Professional Documents
Culture Documents
Keszler 2015 Mechanical Ventilation and Bronchopulmonary Dysplasia
Keszler 2015 Mechanical Ventilation and Bronchopulmonary Dysplasia
Keszler 2015 Mechanical Ventilation and Bronchopulmonary Dysplasia
KEY POINTS
Thông khí cơ học (MV) là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của loạn sản phế quản
phổi (BPD).
Hiệu quả của sử dụng hỗ trợ hô hấp không xâm lấn làm giảm nguy cơ thương tích
phổi.
Huy động phổi và tránh tình trạng thể tích khí lưu thông (VT) quá mức là những yếu tố
chính trong chiến lược thông gió phổi.
Tránh các áp lực oxy hóa, các phương pháp ít xâm lấn hơn của việc dùng surfactant,
và thông khí tần số cao (HFV) cũng là những yếu tố quan trọng trong phòng ngừa
thương tích phổi.
GIỚI THIỆU
MV chắc chắn là một trong những tiến bộ quan trọng trong chăm sóc sơ sinh. Ngay cả trong
thời đại hỗ trợ hô hấp không xâm lấn này, MV vẫn còn tồn tại lâu dài trong điều trị ở trẻ sơ
sinh rất non. Dữ liệu từ “the Neonatal Research Network” cho thấy 89% trẻ sơ sinh cực kỳ
nhẹ cân (ELBW) được điều trị với MV trong ngày đầu tiên của cuộc đời. [1] Trong số những
trẻ sống sót, gần 95% bệnh nhân được điều trị thông khí tại chỗ trong thời gian nằm viện.
BS. ĐẶNG THANH TUẤN - 2018 1
February 8, 2018 [THỞ MÁY VÀ LOẠN SẢN PHẾ QUẢN PHỔI]
Trong thử nghiệm “the Surfactant, Positive Pressure, and Oxygenation Randomized Trial”
(SUPPORT), 85% trẻ sơ sinh ELBW ban đầu được chỉ định hỗ trợ không xâm lấn cần đặt nội
khí quản và MV ở một số thời điểm. [2] Trẻ được đưa vào nghiên cứu được dùng CPAP
hoặc đặt NKQ, ở trẻ sơ sinh từ 25 đến 28 tuần tuổi thai chỉ khi họ có đủ nỗ lực hô hấp lúc
sinh, nhưng ngay cả trong nhóm này, 46% trẻ sơ sinh được chỉ định hỗ trợ không xâm lấn
cần phải đặt nội khí quản và MV. [3]
Mặc dù thường cứu sống được bệnh nhân, MV có nhiều tác động bất lợi. Mặc dù bài báo này
tập trung vào những ảnh hưởng bất lợi của MV đối với phổi, MV kéo dài cũng liên quan chặt
chẽ với kết cục thần kinh bất lợi. [1] Trong loài vượn sinh non, 5 ngày MV chọn lọc gây ra tổn
thương não lớn hơn so với MV trong 1 ngày. [4] Số liệu thuần tập từ “the Neonatal Research
Network” cho thấy mỗi tuần MV liên quan đến sự gia tăng đáng kể khả năng phát triển thần
kinh suy giảm. [1] Ngoài ra, ống nội khí quản hoạt động như một vật lạ, nhanh chóng đóng
vai trò như một cổng lây truyền các mầm bệnh, làm tăng nguy cơ viêm phổi liên quan đến thở
máy và nhiễm trùng huyết muộn. [5] Vì những lý do này, việc tránh dùng MV để hỗ trợ hô hấp
không xâm lấn được coi là bước quan trọng nhất trong dự phòng bệnh suất sơ sinh.
BPD ban đầu đã được Northway và các đồng nghiệp mô tả cách đây hơn 45 năm đối với
những đứa trẻ sanh non mực độ vừa phải khi sống sót qua MV. Do đó, BPD luôn gắn liền với
việc sử dụng MV, nhưng nhiều yếu tố khác đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sinh
bệnh của BPD (hình 1).
Hình 1. Kết cục cuối cùng của phổi sơ sinh bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bắt đầu từ trong tử cung. Thời kỳ
ngay sau sinh là một trong những thời điểm quan trọng nhất. Các ảnh hưởng bất lợi được liệt kê ở phần trên của
bảng và các yếu tố làm giảm ở phần dưới. Quá trình sinh lý bệnh đa yếu tố của BPD giải thích tại sao không có
sự can thiệp điều trị duy nhất nào có thể có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ mắc của nó.
BPD cổ điển, được gọi là BPD cũ xảy ra như là hệ quả của việc hỗ trợ hô hấp không chuyên
nghiệp ở trẻ sơ sinh bị thiếu chất surfactant và được đặc trưng bởi sự xơ hoá, tăng mô kẽ,
thay đổi ở đường thở, và bệnh lý đường thở phản ứng. [7] BPD mới, được đặc trưng bởi cấu
trúc phổi đơn giản do hậu quả của việc ngưng phát triển phổi, xảy ra ở trẻ sơ sinh còn non
tháng hơn, được điều trị thay thế surfactant và có thể đã được điều trị bằng steroid trước khi
sinh. [8] Tuy nhiên, có sự chồng chéo đáng kể giữa hai hình thức, và BPD cũ không hề bị
mất đi ở các NICU.
TỔN THƯƠNG PHỔI LIÊN QUAN THỞ MÁY LÀ GÌ?
Số lượng bài báo xuất bản rất lớn kể từ lần đầu tiên mô tả tổn thương phổi do thở máy
(VALI, ventilator-associated lung injury) làm nổi bật tầm quan trọng của nó và sự hiểu biết
chưa đầy đủ về chủ đề phức tạp này. Vai trò trung tâm của MV và tiếp xúc với oxy trong VALI
và sự phát triển BPD sau đó đã được công nhận kể từ giai đoạn đầu của y khoa sơ sinh. Vào
năm 1975, Alistair Philip mô tả nguyên nhân của BPD là "oxy cộng thêm áp lực" (“oxygen
plus pressure plus time.”) [9] Mặc dù khái niệm này về cơ bản vẫn còn, nhưng nó đã được
điều chỉnh bằng cách thừa nhận rằng thể tích quá nhiều, chứ không phải là áp lực, là yếu tố
quan trọng nhất góp phần vào VALI, một khái niệm đã chậm được chấp nhận hoàn toàn, mặc
dù có bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ nó.
Nhiều thuật ngữ đã được đặt ra để mô tả cơ chế tổn thương phổi trong VALI.
Barotrauma đề cập đến thiệt hại gây ra bởi áp lực. Việc thuyết phục rằng áp lực là yếu
tố quyết định chính cho tổn thương phổi đã thúc đẩy sự "sợ áp lực" sâu đậm, khiến các
bác sĩ lâm sàng tập trung vào việc hạn chế áp lực đẩy, đôi khi đến mức không đủ
thông khí. Có bằng chứng thuyết phục, khi dùng áp lực cao nhưng không đạt thể tích
cao tương ứng, sẽ không gây tổn thương phổi.
Thay vào đó, thương tích liên quan đến áp lực đẩy cao là trung gian thông qua tình
trạng căng mô do VT quá mức. Dreyfuss và cộng sự [10] đã chứng minh hơn 20 năm
trước rằng tổn thương phổi cấp tính nghiêm trọng xảy ra ở những con vật nhỏ được
thông khí với VT lớn, bất kể thể tích đó đã được tạo ra bởi áp lực đẩy dương hay âm.
Ngược lại, những con vật bị phơi nhiễm với áp lực đẩy cao như nhau nhưng được dán
băng keo đàn hồi trên ngực và bụng để hạn chế việc cung cấp VT, vì vậy có tổn
thương phổi ít hơn nhiều. Hernandez và các đồng nghiệp [11] tương tự cho thấy rằng
động vật bị phơi nhiễm áp suất cao đến 45 cm H2O không cho thấy có dấu hiệu chấn
thương phổi cấp tính khi ngực và bụng của họ được bao bọc.
Volutrauma đề cập đến chấn thương do quá căng (overdistention) và quá căng mô
(excessive stretch of tissues) dẫn tới sự phá vỡ biểu mô đường thở nhỏ và phế nang,
dẫn đến chứng phù cấp tính; tràn ngập dịch giàu protein; và giải phóng protease,
cytokine, và chemokine, dẫn đến sự kích hoạt các đại thực bào và sự xâm nhập của
BS. ĐẶNG THANH TUẤN - 2018 3
February 8, 2018 [THỞ MÁY VÀ LOẠN SẢN PHẾ QUẢN PHỔI]
bạch cầu đa nhân trung tính hoạt hóa. Nói chung, quá trình phức tạp này được gọi là
biotrauma.
Một khái niệm quan trọng khác là atelectrauma, hoặc tổn thương phổi gây ra bởi sự
thông khí khi có xẹp phổi. [12] Atelectrauma gây tổn thương phổi thông qua một số cơ
chế. Phần phổi vẫn xẹp đã làm tăng bề mặt chất hoạt động bề mặt và tăng áp lực mở
tới hạn. Có những lực cắt tại ranh giới giữa các phần có thông khí và phần bị xẹp của
phổi, dẫn đến thiệt hại về cấu trúc. Việc thông khí phổi bị tổn thương không sử dụng
PEEP dẫn đến kết quả là xẹp và nở phế nang lặp đi lặp lại (RACE, repeated alveolar
collapse and expansion), dẫn đến tổn thương phổi nhanh chóng.
Có lẽ điều quan trọng nhất là khi một phần lớn phổi bị xẹp, bất kỳ VT nào cung cấp cho
phổi thì sẽ đi vào phần còn thông khí của phổi, điều này dễ dàng hơn so với phần phổi
bị xẹp với áp suất mở tới hạn rất cao (theo định luật Laplace). Sự phân bố sai của VT
dẫn đến sự thừa thãi thông khí của phần phổi còn thông khí và gây ra volutrauma khu
vực. Do đó, rõ ràng là nguy cơ bị tổn thương phổi do MV là đa dạng và không thể liên
kết với bất kỳ yếu tố đơn thuần nào.
Hình 2. Chu trình của VALI rất phức tạp và đa dạng. Sự kiện khởi đầu là chấn thương sinh lý do căng mô quá
mức, dẫn đến biotrauma và bắt đầu sự phức tạp của việc chấn thương phổi và sửa chữa. Cả hai phản ứng viêm
hệ thống và phổi trở thành hoạt hóa và dẫn đến các phản ứng phụ thứ cấp, lần lượt làm trầm trọng hơn tình
trạng phổi, dẫn đến nhu cầu cài đặt thông khí leo thang, do đó có thể dẫn đến thương tích nhiều hơn.
Khái niệm chủ chốt liên quan đến VALI là sự kiện khởi đầu là chấn thương sinh lý do căng
mô quá mức, dẫn đến biotrauma và bắt đầu sự phức tạp của việc chấn thương phổi và sửa
chữa (hình 2). Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thừa nhận rằng VALI chỉ là một trong vài cơ
chế mà cuối cùng có thể dẫn đến BPD. Mặc dù trẻ sơ sinh bị bệnh phổi sơ sinh nặng có
nhiều khả năng phát triển BPD nghiêm trọng, nhưng cũng biết rằng BPD cũng làm ảnh
hưởng đến trẻ sơ sinh chỉ cần hỗ trợ hô hấp tối thiểu trong những tuần đầu tiên của cuộc đời.
Sự tiếp xúc với tình trạng viêm trong tử cung gây ra sự tăng trưởng phổi nhanh chóng trong
thời gian ngắn nhưng cuối cùng trực tiếp gây ra biotrauma, tạo ra các tổn thương và sửa
chữa dẫn đến sự phát triển của BPD vừa hoặc nặng. [14-16]
Việc sử dụng áp lực dương cuối cùng thở ra (PEEP)/áp suất dương liên tục (CPAP) trong
quá trình ổn định ban đầu của trẻ sơ sinh non tháng, làm giảm ảnh hưởng của tình trạng độ
đàn hồi quá mức của thành ngực và thiếu chất surfactant, thông qua việc ổn định phế nang
trong giai đoạn thở ra và được chứng minh là giúp thiết lập FRC. Siew và cộng sự [18] đã
chứng minh được những ảnh hưởng có ích của PEEP bằng cách sử dụng chụp X quang có
cản quang ở những con thỏ sinh non, cho thấy hầu như không thiết lập được FRC sau vài
phút khi PPV mà không có PEEP. Ngược lại, FRC đã được nhanh chóng thành lập khi PEEP
5 cm H2O được áp dụng. Cả “Neonatal Resuscitation Program” và “International Liaison
Committee on Resuscitation guidelines” đều khẳng định "PEEP có thể có lợi trong quá trình
ổn định ban đầu của trẻ sơ sinh non tháng ngưng thở và nên sử dụng nếu có thiết bị phù
hợp." [19,20] Lý lẽ sinh lý và các bằng chứng thực nghiệm từ nghiên cứu tiền lâm sàng rất
thuyết phục rằng thực tiễn này đã trở thành tiêu chuẩn chăm sóc ở nhiều nước phát triển.
Tuy nhiên, chỉ cần cung cấp áp lực thở cuối, có thể không hoàn toàn giải quyết được sức cơ
không đủ của trẻ sơ sinh non tháng hoặc giúp thoát dịch trong phổi đủ nhanh để tránh tình
trạng volutrauma và atelectrauma ở khu vực, có thể xảy ra trong vài phút.
SUSTAINED INFLATION
Do chất lỏng có độ nhớt lớn hơn không khí, việc thoát dịch các đường thở nhỏ cần áp lực
cao hơn việc thoát khí, làm cho hằng số thời gian cần thiết để làm sạch dịch từ đường thở
kéo dài hơn. Việc công nhận những yếu tố này ủng hộ quan niệm rằng việc bơm căng giữ
(sustained inflation) kéo dài sau khi sinh hiệu quả hơn bơm căng giữ ngắn trong việc thanh
thải dịch phổi trong những phút đầu tiên của cuộc đời. Về mặt lý thuyết, đảm bảo việc huy
động phổi hiệu quả và thậm chí phân bố VT thật tốt ngay sau khi sinh sẽ làm giảm VALI.
Mặc dù có rất nhiều bằng chứng ủng hộ những lợi thế lý thuyết của sustained inflation ở trẻ
sơ sinh non tháng, [21] bằng chứng cho thấy biện pháp này có thể làm giảm đáng kể VALI
vẫn chưa kết luận. [22-24] Thêm vào đó, cách thức thích hợp nhất để sustained inflation là
không rõ ràng. Do đó, thủ thuật này hiện không được khuyến cáo ngoài các thử nghiệm lâm
sàng được kiểm soát tốt.
xung (SpO2). [25] Kapadia và các đồng nghiệp [26] so sánh tỷ lệ BPD ở trẻ sơ sinh tuổi thai
24 đến 34 tuần ngẫu nhiên nhận được oxy từ 21% đến 100%, sau đó được điều chỉnh để đạt
được “Neonatal Resuscitation Program” đề xuất mục tiêu SpO2 từ 85% đến 94%. Tỷ lệ BPD
thấp hơn ở trẻ sơ sinh được thở bằng khí phòng (7% so với 25%, P <.04). Ngược lại, thử
nghiệm “Room-Air Versus Oxygen Administration for Resuscitation of Preterm Infants” cho
thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ BPD giữa trẻ non tháng được điều trị với khí phòng mặc
dù ngẫu nhiên có trên 1000 trẻ sơ sinh. [27] Điều này có thể là một phần bởi vì việc bắt đầu
hồi sức với khí phòng ở trẻ rất non tháng thường dẫn đến phản ứng không thích hợp và tăng
nhanh đến 100% oxy. Do đó, cách tiếp cận tốt nhất có thể là khởi động hỗ trợ với FIO2 là 0,30
và tránh sự gia tăng nhanh chóng, thừa nhận rằng cần vài phút để SpO2 đạt 90%.
Mặc dù việc tránh stress oxy hóa là mong muốn, nó đã trở thành một vấn đề phức tạp hơn
nhiều so với những gì ban đầu đã nghĩ. Một loạt các RCT so sánh các mục tiêu SpO2 thấp
hơn so với cao hơn (SUPPORT, Canadian Oxygen Trial, and Benefits of Oxygen Saturation
Targeting II) không cho thấy sự giảm BPD đáng kể và bất ngờ cho thấy tỷ lệ tử vong cao hơn
ở nhóm mục tiêu thấp SpO2. [28-30] Một phân tích gộp gần đây của những thử nghiệm này
đã khẳng định sự gia tăng đáng kể về tử vong và viêm ruột hoại tử, và giảm tỉ lệ mắc bệnh
võng mạc ở trẻ non tháng ở trẻ có độ bão hòa oxy mức thấp so với trẻ có độ bão hòa oxy
mức cao. [31] Không có sự khác biệt về sinh lý học BPD, chấn thương não, hoặc còn ống
động mạch giữa các nhóm. Dựa trên những kết quả này, những khuyến cáo dứt khoát về các
mục tiêu bão hòa trong quá trình chăm sóc tiếp theo của trẻ non tháng rất khó thực hiện. Tuy
nhiên, có vẻ như khôn ngoan khi nhắm đến mục tiêu SpO2 chức năng ở 90% đến 95% ở trẻ
sơ sinh có tuổi thai dưới 28 tuần cho đến 36 tuần tuổi thai. Hầu hết các NICU đã sửa đổi các
mục tiêu bão hòa của họ để ở gần phạm vi cao hơn này, với các giới hạn báo động hơi rộng
hơn, hoặc khoảng 88% đến 97%. Thay đổi này một lần nữa làm tăng nguy cơ bệnh võng
mạc đáng kể ở trẻ non tháng.
đáng kể về thời gian của MV và không giảm thời gian tiếp xúc oxy có ý nghĩa đối với thở
CPAP sớm trong 2 thử nghiệm lớn nhất. [2,3]
Thở máy không xâm lấn qua mũi cho trẻ sinh non có thể giúp tăng cường nỗ lực hô hấp mà
không có các biến chứng liên quan đến đặt nội khí quản. [36] Về lý thuyết, cách tiếp cận này
mang lại lợi ích của việc tránh sử dụng ống nội khí quản, làm giảm tỷ lệ mắc VALI và VAP và
tránh phản ứng viêm tạo điều kiện cho sự phát triển của BPD. [37] Mặc dù một phân tích gộp
của một số nghiên cứu trung tâm nhỏ đã kết luận rằng việc thở máy không xâm nhập qua
mũi tốt hơn CPAP, một nghiên cứu RCT gần đây ở trẻ sơ sinh có trọng lượng khi sinh dưới
1000 g không chứng minh được những lợi ích này, trên tỉ lệ BPD, tử vong, hoặc kết cục kết
hợp. [39]
ĐIỀU TRỊ SURFACTANT ÍT XÂM NHẬP
Theo truyền thống, tránh được đặt nội khí quản và MV và việc sử dụng hỗ trợ hô hấp không
xâm lấn có nghĩa là sự cân bằng giữa lợi ích của phương pháp này và lợi ích của liệu pháp
thay thế surfactant. Các thử nghiệm surfactant sớm cho thấy sử dụng surfactant dự phòng tốt
hơn so với sử dụng surfactant cứu hộ [40]; do đó, một số bác sĩ lâm sàng vẫn đặt nội khí
quản cho trẻ sơ sinh rất non tháng trong phòng sinh với mục đích duy nhất là dùng
surfactant. Tuy nhiên, cần phải nhận ra rằng hầu hết các RCTs dùng surfactant đã được thực
hiện cách đây nhiều năm ở một nhóm dân số khác nhau và với cách tiếp cận ít phức tạp hơn
đối với việc ổn định phòng sinh. Một phân tích gộp gần đây so sánh việc sử dụng surfactant
dự phòng so với chọn lọc trong thời kỳ hiện đại kết luận rằng một phương pháp tiếp cận dự
phòng có liên quan với tăng nguy cơ BPD (RR 1,13, 95% CI, 1,00-1,28). [41]
Trong những năm gần đây, nhiều cách tiếp cận đã được đề xuất để bảo vệ lợi ích của việc
tránh đặt nội khí quản trong khi vẫn cung cấp liệu pháp surfactant. Các phương pháp này bao
gồm phương pháp intubation-surfactant-extubation approach (INSURE) và một số phương
pháp sử dụng surfactant thông qua các catheter nhỏ dưới hình ảnh nội soi thanh quản trực
tiếp. [33,42-45] Mặc dù các kỹ thuật này không đặt nội khí quản, nhưng vẫn cần phương
pháp nội soi thanh quản trực tiếp, thông thường vẫn phải dùng thuốc an thần và do đó vẫn
xâm lấn. Việc sử dụng surfactant khí dung trong thở CPAP là một phương pháp tiếp cận tiềm
năng hấp dẫn hiện đang được điều trthử nghiệm. [46]
một số nghiên cứu, các biến số khác ngoài so sánh thể tích và áp lực cũng khác nhau. Tất cả
các nghiên cứu bao gồm tập trung vào kết quả sinh lý ngắn hạn hơn là BPD. Chỉ có 1 nghiên
cứu cung cấp một số kết cục về phổi và phát triển lâu dài, nhưng điều này chỉ dựa trên bảng
câu hỏi của cha mẹ. Tuy nhiên, đây là bằng chứng nhiều hơn so với hiện tại cho bất kỳ cách
tiếp cận khác nhau của MV.
Data from Peng WS, Zhu HW, Shi H, et al. Volume-targeted ventilation is more suitable than pressure-limited
ventilation for preterm infants: a systematic review and meta-analysis. Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed
2014;99:F158–65.
đảm bảo rằng VT được phân bố đều trong suốt phổi, là một thành tố cơ bản của bất kỳ chiến
lược thông khí bảo vệ phổi nào.
Về mặt thực tế, phổi mở ra bằng cách áp dụng PEEP đầy đủ. [57] Một trong số những trở
ngại quan trọng nhất để tối ưu hóa cách truyền thống của MV là sự tồn tại của "sợ PEEP"
(“PEEP-o-phobia”), sự sợ hãi của việc sử dụng mức độ đầy đủ của PEEP. Điều này có thể là
một phần vì OLC đã không được đánh giá trong bối cảnh lâm sàng rộng rãi. [58] Không có
mức PEEP tối ưu duy nhất. Mức PEEP phải được điều chỉnh phù hợp với mức độ tổn
thương phổi (nghĩa là độ giãn nở phổi). Đối với trẻ sơ sinh có phổi khoẻ và do đó độ giãn nở
bình thường, PEEP 3 cm H2O có thể thích hợp; PEEP 6 cm H2O có thể dẫn đến việc quá
căng phổi gây giảm chức năng tuần hoàn và tăng áp suất tĩnh mạch trong não. Mặt khác, xẹp
phổi có độ giãn nở phổi kém, có thể đòi hỏi mức PEEP từ 8 đến 10 cmH2O trở lên để đạt
được sự huy động phổi phù hợp và tối ưu hóa tỷ lệ thông khí/tưới máu. Vì trẻ sơ sinh có phổi
bình thường ít khi được thông khí, PEEP ít hơn 5 cm H2O là không phổ biến.
Thông khí tần số cao (High-frequency Ventilation)
Ngược lại với thông khí thông thường, tầm quan trọng của việc tối ưu hóa bơm căng phổi đã
được ghi nhận từ những ngày đầu của sử dụng HFV, nơi mà chiến lược về thể tích phổi tối
ưu trở thành phương pháp chuẩn và được hiểu là rất quan trọng đối với sự thành công của
nó. [59,60] HFV bao gồm một số phương thức thông khí, bao gồm thở rung tần số cao
(HFOV, high-frequency oscillatory ventilation), thông khí phụt tần số cao (HFJV, high-
frequency jet ventilation), và thông khí vỗ tần số cao (HFPV, high-frequency percussive
ventilation), đã được sử dụng trong sơ sinh từ những năm 1980. Lợi ích của HFV được cho
là giảm áp suất và sự thay đổi về thể tích truyền tới vùng ngoại vi phổi. Để có hiệu quả tối ưu,
phổi cần phải được huy động và sau đó ổn định với áp suất đường thở trung bình thấp nhất
có thể có.
Một số nghiên cứu trên động vật ban đầu đã chứng minh được lợi ích ngắn hạn của HFOV
với chiến lược thể tích phổi tối ưu. [61] Gần đây hơn, Yoder và các đồng nghiệp so sánh hiệu
quả của việc thở HFOV kéo dài và thở máy thông thường với VT thấp bằng cách sử dụng mô
hình vượn non tháng trong tần suất xuất hiện BPD, cho thấy việc sử dụng HFOV kéo dài đã
cải thiện đáng kể chức năng phổi sớm với sự cải thiện bền vững trong cơ học phổi đến 28
ngày sống và viêm phổi ít hơn trong giai đoạn phục hồi RDS của nó. Một số RCT của HFOV
và HFJV cho kết quả tốt hơn, bao gồm giảm BPD và/hoặc thời gian của MV, [63-67] trong khi
các thử nghiệm khác cho thấy không có cải thiện. Việc giải thích các RCTs của HFV là một
thách thức lớn hơn bởi thực tế là hầu hết đã được thực hiện nhiều năm trước ở những nhóm
bệnh nhân khác biệt rõ rệt so với trẻ sơ sinh được điều trị ngày hôm nay và so sánh HFV với
các phương thức CMV ít phức tạp hơn (nguy hiểm hơn) so với những người đang sử dụng
ngày nay. [58]
BS. ĐẶNG THANH TUẤN - 2018 11
February 8, 2018 [THỞ MÁY VÀ LOẠN SẢN PHẾ QUẢN PHỔI]
Các thử nghiệm HFV chỉ cho thấy lợi ích là những thử nghiệm sử dụng chiến lược thể tích
phổi tối ưu. Do đó, có 2 điểm khác biệt chính giữa các chiến lược nghiên cứu và kiểm soát:
tần suất cao và sử dụng OLC, và tần suất thấp hơn với áp suất căng thấp hơn. Thứ hai có
thể là sự khác biệt quan trọng hơn. HFOV sử dụng mà không có chiến lược phổi mở thì
không hiệu quả trong việc làm giảm tổn thương phổi [73] và một số nghiên cứu trên động vật
cho thấy thông khí thông thường khi sử dụng với OLC có thể đạt được mức độ bảo vệ phổi
tương đương như HFOV, cho thấy rằng tối ưu hóa lượng phổi, hơn là tần số, là nhân tố then
chốt. [74-76] Tuy nhiên, áp dụng lâm sàng OLC với thông khí thông thường có thể không
phải là một nhiệm vụ dễ dàng và chưa được đánh giá rộng rãi trong các thử nghiệm lâm
sàng. [77]
Hình 3. Hệ thống thông khí bình thường với sự có mặt của xẹp phổi rộng dẫn đến tổn thương phổi thông qua
nhiều cơ chế. Mặc dù bệnh lý phổi ở trẻ sơ sinh RDS thường được nghĩ là đồng nhất, dựa trên chụp X quang tư
thế trước sau (góc dưới bên phải), phổi không đồng nhất do ảnh hưởng của trọng lực, như nhìn thấy trên CT
scan (góc dưới bên trái). Điều này dẫn đến 2 quần thể phế nang có áp suất mở tới hạn khác nhau, được minh
hoạ dưới hình thức hoạt hình ở phần trên. Từ luật của Laplace, người ta biết rằng vùng phổi thông khí (mũi tên
trắng) có áp suất mở thấp hơn; do đó, khí xâm nhập vào phần phổi này dễ hơn, gây ra sự quá căng (mũi tên màu
đen ở hình góc dưới bên trái). Điều này dẫn đến volutrauma thậm chí với VT bình thường, trong khi đó phần
phổi xẹp cũng bị hư hỏng do tràn chất dịch giàu đạm làm mất hoạt tính surfactant. Các phế nang thông khí
nhưng không ổn định bị xẹp và giãn nở lặp lại (RACE) và các lực cắt tại ranh giới giữa phổi có khí và không
thông khí gây ra hư hỏng thêm. Việc huy động thể tích phổi đầy đủ và giữ cho phổi mở trong suốt chu trình hô
hấp thậm chí có thể phân bố VT và giảm thiểu tất cả các yếu tố liên quan đến VALI.
BS. ĐẶNG THANH TUẤN - 2018 12
February 8, 2018 [THỞ MÁY VÀ LOẠN SẢN PHẾ QUẢN PHỔI]
Với việc đưa ra các thử nghiệm lâm sàng gần đây phản ánh những tiến bộ trong chiến lược
thông khí thông thường, tác dụng bảo vệ của HFOV ít rõ ràng hơn những nghiên cứu trước
đó. [78] Một phân tích gộp gần đây về dữ liệu bệnh nhân cá nhân từ một số RCTs không
chứng minh được sự vượt trội của HFOV so với các chiến lược thông khí thông thường.
Phân tích cũng không hỗ trợ lựa chọn một nhóm phụ cụ thể của trẻ sơ sinh non tháng có thể
được hưởng lợi duy nhất từ HFOV dựa trên tuổi thai, cân nặng khi sinh, độ nặng của bệnh
ban đầu, hoặc tiếp xúc với corticosteroid trước khi sinh. Tuy nhiên, theo dõi bệnh phổi dài
hạn từ “United Kingdom Oscillation Study”, cho thấy những bất thường về phổi không nặng
nhưng kéo dài trong nhóm HFOV, cho thấy kết quả chênh lệch giữa BPD và không phải BPD
là công cụ để đánh giá những lợi ích có thể có của chiến lược thông khí phổi này. [80]
ĐỂ TẤT CẢ CHÚNG CÙNG NHAU
Dựa trên các khái niệm chính được thảo luận trước đây, một số nguyên tắc chung cho việc
sử dụng MV có thể được xây dựng. Mục tiêu bao quát là hỗ trợ trao đổi khí một cách đầy đủ
với giảm thiểu tối đa các tác động bất lợi lên phổi, huyết động học, và não của trẻ sơ sinh.
Thời gian thở máy dài hơn có liên quan đến sự gia tăng nguy cơ bệnh phổi mãn tính, nhiễm
trùng huyết muộn và suy giảm thần kinh; do đó, cần rút ống thành công trong thời gian sớm
nhất có thể. Các chiến lược thông khí phải được cá nhân hoá để xác định tình trạng cụ thể
của từng bệnh nhân, nhưng tối ưu hóa thể tích phổi và ngăn ngừa xẹp phổi, cải thiện độ giãn
nở của phổi, giảm thiểu nhu cầu oxy, tránh sự bất hoạt surfactant và thậm chí phân bố VT tối
ưu, vẫn là những mệnh lệnh cơ bản. Yếu tố quan trọng thứ hai của chiến lược bảo vệ phổi là
tránh VT quá lớn, giúp giảm tối đa volutrauma và hypocapnia, [2] các thành phần tiềm ẩn khả
năng bị tổn thương phổi và não. Điều này được thực hiện tốt nhất bằng cách sử dụng một
trong các chế độ nhắm mục tiêu theo thể tích có sẵn trên hầu hết các máy thở được sử dụng
rộng rãi. Khi áp lực đẩy và áp lực đỉnh cáo là cần thiết để đạt được những mục tiêu này, HFV
là một lựa chọn hợp lý.
Sự tăng thán khí cho phép nhẹ và tối thiểu FIO2 để đạt được độ bão hòa ôxy nói chung được
xem là thích hợp, nhưng PCO2 lớn hơn 60 mm Hg nên tránh trong 3 ngày đầu tiên của cuộc
đời do tăng nguy cơ IVH. Không có bằng chứng để hỗ trợ việc sử dụng thuốc an thần thường
xuyên, và do đó trẻ sơ sinh nên được cho phép tự thở một cách tự nhiên. Nên tránh hút đàm
định kỳ vì nó dẫn đến tình trạng xẹp phổi, thiếu oxy máu tạm thời, và làm xáo trộn huyết động
học trong não. Chỉ khi các chất tiết được phát hiện bởi sự nghe phổi hoặc do nhiễu loạn của
dạng sóng lưu lượng, chỉ định hút nhanh nhẹ nhàng mà không cần bơm nước muối. Nếu
không có bằng chứng cuối cùng từ RCT, sự lựa chọn SIMV) hoặc A/C vẫn là vấn đề sở thích
cá nhân và thực tiễn. Có sự khác biệt nhỏ giữa hai giai đoạn, giai đoạn cấp của suy hô hấp
khi đó bệnh nhân ít hoặc không có nỗ lực hô hấp nhưng nổ lực hô hấp sẽ rõ rệt hơn trong
giai đoạn cai máy, đặc biệt ở những trẻ nhỏ với ống nội khí quản hẹp. Thở máy kéo dài với
tần số SIMV thấp nên tránh ở những trẻ sơ sinh này, vì nó gây ra tăng công thở không mong
muốn. SIMV cũng có kết quả VT lớn hơn so với A/C, bởi vì trẻ non tháng non thường không
tạo ra VT tự phát dẫn đến một tỷ lệ VD:VT cao. Ở một mức độ đáng kể, vấn đề này có thể
được khắc phục bằng cách thêm thông khí hỗ trợ áp suất (PS) vào hơi thở tự phát trong
SIMV. [81] Mặc dù cách tiếp cận này có hiệu quả nhưng nó có thêm tính phức tạp và dường
như không có bất kỳ thuận lợi nào đối với A/C hoặc PS được sử dụng một mình miễn là
tránh được xẹp phổi bằng cách sử dụng mức PEEP đầy đủ. Ngoài ra, điều quan trọng là phải
nhận ra rằng tính năng nhắm mục tiêu theo thể tích chỉ được áp dụng cho các nhịp thở SIMV
khi sử dụng SIMV + PS hoặc với VG.
TÓM LƯỢC
Mặc dù thậm chí với việc chăm sóc hô hấp tối ưu cũng có thể gây một số tổn thương phổi ở
trẻ ELBW rất khác nhau, sự thay đổi về tỉ lệ BPD gợi ý rằng MV và các thực hành lâm sàng
khác là những yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được. Mặc dù các bằng chứng để hướng
dẫn các chiến lược hỗ trợ hô hấp vẫn còn chưa đầy đủ, các khái niệm chính được phác thảo
trong bài tổng quan này dựa trên các bằng chứng tốt nhất và lý do sinh lý và có thể tạo cơ hội
để giảm thiểu các kết quả hô hấp bất lợi ở trẻ nhẹ cân cần hỗ trợ hô hấp.