinh quyết định
hành chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của ông L Văn N. Sau đó ông N
không đồng tình với quyết định hành chính này nên ông đã nộp đơn khiếu nại đến chủ
tịch UBND thành phố S. Tuy nhiên khi đã quá thời hiệu trả lời đơn khiếu nại cho công
dân, cụ thể ông nộp đơn khiếu nại cho chủ tịch UBND thành phố S vào ngày
03/08/2020 nhưng đến ngày ông N nộp đơn khởi kiện ra Tòa là 12/11/2020 vẫn chưa
được Chủ tịch UBND thành phố S trả lời về đơn khiếu nại. Theo quy định tại Điều 27
Luật Khiếu nại 2011 thì “trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại
thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều
11 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải
quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp
không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.” Vì vậy, Chủ tịch UBND thành phố S đã
có hành vi hành chính là không thực hiện giải quyết đơn hiếu nại của ông L Văn N.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 115 Luật tố tụng hành chính 2015 sửa đổi, bổ
sung 2019 thì ông N có quyền khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
của chủ tịch UBND thành phố S.

* Đối với người bị kiện là Chủ tịch UBND thành phố S, tỉnh Sơn La

- Trong văn bản số 2452/UBND- TNMT ngày 02/10/2019 có hướng dẫn người dân có
quyền khởi kiện ra Tòa. Tuy nhiên theo khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại 2011 thì “Khi
có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm
phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần
đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành

8
chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành
chính.” Nghĩa là khi người dân không đồng tình với quyết định hành chính sẽ có hai
cách lựa chọn đó là khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ
quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án. Như
vậy, văn bản số 2452/UBND – TNMT ngày 02/10/2019 đã chưa hướng dẫn đầy đủ,
không đảm bảo quyền lợi của công dân.

- Khi ông N nộp đơn khiếu nại, UBND thành phố S cho rằng nội dung đơn đã được trả
lời qua văn bản số 2452/UBND-TNMT nên đã căn cứ quy định tại Điều 28 Thông tư
07 2014 TT-TTCP ngày 31/10/2014 cụ thể “Đơn khiếu nại đã có quyết định giải quyết
khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; kết luận nội dung tố cáo và quyết định xử lý tố cáo
đã có hiệu lực pháp luật mà không có nội dung, tình tiết mới có thể làm thay đổi nội
dung đã giải quyết” nên đã xếp lưu đơn mà không phải trả lời công dân. Sau khi đọc
văn bản số 2452/UBND-TNMT, do không nhất trí với nội dung đơn đề nghị nên ông
N đã làm đơn khiếu nại đề nghị hủy bỏ văn bản nêu trên. Tại thời điểm nêu trên, ngoài
gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố S, ông N không hề gửi đơn khiếu
nại đến bất cứ cơ quan chức năng nào khác. Như vậy xác định đây là khiếu nại lần đầu
của ông L Văn N đối với Quyết định hành chính của Chủ tịch UBND thành phố S, cụ
thể là Văn bản số 2452/UBND- TNMT ngày 02/10/2019. Tuy nhiên văn bản số
2452/UBND-TNMT là để trả lời đơn kiến nghị, không phải là trả lời đơn khiếu nại của
ông N. Vì vậy, UBND thành phố S xếp lưu đơn của ông N là không chính xác.

6. Nhận định và quyết định của HĐXX

* Em đồng tình quan điểm với Tòa án trong việc:

- Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án và quan hệ pháp luật giải quyết

- Nhận định về hướng dẫn, áp dụng pháp luật của UBND thành phố S, tỉnh Sơn La là
chưa phù hợp

- Áp dụng pháp luật phù hợp

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lò Văn N

- Áp dụng mức án phí sơ thẩm cho đương sự chính xác. Vì theo khoản 1 Điều 348
Luật tố tụng hành chính 2015 sửa đổi, bổ sung 2019 “Đương sự phải chịu án phí sơ
thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn nộp
9
án phí hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm.” Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông N nên Chủ tịch UBND thành phố S là người chịu án phí sơ thẩm 300.000
đồng. Số tiền 300.000 đồng được quy định tại phần III, mục A Danh mục án phí, lệ phí
Tòa án đính kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.

TỔNG KẾT
Qua bản án về khiếu kiện hành vi hành chính trong giải quyết khiếu nại ta thấy
Ủy ban nhân dân vẫn còn sai phạm, chưa nắm rõ pháp luật để áp dụng. Vì vậy cần đẩy
mạnh nâng cao trình độ, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật giúp chấm dứt vụ việc,
ngược lại nếu không giải quyết ngay, hoặc giải quyết không đúng thì vụ việc sẽ trở lên
phức tạp, tiếp khiếu lên cấp trên hoặc phát sinh thành điểm nóng, gây mất ổn định, ảnh
hưởng xấu đến sự đoàn kết của cộng đồng dân cư, bỏ lọt tội phạm, thiệt hại về tính
mạng, tài sản, danh dự, uy tín… của công dân và Nhà nước.

Danh mục tài liệu tham khảo


1. Bản án sơ thẩm số 03/2021HC-ST ngày 25/9/2021

2. Quốc hội, Luật tố tụng hành chính 2015, sửa đổi bổ sung 2019

3. Quốc hội, Luật khiếu nại 2011

4. Quốc hội, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14

10
11

You might also like