Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 60

1.

Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ:


MB:
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Rằng lời bạc mệnh cũng là lời chung.”
Đó là lời khẳng định của đại thi hào Nguyễn Du khi nói về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Thật vậy, nếu vũ trụ có nhiều kỳ quan thì kỳ quan tuyệt phẩm nhất chính là người phụ nữ nhưng họ phải gánh chịu
một số phận đầy truân chuyên và bất hạnh. Bằng sự đồng cảm và thấu hiểu ấy, các nhà thơ đã đưa vào áng văn của
mình hình ảnh những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng chất chứa một bi kịch đầy nước mắt. Đặc biệt trong đó
không thể không kể đến nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Tác giả Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất)  tác giả xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam TK XVI
 “Truyền kì mạn lục” là tập truyện tiêu biểu của Nguyễn Dữ. Tác phẩm được viết chữ Hán, gồm 20 truyện, viết về
những người phụ nữ có phẩm hạnh nhưng số phận bất hạnh và những người trí thức có tài năng, có tâm huyết nhưng
lại bất mãn với cuộc đời.
 “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của tập “Truyền kì mạn lục”,
được mượn cốt truyện từ câu chuyện cổ tích dân gian có tên “Vợ chàng Trương”.

2. Tóm tắt:
 Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người con gái Nam Xương thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Lấy chồng chưa được
bao lâu thì chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính. Nàng ở nhà một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng
đau ốm rồi làm ma chay chu đáo khi bà mất. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là
cha nó. Trương Sinh trở về nghe lời con nói về chiếc bóng, nghi vợ thất tiết nên Trương Sinh đánh Vũ Nương, đuổi đi.
Vũ Nương uất ức khấn nguyện rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được thần rùa Linh Phi và các tiên nữ
cứu. Một thời gian sau, Trương Sinh mới biết vợ bị oan. Ở thủy cung, Vũ Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết
đuối được Linh Phi cứu. Khi Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc thoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho
nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng nước nói lời tạ từ rồi biến mất.
3. Phân tích:
a/ Vẻ đẹp của Vũ Nương:
 Mở đầu thiên truyện, Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là người con gái đã thùy mị nết na lại thêm tư dung
tốt đẹp. Tác giả dành những lời hay ý đẹp để giới thiệu giản dị mà khái quát và bày tỏ sự trân trọng trước vẻ đẹp của
Vũ Nương – người phụ nữ hoàn hảo, vừa đẹp người lại đẹp nết.
 Vẻ đẹp ngời sáng của Vũ Nương là ở tâm hồn, ở những phẩm chất đáng quý ẩn giấu như những viên ngọc lấp
lánh. Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
 Được thể hiện thông qua các hoàn cảnh và qua các mối quan hệ với các nhân vật khác:
 Vũ Nương là một người vợ dịu hiền, hết lòng yêu thương, thủy chung, son sắt nghĩa tình với chồng, khát
khao hạnh phúc gia đình bình dị:

+ Trong cuộc sống hàng ngày khi mới về làm vợ: Biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn
phép, không để gia đình xảy ra thất hòa. Bằng sự hiền dịu, nết na, thùy mị và khôn khéo của mình, Vũ Nương luôn giữ
cho gia đình dầm ấm, yên vui.

+ Khi tiễn chồng ra trận: Vũ Nương rót chén rượu đầy, nói lời tình nghĩa đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến
này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Trong thời đại chiến tranh loạn lạc, con người ta ai cũng muốn tìm cách để lập công lập
danh, có thể bằng con đường khoa cử hay cũng có thể bằng con đường ra trận đánh giặc. Trương Sinh, tuy là con nhà
hào phú nhưng lại thất học, nên chỉ có thể ghi tên trong sổ đi lính, ra trận giết giặc. Nhưng để lập công lập danh bằng
con đường này thì cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với cái chết, nguy hiểm tính mạng. Xét trong thời đại xã hội
đó, bất cứ người phụ nữ nào cũng muốn được cảnh “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”, mong chồng mình vinh
quy bái tổ, nhưng đối với Vũ Nương nàng chỉ mong chồng mình bình an trở về, không trông mong vinh hoa phú quý
mà chỉ khát khao hạnh phúc bình dị.

+ Khi xa chồng:
 Vũ Nương hết lòng chung thủy với chồng chồng, một lòng son sắc, thủy chung “cách biệt ba năm,
giữ gìn một tiết”.
 Nàng mong đợi chồng về trong cô đơn, mòn mỏi: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín
núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”.
 Vũ Nương rất hiếu kính với mẹ chồng:
+ Mẹ chồng đau yếu, Vũ Nương ân cần, chăm sóc mẹ hết lòng như mẹ đẻ của mình: “Nàng hết sức thuốc thang,
lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, mong mẹ chồng chóng khỏi bệnh, đợi ngày vui sum họp.
+ Sự hiếu thảo của nàng khiến mẹ chồng cũng quý mến, xúc động trăng trối những lời tốt đẹp nhất dành cho
nàng: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người xưa có câu: “Thật thà như thể lái trâu,
thương nhau như thể nàng dâu mẹ chồng” chứng tỏ mối quan hệ phức tạp mẹ chồng – nàng dâu trong xã hội cũ, một
mối quan hệ hiếm khi hòa hơp như của Vũ Nương. Lời từ trái tim người mẹ già đã tô đậm tấm lòng hiếu thảo, phẩm
chất hiếu hạnh hết mực của Vũ Nương.
+ Khi mẹ chồng qua đời, nàng chu đáo trong việc ma chay, cúng lễ, thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con
dâu đáng quý.
 Người mẹ giàu lòng yêu thương con:
+ Những năm chồng đi lính, Vũ Nương một mình đảm đang, quán xuyến công việc gia đình. Lấy chồng chưa
được bao lâu, nàng đã phải vò võ, một mình sinh con và nuôi con khôn lớn mà thiếu đi sự sẻ chia an ủi, vỗ về của
chồng. Nàng đã gánh luôn cả trách nhiệm làm chồng, làm cha của Trương Sinh.
+ Nàng nuôi dạy con thơ ân cần, chu đáo. Nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ
tấm lòng của người mẹ, để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha, để con được sống trong
cảnh đoàn viên gia đình. Hơn nữa, chi tiết này cũng nói lên rõ nét tình yêu thương chồng: nàng coi chồng với mình
giống như hình với bóng.
 Trọng danh dự, nhân phẩm:
+ Khi bị chồng nghi oan: Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, cố hàn gắn
hạnh phúc gia đình trước nguy cơ tan vỡ. Nàng thể hiện sự đoan trang, đúng mực trong lời lẽ giải thích từ tốn, nhẹ
nhàng:
 Lời thoại thứ nhất: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng. Ngõ liễu tường
hoa chưa hề bén gót. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. → Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa
vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ và
danh dự đang bị vấy bẩn của bản thân. Lời nói của nàng từ tốn dịu hiền, hết sức nhẫn nhịn, nhún nhường cho thấy sự
trân trọng, khát khao gìn giữ hạnh phúc gia đình.
 Lời thoại thứ hai : Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không tự
bảo vệ được mình, dù có những lời biện bạch, thanh minh của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất
đi hạnh phúc gia đình thú vui “nghi gia nghi thất”. Tình cảm yêu thương, thuỷ chung nàng dành cho chồng đã bị phủ
nhận không thương tiếc. Nàng đau đớn trước cảnh “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa”.
+ Sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương chỉ còn biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Lời
than xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và “tiết sạch giá trong” của nàng cùng hành động tự vẫn cho thấy thái
độ quyết liệt bảo toàn danh dự của một người coi trọng nhân phẩm. Với nàng, một người phụ nữ, danh dự còn quan
trọng hơn cả mạng sống nên nàng đã sẵn sàng chết để bảo toàn danh dự.
 Vũ Nương bao dung, tình nghĩa dưới Thủy Cung:
+ Dù bị chồng nghi oan, mang nỗi hàm oan lớn, nàng cũng không buông một lời oán trách.
+ Một năm xa cách ở thuỷ cung, dù cuộc sống sung sướng, dù người chồng ấy đã đối xử tệ bạc với nàng nhưng
nàng không bao giờ quên gia đình, vẫn nặng lòng nhung nhớ quê hương, mộ phần cha mẹ, đau đáu nỗi niềm nơi trần
thế, vẫn khao khát được trả lại danh dự. Khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc thương. Lời nhắn gửi
Phan Lang cùng chiếc thoa vàng chất chứa nỗi niềm thương nhớ, sâu nặng nghĩa tình của nàng.
+ Nàng không hề trách cứ kẻ gây ra cái chết cho mình, vẫn nói lời đa tạ khi Trương Sinh còn nhớ chút “tình xưa
nghĩa cũ” mà lập đàn giải oan để đón nàng về.
b/ Số phận của Vũ Nương
 Bi kịch của Vũ Nương:
 Bi kịch của người phụ nữ hết lòng thủy chung, yêu thương chồng con mà bị nghi oan thất tiết, bị đối xử tàn nhẫn
bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
 Vũ Nương đau đớn vô cùng vì hôn nhân gia đình tan vỡ, tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người
chồng mà mình yêu thương.
 Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
 Mòn mỏi đợi chờ, vất vả gian lao
 Kết duyên chưa được bao lâu thì chồng phải đi lính
 Nàng không mong chờ công danh phú quý, chỉ lo những bất trắc ngoài trận mạc, liệu người đi xa có thể trở về.
 Vò võ ngóng tin chồng trong nhớ thương vời vợi
 Gánh nặng gia đình để lại cho người vợ trẻ: phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ, cáng đáng trọng trách gia đình.
 Nỗi oan cách trở
 Sự trở về của nàng ở cuối tác phẩm chỉ là ảo ảnh, thực tế người đã chết đi rồi không thể sống lại, hạnh phúc đã mất
khó lòng hàn gắn
 Nàng và chồng con mãi mãi âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc bình dị nơi trần thế vĩnh viễn đóng cửa lại rồi.
 Nguyên nhân của bi kịch:
 Nguyên nhân trực tiếp: Do lời nói ngây ngô của bé Đản về chiếc bóng khiến Trương Sinh ghen tuông.
 Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do thói ghen tuông hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh: Là kẻ không có học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt,
Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán
ấy đã vội vàng kết luận đinh ninh là vợ hư. Trương Sinh mắng nhiếc, đánh rồi đuổi Vũ Nương đi cho thấy sự ghen
tuông vô lí, sự thô bạo, tàn nhẫn của người đàn ông gia trưởng.
+ Do chế độ nam quyền với tư tưởng nặng nề của XHPK coi thường rẻ rúng người phụ nữ: Chỉ nghe lời ngây ngô
của con trẻ, Trương Sinh mặc lời phân trần của vợ, lời thanh minh giúp của hàng xóm mà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ
Nương. Trương Sinh lúc ấy không nghĩ gì đến tình nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ
Nương đối với gia đình. Người phụ nữ sống dưới chế độ phong kiến hoàn toàn không được coi trọng. Họ luôn phải
phụ thuộc vào những người đàn ông, bị coi rẻ danh dự và nhân phẩm.
+ Do cuộc hôn nhân bất bình đẳng: Vũ Nương thua thiệt về vị thế, vốn con kẻ khó nương tựa nhà giàu. Giống như
một cuộc mua bán giữa kẻ giàu và người nghèo. Sự bất bình đẳng giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương mặc cảm và cũng là
cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với vợ.
+ Do chiến tranh phi nghĩa khiến tình cảm vợ chồng xa cách: Chiến tranh xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm
trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát
triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương. Vũ Nương là khuôn vàng thước ngọc người phụ nữ trong XHPK thế
nhưng lại phải kết duyên với TS – người đàn ông gia trưởng, độc đoán, hồ đồ, vũ phu, thô bạo,…
→ Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch chung về thân phận của người phụ nữ trong XHPK, là lời tố cáo XHPK bất công
với tư tưởng nam quyền xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình. Đồng thời, qua đó
bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Nó cho thấy tấm lòng nhân đạo của
tác giả Nguyễn Dữ.
 Dẫn chứng:
 Bác Hồ đã trao cho người phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”
 “Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ trước gió biết vào tay ai.”
4. Nghệ thuật:
 Nguyễn Dữ đã thành công qua “Chuyện người con gái Nam Xương” bởi cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện đầy
kịch tính, làm cho câu chuyện đầy hấp dẫn và trở nên sinh động hơn. Truyện có những đoạn đối thoại, lời tự bạch của
nhân vật đã khắc họa tâm lý, tính cách của Vũ Nương. Tác giả đã gỡ nút và thắt nút câu chuyện ở hai chi tiết đó là để
cho người mẹ Trương Sinh qua đời và chi tiết chiếc bóng. Đặc biệt những yếu tố kì ảo ở cuối truyện được nhà văn xây
dựng và xen kẽ yếu tố thực góp phần hoàn chỉnh nét đẹp của Vũ Nương.
KB:
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương
và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng
ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn
lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của
thời đại mới.
2. Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô Gia Văn Phái:
MB:
Lịch sử Việt Nam trải qua biết bao đời với vô vàn biến cố thăng trầm lịch sử, dưới sự lãnh đạo của rất nhiều vị
vua tài ba. Trong đó không thể không nhắc đến hình ảnh mạnh mẽ quyết đoán Quang Trung. Điều này đã được thể
hiện rõ qua tiểu thuyết chương hồi “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” - ghi chép lại sự thống nhất của vương triều Lê. Tác
phẩm đã tái hiện lại một lịch sử hào hùng và oanh liệt của dân tộc ta thời xưa.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc Thanh Oai, tỉnh Hà Tây).
 Hai tác giả chính:
+ Ngô Thì Chí (1753-1788), làm quan thời Lê Chiêu Thống.
+ Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
 Tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh,
trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Nó còn tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của XHPK Việt Nam vào 30 năm cuối
thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX.
 Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi. Văn bản trích hồi thứ 14 kể về việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
 Thể loại: chí (là một lối văn ghi chép sự vật, sự việc). Cũng có thể xem tác phẩm là một cuốn tiểu thuyết lịch sử
viết theo lối chương hồi.
 Đại ý: Đoạn trích miêu tả chiến thắng lẫy lửng của vua Quang Trung, sự thất bại thảm bại nhục nhã của quân
tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân (kẻ bán nước, cướp nước).
2. Tóm tắt:
 Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long, ông giận lắm liền họp các tướng sĩ, cầm quân đi ngay. Tướng
sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm yên lòng người. Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân, ông làm lễ lên ngôi
hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo quân tiến ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển
thêm hơn một vạn lính rồi mở cuộc duyệt binh lớn, phủ dụ tướng sĩ. Đến Tam Điệp, ông mở tiệc khao quân ăn tết
sớm, chia quân sĩ làm 5 đạo, đúng tối 30 tết lập tức lên đường. Trên đường tiến quân ra Bắc, những toán quân Thanh
do thám bị bắt sống. Ngày 03 tháng Giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc Hồi.
Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân
Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy, rơi xuống nước nhiều không kể xiết khiến nước sông tắc nghẽn. Vua tôi Lê
Chiêu Thống chạy trốn đất Bắc.
3. Phân tích:
a/ Hình ảnh một người quyết đoán, mạnh mẽ
 Nguyễn Huệ cũng luôn xông xáo, giải quyết nhanh gọn và có chủ đích, thể hiện tính cách mạnh mẽ, quyết đoán.
 Nhận được tin giặc chiếm Thăng Long, mất một vùng đất rộng lớn, “ông giận lắm, không hề nao núng, định thân
chinh cầm quân đi ngay”.
 Chỉ trong vòng hơn 1 tháng, Nguyễn Huệ đã làm rất nhiều việc lớn:
+ Nghe lời tướng sĩ, tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế để chính vị hiệu, giữ lấy lòng người.
+ Tổ chức hành quân hỏa tốc
+ Tổ chức duyệt binh, tuyển binh
+ Tìm gặp người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp để lập kế hoạch hành quân đánh giặc
b/ Là một con người sáng suốt, nhạy bén trước thời cuộc:
 Ông phân tích tình hình thời cuộc, thế tương quan giữa ta và địch rất sắc bén, sáng suốt.
 Lời phủ dụ quân sĩ ở Nghệ An như bài hịch, ngắn gọn mà ý tứ sâu xa:
+ Khẳng định chủ quyền của dân tộc (đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng)
+ Lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của quân Thanh, nêu bật dã tâm của chúng (bụng dạ ắt
khác...cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải)
+ Nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta và kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực.
→ Nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tình cảm, kích thích lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc.
 Nguyễn Huệ sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người:
+ Rất hiểu tướng sĩ, hiểu tường tận năng lực, sở trường sở đoản của bề tôi
+ Khen chê đúng người đúng việc, xử trí vừa có lí vừa có tình với các tướng sĩ tại Tam Điệp (không phạt mà còn
khen 2 tướng Lân và Sở).
c/ Có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng
 Mới khởi binh, chưa lấy được tấc đất nào, đã tuyên bố chắc nịch phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng qua
mươi ngay có thể đuổi được người Thanh.
 Biết trước kẻ thù lớn gấp mười nước mình, bị thua một trận “ắt lấy làm thẹn mà lo mưu bảo thù” khiến việc binh
đao không bao giờ dứt. Nguyễn Huệ còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng, để có thể dẹp việc binh đao.
d/ Tài giỏi trong việc dùng binh:
 Cuộc hành quân thần tốc khiến ai cũng kinh ngạc từ xưa đến nay: Ngày 25/12 bắt đầu xuất phát ở Phú Xuân
(Huế) ngày 29 đã đến Nghệ An, vượt núi băng đèo khoảng 350 km.
 Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vòng 1 ngày. Hôm sau, tiến quân ra
Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và đêm 30 tháng Chạp đã lập tức lên đường, tiến quân ra Thăng Long. Tất cả đều là
đi bộ.
 Hành quân xa như vậy, nhưng “cờ nào đội ấy vẫn chinh tề, từ quân đến tướng, hết thảy cả năm đạo quân đều
vâng mệnh lệnh, một lòng một chi quyết chiến quyết thắng. Đó là nhờ tài năng quân sự lỗi lạc ở người cầm quân”.
 Ông chỉ huy, tổ chức các trận đánh hợp lí, ít hao tổn binh lực mà đều giành chiến thắng vang dội
⇒ Là một vị vua tài ba, có tài cầm quân và mưu lược rất chính xác
e/ Sự thất bại của kẻ bán nước, cướp nước:
 Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung đầy nhục nhã của kẻ thù xâm lược:
+ Quân Thanh ở các thành đã không kịp trở tay, “rụng rời sợ hãi”, chống không nổi, “bỏ chạy toán loạn, giày xéo
lên nhau mà chết, thây chất đầy đồng, máu chảy thành suối”,… đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không
chảy được nữa.
+ Tướng Tôn Sĩ Nghị nhục nhã “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính
kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”...
 Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống:
+ Vua tôi Lê Chiêu Thống đớn hèn. Vì mưu lợi ích riêng của dòng họ, vua Lê Chiêu Thống đã “cõng rắn cắn gà
nhà, rước voi giày mả tổ” để khi quân Thanh tan rã, cả bọn vội vã chạy bán sống. bán chết, chịu đói, chịu nhục, chỉ
biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.
→ Là những kẻ tôi trung với nhà Lê nên trong cách miêu tả cảnh nhục nhã của vua Lê Chiêu Thống, các tác giả
vẫn thể hiện sự ngậm ngùi, thương cảm, nhưng quan điểm tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc đã giúp họ phản ánh
đúng diễn biến lịch sử, làm nổi bật hành động bán nước của Lê Chiêu Thống, cũng như tô đậm chiến công lấy lừng
của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn.
4. Nghệ thuật
 Cách trần thuật đặc sắc, lựa chọn trình tự kể theo diễn biến sự kiện lịch sử.
 Lời kể chân thật trên cơ sở tôn trọng lịch sử, giọng kể linh hoạt, ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp,
khẩn trương qua từng mốc thời gian.
 Miêu tả nhân vật sinh động qua hành động, lời nói cụ thể, khắc họa đậm nét vẻ đẹp, tính cách nhân vật.
– Một sự mâu thuẫn: Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê,nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục
ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ.
KB:
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả Hoàng lê nhất thống chí đã cho ta thấy một
cách sâu sắc hình ảnh oai phong lẫm liệt của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá
quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Vị anh hùng ấy
mãi là niềm tự hào của con người Việt Nam, là một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ học tập và noi theo.
Lưu ý: Bài này không dùng thơ.
3. Làng – Kim Lân – 1948:
MB:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người”
Đúng vậy! “Quê hương” là tiếng gọi thân thương, tha thiết vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi chúng ta sinh ra
và lớn lên. Có những con người khi xa quê hương thì lòng của họ vẫn luôn hướng về nơi đó với bao nỗi nhớ thương da
diết. Yêu cái nơi mình sinh ra cũng là cách thể hiện lòng yêu nước. Với vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với người nông
dân trước cách mạng thì truyện ngắn “Làng” của Kim Lân được viết năm 1948 là một minh chứng cho tình yêu đó.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Kim Lân (1920–2007), quê ở Bắc Ninh, được mệnh danh là nhà văn của đồng quê, của nông thôn Việt Nam.
Theo Nguyên Hồng, ông là nhà văn “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn”.
 Con gái nhà văn khi nói về cha mình có nói là “Sinh thời thầy tôi là người mang nhiều mặc cảm”. Mặc cảm ở
đây chính là do nhà văn là con của vợ ba. Sau khi gặp những khó khăn trong cuộc sống, bà chọn cách đi tha hương cầu
thực. Sau này, nhà văn đã có chia sẻ rằng “Tôi ở trong gia đình thì bị khinh rẻ, ngoài xã hội cũng bị coi thường vì tôi
là con vợ ba, một người ngụ cư. Chính vì muốn đòi sự công bằng với bè bạn, với làng xóm tôi chọn cách viết. Đây là
cách để chứng tỏ mình không thua kém gì anh em, không thua kém gì ai. Các anh con nhà giàu, là việc này việc kia,
được học đến nơi đến chốn, còn tôi thì tôi viết”. Đây chính là ý chí cao cả của nhà văn, và ý chí đấy đã truyền cho tất
cả nhưng nhân vật mà ông viết. Nhà văn là một người yếu thế trong xã hội, là người xuất thân rất là bình thường, thậm
chí tầm thường. Nên ông chỉ có thể viết, dựa vào chính năng lực của mình để tìm lại giá trị thật của bản thân.
 Bởi vì phần lớn cuộc đời của ông sống ở vùng quê Việt Nam, nên những tác phẩm của ông vẵn xoay quanh
những câu chuyện về nông thôn Việt Nam.
 Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí
Văn nghệ năm 1948.

2. Tóm tắt:
 Ông Hai Thu là người làng Chợ Dầu. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông Hai đã cùng vợ con lên tản
cư ở Bắc Ninh dù rất muốn ở lại làng chiến đấu. Ở nơi tản cư, lúc nào ông cũng nhớ làng, ông luôn khoe về làng mình.
Ở đây, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Nhưng rồi một hôm, ông nghe được câu
chuyện của một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng Dầu của ông theo giặc. Ông vô cùng đau khổ, xấu hổ, cúi gầm
mặt đi thẳng về nhà. Suốt ngày chẳng dám đi đâu, chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi.
Ông không biết bày tỏ với ai, không dám đi ra ngoài. Thế là ông đành nói chuyện với thằng con út cho vơi nỗi buồn,
cho nhẹ bớt những đau khổ tinh thần. Ông chớm có ý định về làng để xác minh sự thật nhưng lại tự mình phản đối vì
nghĩ về làng, làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ bởi làng ông đã theo Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông chủ tịch
dưới xã lên chơi cải chính tin làng ông theo giặc. Ông lão sung sướng mùa tay đi khoe khắp làng rằng nhà ông đã bị
đốt nhẵn. Ông thêm yêu và tự hào về cái làng của mình.

3. Phân tích:
a/ Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
 Ông Hai là người rất yêu làng và thể hiện tình yêu đó rất đặc biệt:
+ Làng Chợ Dầu là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông gắn bó bằng tình cảm máu thịt. Ông yêu làng, tự hào về
làng, kể chuyện về làng say mê, náo nức lạ thường: Ông khoe làng ông có cái làng thông tin tuyên truyền sáng sủa,
rộng rãi nhất vùng; chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh, đường làng lát đá xanh...
+ Từ ngày khởi nghĩa, ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập mà ông gia nhập từ hồi còn bóng tối. Ông kể
rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hào.
 Ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông hai hoà nhập với tình yêu nước:
+ Ông nhớ làng da diết, khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường: Hai con mắt ông sáng hắt lên.
Không cần biết người nghe có thích nghe hay không. Ông kể cho sướng cái miệng, cho đỡ nhớ cái làng của ông Ông.
+ Quan tâm tha thiết đến cuộc kháng chiến, đến các tin chiến thắng của quân ta và ruột gan ông lão cứ múa cả lên.
⇒ Kim Lân đã thể hiện một cách tự nhiên, chân thực tình cảm yêu làng của ông Hai. Trong hoàn cảnh cụ thể: xa làng
đi tản cư, tác giả đã để nhân vật bộc lộ nỗi nhớ, tình yêu, niềm tự hào, sự tin tưởng sâu sắc về làng Chợ Dầu. Với ông,
tình yêu làng là tình cảm thiêng liêng, thường trực trong lòng như nguồn sống tinh thần.

b/ Khi nghe tin làng Dầu theo giặc


 Khi nghe người đàn bà tản cư nói rằng làng ông theo giặc, ông sững sờ: Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân
rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được. Tin dữ quá đột ngột khiến ông sững sờ lẫn đau khổ, uất ức. Khi
trấn tĩnh được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng
định họ vừa ở dưới ấy lên, làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng dường như sụp đổ.
 Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh, day dứt. Nghe tiếng
chửi bọn Việt gian, ông nhục nhã củi gằm mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân, đau đớn,
xót xa khi nhìn đàn con, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng
bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục bán nước theo giặc, cả các con ông
cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
 Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài: Một
đảm đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như
người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Lúc nào ông cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông nào tụ
tập nhắc đến hai từ Việt gian, Cam nhông thì ông lại tự nhủ Thôi lại chuyện ấy rồi, ông lủi ra một mình, nín thít. Cảm
giác tủi hổ bủa vây lấy tâm trí.
 Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng và mâu thuẫn trong nội tâm khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết
đi đâu, về làng thi không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không
xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng khéo xua đuổi. Ông đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn: Đi đâu bây
giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian. Ông thoáng có ý nghĩ: Hay là trở về làng? Tuy nhiên, ông
đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ khảng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống
nô lệ.
 Ông Hai rơi vào cuộc xung đột nội tâm sâu sắc. Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện thì
lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn giữa tình yêu làng và yêu nước. Ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo cách
của ông: Làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây thì phải thù, tình yêu làng nước đã rộng lớn hơn bao trùm lên tình
cảm với làng.
 Nhưng dù xác định như thế, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại. Ông
chọn nói chuyện với cu Húc — đứa con út vì nó là đứa nhỏ nhất, ngây thơ, ông dễ nói chuyện và dễ bày tỏ. Ông Hai
hỏi con về nhà, thực chất là đang tự khẳng định tình yêu của mình với làng chợ Dầu. Lời ông hỏi con ủng hộ ai và câu
trả lời của con như nói hộ lòng ông, như cởi bỏ sự bế tắc trong ông. Ngôi làng ấy gắn bó với ông, ông yêu như máu
thịt. làm sao ông không đau đớn khi buộc phải lựa chọn. Ông thủ thỉ lòng mình: Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ
chính là ông đang tự minh oan cho mình, khẳng định lựa chọn đầy đau đớn nhưng cũng dứt khoát. Những suy nghĩ của
ông Hai đã cho thấy tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng trong ông thật sâu sắc, bền chặt và thiêng
liêng: Có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
⇒ Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai  một
người nông dân – với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến. Lòng yêu nước rộng lớn, bao trùm trên
lòng yêu làng, nó chỉ phối và thống nhất mọi tình cảm khác ở nhân vật ông Hai.

c/ Khi tin đồn được cải chính


 Ông vui mừng, sung sướng: Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Ông lại chạy đi khoe
khắp nơi: Tây nó đốt nhà tôi rồi bác a, đót nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu
chủng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả
 Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn. Hơn thế nó còn gắn với bao
kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó, ai mà không xót xa đau đớn? Nhưng ông Hai lại có cử
chỉ “Múa tay lên để khoe”, sung sướng đến tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ không bình thường nhưng khi đặt
ông Hai trong hoàn cảnh của làng  làng Dầu đang bị hai tiếng Việt gian theo Tây  thì sự bất bình thường ấy lại trở
nên rất bình thường và hợp lí. Ông Hai không vui sướng sao được vì nhà bị Tây đốt là bằng chứng hùng hồn rằng làng
Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp.
 Nhà mất rồi thì xây lại được, nhưng nếu niềm tin đã đổ vỡ, sự chân thành, yêu quý và niềm hi vọng đã bị dập tắt
rồi thì không có gì có thể nuôi lại được. Ở đây, mặc dù ngôi nhà đã bị đốt, nhưng niềm tin của ông Hai vẫn còn cháy
mãi, vẫn còn sáng rực. Vì vậy ông Hai vui lắm Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu
làng quê được mở rộng, hoà quyện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.
→ Ông Hai tiêu biểu cho người nông dân thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông cũng đại diện cho
những chuyển biến tư tưởng tích cực, tiến bộ của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu chống Pháp

4. Nghệ thuật:
 Truyện “Làng” được nhà văn Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ trần thuật, thống nhất với ngôn ngữ, quan điểm
nhân vật. Chính điều đó đã thể hiện rõ tâm trạng nhân vật ông Hai qua lối kể chuyện một cách tự nhiên gần gũi. Đặc
biệt nghệ thuật xây dựng truyện bất ngờ khi nghe tin làng theo Việt gian. Tình huống này đã đặt ông Hai vào tình thế
bế tắc, bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật.
KB:
(1) Tóm lại, “Làng” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc khai thác nhiều tình cảm bao trùm và phổ biến trong
con người thời kì kháng chiến, đặc biệt là đối với quê hương, đất nước. Tình yêu làng quê, tinh thần kháng chiến của
nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thật sự của nhân dân ta trong thời kì cách mạng. Truyện giúp chúng ta hiểu,
yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha và cao cả
đến thế. Chính vì vậy, thế hệ trẻ ngày nay cần phải sống đúng, sống đẹp, sống bằng tất cả sức sống tươi trẻ của mình
và cống hiến, góp phần xây dựng Tổ quốc để xứng đáng với công lao của ông cha ta ngày trước.
(2) Văn hào I-li-a Ê-ren-bua từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc”.
Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng chính là cội
nguồn của lòng yêu nước, là cơ sở cho những tình cảm lớn lao, cao đẹp. Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói
chung và trong đoạn truyện ông Hai nghe tin cải chính nói riêng, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động
tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã đem đến
cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình yêu quê hương, về đức hi sinh, về lòng yêu nước.
Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, sau bao lớp bụi mờ của thời gian, truyện ngắn “Làng” của nhà
văn Kim Lân vẫn luôn sáng mãi.

4. Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long – 1970:


MB: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà phải hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay”
Đó là câu hát nằm trong bài ca “Khát vọng tuổi trẻ”. Quả đúng như vậy, trong quá trình đổi mới và phát triển
của đất nước, không thể thiếu sự cống hiến của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nhà văn Nguyễn Thành Long với
“Lặng lẽ Sa Pa” đã khắc họa thành công những con người đang lao động miệt mài ngày đêm cống hiến cho đất nước ở
vùng Sa Pa lặng lẽ mà nhiệt huyết. Hình ảnh ấy đã luôn ngân vang trong lòng người đọc những rung động nhẹ nhàng
mà thú vị về những con người âm thầm lặng lẽ nhưng thật đáng yêu.

TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Nguyễn Thành Long (1925-1991) quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kháng chiến chống
Pháp, là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí.
 Truyện ngắn của ông nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình.
 Văn ông thường ánh lên vẻ đẹp của con người, có khả năng thanh lọc tâm hồn, gợi tình yêu cuộc sống.
– “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả chuyến công tác của Nguyễn Thành Long ở Lào Cai năm 1970, in trong tập “Giữa
trong xanh” (1972). Tác phẩm khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa những công việc thầm lặng.

2. Tóm tắt:
 Trên chuyến xe khách tử Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư trẻ tình cờ quen nhau. Xe tới
chân đỉnh Yên Sơn, bác lái xe dừng lại, giới thiệu với ông hoạ sĩ giả và cô kỹ sư trẻ một anh thanh niên làm công tác
khí tượng kiêm vật lí địa cầu, sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn. Ông họa sĩ, có kĩ sư đã gặp và trò chuyện với anh
thanh niên trong 30 phút ngắn ngủi. Anh thanh niên kể về công việc và cuộc sống của mình. Anh đã bộc lộ những suy
nghĩ đúng đắn về công việc và cuộc đời. Khi ông hoạ sĩ định vẽ anh, anh đã giới thiệu những người khác mà anh cho
là xứng đáng hơn như ông kỹ sư vườn rau, nhà nghiên cứu sét. Những con người tình cờ gặp nhau bỗng trở nên thân
thiết. Khi chia tay, ông họa sĩ hứa sẽ quay trở lại, có kĩ sư thấy xúc động, yên tâm hơn về quyết định lên Lào Cai công
tác. Anh đã tặng cô gái một bó hoa và tặng bác một làn trứng.

3. Phân tích:
a/ Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa:
 Thiên nhiên Sa Pa đẹp, trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Ngôn ngữ miêu tả cảnh của Nguyễn Thành Long trong
sáng, giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình, chất hội họa và cảm hứng lãng mạn, có nhiều hình ảnh đẹp, gây ấn tượng:
+ Những rặng đào với đường núi quanh co, uốn lượn; những cánh đồng cỏ trong thung lũng, những đàn bò lang cổ
có đeo chuông ... mang đặc trưng của thiên nhiên, cuộc sống muôn màu, muôn vẻ nơi đây.
+ Hình ảnh rừng cây đầu mùa bao bọc lấy nhau. Những cây thông, cây tử kinh đẹp nên thơ được miêu tả qua sự
liên tưởng, từ ngữ gợi hình gợi cảm: Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng bạc
dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng.
+ Nắng mang vẻ đẹp kì lạ khiến cảnh sắc thêm lộng lẫy: Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây; nắng đã
mạ bạc cả con mèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bỏ hoa càng thêm rực rỡ
và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo.
+ Mây cũng được miêu tả mang vẻ đẹp tươi mới: Mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng rồi mây bị
nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.
 Nhân hóa : mây, nắng → xua, cuộn, lần, luồn,… ⇒ sống động, ấn tượng, mới lạ, thơ mộng.
 Hình ảnh thiên nhiên Sa Pa mang vẻ đẹp thơ mộng, độc đáo, kỳ lạ qua cái nhìn của ông họa sĩ. Chỉ là những nét
phác hoạ nhưng cảnh thiên nhiên hiện lên đẹp như những bức tranh, nên thơ, độc đáo, lạ kì. Thiên nhiên đẹp đến hai
lần – cái đẹp tự nhiên của tạo hóa ban tặng cho Sa Pa và cái đẹp qua tâm hồn nghệ sĩ của người hoạ sĩ.
→ Thiên nhiên đẹp làm nền cho vẻ đẹp con người sống và làm việc ở Sa Pa lặng lẽ, yên bình. Cái hừng hực của nắng,
của gió gợi đến nhiệt huyết hừng hực cháy của con người lao động nơi đây. Thiên nhiên thơ mộng, trong sáng như tâm
hồn những con người ở Sa Pa trong sáng, mộng mở.

b/ Nhân vật anh thanh niên


 Anh thanh niên - nhân vật chính của truyện là một bức kí họa chân dung:
 Xuất hiện gián tiếp qua lời giới thiệu rất ấn tượng của bác lái xe: một trong những người cô độc nhất thế gian và
có đặc điểm thèm người và nếu họa sĩ đến gặp thì thế nào cũng thích vẽ.
 Sau đó, anh xuất hiện trực tiếp qua cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các nhân vật khác trong khoảng thời gian ngắn
ngủi 30 phút. Nhân vật anh thanh niên được người hoạ sĩ giả quan sát và muốn thể hiện bằng một bức chân dung.
 Cuộc sống tình cảm và suy nghĩ của anh chỉ được thể hiện qua lời kể của bác lái xe, qua sự quan sát của ông hoạ
sỹ, có kỹ sư và qua lời bộc bạch tâm sự của chính anh. Chỉ 30 phút nhưng cũng đủ để những người tiếp xúc kịp ghi
một ấn tượng  kịp để ông họa sĩ thực hiện bức kí họa chân dung, kịp để cô kỹ sư bàng hoàng và có những cái gì đó
như hàm ơn về anh.
Rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thuế của núi cao Sa Pa. Và mọi
người thẩm thía điều mà nhà văn muốn nói. Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa
mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyên nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo nghĩ như với cho đất nước
 Không đặt tên riêng mà chỉ gọi bằng “anh thanh niên” → tiêu biểu cho thế hệ trẻ, cho người lao động mới đang
ngày đêm âm thầm cống hiến cho nhân dân, cho Tổ quốc.
 Hoàn cảnh sống và làm việc:
 Anh 27 tuổi, một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm một mình giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa.
 Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Công việc của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính máy, do chấn
động mặt đất, dựa vào công việc báo trước thời tiết hàng ngày phun vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Công việc ấy đòi
hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao
 Nhiều gian khổ: “Gian khổ nhất là lần ghi và báo lúc một giờ sáng. Rét… có cả mưa tuyết… Nửa đêm… Chui ra
khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên
ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới”.
 Gian khổ nhất là sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người.
Sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn... là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn là
lứa tuổi sôi nổi. Cô đơn đến mức thèm người quá phải kiếm cớ dừng xe qua đường để được gặp người, trò chuyện.
 Vẻ đẹp của anh thanh niên:
(1) Anh thanh niên giàu lòng yêu nghề và có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao trong công việc của mình:
 Dù đối diện với cuộc sống người cô độc nhất thế gian trên đỉnh Yên Sơn vắng vẻ của núi rừng Sa Pa nhưng anh
không hề cảm thấy buồn chán, trễ nải trong công việc.
 Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát, thúc giục anh vẫn luôn tự giác, tận tụy. Chưa bao giờ
bỏ trễ một giờ “ốp” nào dù cho thời tiết có khắc nghiệt đến đâu. Ở vùng băng giá với tuyết đổ sương rơi, bất kì thiên
nhiên thế nào, đến đúng thời điểm ấy, anh vẫn phải thức giấc, xách đèn đi ốp, xách máy đi đo, không bỏ một ngày, âm
thầm và bền bỉ góp sức mình cho cuộc sống con người, cho cuộc chiến đấu của dân tộc.
 Anh rất yêu nghề nên chưa bao giờ cảm thấy một mình. Anh kể về nó một cách suy sưa và tự hào. Anh tâm sự rất
chân tình với ông họa sĩ và có kĩ sư: "Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được". Anh có suy
nghĩ rất đẹp, rất ý nghĩa về cuộc sống và công việc của mình. Nó thể hiện quan niệm tích cực của một người giàu lòng
yêu nghề → Công việc là người bạn đồng hành, làm việc là một niềm hạnh phúc nên chưa bao giờ anh thấy mình lẻ
loi, cô độc giữa cái mênh mông, lặng im của Sa Pa.
 Anh ý thức sâu sắc về ý nghĩa công việc thầm lặng của mình là có ích với mọi người, gắn liền với cuộc sống
chung của đất nước: Huống chỉ công việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu
gian khổ thế đây, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Nếu không có công việc thì mới là cuộc sống cô đơn thực sự.
 Anh say mê công việc và thành thực bày tỏ với ông họa sĩ: Cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Công việc với anh
là lẽ sống, là đam mê, là hạnh phúc: Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
 Anh hiểu còn bao người làm việc trong hoàn cảnh khó khăn, cô độc hơn, chẳng hạn như anh bạn ở đỉnh Hoàng
Liên Sơn cao 3142m.
⇒ Tinh thần trách nhiệm trở thành động lực đốt lên trong anh ngọn lửa đam mê công việc và nhiệt huyết tuổi trẻ.
 Anh nhấn mạnh niềm hạnh phúc khi biết được mình đã góp phần phát hiện kịp thời môt đám mây khô mà nhờ đó,
không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.
 Anh tự nhủ với mình: Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? → ý thức cao về mục đích, lý
tưởng sống và cống hiến thầm lặng của mình. Sống và làm việc không phải vì sự ích kỉ và mục đích cá nhân mà là
đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình để dựng xây quê hương, vị cuộc sống chung, vì đất nước, vì mọi người.
→ Chính tình yêu, ý thức trách nhiệm cao trong công việc và những suy nghĩ sâu sắc về mục đích, lý tưởng sống đã
đem lại cho anh thanh niên niềm vui sống và cống hiến để không bao giờ thấy đơn độc. Nó đã giúp anh vượt qua nỗi
thèm người, vượt qua những khó khan gian khổ đầy khắc nghiệt của hoàn cảnh sống và làm việc.
⇒ Anh thanh niên là một người giàu lòng yêu đời, yêu nghề, không ngừng sống và cống hiến cho công việc đẩy ý thức
trách nhiệm, tự giác và đam mê.
(2) Nỗi thèm người đáng yêu, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
 Anh thanh niên rất đáng yêu ở nỗi thêm người. Anh lăn thanh gỗ chặn xe giữa đường để gặp người. Chính anh đã
khẳng định với bác tài xế xe khách: Còn người thì ai mà chả thèm hả bác? Câu chuyện anh kể về bác lái xe đi, về Lai
Châu cứ đến đây dừng lại một lát và anh chạy xuống chơi, lâu thành lệ. Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy
đã cho thấy nỗi thèm người, khát khao được gặp gỡ mọi người, chuyện trò cho đỡ nhớ.
 Anh hiếu khách một cách nồng nhiệt. Ta cảm nhận được niềm vui hào hứng, hạnh phúc của anh khi đón những vị
khách lên thăm nhà mình. Anh trò chuyện cởi mở, hào hứng với ông họa sĩ và có kĩ sư về công việc, cuộc sống của
mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Anh hạ giọng, nữa tâm sự, nữa đọc lại một điều rõ ràng đã ngầm nghĩ với hai vị
khách. Cách nói chuyện gần gũi, những lời tâm sự chân thành cho thấy sự cởi mở, thân thiện, hòa nhã và mến khách
của anh. Anh đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu. Khi thời gian sắp hết, anh tiếc rẻ
Trời ơi chỉ còn năm phút cho thấy nỗi thêm người đáng yêu, sự chân thành nồng nhiệt của anh với mọi người.
 Anh quan tâm đến người khác một cách chu đảo.
+ Anh thân tình với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy.
+ Hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: Anh con trai, rất tự nhiên như với một
người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy , anh pha nước chè cho
ông họa sĩ.
+ Anh lưu luyến khách khi chia tay, xúc động đến nổi phải quay mặt đi và ấn vào tay ông hoạ sĩ giả cái làn trứng
làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ ốp.
(3) Anh thanh niên rất khiêm tốn, thành thật :
 Anh cảm thấy công việc và những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đảng, đóng góp của mình
chỉ là bình thường nhỏ bé, vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trưởng đánh giặc.
 Khi ông họa sĩ muốn kỉ họa một bức chân dung về anh, anh từ chối, e ngại và nhiệt tình giới thiệu những người
khác đáng vẽ hơn anh nhiều như ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét..
(4) Anh biết chủ động làm phong phú đời sống vật chất, tinh thần của mình, biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn
minh và thơ mộng
 Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho minh một cuộc sống ngăn nắp: một căn nhà ba
gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biển đổ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc sống riêng của anh thu gọn lại một góc trái
gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách.
 Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và
tinh thần.
 Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Sống một mình trên đỉnh núi
mây phủ cỏ cây bốn mùa, anh luôn có sách bầu bạn. Anh nói với cô kĩ sư: Và cô cũng thấy đấy, lúc nào tôi cũng có
người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Nhờ có sách làm bạn, anh không còn cảm giác cô độc. Nhờ có sách làm
bạn, đời sống tâm hồn anh trở nên phong phú hơn.
→ Nguyễn Thành Long muốn ca ngợi những con người có nhiều nét đẹp trong lí tưởng, tình cảm, cách sống và
cách nghĩ. Họ sống và cống hiển thầm lặng cho đất nước như những con ong ngày đêm lặng lẽ dâng mật cho đời.
c/ Các nhân vật khác:
 Ông hoạ sĩ:
 Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và những ý nghĩ của ông hoạ sĩ để trần thuật, để quan sát và miêu tả từ
cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm những suy nghĩ về con
người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
 Ông họa sĩ là một người nghệ sĩ chân chính, say mê tìm kiếm cái đẹp, trong hành trình lên Sa Pa lần này, bằng
đôi mắt tỉnh tưởng của mình, ông đã có cái nhìn mới mẻ, lạc quan về thế hệ trẻ.
 Ông là người từng trải, nồng hậu, biết trận trọng những giá trị tốt đẹp.
 Ông hoạ sĩ là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Ngay từ những lời giới thiệu của bác lái xe về anh thanh niên,
ông hoa sĩ đã xúc động mạnh. Sau đó ông lại ngạc nhiên khi thấy anh thanh niên đang hái hoa, cảm động và bị cuốn
hút trước sự cởi mở chân thành của anh. Rồi ông lại cảm giác mình bối rối khi nghe anh thanh niên kế về công việc.
 Bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông
biết mình đang xúc động và bởi rối vì đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi dù khẳng
định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới dù là giá trị một chuyến đi dài.
→ Những xúc cảm và suy tư của nhân vật ông họa sĩ về người thanh niên làm cho chân dung nhân vật chính thêm
sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng,
 Cô kĩ sư:
 Cô kĩ sư là người con gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng mối tình đầu nhạt nhẽo để lên công tác ở miền cao Tây
Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về những người khác đã khiến
cả bàng hoàng, cô hiểu thêm cuộc sống mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con
người như anh mà anh kể và về con đường cô đang đi tới?
→ Nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay thật nhạt nhẽo, cuộc sống của mình lâu nay thật tầm thường, thế giới của
mình lâu nay thật nhỏ bé biết bao. Anh thanh niên đã làm bừng dậy trong cô những tình cảm lớn lao, cao đẹp, hiểu
thêm về mục đích, lí tưởng sống,
 Cô có ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng. Không phải chỉ vì bó hoa anh thanh niên tặng mà vì một bó
hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh dành thêm cho cô. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên
trong tâm tư cô gái trẻ nhưng tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống mà cô nhận ra nhờ
nhân vật anh thanh niên.
 Bác lái xe:
 Xuất từ đầu truyện, nhưng cũng kịp thể hiện những nét đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc, suốt 30
năm trong nghề lái xe mà vẫn luôn giữ được tính cởi mở, niềm nở, có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm trước vẻ
đẹp của thiên nhiên và con người.
 Bác lái xe là cầu nối giữa anh thanh niên và cuộc đời: mua sách cho anh, dừng xe dưới chân đồi để anh trò
chuyện, giới thiệu những người bạn mới cho anh. Bác lái xe cũng là người dẫn dắt truyện, gợi sự tò mò của ông họa sĩ
và cô kĩ sư về anh thanh niên – người cô độc nhất thế gian, rất thèm người.
→ Cảm xúc, suy nghĩ và thái độ yêu mến của bác lái xe, có kĩ sư, ông họa sĩ khiến hình ảnh anh thanh niên hiện lên
càng rõ nét và đẹp hơn. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi từ nhiều đôi mắt nhìn khiến nó cũng khách
quan, chân thực và đẹp đẽ. Cũng từ các nhân vật trên, tư tưởng, chủ đề tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý
nghĩa.
 Các nhân vật phụ khác:
 Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnh Phan-xi-păng cao 3142 mét.
 Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lòng với công việc, kiên trì, bền bỉ, làm việc trong âm thầm, lặng lẽ ngày này sang
ngày khác, ngồi im trong vườn su hảo rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào.
 Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét luôn ở trong tư thế sẵn sàng suốt ngày, chờ sét nửa đêm mưa giá, rét buốt mặc,
cứ nghe sẽ là choáng choàng chạy ra.
 Ông bố anh thanh niên xung phong đi bộ đội.
→ Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên nhưng các nhân vật này
góp phân tố đậm vẻ đẹp của những con người sống và làm việc thầm lặng. Họ đã cống hiến tuổi trẻ, lòng nhiệt huyết
và tin yêu chân thành với công việc để chung sức dựng xây đất nước.
 Dẫn chứng:
+ “Một mùa xuân nho nhỏ ‖ Lặng lẽ dâng cho đời…” – Thanh Hải.
+ “Lao động là vinh quang” – Bác Hồ.
+ “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” – Tố Hữu.
4. Nghệ thuật:
Thành công lớn nhất trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” là xây dựng tình huống truyện. Tuy không gây cấn, cao trào và
có phần đơn giản nhưng chính tình huống là cuộc gặp gỡ của các nhân vật đã tô đậm vẻ đẹp của anh thanh niên qua
cách nhìn của các nhân vật khác. Truyện có cách kể tự nhiên theo mạch thời gian, diễn biến cuộc gặp tuy rất ngắn
nhưng người đọc có thể cảm nhận hết phẩm chất đáng quý của anh. Truyện có sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và bình
luận, chất trữ tình chủ yếu được toát ra từ tâm hồn,ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Đặc biệt, truyện mang tính chất triết
lý sâu sắc khi ông họa sĩ có cái nhìn tốt đẹp về anh thanh niên.
KB:
Trong cái “lặng lẽ” của Sa Pa, trên đỉnh Yên Sơn bốn mùa mây phủ, có những chàng trai trẻ như anh thanh niên
đáng sống và âm thầm dâng hiến tuổi xuân của mình cho hạnh phúc con người, cho Tổ quốc thân yêu. Đó là một mẫu
người lý tưởng tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật
trong sáng, đẹp đẽ. Vẻ đẹp tâm hồn và những suy nghĩ của nhân vật anh thanh niên trong truyện đã gieo vào lòng ta
niềm khâm phục, ngưỡng mộ và định hướng cho ta cách sống đẹp, thôi thúc ta khát khao được sống và làm những việc
có ích cho cuộc đời.

5. Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng – 1966:


MB:
Bom đạn chiến tranh đã khiến cho đất nước mang trên mình những vết thương, khiến cho bao gia đình tan nát vì
chia xa, những nỗi đau cứ thế mà chồng chất. Tuy nhiên, giữa bản nhạc buồn của chiến tranh, văn học vẫn mang đến
cho đời sống tình cảm của con người những cung bậc, những âm thanh da diết, tuyệt đẹp về tinh thần đoàn kết, về tình
đồng đội, đồng chí và cả tình cảm gia đình thiêng liêng bất diệt. Một trong những tác phẩm hay nhất viết về tình cảm
gia đình trong chiến tranh là “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm
nhận được tình cảm cha con sâu nặng giữa bé Thu và ông Sáu trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất. Và gây
xúc động với người đọc nhất có lẽ là đoạn truyện kể lại những sự việc diễn ra sau khi ông Sáu chia tay con trở lại
chiến trường.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Nguyễn Quang Sáng – sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
 Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau 1954, tập kết ra
miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mỹ ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và
tiếp tục sáng tác văn học.
 Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết
về cuộc sống và con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình.
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác: viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và đưa vào tập truyện cùng
tên.
 Nội dung: thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt của chiến tranh.
 Nghệ thuật: tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lý; thành công trong việc miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách
nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em (bé Thu).
 Ngôi kể: ngôi thứ nhất, của nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của ông Sáu.
+ Tạo sự chân thực, khách quan cho câu chuyện; mạch kể tự nhiên, chân thực và gần gũi.
+ Người kể dễ dàng bày tỏ thái độ, tình cảm, suy nghĩ của bản thân về câu chuyện; chủ động điều khiển nhịp
kể và dẫn dắt nội dung câu chuyện theo dòng cảm xúc của mình.
 Nhan đề: “Chiếc lược ngà” là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng, thể hiện
tư tưởng, chủ đề tác phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý nghĩa.
+ Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỷ vật, là tình cảm yêu mến nhớ thương của người cha chiến sĩ.
+ Với ông Sáu, chiếc lược ngà là một vật quý giá, thiêng liêng bởi nó chứa đựng tình yêu, nỗi nhớ thương của
ông đối với đứa con gái và làm dịu đi nỗi day dứt, ân hận vì đã đánh con khi nóng giân…
+ Với bác Ba, chiếc lược là sự ủy thác thiêng liêng của người đồng đội
→ Cầu nối tình cảm giữa các nhân vật.
→ Thấm thía những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.
 Tình huống truyện: 2 tình huống:
+ Tình huống thứ nhất: hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận
cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi → con với cha.
+ Tình huống thứ hai: ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm
cây lược ngà để tặng con, nhưng ông Sáu đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái → cha với con.
2. Tóm tắt:
 Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến khi Thu còn trong bụng mẹ. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về
thăm nhà gặp con. Bé Thu vì vết thẹo trên mặt làm ông không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết nên em
bướng bỉnh không nhận cha. Thu lạnh lùng, tránh xa khi ông Sáu quan tâm, lại gần. Khi Thu hiểu chuyện, nhận cha,
tình cha con trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Hai cha con ôm lấy nhau chia tay trong xúc động. Ở
khu căn cứ, ông Sáu đã dồn hết tình cảm yêu thương và nỗi nhớ con vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con gái.
Trong một trận càn, ông đã hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược ngà nhờ người bạn mang về trao
cho con gái của mình.
3. Phân tích
a/ Nhân vật bé Thu:
Thu trong câu chuyện, cũng như bao đứa trẻ khác của đất nước ta trong thời kì kháng chiến, thiếu đi tình yêu
thương, sự chăm sóc của người thân. Khi ông Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau
qua hai tấm ảnh. Sau ngần ấy năm, em mới được gặp ba trong có ba ngày. Nhưng vì vết sẹo trên má ba mà em không
nhận, đến lúc chia tay em mới chịu gọi một tiếng “ba”, đâu ngờ đó cũng là giây phút đoàn tụ đầu tiên, duy nhất, cuối
cùng của cha con em. Chính chiến tranh đã gây nên cảnh ngộ éo le và sự thiệt thòi mất mát đau thương này ở cuộc đời
một đứa trẻ.
Nhân vật cô bé mới có tám tuổi nhưng cô đã bướng bỉnh, gan góc và rất có cá tính. Thu hét lên sợ hãi khi ông Sáu
lập cập đến với nó và lắp bắp gọi: “Thu! Ba đây con...”. Nhưng đáp lại, con bé tái mặt, vụt chạy và kêu thét lên “Má!
Má”. Nó nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà thừa nhận điều đó. Nó tỏ ra ngờ vực, lảng tránh, lạnh
nhạt với người mà thực ra nó luôn mong ngóng bấy lâu nay. Đơn giản một điều là vì tình cảm của nó dành cho ba sâu
sắc chân thực đến rạch ròi, dứt khoát. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó
biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới, chứ không dễ gì chấp nhận tình cảm của người nó cho là không phải ba
mình.
Khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm”, Thu gọi “trổng” “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không tự chắt được con bé nhất
quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Nó tìm mọi cách chắt nước không cần nhờ vả. Đỉnh cao của tính cách rắn
rỏi, ngang bướng của bé là khi ba Sáu gắp miếng trứng cá cho bé nhưng cô bé lại hất tay ông ra khiến miếng trứng cá
rơi xuống đất. Bị ba đánh, tưởng đâu con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giãy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi.
Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ
đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ của bé Thu đã trở thành tiền đề để sau này trở thành
lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu.
Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do quân Mỹ gây nên, tình yêu, nỗi mong nhớ
người cha xa cách bị dồn nén bấy, nay bùng lên mạnh mẽ. Khi ông Sáu quay lại nhìn nó nói: “Ba đi nghe con” thì nó
bất ngờ lao đến thét lên từ đáy lòng: “Ba, a... a...ba!” Rồi ôm chặt lấy ông nức nở. Vì quá yêu ba, quá khao khát được
có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó nhất định không gọi “ba” lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như
xé, “xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người” kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên
quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha. Cô bé “chạy xô tới”, “chạy thót
lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba”. Lần cuối bé Thu được ôm cha, nó mếu máo và dặn cha trong tiếng nấc : “Ba
về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”. Cây lược ngà! Phải mười năm sau khi Thu đã trở thành cô giao liên kiên
cường mới được nhận, lúc đó người cha thân yêu cũng không còn nữa.
Chính cái sẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Cái sẹo là
vết thương mà giặc Mỹ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia
đình người Việt cũng là do giặc Mỹ gây ra. Thấu hiểu sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng
cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn bởi cốt truyện đơn giản những chi tiết được sắp xếp hợp lí mà người đọc còn bị rung
động với những suy nghĩ, trăn trở của nhân vật. Nhà văn không nhiều lời, chỉ qua một vài chi tiết, đủ cho người đọc
xúc động trước nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật bé Thu. Cứng cỏi, ương ngạnh, yêu – ghét đều thống nhất và hồn
nhiên trong tâm trạng một đứa trẻ ngây thơ, chứng tỏ nhà văn rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả thật sinh động diễn
biến tâm lí với cả tấm lòng yêu thương và trân trọng.
Nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng có một cuộc đời éo le và vẻ đẹp trong tâm hồn,
tính cách tiêu biểu cho thiếu nhi miền Nam thời chống Mỹ cứu nước. Em đã gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc:
vừa xót thương vừa trân trọng, cảm thông và gợi lên một câu hỏi lớn cho thế hệ trẻ đang hưởng cuộc sống thanh bình,
hạnh phúc hôm nay phải suy ngẫm.
b/ Nhân vật anh Sáu:
Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia hai cuộc kháng chiến. Sau tám chín năm xa cách
ông mới có dịp về thăm con, nhưng xót xa thay, con gái không nhận cha chỉ vì vết thẹo trên má. Mãi đến lúc chia tay,
ông mới được nghe tiếng gọi “ba” và đón nhận được tình cảm của con. Không ngờ đó lại là giây phút cuối ông được
hưởng niềm hạnh phúc được ở bên con. Ông cũng như con gái đã phải chịu đựng bao nỗi đau thương mất mát, thiệt
thòi do kẻ thủ gây nên. Vượt lên tình cảnh éo le này, những phẩm cách cao đẹp trong ông càng được toả sáng, đặc biệt
là tình phụ tử thiêng liêng.
Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà độc giả cảm nhận được trước hết là vẻ đẹp của người lính Cách mạng. Ông cũng
như bao người lính khác đã chấp nhận hi sinh hạnh phúc gia đình, hi sinh bản thân vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, vì
mái ấm của bao gia đình khác. Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những người thân thương nhất: con thơ, vợ trẻ mà
lên đường làm Cách mạng. Khi ông ra đi, bé Thu, con gái đầu lòng, cũng là đứa con duy nhất của ông chưa đầy một
tuổi. Vậy mà, đằng đẵng suốt những năm kháng chiến, ông không được một lần về thăm con, dù nhớ gia đình, nhớ con
cháy bỏng, bởi với những người lính “đâu có giặc là ta phải đi”. Họ đã gác tình riêng, vì nghĩa lớn để rồi ngày kháng
chiến thắng lợi, ông được về thăm nhà, thăm con. Khi hết ba ngày phép, vì phải chấp hành nhiệm vụ, ông gạt đi niềm
khao khát nán lại để tận hưởng tình cảm cha con mà ông vừa mới nhận được sau bao mong mỏi, để chia tay con gái.
Trong những năm tháng ở chiến trường, ông đã chiến đấu dũng cảm và rồi hi sinh anh dũng. Trong sự nghiệp to lớn
của Tổ quốc, có phần xương máu mà ông Sáu đóng góp.
Tình cảm ông dành cho con được thể hiện rõ trong ba ngày về thăm nhà, đến khi trở về căn cứ thì tình cảm này
càng được thể hiện da diết hơn. Khi thấy con, không chờ xuồng cặp bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên”. Cái tiếng
gọi ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bât ra thật cảm động, nghẹn ngào: “Thu! Con”. Ngược lại với điều ông mong
muốn, bé Thu lại sợ hãi bỏ chạy, không chịu nhận ông là ba. Anh đứng sững lại đó, hai tay buông thõng như bị gãy.
Khao khát được ôm con vào lòng cho thỏa nhớ mong lại làm anh hụt hẫng, đau đớn khi đối diện với thái độ sợ hãi, bỏ
chạy của con.
Trong ba ngày nghỉ phép, ông Sáu chẳng đi đâu xa, chỉ muốn quanh quẩn gần gũi đứa con nhỏ bé của mình, mong
mỏi tiếng gọi “ba” của con. Song, ông càng xích lại gần, nó càng lùi xa. Khi mẹ bảo Thu kêu ba vào ăn cơm thì nó chỉ
chạy ra ngoài và nói cộc lốc, “Vô ăn cơm” “Cơm chín rồi”. Những lúc như vậy, ông Sáu bằng lòng bao dung của một
người cha, ông kiên nhẫn “ngồi im”, “giả vờ không nghe”, chỉ cười cười và khẽ gật đầu. Khi bé Thu hất văng tung tóe
trứng cá ông gắp cho, sự buồn bả trong lòng ông trở thành sự giận dữ, ông giơ tay lên đánh con. Tất cả những cảm xúc
dâng trào ấy của ông Sáu cũng đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương con, khao khát con gọi một tiếng “ba”.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi chia tay gia đình để trở lại chiến khu, ông Sáu muốn ôm con nhưng “sợ nó giẫy lên
lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”... Khi con đã hiểu được nguyên nhân của vết
sẹo, bé Thu cất tiếng gọi “ba” vỡ òa. Ông “xúc động đến rơi nước mắt”, ông Sáu “một tay ôm con, một tay rút khăn
lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Ông xúc động mãnh liệt, hạnh phúc vô bờ khi được ôm con vào lòng
nhưng rồi phải phải chia tay con để lên đường với lời hứa sẽ làm chiếc lược ngà cho con.
Tình cảm của ông Sáu với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ở khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận vì
đánh con, lời dặn dò của đứa con gái mà ông khắc ghi trong dạ đã thôi thúc ông tự tay làm chiếc lược ngà cho đứa con
gái bé bỏng. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, ông hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với
người bạn. Mặt ông hớn hở như một đứa trẻ được quà. Tình yêu con, nỗi nhớ con dường như biến con người ta thành
một đứa trẻ trong dáng điệu hớt hải với khuôn mặt hớn hở. Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ
công như người thợ bạc. Ông tỉ mỉ khắc lên đó dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, dòng chữ nhỏ mà chứa chan
tình cảm lớn lao. Chiếc lược ngà xinh xắn không chỉ được làm bằng đôi tay khéo léo mà còn làm bằng tình yêu thương
vô bờ bến, tấm lòng chăm chút của một người cha dành cho con. Trong phút chốc, người chiến sĩ như bỗng hóa thành
nghệ nhân đang thăng hoa biết bao cảm xúc và tình yêu để tạo ra một sản phẩm nghệ thuật. Chiếc lược ngà trở thành
vật kết nối tình cha con mộc mạc, đằm thắm mà hết sức sâu sắc, phần nào làm dịu đi nỗi ân hận vì đã đánh con, nỗi
nhớ con da diết trong ông. Do đó, những lúc rảnh rỗi, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho thêm bóng,
thêm mượt... Tâm tình của người cha như lắng đọng trong giây phút ấy.
Éo le thay, ông Sáu đã ngã xuống khi chưa được gặp lại con. Bị thương nặng, cận kề cái chết, ông chẳng kịp nói
được thành lời nhưng qua cử chỉ đưa tay vào túi, móc cây lược, qua ánh mắt đã bộc lộ ước nguyện tỏa sáng ấm nồng
tấm lòng của người cha dành cho con. Chiến tranh đã chia cắt vĩnh viễn giây phút gặp lại của hai cha con ông Sáu. Thế
nhưng, chiến tranh đau thương và tàn khốc có thể lấy đi sự sống của ông mà không thể nào giết chết tình phụ tử. Tình
cảm thiêng liêng, cao đẹp của ông dành cho con mãi mãi bất diệt.
Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó, ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã
phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương
Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt, tác giả đã lựa chọn tinh tế ngôi kể  ngôi thứ nhất đặt vào
nhân vật Bác Ba nhằm tái hiện câu chuyện một cách chân thật và khách quan. Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của
người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.
Nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng để lại trong lòng người đọc một
cách nhìn sâu sắc hơn về con người Việt Nam trong chiến tranh: càng đau thương chồng chất, họ càng kiên cường và
nồng nàn tình cảm. Khiến độc giả nhớ đến tình cảm của những người thân yêu trong gia đình để ta biết yêu, biết trân
trọng hơn hạnh phúc thiêng liêng mà mình đang có được.
4. Đặc điểm nghệ thuật:
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được xây dựng bởi các tình tiết làm cho người đọc bất ngờ nhưng hợp lí. Hình ảnh
chiếc lược ngà cũng chính là nhan đề của văn bản là một điểm nhấn cho giai điệu về tình cha con trong chiến tranh.
Người kể ở đây là nhân vật bác Ba – một người bạn thân thiết với ông Sáu. Cách chọn vai kể này có tác dụng biểu
hiện cảm xúc khách quan và đan xét những lời nhận xét, bình luận một cách sâu sắc. Chính vai kể này đã góp phần
thành công truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Ngôn ngữ kể chuyện có cả ba yếu tố: Tự sự, miêu tả, biểu cảm. Cho nên
truyện không chỉ hấp dẫn ở chi tiết, cốt truyện mà khiến cho người rung động bởi diễn biến câu chuyện. Đặc biệt, nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo, chứng tỏ tác giả am hiểu, quan sát tâm lí trẻ em.
KB:
Tác phẩm “Chiếc lược ngà” đã kể cho chúng ta câu chuyện vô cùng cảm động về tình phụ tử thiêng liêng trong
thời chiến. Đoạn trích đã diễn tả thật thiêng liêng và cảm động tình cha con thắm thiết giữa hoàn cảnh đạn bom khốc
liệt của cuộc chiến tranh chống Mĩ. Thấm thía về những đau thương, mất mát của chiến tranh, ta càng trân trọng thêm
sức sống bất diệt của tình cha con sâu nặng. Đây có thể xem là những áng văn đẹp đã miêu tả đến tận cùng sâu thẳm
trái tim yêu thương của người cha dành cho con, thể hiện tấm lòng đồng cảm của nhà văn. Vẻ đẹp của tình người, tình
đời ấy như nhắc nhở chúng ta phải biết quý trọng, thương yêu những người thân trong cuộc sống hòa bình mà ta may
mắn có được ngày hôm nay.

6. Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê – 1971:


MB:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
(Theo Chân Bác – Tố Hữu)
Đó là tinh thần của cả thời đại chống Mĩ. Hình ảnh những anh bộ đội, những cô thanh niên xung phong của một
đời tuổi trẻ nhiệt huyết trên tuyến đường Trường Sơn đã đi vào văn chương và trở thành nguồn cảm hừng cho văn học
một thời. Nhà văn Lê Minh Khuê là cây bút nữ thành công vang dội với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” được ra
đời năm 1971 trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Tác phẩm kể về những cô gái thanh niên
xung phong phá bom và mở đường trên tuyến đường Trường Sơn. Họ vừa mang vẻ đẹp của những cô gái tuổi mười
tám, đôi mơi hồn nhiên giàu mộng mơ, lại vừa mang vẻ đẹp của người lính giữa chiến trường, gan dạ, dũng cảm
không sợ hi sinh.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
 Lê Minh Khuê là một trong những cây bút nữ trưởng thành trong thời chống Mỹ và trực tiếp tham gia chiến đấu
trên đường mòn Trường Sơn, bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70 viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến
đường Trường Sơn.
 Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần
đổi mới.
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác: là một trong những tác phẩm đầu tay của nhà văn Lê Minh Khuê, viết năm 1971, lúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra ác liệt.
 Nội dung: Truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh
thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ.
 Nghệ thuật:
o Truyện kể theo ngôi thứ nhất theo điểm nhìn của nhân vật Phương Định:
+ Tạo một điểm nhìn phù hợp dễ dàng tái hiện hiện thực khốc liệt của chiến tranh, làm cho cách kể chuyện trở
nên tự nhiên, sinh động, tạo được sự tin cậy nơi bạn đọc.
+ Khắc họa thế giới tâm hồn, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật một cách chân thực giàu sức thuyết phục. + Làm
hiện lên vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam trong chiến tranh.
o Cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ sinh động, trẻ trung cũng đã góp phần không nhỏ trong việc khắc hoạ
thành công vẻ đẹp của nhân vật.
o Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện – một cô gái thanh niên xung phong trẻ trung người Hà
Nội – tạo cho tác phẩm có giọng điệu và ngôn ngữ tự nhiên, gần với khẩu ngữ, trẻ trung và có chất nữ tính.
o Lời kể rất linh hoạt. Có khi dùng những câu văn ngắn, câu tỉnh lược, câu đặc biệt, nhịp nhanh tạo sự nhịp
nhàng phù hợp với không khí căng thẳng, khẩn trương nơi chiến trường. Những đoạn hồi tưởng nhịp kể chậm rãi, gợi
những kỷ niệm của tuổi niên thiếu hồn nhiên, vô tư và không khí thanh bình trước chiến tranh.
 Nhan đề:
+ Tạo bởi một cụm danh từ “những ngôi sao” – những vì tinh tú sáng lấp lánh trên bầu trời đêm và tính từ “xa xôi”
– một vị trí rất xa trong tầm mắt gợi cho ta hình dung tới những vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm với vẻ đẹp lung linh,
huyền diệu.
+ Nhưng không dừng lại ở đó, nhan đề bài thơ còn là một hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ và mang tính biểu
tượng. Đó là biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của phẩm chất cách mạng trong những cô gái thanh niên xung phong
nơi Trường Sơn khói lửa.
+ Qua đó tác giả ca ngợi thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng thời đại chống Mĩ , họ sẽ mãi là những ngôi sao xa xôi lung
linh, tỏa sáng trên bầu trời đất nước Việt Nam yêu dấu, lặng lẽ, khiêm nhường nhưng bền bỉ, bất diệt.
+ Nhan đề đã thể hiện chủ đề tác phẩm.
2. Tóm tắt:
 “Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổ trinh sát mặt đường –
Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang, trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường
Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần để
san lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối
mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh
thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương,
hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương
Định bao khát khao, hoài niệm.
3. Phân tích:
a/ Hoàn cảnh sốngvà chiến đấu của các nữ thanh niên xung phong:
 Ba cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi
tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt. Từng ngày từng giờ phải đối mặt với cái chết rình rập.
 Không gian thiên nhiên bị tàn phá, mênh mông khói bụi, không có màu xanh của sự sống: Đường bị đánh lở loét,
màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây
nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất.
 Công việc của các cô rất nguy hiểm: Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình giữa vùng trọng điểm
đánh phá của máy bay địch để khi có bom nổ thì đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì
phá bom, cái chết có thể tìm đến bất cứ lúc nào.
 Mỗi ngày họ phải đếm bom, phá bom ba đến năm lần, phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi
hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.
→ Hoàn cảnh và chiến đấu gian khổ, đặc biệt hiểm nguy đó chính là hoàn cảnh để bộc lộ đầy đủ vẻ đẹp của các nữ
thanh niên xung phong.
b/ Vẻ đẹp của các nữ thanh niên xung phong:
(1) Nét chung:
 Lòng yêu nước:
 Họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi đời mười tám đôi mươi. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời
xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi
thanh xuân và không tiếc máu xương, thực hiện lí tưởng cao đẹp:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
 Dũng cảm, gan dạ:
 Họ là những cô gái có trách nhiệm với công việc, lòng dũng cảm, gan dạ không sợ gian khổ hi sinh:
+ Mặc dù còn rất trẻ, luôn phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ, họ có thể hi sinh bất cứ lúc nào, nhưng để con đường
được thông suốt nên các cô luôn sẵn sàng làm việc với tinh thần trách nhiệm cao.
+ Hễ có lệnh là các cô lên đường làm ngay bất kể trong tình huống nguy hiểm nào với tinh thần gan góc, dũng cảm,
không hề ngại khó ngại khổ.
+ Các cô làm việc một cách tự nguyện, luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về mình: “Tôi một quả bom trên đồi. Nho
hai quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dưới cái chân hầm ba – ri – e cũ”.
+ Đối mặt với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt không cụ thể” quan trọng
nhất là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không” → họ đã đặt công việc lên trên cả tính mạng của mình → tinh thần trách
nhiệm cao trong công việc.
 Họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng cảm.
+ Những lúc căng thẳng nhất, chị Thao móc cái bánh bích quy trong túi ra nhai.
+ Họ nói đến công việc phá bom với giọng điệu bình thản: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm
lần. Ngày nào ít: ba lần”.
+ Khi phá bom, bước tới những quả bom chưa nổ, họ không đi khom mà cứ đường hoàng, thẳng lưng bước tới.
Đối mặt với cái chết, các cô không hề run sợ mà bình tĩnh moi đất, đặt dây, châm lửa, tính toán sao cho chính xác.
→ Hiện thực gian khổ, hi sinh đó lại chính là hoàn cảnh để các cô tỏa sáng lòng quả cảm, tinh thần trách nhiệm cao
với công việc.
 Tình đồng chí, đồng đội:
 Giữa các cô gái có tình đồng đội gắn bó, thân thiết, yêu thương nhau như chị em ruột thịt:
+ Các cô hiểu được tính tình, sở thích của nhau, quan tâm chăm sóc nhau rất chu đáo.
+ Phương Định bồn chồn, lo lắng khi chờ chị Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm.
+ Khi Nho bị thương, Phương Định và chị Thao đã lo lắng, băng bó chăm sóc Nho cẩn thận với niềm xót xa như
chị em ruột thịt và cảm thấy “đau hơn người bị thương”.
 Lạc quan, yêu đời:
 Cuộc sống chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, hiểm nguy nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời. Họ có cuộc
sống nội tâm phong phú, đáng yêu, nhiều mơ ước.
 Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt: Nho thích thêu thùa, chị
Thao chăm chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mộng mơ và hát…
 Họ hồn nhiên như những đứa trẻ trước cơn mưa đá. Và trận mưa đã trở thành nỗi nhớ  sự nối dài quá khứ hôm
qua và khát vọng mai sau. Kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong tâm hồn, những cảm xúc hồn nhiên như
nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững vàng, thêm sức mạnh vượt qua những khó khăn, nguy hiểm.
→ Cuộc sống và chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, nguy hiểm và luôn căng thẳng nhưng họ vẫn luôn lạc quan
yêu đời, vẫn vang lên tiếng hát của ba cô gái giữa những chiến trường bom đạn.
(2) Nét riêng:
 Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng, cô cái cổ tròn và những cúc áo
nhỏ nhắn rất dễ thương khiến Phương Định muốn bế nó trên tay. Nho hồn nhiên như trẻ thơ: vừa tắm dưới suối lên, cứ
quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo; khi bị thương nằm trong hang vẫn nhổm dậy, xòe tay xin mấy viên đá mưa nhưng
trong chiến đấu thì rất dũng cảm, hành động nhanh gọn: Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi, quay lưng lại chúng
tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu... Trong một lần phá bom, cô đã bị sập hầm, đất phủ kín lên người. Mặc dù bị thương rất
đau nhưng cô không rên la, không muốn cho đồng đội phải lo lắng.
 Chị Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn, nhưng cũng
không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu”. Chị lại hay tỉa đôi
lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Chị sợ máu, sợ vắt: “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”. Và
không ai có thể quên được chị hát: nhạc sai bét, giọng thì chua, chị chăm chép bài hát dù chẳng thuộc nhạc và thậm chí
chép cả những lời Phương Định tự bịa ra, chị không hát trôi chảy được bài nào nhưng chị lại có ba quyển sổ dày chép
bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài hát. Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo. Đặc biệt
là sự “bình tĩnh đến phát bực”: máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc bánh quy trong túi, thong thả nhai”.
 Phương Định cũng trẻ trung như Nho, là một cô học sinh thành phố, nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng và
hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư về gia đình và về thành phố của mình. Định thích hát, cứ thuộc
một điệu nhạc nào là bịa ra lời mà hát, thích ngắm mình trong gương, thích ngồi bó gối mơ màng. Vào nơi chiến
trường khói lửa, tuy gian khổ nhưng Định vẫn giữ được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng
yêu.
→ Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở các cô đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, tiểu biểu
cho vẻ đẹp tuổi trẻ Việt Nam những năm chống Mĩ.
→ Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể, chân
thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào trang sách, trở
thành những anh hùng – những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.
b/ Nhân vật Phương Định:
 Phương Định là cô gái có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, mơ mộng, tâm hồn bình dị, trẻ trung:
 Phương Định là một cô gái trẻ người Hà Nội vào chiến trường tham gia đội thanh niên xung phong. Cô cùng hai
đồng đội là chị Thao và Nho làm thành tổ trinh sát mặt đường. Phương Định là một cô gái đẹp như cô tự tin đánh giá:
“Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao
kiêu hãnh như đài hoa loa kèn, còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo : “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm ”. Đó là một vẻ đẹp
rất nữ tính, ẩn chứa chiều sâu tâm hồn với nét ngạo nghễ vượt lên bom đạn tàn khốc.
 Phương Định cũng mang những nét chung của những cô gái mới lớn, nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức
của mình. Cô biết mình được nhiều người biết đến nhất là những anh lính để ý và có thiện cảm. Cô thấy vui và tự hào
với điều đó nhưng cô chưa dành tình cảm cho một ai, nhạy cảm nhưng không hay biểu lộ tình cảm của mình, thường
tỏ ra kín đáo giữa đám đông tưởng như là kiêu kì.
 Vào chiến trường đã ba năm, quen với những thử thách và nguy hiểm rình rập, hàng ngày giáp mặt với cái chết
nhưng ở cô không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và lạc quan, những mơ ước dự định về tương lai. Cô hay mơ
mộng và thích hát : “Tôi mê hát, thường cứ thuộc một điệu nhạc nào là tôi bịa ra lời mà hát”, thích ngồi bó gối mơ
màng. Cô hát ngay cả khi bom rơi, đạn nổ, trong tiếng hát của cô có ý thức về lí tưởng, có khát khao về quê hương, về
tình yêu tuổi trẻ và cả khát vọng trở về cuộc sống thanh bình.
 Ở người con gái này, ta còn bắt gặp một nét cá tính rất đáng yêu nữa đó là tâm hồn nhạy cảm và hết sức hồn
nhiên. Chỉ một cơn mưa thoáng qua cũng đánh thức nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ quê hương, gia đình. Sau niềm vui thích
cuống cuồng của tâm hồn con trẻ là nỗi nhớ da diết, khôn nguôi, bao nhiêu nỗi nhớ lại ùa về trong tâm trí Phương
Định.
 Phương Định là cô gái có lòng quả cảm, không sợ hi sinh:
 Phương Định là một cô gái dũng cảm, gan dạ và có tinh thần trách nhiệm cao với công việc cho dù phải luôn
đối diện với cái chết. Cũng như những người đồng đội của mình, cô phải phá bom thường xuyên, ngày nhiều năm
lần, ngày nào ít ba lần. Tuy công việc đã quen nhưng mỗi lần phá bom vẫn là một thử thách với thần kinh cho đến
từng cảm giác. Tác giả đã miêu tả cụ thể và tinh tế diễn biến tâm lí Phương Định trong một lần phá bom:
+ Khi tiến đến quả bom, Phương Định cũng run sợ, nhưng khi biết có các anh lính cao xạ đang dõi theo mình,
cô không đi khom mà đàng hoàng bước tới → lòng dũng cảm đã được kích thích bởi lòng tự trọng.
+ Khi gần bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của Phương Định trở nên sắc nhọn
hơn: ”Thỉnh thoảng, lưỡi xẻng chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng
mình”. Đây là phản ứng bản năng của cơ thể trước sự sống và cái chết kề nhau trong gang tấc. Trong hoàn cảnh đó,
Phương Định đã vượt lên chính mình, cô thấy tại sao mình làm quá chậm “Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom nóng. Một
dấu hiệu chẳng lành”.
+ Tiếp đó là những giây phút căng thẳng chờ đợi tiếng nổ quả bom. Tác giả đã miêu tả rất chân thực tâm trạng
Phương Định lúc này. Cô có nghĩ đến cái chết nhưng là cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Điều quan trọng khiến chúng
ta cảm phục Phương Định là những lo nghĩ của cô “Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào châm
mòn lần thứ hai?” Đó là ý thức trách nhiệm rất cao trong công việc. Đó là lòng dũng cảm vô song khi đối diện với cái
chết.
 Tình đồng đội, đồng chí thắm thiết:
 Trong chiến trường đầy gian khổ, hi sinh, các chiến sĩ đã gắn bó với nhau trong tình đồng đội thắm thiết,
Phương Định rất yêu quý những người đồng đội của mình. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả
những chiến sĩ mà cô gặp hàng đêm trên con đường trọng điểm mặt trận. Với cô, những người đẹp nhất, thông minh,
can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.
 Mỗi lần đồng đội đi làm nhiệm vụ ngoài cao điểm, mình cô ngồi lại trực điện thoại là mỗi lần cô lo lắng , căng
thẳng cho đồng đội của mình. Với cô, những gì đã qua, những gì sắp tới không đáng kể nữa nếu các bạn cô không
quay về.
 Khi đại đội trưởng hỏi tình hình, cô vô cớ gắt vào máy bởi cô đang lo lắng cho đồng đội, sự lo lắng khiến cô
không làm chủ được mình. Nhưng rồi, khi nghe thấy tiếng súng cao xạ vang lên dồn dập, cô vui thích muốn la toáng
lên vì đồng đội của cô đã có sự yểm trợ.
 Khi Nho bị thương, Phương Định hết sức lo lắng, cô chăm sóc cho Nho như chị em ruột thịt. Cô bế Nho lên, rửa
vết thương cho Nho, tiêm thuốc rồi pha sữa cho Nho uống. Cô căng thẳng đến mức không hát được mặc dù được chị
Thao đề nghị. Tất cả điều đó đều là tình cảm của Phương Định dành cho đồng đội của mình.
→ Qua dòng suy tư của Phương Định, người đọc không chỉ thấy sự toả sáng của phẩm chất anh hùng mà còn hình
dung được thế giới nội tâm phong phú ở cô. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tôi luyện tâm hồn vốn nhạy cảm yếu đuối
thành bản lĩnh kiên cường của người anh hùng cách mạng. Phương Định (cũng như Nho và Thao) là hình ảnh tiêu biểu
cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước.
→ Qua nhân vật Phương Định và các cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã có cái nhìn thật đẹp, thật lãng mạn
về cuộc sống chiến tranh, về con người trong chiến tranh. Chiến tranh là đau thương mất mát song chiến tranh không
thể hủy diệt được vẻ đẹp tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ, của con người. Chính từ những nơi gian lao, quyết liệt ta
lại thấy ngời sáng vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam.
→ Ba cô thanh niên xung phong trong những trang văn xuôi trữ tình êm mượt của Lê Minh Khuê gieo vào lòng người
đọc ấn tượng khó quên về vẻ đẹp lung linh tỏa sáng của những ngôi sao xa xôi trên bầu trời bom đạn.
 Dẫn chứng:
+ “Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh”
(Khoảng trời, hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)
+ “Bàn tay em phá đá mở đường, gian khó phải lùi nhường em tiến bước”
(Cô gái mở đường)
+ “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
4. Đánh giá:
 Truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng
cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung
phong trên tuyến đườngTrường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ.
KB:
Chiến tranh đã qua đi, sau hơn bốn mươi năm, nhưng đọc truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, ta
như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước. Nhà văn khiến lòng ta sống lại hình ảnh tuyệt đẹp và
những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường, của Định, của Nho, của Thao, của hàng ngàn, hàng vạn cô
thanh niên xung phong thời chống Mĩ. Chiến công thầm lặng của họ mãi mãi là một bài ca bất tử.

THƠ
TRUYỆN KIỀU – Nguyễn Du:
1. Chị em Thúy Kiều:
MB:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
Đó là niềm tự hào, sự kính trọng, ngợi ca của tác giả Chế Lan Viên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói
chung đối với tác phẩm truyện Kiều bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là một kiệt tác bởi ngôn từ tinh
tế, sâu sắc. Góp phần làm nên thành công cho tác phẩm phải kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, vịnh cảnh ngụ tình,
… Đặc biệt chính là bút pháp miêu tả nhân vật thông qua đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều”, mà ở đó, chúng ta sẽ cảm
nhận được tất cả tài năng mà một danh nhân văn hóa thế giới đã thể hiện hết trong tác phẩm.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Vị trí đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới
thiệu gia đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em thuý vân, Thuý Kiều.
 Nội dung: “Chị em Thuý Kiều” là khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài
năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.
 Nghệ thuật: Thuý Kiều, Thuý Vân và nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để
khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ  lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi
bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy
làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
2. Phân tích:
a/ Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (bốn câu đầu):
 Trước hết, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình. Lời giới thiệu với ngôn ngữ trang trọng:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
 Trong gia đình Vương viên ngoại, Thuý Kiều và Thuý Vân là hai cô con gái đầu lòng, Kiểu là chị, Vân là em. Họ
đều là những ả tố nga – những người con gái đẹp.
 Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em: Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Với bút pháp ước lệ tượng
trưng và phép tiểu đối, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp mang tính lí tưởng tuyệt đối của hai chị em. Đó là vẻ đẹp duyên dáng,
thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ. Kiều và Vân có vóc dáng mảnh mai, thanh tao, quý phái như mai; tâm hồn
trắng trong, tinh khiết như hoa tuyết. Vẻ đẹp đó hải hỏa cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
 Tác giả sử dụng lời bình về vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều để khép lại bốn câu thơ đầu: Mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười. Hai chị em đều đạt đến vẻ đẹp tuyệt mĩ, không tì vết mười phân vẹn mười, song lại có nét riêng
từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người.
 Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, nhịp nhàng, đối xứng, làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai
chị em.
→ Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng
đậm nét nhất về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ được cảm hứng ca ngợi cái
tài hoa, nhan sắc của con người qua nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du.
b/ Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân (bốn câu tiếp):
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngoài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
 Câu thơ mở đầu đã khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân: vẻ đẹp mang phong thái đoan trang, cao sang, quý phái.
 Vẻ đẹp của Vân được miêu tả qua những bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy những hình ảnh thiên nhiên như trăng,
hoa, mây, tuyết… làm chuẩn mực để tái hiện vẻ đẹp của người giai nhân.
 Chân dung của Vân được miêu tả trọn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói: Vân có
khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, sáng trong như vầng trăng tròn; có đôi lông mày đậm, sắc nét như con ngài; miệng cười
tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà và mái tóc của nàng đen dày óng ả, bồng bềnh
hơn mây; làn da của nàng trắng mịn màng hơn tuyết. Vân quả là một người con gái đẹp, đoan trang, quý phái khó có ai
sánh bằng.
+ Vẻ đẹp của Vân hải hòa với vẻ đẹp thiên nhiên khiến thiên nhiên chẳng chút ghen ghét, đổ kị: Mây thua nước tóc,
tuyết nhường màu da. Phép nhân hoá mây thua, tuyết nhường cho thấy vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên, tạo hoá hay đó
còn là cả một xã hội phong kiến, cũng không thể sánh ngang với dung nhan của nàng. Vẻ đẹp của Vân hài hoà với
thiên nhiên, hài hòa trong khuôn khổ của xã hội phong kiến thì dẫu Vân có đẹp hơn những cái đẹp nhất của thiên nhiên
thì nàng vẫn được đón nhận, bao bọc và yêu thương. Dự báo một cuộc đời êm ả, bình lặng, suôn sẻ. Nghệ thuật miêu
tả mang tính dự báo đã gợi lên bức chân dung của người con gái đẹp mang tính cách số phận.
→ Bằng bút pháp cổ điển ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của nhân vật Thúy
Vân để từ đó gợi cho người đọc thấy được tính cách và số phận của nàng.
c/ Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều (mười hai câu tiếp):
 Nếu như miêu tả bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ dùng có bốn câu thì đến Thúy Kiều ông dùng đến
mười hai câu. Chứng tỏ, tác giả đã ưu ái, dùng nhiều bút lực và sự yêu mến đặc biệt cho nhân vật này.
 Sự yêu mến đó càng được khẳng định khi Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật đòn bẩy một cách tài tình: Ông miêu tả
nhân vật Thúy Vân trước như một tuyệt thế giai nhân để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
 Nếu Thúy Vân chỉ được Nguyễn Du tả về sắc đẹp thì với Kiều, ông tả vẻ đẹp của nhân vật ở cả sắc, tài, tình.
 Sắc:
+ Vẻ đẹp của Kiều cũng được tác giả miêu tả qua những hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ, tượng trưng như thu
thủy, xuân sơn, hoa, liễu. Thế nhưng, tác giả không đi vào tả chi tiết như tả Thúy Vân mà chỉ tập trung đặc tả vẻ đẹp
đôi mắt Kiều theo lối điểm nhấn  vẽ hồn cho nhân vật: Làn thu thủy nét xuân sơn. Kiều có đôi mắt trong sáng, long
lanh như làn nước hồ thu; hàng lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt  cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần
tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tác giả chỉ tả đôi mắt nhưng gợi lên vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc,
khiến hoa ghen liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành. Sử dụng thành ngữ nghiêng nước nghiêng thành là cách nói
sáng tạo, dùng điển cố để cực tả vẻ đẹp, thể hiện sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp của giai nhân. Vẻ đẹp của Kiều
có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người.
 Kiều mang vẻ đẹp tuyệt trần khiến thiên nhiên ghen ghét, đố kị: hoa ghen đến phai sắc thắm, liều hờn nên cũng
kém xanh.
 Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài
hòa mà vượt qua mọi khuôn khổ, chuẩn mực phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho các vẻ đẹp khác phải ghen
ghét, oán hận, đố kị và chứa đựng ý muốn trả thù. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm, một số phận
sóng gió
 Tài:
 Không chỉ miêu tả là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí
tuệ thiên bẩm và rất đa tài:
Thông minh vốn sẵn tinh trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
 Tài của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, nàng giỏi cả cầm, kỳ, thi, hoạ.
– Nàng là người con gái đa tài, đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), họa (vẽ) và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Đặc biệt,
tài đàn đã được Nguyễn Du tập trung miêu tả. Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu luyện và
vượt lên trên mọi người: “ Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”
 Tình:
 Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh” chính là khúc nhạc mà nàng tự viết, khi cất lên ai cũng
xúc động.
– Miêu tả tài đàn cũng là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu,
đa cảm của Thúy Kiều.
– Cung đàn bạc mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm khiến ai nghe cũng não lòng.
⇒ Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của Kiều khiến tạo
hoá ghen ghét, tài hoa trí tuệ thiên bẩm đủ mùi, tâm hồn đa sầu đa cảm. Có lẽ tất cả dự báo định mệnh nghiệt ngã, số
phận đầy sóng gió của kiếp hồng nhan bạc mệnh bởi Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau, Trời xanh quen thói mà
hồng đánh ghen.
⇒ Nguyễn Du đã rất tinh tế và dành tinh yêu thương đặc biệt cho Thúy Kiều khi chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, dành
tới 12 câu thơ để tả Kiều; Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều tả cả sắc, tài, tỉnh để làm nổi bật vẻ đẹp toàn vẹn, tuyệt mĩ của
nhân vật.

d/ Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em ( 4 câu cuối)
– Hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những đức hạnh và
sống có khuôn phép:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
+ Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề nếp.
+ Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn che”.
+ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “toác búi, trâm cài” của cả hai chị em. Song họ vẫn sống một
cuộc sống kín đáo, gia giáo sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ.
→ Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh
êm đềm và chưa một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo phong kiến.
e/ Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích
– Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con
người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân.
– Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh
tương đố của Nguyễn Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn với
con người của Nguyễn Du.
KB:
Tóm lại, dưới ngòi bút điêu luyện tinh tế của nhà thơ, hình ảnh nhân vật được miêu tả một cách rõ nét thông qua
ngôn ngữ ước lệ sâu sắc. Ở đây ta cảm nhận được tình cảm ưu ái, giàu tính nhân văn của tác giả đối với nhân vật. Thật
vậy, Nguyễn Du là một bậc thầy về nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật.

2. Cảnh ngày xuân:


MB:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
Đó là niềm tự hào, sự kính trọng, ngợi ca của tác giả Chế Lan Viên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói
chung đối với tác phẩm truyện Kiều bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là một kiệt tác bởi ngôn từ tinh
tế, sâu sắc. Góp phần làm nên thành công cho tác phẩm phải kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, vịnh cảnh ngụ tình,
… Đặc biệt chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình thông qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, mà ở đó, chúng ta sẽ cảm nhận
được tất cả tài năng mà một danh nhân văn hóa thế giới đã thể hiện hết trong tác phẩm.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Vị trí đoạn trích “Cảnh ngày xuân”: nằm ở phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài
sắc của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du kể chuyện chị em Thúy Kiều đi chơi xuân.
 Nội dung: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên lễ hội, mùa xuân tươi đẹp trong sáng, thể hiện tình yêu thiên nhiên,
tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả.
 Nghệ thuật: Đoạn trích đã thể hiện tài năng miêu tả giàu chất tạo hình, tả cảnh qua bút pháp gợi tả và là cảnh ngụ
tỉnh; ngôn ngữ trong sáng giàu chất thơ của Nguyễn Du.
2. Phân tích:
a/ Bốn câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân:
 Hai câu thơ đầu vừa gợi tả thời gian, vừa gợi tả không gian mùa xuân:
+ Ngày xuân con én đưa thoi: Câu thơ vừa gợi không gian mùa xuân thoáng đãng, rộn ràng những cánh chim én
chao liệng; vừa miêu tả thời gian trôi nhanh như thoi.
+ Câu thơ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi gợi thời gian: chín chục ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi
ngày, tức là đã bước sang tháng ba (đã ngoài sáu mươi) nhưng cũng gợi không gian: ngày xuân tràn ngập ánh sáng
đẹp, ấm áp, trong lành (thiều quang)
 Hai câu thơ sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân:
+ Chữ tận mở ra một không gian bát ngát của thảm cỏ non xanh tươi, mơn mởn, tràn trề sức sống trải rộng đến tận
chân trời làm nền cho bức tranh mùa xuân.
+ Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng tinh khôi
+ Sắc trắng hoa lê kết hợp hài hoà với màu xanh non của cỏ mang lại vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh khiết, trong trẻo cho
bức tranh cảnh vật.
+ Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo ý thơ cổ của Trung Quốc (Phương thảo liên thiên bích/Lê chi sổ điểm hoa).
Động từ điểm và phép đảo ngữ nhấn mạnh vẻ đẹp nổi bật của bông hoa lê trắng. Từ điểm làm cho cảnh vật trở nên
sống động, có thần có hồn hơn chứ không tĩnh tại.
→ Bằng vài nét chấm phá, gợi nhiều hơn tả, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân mới mẻ,
tinh khôi, tràn trề sức sống (cỏ non); khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời); nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm
một vài bông hoa). Bút pháp gợi tả đã phác hoạ một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp.
b/ Tám câu tiếp: Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh:
 Trong tiết Thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc:
+ Lễ tảo mộ (sửa sang, viếng mộ tưởng nhớ người đã khuất)
+ Hội đạp thanh (đi chơi xuân, ngắm cảnh ở chốn đồng quê).
 Không khi lễ hội thật tưng bừng, rộn rã được diễn tả qua phép liệt kê và hàng loạt từ ghép, từ lấy
+ Người đi hội đông vui, tấp nập (danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần)
+ Không khi ngày hội rộn ràng, náo nhiệt (động từ sắm sửa, đập dìu)
+ Tâm trạng của người đi hội náo nức, vui tươi (tính từ gần xa, nô nức).
 Lối nói ẩn dụ: Gần xa nỗ nức yến anh gọi lên hình ảnh những nam thanh nữ tú, những tài tử giai nhân đi hội chơi
xuân từng đoàn nhộn nhịp như chim én, chim oanh riu rít.
 Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gợi lên một nét đẹp văn hóa; du xuân ngắm cảnh vào
tiết thanh minh. Đồng thời, ông cũng khắc họa một tập tục truyền thống viếng mộ những người đã khuất:
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tra tiền giấy bay
 Mọi người đốt thoi vàng, tiền giấy để tưởng nhớ những người thân đã mất.
→ Bức tranh lễ hội tiết thanh minh thật rộn rằng, vui tươi.
c/ Sáu câu cuối: Cảnh chị em Kiều du xuân trở về:
 Sáu câu thơ cuối là cảnh chị em Thúy Kiều ra về khi trời đã xế chiều và hội đã tan. Thời gian buổi chiều tà
thường gợi buồn. Trong không gian mùa xuân buổi sớm mai tươi mới, đầy sức sống, lòng người náo nức bao nhiêu thì
khi chiều tả buông xuống, lòng người du xuân trở về lại thấm buồn bấy nhiêu. Vẫn sử dụng những hình ảnh chấm phá,
gợi tả nhưng ngôi bút tả cảnh của Nguyễn Du dưởng như sâu sắc, tinh tế hơn khi nhuốm tâm trạng lên cảnh vật qua
bút pháp tả cảnh ngụ tình.
 Chiều dần buông xuống, bỏng nắng ngà dẫn về phía tây, chị em Thủy Kiều trở về sau cuộc du xuân, tảo mộ rộn
rằng, náo nức. Hai chữ tà tà chỉ hành động chậm rãi, có thể là chị em Thúy Kiều thong thả bước chân ra về thơ thẩn
không có gì là vội vã, mà cũng có thể chỉ trạng thái xuống chầm chậm của mặt trời chiều. Cảnh và tỉnh có sự giao hòa
đồng điệu. Bước chân người thơ thần như vướng vít, lưu luyến.
 Qua con mắt của chị em Thúy Kiều, cảnh mùa xuân lúc chiều tà đẹp nhưng buồn, thanh dịu, nhuốm nỗi buồn của
nhân vật.
+ Cuộc vui nào cũng tàn để lại trong tâm hồn nhạy cảm của Kiểu một nỗi buồn man mác. Cảnh vẫn mang cái
thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng:
mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, không khí nhộn nhịp, rộn
ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần.
+ Nguyễn Du đã cảm nhận tinh tế những thay đổi của cảnh vật bằng cách vận dụng rất chính xác các từ láy giàu
tính biểu cảm. Những từ láy tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ gợi tả sắc thái thanh dịu, lặng dần của cảnh vật mà
còn bộc lộ tâm trạng của người ngắm cảnh. Nao nao dòng nước uốn quanh – từ láy nao nao nhân hóa một cách tự
nhiên cảnh vật. Dòng nước ngập ngừng, lãng đãng trôi dưới chân cầu hay chính là lòng người đang buồn khi nhìn
cảnh? Phải chăng cảm giác bâng khuâng xao xuyến, nỗi buồn man mác dịu nhẹ của người con gái có tâm hồn đa cảm
đã thấm sang cảnh vật?
→ Cảnh được nhìn qua tâm trạng của con người. Cảnh vật diễn tả tâm trạng luyến tiếc một ngày vui sắp tàn của chị
em Thúy Kiều. Tả cảnh mà gợi tình, gợi tâm trạng con người trước thiên nhiên.
 Nó cũng cho thấy tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên mang tính dự báo. Cảm giác về một
ngày vui đang còn mà đã linh cảm thấy một điều gì đó không bình thưởng sắp xuất hiện. Đây có thể xem như những
nốt buồn dạo đầu trong chuỗi buồn dằng dặc của Thúy Kiều suốt mười lăm năm đoạn trưởng.
 Dẫn chứng:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
KB:
Quả thật, cảnh thiên nhiên được khắc họa qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân” cho ta cảm nhận được cảnh và tình
như hòa vào nhau thông qua ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện. Có thể nói, thành công trong “Truyện Kiều” không thể
không nói đến nghệ thuật vịnh cảnh ngụ tình dưới ngòi bút bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du.

3. Kiều ở lầu Ngưng Bích:


MB:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
Đó là niềm tự hào, sự kính trọng, ngợi ca của tác giả Chế Lan Viên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói
chung đối với tác phẩm truyện Kiều bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là một kiệt tác bởi ngôn từ tinh
tế, sâu sắc. Góp phần làm nên thành công cho tác phẩm phải kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, vịnh cảnh ngụ tình,
… Đặc biệt chính là bút pháp miêu tả nhân vật thông qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, mà ở đó, chúng ta sẽ
cảm nhận được tất cả tài năng mà một danh nhân văn hóa thế giới đã thể hiện hết trong tác phẩm.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Vị trí đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: nằm ở phần thứ hai: gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám
Sinh ;ừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều không chịu tiếp khách làng chơi ở lầu xanh, toan tự vẫn. Tú Bà dụ
dỗ Kiều, nhốt nàng ở lầu Ngưng Bích để chờ thực hiện âm mưu mới.
 Nội dung: Miêu tả chạn thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ thương da diết và tấm lòng thủy
chung son sắt, hiếu thảo, vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo
của Nguyễn Du: đồng cảm với nỗi khổ của on người, đặc biệt là người phụ nữ.
 Nghệ thuật: Thuý Kiều, Thuý Vân và nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để
khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ  lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi
bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy
làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
2. Phân tích:
Khái quát:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt và làm nhục, bị Tú Bà mắng
nhiếc, biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lời, bèn lựa lời khuyên
giải, cho người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn ông tốt nhưng thực
chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là
nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua
bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích.
a/ Tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh lầu Ngưng Bích:
 Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
 Sáu câu thơ đầu, tác giả nói lên hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn, tội nghiệp của nàng Kiều. Ngay câu thơ mở
đầu: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. "Khóa xuân" tức
khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm,
khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc
đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng. Những câu thơ tiếp theo, tái hiện
quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều.
 Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn
xuống phía dưới là những đoạn “cát vàng” trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc
sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này: Cảnh được nhìn từ xa đến gần, từ cao xuống thấp nhưng lại hoang vắng rợn ngợp
không một tiếng người, không có cả một tiếng chim hót. Cảnh thiên nhiên tác động đến tâm trạng của con người. Từ
láy “bát ngát”, hình ảnh liệt kê “cát vàng”, “bụi hồng” đã nói lên sự phai nhạt của sự sống và ngổn ngang của cảnh
vật. Hình ảnh “non xa, trăng gần” gợi không gian dài rộng, cao sâu vô tận. Đồng thời gợi sự chơ vơ, chênh vênh, trơ
trọi của lầu Ngưng Bích. Không gian vô cùng trống trải, hoang vắng, không có dấu hiệu của sự sống:
 Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến
Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
 Từ láy “bẽ bàng” đã diễn tả được thật chuẩn xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi
thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người và khắc sâu thêm nỗi cô đơn. Đó hẳn là tâm trạng vừa
buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm
cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có
hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, buồn tủi của nàng Kiều. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết
hợp hệ thống hình ảnh ước lệ, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mênh
mông, vắng lặng. Và trên nền của khung cảnh ấy là hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm tâm sự đau
thương.
b/ Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ:
 Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ
người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ
thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim
được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới
ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
 Nhớ người yêu, Kiều chỉ dám hình dung trong tưởng tượng, nhớ đến Kim Trọng uống chén rượu thề dưới ánh
trăng, nguyện ở bên nhau đến trọn đời. Lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén
rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng tưởng tượng
Kim Trọng đang hướng về mình, "rày trông mai chờ" uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm
lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cảm, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không
thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi
"bên trời góc bể", bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại
tình yêu của Kim Trọng dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của
mình:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
 Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao mỗi khi nghĩ đến
cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ
yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “ tựa cửa hôm mai”, “quạt
nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn
cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.
c/ Kiều nghĩ về tương lai mờ mịt, đen tối:
 Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm
trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng
một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi
bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả
cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du từng quan niệm:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
 Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm màu tâm trạng. Mỗi cặp câu gợi ra một
nỗi buồn. “Buồn trông” là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm
đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ “ thấp thoáng, xa xa” không rõ,
như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy
cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu “xanh xanh” bất tận của nội cỏ rầu rầu càng
khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh
hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới
chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

 Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục
và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man
mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu
Ngưng Bích. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, từ tĩnh đến động ứng với cảm xúc của Thúy Kiều diễn ra theo chiều
hướng tăng từ nỗi buồn, cô đơn, lo lắng, nỗi tuyệt vọng và cuối cùng là sự sợ hãi.
KB:
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích thành công nhất về nghệ thuật tả cảnh ngụ
tình trong “Truyện Kiều”. Đọc đoạn trích , ta càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của tác giả Nguyễn Du và thương
cảm cho tình cảnh bất hạnh của nàng Kiều, cho nỗi đau của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù trang
sách đã gấp lại rồi, lòng ta vẫn thiết tha rung động, vẫn đau đáu nỗi niềm cảm thương và phải chăng chính vì thế mà
sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện Kiều” vẫn là tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam.

LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA – Nguyễn Đình Chiểu:
MB:
Từ khi bắt đầu được cắp sách đến trường, có một bài học vỡ lòng mà thầy cô giáo thường mượn lời dạy bảo của
Bác Hồ kính yêu để giáo dục chúng em, đó là: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình” Trong cuộc sống đời
thường, nhân dân ta hết sức coi trọng việc nghĩa. Ngay cả trong trường hợp khó khăn nhất, ta cũng không được phép
toan tính mà phải nghĩ đến người khác. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một người thi sĩ đã luôn đề cao quan niệm
làm việc nghĩa. Đó chính là thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm nổi tiếng “ Truyện Lục
Vân Tiên” thông qua hai câu thơ:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
 Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu truyện “Lục Vân Tiên”. Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ trước
khi lên kinh đô thi, gặp bọn cướp đang hoành hành, Lục Vân Tiên đã một mình làm gậy xông vào đánh tan bọn cướp,
cứu Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
 Nội dung: truyền đạt đạo lí làm người: xem trọng đạo nghĩa, đề cao tinh thần nghĩa hiệp, lẽ công bằng và khát
vọng về một cuộc sống tốt đẹp.
 Nghệ thuật: Truyện thơ Nôm – 2082 câu thơ lục bát; kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện phương
Đông, theo từng chương hồi.
2. Phân tích:
A. Hành động vì nghĩa
1. Hành động cứu Kiều Nguyệt Nga xuất hiện trong hoàn cảnh Lục Vân Tiên trên đường vào kinh ứng thí. Việc
thi cử trong xã hội phong kiến là việc lớn đối với kẻ sĩ. Trong hoàn cảnh đó, lẽ thường con người dễ né tránh mọi nguy
hiểm, giữ gìn an toàn cho bản thân mình, chỉ toàn tâm toàn ý cho việc thi cử.
2. Hành động đó
 Vì nghĩa: Thấy người bị nạn, Lục Vân Tiên đã tìm cách cứu.
 Dũng cảm:
• Bọn cướp đông, lại hung hãn:
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng,
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ, tại mày,
Truyền quân bốn phía phì vây bịt bùng.
• Vân Tiên xông vào, vũ khí chỉ là một đoạn gậy:
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
• Một mình Vân Tiên:
... tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
• Với sự dũng cảm đó, Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp:
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
 Vô tư, hào hiệp: Người mà Vân Tiên cứu là một kẻ xa lạ:
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”
• Sau đó, Vân Tiên khước từ lời mời mọc của Nguyệt Nga:
“Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.”
• Trước tấm chân tình mong đền ơn trả nghĩa của Nguyệt Nga, Vân Tiên chỉ cười, bởi chàng cho việc giúp người gặp
nạn là nghĩa vụ của kẻ làm trai:
Vân Tiên nghe nói liền cười,
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
 Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc hoạ thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng
rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng
thương người, chí quả cảm, tinh thần vị nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta. Trên một trăm năm
mươi năm qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng
bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỉ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc
vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về
sức mạnh của thi ca, đặc biệt là Truyện LVT của Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời. Tinh thần nghĩa hiệp của LVT
như viên ngọc quý, sáng bừng lên dư vị ngọt ngào của cuộc sống này.

B. Quan niệm của nguyễn đình chiểu:


1. Quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu là quan niệm của nhân dân:
 Trong cuộc sống đời thường, nhân dân ta hết sức coi trọng việc nghĩa. Trước hoàn cảnh hoạn nạn cần cưu mang,
giúp đỡ với tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Ngay cả trường hợp gặp nguy hiểm, ta cũng không được phép tính toán,
mà phải xả thân vì người khác.
 Vì sao Nguyễn Đình Chiểu nêu quan niệm đó? Là một nhà thơ Nam Bộ, Nguyễn Đình Chiểu sống gần gũi nhân
dân nên ông hiểu sâu sắc đạo lí đó.
2. Ý nghĩa, tác dụng:
 Đọc đoạn trích trên, ta nhận thấy con người không cho phép mình bỏ qua những việc sai trái, những hành động
bất nhân.
 Hình ảnh Lục Vân Tiên trong đoạn trích và trong toàn bộ tác phẩm thể hiện con người anh hùng theo quan niệm
của Nguyễn Đình Chiểu, đồng thời cũng là đạo lí ở đời của nhân dân ta.
 Hình ảnh Lục Vân Tiên nhắc nhở thế hệ trẻ sống phải có trách nhiệm với mọi người, luôn luôn hành động vì
nghĩa
 Dẫn chứng:
 Thương người như thể thương thân
 “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình” (Hồ Chí Minh)
 “Dốc lòng ân nghĩa há chờ trả ơn” (Ông Ngư)

THƠ HIỆN ĐẠI


1. Đồng chí – Chính Hữu – 1948:
MB:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
(Theo Chân Bác – Tố Hữu)
Đó là những lời thơ nói về những chàng trai ra đi theo tiếng gọi Tổ quốc. Họ mang theo theo nhiệt huyết tuổi trẻ
hiên ngang trên mặt trận. Chính điều này đã tạo nên nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ. Vì thế mà những khúc ca
hào hùng về người lính cụ Hồ đã được hoàn thành như một cách để cổ vũ tinh thần mọi người. Chính Hữu cũng góp
mặt trong phong trào thơ mới với đứa con tâm huyết của mình “Đồng Chí”. Bài thơ là một bức tranh chân thật về
chiến trường của họ  những người lính quả cảm.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Chính Hữu (1926-2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là nhà thơ 
chiến sĩ trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp – Mỹ.
 Sáng tác của Chính Hữu chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình
cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu phương.
 Phong cách thơ Chính Hữu: Bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ sáng tác mùa xuân 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
 Bài thơ được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng trong văn học thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng
thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
 Nghệ thuật: Bài thơ sử dụng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng và giàu sức biểu cảm.
Bút pháp tả thực kết hợp hài hòa với lãng mạn tạo nên hình ảnh thơ đẹp, có ý nghĩa biểu tượng.
 Mạch cảm xúc: Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 3 đoạn:
 Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư
tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7, 17 và 20).
 Nhan đề bài thơ:
 Đồng chí là chung chí hướng, chung lý tưởng. Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách
mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, “đồng chí” là cách xưng hô quen thuộc
trong các cơ quan, đoàn thể cách mạng, đơn vị bộ đội.
 Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng
 Tên bài thơ gợi chủ đề của tác phẩm: ca ngợi tình đồng chí đồng đội của những người lính trong cuộc kháng
chiến chống Pháp..
2. Phân tích:
a/ Cơ sở của tình đồng chí:
(I) Tình đồng chỉ được xây dựng trên cơ sở của những con người cùng chung hoàn cảnh xuất thân.
 Người lính xuất thân những người nông dân chất phác, mộc mạc ra đi từ mái tranh, gốc rạ, bến nước, cây đa. Họ
tương đồng về cảnh ngộ, về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó, sự đồng cảm về giai cấp:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
 Câu thơ mộc mạc, tự nhiên như một lời tâm sự đã làm hiện lên hình ảnh chân thật, giản dị của những người lính
thời chống Pháp. Anh ra đi tử vùng đồng bằng ven biển nước mặn đồng chua, nhiễm phèn khó làm ăn; tôi đến từ miền
đồi núi trung du đất cày lên sỏi đá, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Đôi người xa lạ, dù miền biển hay miền núi nhưng
cùng giống nhau ở sự nghèo khó, lam lũ. Hai câu thơ vừa đối xứng nhau, vừa song hành, đã giới thiệu thật giản dị
hoàn cảnh xuất thân của người lính. Từ những vùng quê nghèo khó, lam lũ, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng,
tạm biệt những bãi mía, bờ dâu để tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng, trở nên thân quen.
→ Cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính
cách mạng.
(2) Tình đồng chí còn được xây dựng trên cơ sở chung nhiệm vụ chiến đấu, chung lí tưởng, chung mục đích vì độc
lập tự do của Tổ quốc
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
 Tự phương trời tuy vốn chẳng quen nhau nhưng cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu. Trong
những đêm dài lạnh buốt sương muối, họ đứng cạnh nhau và cùng canh gác, đầu cùng sát vào nhau và súng cũng kề
bên nhau. Điệp từ “súng”, “đầu” và hình ảnh hoán dụ súng – nhiệm vụ chiến đấu, đầu – lí tưởng chiến đấu, đã nhấn
mạnh sự tương đồng giữa những người lính để từ những người xa lạ, họ trở thành đồng đội của nhau.
(3) Tình đồng chí còn nảy nở, bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người
lính
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
 Để đêm trên chiến trường bớt dài và trời bớt lạnh những người xa lạ ấy lại chia sẻ với nhau về những nỗi nhớ vô
hình: nhớ nhà, nhớ gia đình,… Và ngoài những thứ vô hình, học cũng cùng nhau chia bùi sẻ ngọt những thứ hữu hình
– một tấm chăn. Cái khó khăn, thiếu thốn và sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình
cảm, tạo nên mối tình tri kỉ của những người lính. Để cuối cùng họ gọi nhau một tiếng “ Đồng chí!”. Một câu thơ ngắn
gọn nhưng chứa đựng rất nhiều tình cảm, tâm tư của tác giả. Tình đồng chí – tình cảm cao đẹp ấy là sự gắn kết trọn
vẹn cả về lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc.
 Cả 7 câu thơ có duy nhất 1 từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí
hướng, chung một khát vọng,…
→ Câu thơ vừa như một nốt nhấn của cảm xúc dâng trào, vừa như một cái bản lề nối kết hai đoạn thơ, mở ra những
biểu hiện cụ thể, cảm động của tình đồng chí.
b/ Biểu hiện cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí
(1) Đồng chí hiểu và cảm thông sâu sắc tâm tư, tình cảm, nỗi lòng thầm kín của nhau
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
 Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: r uộng nương, gian nhà, giếng
nước gốc đa… có dáng mẹ già ngóng trông con, có người vợ nhớ chồng... Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà
là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã
gác lại tất cả để ra đi đánh giặc.
 Câu thơ “Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang
trống mà ra đi, biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng dứt khoát “mặc kệ” thì đó quả là sự hy sinh lớn lao và đó
cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình.
 Các anh hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương: “ Giếng nước gốc đa nhớ
người ra lính”. “Giếng nước”, “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ gợi về làng quê Việt Nam, về quê hương, về người thân
nơi hậu phương của người lính. Quê hương nhớ những người lính đã ra đi. Như vậy, câu thơ nói quê hương nhớ người
lính mà thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều da diết.
→ Vậy là người lính đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín, riêng tư nhất. Họ
cùng sống với nhau trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi nhớ.
(2) Hiểu nỗi lòng nhau, người lính còn cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc sống chiến đấu
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
 Sự từng trải của đời lính đã cho Chính Hữu nhìn thấu sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ: người nóng
sốt hầm hập đến ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người.
 Và nếu không có sự từng trải ấy, cũng không thể nào biết được cái cảm giác của miệng cười buốt giá: trời buốt
giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu.
 Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp hiện lên rất cụ
thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày…
→ Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu
kháng chiến. Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao.
 Trong gian lao, những người lính vẫn miệng cười buốt giá bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội
thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Họ đồng cam cộng khổ, giúp nhau vượt qua mọi thiếu thốn gian truân, cực nhọc của
đời lính.
 Hình ảnh miệng cười buốt giá làm sáng ấm cả câu thơ, xua đi lam lũ nhọc nhằn, xua đi giá rét của mùa đông ở
rừng, thể hiện được tinh thần lạc quan của người lính trong gian khổ.
 Cử chỉ tay nắm lấy bàn tay cũng biểu lộ thật sâu sắc tình cảm thắm thiết của người lính. Hơi ấm ở bàn tay đã sưởi
ấm cõi lòng, giúp họ vượt qua gian khó, tiếp thêm sức mạnh cho nhau.
→ Sẻ chia cùng nhau gian khổ, trao nhau những nụ cười lạc quan, những cái nắm chặt tay… đã giúp cho tình đồng
chí, đồng đội của họ thêm bền chặt, gắn bó, thiêng liêng và đẹp đẽ.
 Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất
hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng
người hơn trọng mình?
⇒ Bài thơ “Đồng chí” không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ có thể sống và làm nên bao
chiến công hiển hách
c/ Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ về tinh đồng chí Khổ cuối là bức tranh đẹp vừa hiện thực vừa lãng mạn mang
biểu tượng của tỉnh đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
 Trên phông nền cảnh rừng hoang vắng, lạnh lẽo, nổi bật hình ảnh người lính đứng cạnh bên nhau, im lặng, phục
kích chờ giặc tới. Trong cái giá rét khắc nghiệt của rừng đêm sương lạnh buốt giá ở Việt Bắc, ở giữa giây phút căng
thẳng chở giặc tới mà ranh giới sống – chết gần trong tấc gang, những người lính vẫn sát cánh đứng cạnh bên nhau.
 Từ “chờ” cho thấy tư thế chủ động đón đầu giặc không hề sợ hãi. Hình ảnh của họ sát cánh bên nhau vững chãi
làm mờ đi cái gian khổ ác liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Tình đồng chí khiến
họ vẫn bình thản bên thềm cuộc chiến đấu, thấy cuộc đời vẫn đẹp đẽ và thơ mộng ngay giữa nguy hiểm, giao lao.
→ Ca ngợi sức mạnh của tình đồng đã sưởi ấm lòng các anh giữa rừng hoang mùa đông và sương muối buốt giá.
 Cùng với hình ảnh giàu chất hiện thực đó, tác giả xây dựng một hình ảnh thơ lãng mạn đầy thi vị, điểm sáng của
toàn bài thơ: Đầu súng trăng treo.
 Đây là hình ảnh là thực tác giả thu được trong những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, vầng trăng treo lơ lửng
trên cao như đang treo trên đầu ngọn súng.
 Hình ảnh thơ cũng gợi lên nhiều liên tưởng phong phú: súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, cho hiện thực
khốc liệt. Trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình, thơ mộng và lãng mạn.
 Sự hoà nhịp giữa súng và trăng vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý
nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: người lính cầm súng để bảo vệ cuộc sống hoà bình, độc lập cho Tổ quốc.
 Súng và trăng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và mơ mộng. Tất cả đã hoà quện, bổ sung cho nhau
trong cuộc đời người lính cách mạng.
→ Câu thơ như nhãn tự của cả bài, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp
của tình đồng chí thân thiết.
 Dẫn chứng:
 “Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui”
(Đoàn giải phóng quân)
3. Đánh giá:
 Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử
dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài
thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn
lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.
KB:
Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm
đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận
hết được. Chính Hữu đã đem chiến tranh ác liệt vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt
vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời
gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.
2. Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật – 1969:
MB:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
(Theo Chân Bác – Tố Hữu)
Đó là những lời thơ nói về những chàng trai ra đi theo tiếng gọi Tổ quốc. Họ mang theo theo nhiệt huyết tuổi trẻ
hiên ngang trên mặt trận. Chính điều này đã tạo nên nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ. Vì thế mà những khúc ca
hào hùng về người lính cụ Hồ đã được hoàn thành như một cách để cổ vũ tinh thần mọi người. Phạm Tiến Duật cũng
góp mặt trong phong trào thơ mới với đứa con tâm huyết của mình “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Bài thơ là một
bức tranh chân thật về chiến trường của họ  những người lính quả cảm.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê ở Phú Thọ, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những
năm chống Mỹ.
 Phạm Tiến Duật nổi bật trên văn đàn với giọng thơ tự nhiên, tinh nghịch mà sôi nổi, tươi trẻ. Thơ ông hướng vào
thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn.
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, in trong tập thơ Vầng trăng quầng lửa.
 Ra đời trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Điểm nóng lúc đó là tuyến
đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến, bị không lực Hoa Kì ngày đêm trút
bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính" đã khắc hoạ một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính.
Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên
ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
 Nghệ thuật: Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, ngôn ngữ và
giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.
 Mạch cảm xúc:
 Mạch cảm xúc: bắt đầu từ rung cảm trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và đến những
suy nghĩ, ước nguyện về lẽ sống cao đẹp, muốn góp vào mùa xuân chung một mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ khép lại với
những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua ngợi ca làn điệu dân ca xứ Huế.
 Nhan đề bài thơ:
 Làm nổi bật hình ảnh toàn bài: những chiếc xe không kính.
 Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả muốn nói về chất thơ
của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ hiểm
nguy của thời chiến.
2. Phân tích:
a/ Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính (khổ 1,2):
 Xưa nay, xe cộ rất ít đi vào thơ ca, mà nếu có chăng thì cũng được “thi vị hóa” hoặc “lãng mạn hóa” và mang ý
nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Nhưng những chiếc xe không kính được Phạm Tiến Duật đưa vào thơ lại thực đến
mức trần trụi:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
 Hai câu thơ mang đậm chất văn xuôi tựa như lời ăn tiếng nói hàng ngày, tựa như cái nhìn đầy bình thản của
người lính trước hoàn cảnh. Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi đậm đặc và lối nói khẩu ngữ khiến cho câu thơ
mở đầu trở thành một lời giải thích, thanh minh, phân bua của người lính lái xe về những chiếc xe không kính.
 Các từ phủ định: “không có … không phải … không có” đi liền điêp ngữ “bom”, động từ mạnh “giật”, “rung”
không chỉ lí giải nguyên do khiến những chiếc xe không kính, tái hiện bầu không khí khốc liệt của hiện thực chiến
trường mà còn khiến cho âm điệu câu thơ trở nên hùng tráng, làm cho sự xuất hiện của những chiếc xe trở nên ngang
tàng hơn, ngạo nghễ hơn.
→ Hai câu thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy những thương tích của chiến tranh.
Nó chính là một bằng chứng cho sự tàn phá khủng khiếp của một thời khói lửa.
 Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình
ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
 Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ láy “ung dung” đứng đầu câu đã gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.
 “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi
sinh không run sợ. Đó là cái nhìn trực diện vào những khó khăn, gian khổ, không hề né tránh.
 Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần cùng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ và thủ pháp liệt kê “ nhìn
đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, rộng mở , thể hiện tư thế vững vàng, bình thản, dũng
cảm của những người lính lái xe giữa chiến trường đầy bom đạn, hiểm nguy, chết chóc . Họ nhìn thẳng vào bom đạn
của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để vượt qua nó bằng tất cả sự ngạo nghễ, ngang tàng ở người
lính trẻ.
 Khổ thơ thứ hai tiếp tục khắc họa tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận qua những hình ảnh
hòa nhập vào thiên nhiên:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
 Ngồi trên những chiếc xe không còn kính chắn gió, người lính phải đối mặt với biết bao gian khổ, hiểm nguy.
Thế nhưng, dưới cái nhìn lãng mạn của người lính, xe không kính lại là cơ hội để họ được giao hòa với thế giới bên
ngoài đầy thi vị:
+ Gió vốn là tác nhân gây hại cho đôi mắt, thế nhưng, trong cái nhìn của người lính, gió đã trở thành bạn, vào trong
buồng lái để xoa dịu đi những đôi mắt đắng ngắt, cay xè vì thiếu ngủ, vì phải tập trung lái xe trên những chặng đường
dài. Cách cảm nhận ấy đã thể hiện rất rõ tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn và rất lạc quan của người lính lái xe.
+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”: Gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay.
Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như
đang chạy thẳng vào tim mình. Đồng thời, hình ảnh thơ cũng cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự
nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Không chỉ vậy, hình ảnh “con đường” còn mang nét nghĩa ẩn dụ
chỉ con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước luôn ở trong tim những người chiến sĩ.
+ Con đường ra trận đã được thi vị hóa một cách mộng mơ . Đặc biệt, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào
buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như
ùa vào buồng lái, hòa cùng người lính trên đường ra chiến dịch, sao trên trời trở thành bầu bạn, cánh chim thân thuộc
như đón chào. Một vẻ đẹp lãng mạn, hài hòa giữa thiên nhiên và con người trên mọi cung đường ra trận
→ Có thể nói, hiện thực chiến trường đã được tái hiện vô cùng chân thực. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng,
một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của
chiến tranh.
b/ Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính (khổ 3,4):
 Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì
hoàn cảnh, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
 Hai khổ thơ có chung một cấu trúc, giọng điệu. Trên xe không kính, người lính phải đối mặt với gian khổ là
bụi và mưa rừng Trường Sơn. “Bụi” không phải là bay hay bốc lên mà “phun” thành từng luồng dày đặc, xông thẳng,
cuộn vào buồng lái, khiến mái tóc những chàng trai hà thành bạc trắng như người già. Không có kính, các anh phải đối
mặt với mưa. Mưa rừng Trường Sơn dữ dội, “tuôn”, “xối”, ngồi trong buồn lái mà như ngồi ngoài trời, áo quần ướt
đẫm. Các hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự
khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàng, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về
phía trước của người lính lái xe Trường Sơn.
 Khó khăn nối tiếp khó khăn, gian khổ chất chồng gian khổ như thử thách ý chí của người lính. Cái nhìn vào gian
khổ của các anh mới thật đáng trân trọng làm sao, đó là cái nhìn đầy lạc quan. Các anh bình thản chấp nhận “ừ thì có
bụi”, “ừ thì ướt áo. Những tiếng“ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái
độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của các anh ,
trái lại các anh xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai
vậy.
 Các anh luôn đặt nhiệm vụ lên hàng đầu, khó khăn không làm các anh bận tâm, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”
là cách nói đầy hóm hỉnh, mặc kệ những gian khổ đang đồng hành, các anh coi việc hoàn thành nhiệm vụ là quan
trọng nhất.
 Câu thơ cuối 7 tiếng mà có đến 6 thanh bằng “Mưa ngừng, gió lùa, khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung
dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “ phì phèo
châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên
đường đi tới.
 Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh,… làm nổi bật niềm vui, tiếng
cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.
→ Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và vẻ đẹp của thanh niên Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
c/ Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,6)
 Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom, bão đạn, những người lính lại gặp
nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
 Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách
khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.
 Cuộc chiến của họ là cuộc chiến chính nghĩa cho nên đi đến đâu họ cũng có thêm những người bạn. Và giờ đây,
xe không kính lại là cơ hội để người lính bày tỏ tình đồng chí keo sơn. Họ không cần xuống xe, không cần mở cửa xe
vẫn có thể trao nhau những cái bắt tay ấm nồng qua khung cửa kính đã vỡ.
 Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:
+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính
+ Là những lời đông viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau
+ Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn, kiêu hãnh trong cung đường đã qua.
 Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến,
được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
+ Cách địch nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong
chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.
+ Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất đỗi vội vã. Nhưng cũng chính hạnh phúc hiếm hoi
đó đã xóa tan khoảng cách giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt.
+ Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng – đó là những khó khăn gian khổ trên con
đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi.
+ Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp 2/2/3 gợi những vòng bánh xe lăn tròn, khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới,
khẩn trương và kiên cường. Đó chính là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính, các anh vượt
qua tất cả những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi
bằng chính niềm tin , ý chí, nghị lực của mình.
+ “trời xanh thêm” vừa là hình ảnh thực mang đến cảm nhận về những đoàn xe đi qua những tán lá rừng, bầu trời
xanh hiện ra trước mắt, lại vừa là hình ảnh ẩn dụ gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu xanh
của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần.
d/ Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng của người lính (khổ 7):
 Hình ảnh chiến sĩ lái xe Trường Sơn là một hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, một biểu
tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
 Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị để làm nổi bật sự khốc liệt của chiến
tranh nhưng cũng làm nổi bật ý chí chiến đấu, quyết tâm sắt đá, tình cảm sâu đậm của người lính với miền Nam ruột
thịt:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
+ Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe
bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...”. Điệp ngữ “không có” nhắc lại 3 lần
như nhân lên 3 lần thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm 4 khúc như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu đầy
chông gai, bom đạn,.... Ấy vậy mà những chiếc xe như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao
ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
+ “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi : gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà . Tác giả lí giải việc “xe vẫn chạy” thật bất ngờ mà
chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “ Chỉ cần trong xe có một trái
tim”.
+ Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn
băng băng ra trận, vẫn tới đích. Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu
quật cường
+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất
với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh
hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu
thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái? Tình yêu Tổ Quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở
miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm
chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích.
→ Sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ... mà là con người – con người mang trái tim
nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
→ Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái
tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
 Dẫn chứng:
 “Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui”
(Đoàn giải phóng quân)
3. Đánh giá:
 Giọng thơ tự nhiên, tinh nghịch mà sôi nổi, tươi trẻ rất phù hợp với những chàng thanh niên trên những chiếc xe
không kính. Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường ngày nhưng vẫn thú vị và
giàu chất thơ. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến
sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.
KB:
Những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” phải trải qua những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn
của cuộc kháng chiến, đồng thời họ nhìn lên với vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Đó là những anh lính thời kì kháng chiến
chống Pháp lạc quan, thắm tình đồng chí, đồng đội. Đó là những anh lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, ung dung, hiên
ngang. Vẻ đẹp của những người lính khiến chúng ta yêu mến, cảm phục, tự hào. Là thế hệ trẻ chúng ta phải tiếp nối
truyền thống yêu nước của thế hệ cha ông đi trước, sống sao cho xứng đáng với những hi sinh của cha ông.

3. Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận – 1958:


MB:
Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sâu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Từ cái nhìn của các nhà thơ, những vật quen thuộc như: con thuyền, mái chèo,… cũng trở nên quen vô cùng đẹp
đẽ. Mọi chuyển biến của vạn vật được thể hiện một cách tinh tế, sâu sắc nhất. Có lẽ Huy Cận cảm nhận hết được hết
sự vất vả của người làng chài và đúc kết nó thành những vần thơ. Năm 1958, khi miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa
thì cũng là lúc “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời, tạo nguồn cảm hứng mới trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Đó thực sự là
bức tranh hài hoài giữa thiên nhiên và con người lao động.

TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Huy Cận, tên khai sinh Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở Hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà Nội.
 Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính
quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945.
 Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên, vũ trụ là nguồn cảm
hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ được viết vào năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí hào hứng, phấn chấn, tin tưởng bao
trùm trong đời sống xã hội và ở khắp nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất nước.
 Chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh vào nửa cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và
sống trong không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp phần quan trọng mở ra một chặng đường mới trong thơ Huy
Cận.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: Bài thơ là khúc tráng cam ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động trong công cuộc xây
dựng cuộc sống mới. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người
lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
 Nghệ thuật:
+ Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
+ Âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.
 Cảm hứng chủ đạo:
 Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng lãng mạn tràn đầy niềm vui hào
hứng về cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ,
vốn là một nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy đã tạo ra những hình ảnh rộng
lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ này.
2. Phân tích:
a/ Hai khổ thơ đầu khắc họa cảnh Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong cảnh hoàng hôn thật tráng lệ và huy
hoàng:
 Khổ 1: Cảnh hoàng hôn trên biển và tâm trạng náo nức của người lao động
 Hai câu thơ đầu bằng cảm hứng và bút pháp lãng mạn Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên biển cả lúc
hoàng hôn rất đẹp, rất nên thơ, làm nền cho đoàn thuyền đưa con người lên đường ra chinh phục biển cả:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
 Từ điểm nhìn trên con thuyền ra khơi nhìn về phía Tây bờ bãi, tac giả thấy mặt trời đang từ từ lặng xuống, vũ trụ
đang chuyển mình từ ngày sang đêm, đi vào trạng thái nghỉ ngơi.
 Tác giả đã so sánh mặt trời cuối ngày “như hòn lửa” khiến cho cảnh hoàng hôn trở nên tráng lệ, rực rỡ, kì vĩ.
 Ánh đỏ của mặt trời lúc này làm cho cảnh biển trở nên ấm áp chứ không hề ảm đạm, hiu hắt như cảnh hoàng hôn
thường thấy trong thơ xưa.
 Điểm thêm vào tiếng sóng dịu êm là màn đêm buông xuống qua hình ảnh nhân hóa “ Sóng đã cài then, đêm sập
cửa”. Chính biện pháp tu từ nhân hóa và liên tưởng đã làm cho cảnh biển đêm trở nên gần gũi với con người.
 Biển như một ngôi nhà chung rộng lớn mà màn đêm đang buông xuống chính là cánh cửa khổng lồ, còn những
cơn sóng là chiếc then cài.
 Con người đi trong biển đêm mà như đang đi chính trong ngôi nhà của mình. Điều đó cũng cho thấy con người ra
khơi trong tư thế yên tâm, an toàn, tự chủ.
→ Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm, khiến cảnh
biển đẹp vừa hùng vĩ tráng lệ nhưng lại rất gần gũi với con người khác hẳn với cảnh hoàng hôn trong thơ của Huy Cận
trước cách mạng tháng 8 thường buồn và hiu hắt.

 Trên nền cảnh thiên nhiên tráng lệ là hình ảnh con người lao động phấn khởi, say mê với niềm lạc quan phơi
phới. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi đêm đang dần tới là trở về chính ngôi nhà thên quen:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
 Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là một sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định đi vào
nề nếp. Ra khơi là một công việc diễn ra thường xuyên đều đặn một nhịp sống quen thuộc.
 Hoạt động của người lao động hòa nhịp với nhịp điệu tuần hoàn của vũ trụ: khi màn đêm bắt đầu buông xuống
cũng là lúc đoàn thuyền khởi đầu cho một chuyến hành trình.
 Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã xây dựng một hình ảnh thơ khỏe khoắn và mới lạ. Trước không gian rộng
lớn của biển cả, con người tự tin hát vang câu hát vang vọng: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
 Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn, niềm say sưa, hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu
biển và say mê với những công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho tổ quốc. Tiếng hát của ngư dân hòa cùng sức
gió nâng cánh buồm đưa đoàn thuyền băng băng vượt sóng ra khơi.
 Ba sự vật, hiện tượng: Câu hát, căng buồm, gió khơi được gắn kết thật tự nhiên và kì thú.
→ Như vậy bức tranh cảnh trời đêm không hề yên tĩnh mà lại ngân vang câu hát của người lao động.
 Khổ 2: Là những câu hát ngợi ca sự giàu có, trù phú, ca ngợi nét đẹp tâm hồn của người lao động
Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm cầu mong của người ngư dân, mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật
nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Giọng thơ ngọt ngào vang xa, cùng những biện pháp nghệ thuật nhân hóa và nghệ thuật so sánh: từ “bạc” có ý
nghĩa chỉ số lượng cá nhiều, sự giàu có quý giá của biển cả; phép so sánh, liên tưởng “cá thu” như “đoàn thoai” miêu
tả hình ảnh những con cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung
cửi dệt.
 Câu hát còn là lời gọi thân thương, gần gũi gọi cá vào lưới “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”.
 Nghệ thuật ẩn dụ , qua cách sử dụng từ “dệt” với mong muốn cá đến thật nhiều. Câu hát cho thấy người lao động
làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình, và niềm tin đánh bắt cá thắng lợi. Câu hát thể hiện sự gắn bó thân
thiết giữa con người lao động với biển cả. Họ yêu biển gắn bó với biển.
⇒ Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã phác
họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao
động và niềm hi vọng của người dân chài. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên,
với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng
biết bao.
b/ Bốn khổ thơ tiếp lại miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm bao la, hùng vĩ.
 Khổ 3: Là hình ảnh biển đêm rộng lớn:
 Khổ thơ đã làm hiện lên hình ảnh con thuyền kì vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước rộng lớn thiên nhiên, vũ trụ.
Con thuyền có gió làm bánh lái, trăng làm buồm lướt đi phơi phới giữa mênh mang trời nước:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
 Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại, cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo ra hình ảnh
người lao động.
 Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích
thước rộng lớn, tầm cỡ lớn lao của thiên nhiên vũ trụ.
 Thiên nhiên, vũ trụ, gió, trăng như đang góp sức với con người lao động đi khám phá và chinh phục biển cả.
 Hình ảnh con người lao động được đặt trong nghệ thuật hài hòa của thiên nhiên (Lái gió, buồm trăng, mây cao,
biển bằng) đã diễn tả cảnh con thuyền tung hoành giữa biển trời mênh mông và đang làm chủ biển khơi.
 Từ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với tốc độ phi thường. Thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con
đường lao động khám phá.
→ Chỉ hai câu thơ đó thôi đã cho ta thấy sức tưởng tượng phong phú, bút pháp tài hoa sáng tạo của Huy Cận.
 Hai câu thơ tiếp đã vẽ ra trước mắt người đọc tư thế hiên ngang, khéo léo của người lao động, cảnh đánh cá như
một trận đấu:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
 Những người dân làng chài trở lên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ, nổi bật giữa thiên nhiên vũ trụ.
Họ chủ động chinh phục biển cả.
 Sau khi “ra đậu dặm xa dò bụng biển” đến ngư trường, người ngư dân khẩn trương lao vào cuộc: “Dàn đan thế
trận lưới vây giăng”.
 Công việc đánh cá là một trận chiến, mỗi ngư dân là một chiến sĩ. Con thuyền, mái chèo, lưới và ngư cụ khác đều
trở thành vũ khí của họ. Công cuộc lao động cũng chính là công cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.
 Công việc đánh cá được “dàn đan” như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo như nghệ nhân của người dân làng
chài và tâm hồn phóng khoáng chinh phục biển cả.
→ Tư thế và khí thế của người dân thật là mạnh mẽ đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời.
 Khổ 4: là bức tranh biển đêm giàu có nên thơ:
 Đoạn thơ thứ tư cho thấy cảnh biển đêm lung linh huyền ảo với màu sắc của các loài cá. Nhưng câu thơ tả đoàn
cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với những loài cá quý, cá ngon: chim, nhụ, đé, song:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
 Một loạt hình ảnh liệt kê: Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé, cá song đã góp phần diễn tả sự giàu đẹp của biển cả quê
hương.
 Vẻ đẹp của các loài cá hòa quyện cùng với vẻ đẹp của trăng trên biển tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và
giàu chất lãng mạn.
 Nhà thơ sử dụng một loạt các tính từ chỉ màu sắc “lấp lánh, đen hồng, vàng chóe” để làm nổi bật lên vẻ đẹp của
các loài cá, những con cá song giống như những ngọn đuốc đen hồng lao đi trong luồng nước dưới ánh sáng lấp lánh là
một hình ảnh rất độc đáo sáng tạo, là một nét vẽ tài hoa đẹp hơn nữa là hình ảnh “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”,
ánh trăng in xuống mặt nước, cái đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe.
 Cảnh biển đêm còn lung linh với hình ảnh:
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
 Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở sao lùa” là hình ảnh sống động có hồn thể hiện sự sáng tạo bất ngờ của tác giả gợi
nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống.
Nhìn bầy cá bơi lượn nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ kỳ ảo lung linh như đưa người
đọc vào cõi mộng. Phải có tình yêu biển sâu nặng tác giả mới viết được một vần thơ tuyệt bút như vậy.
 Khổ 5: Tiếng hát hòa với gió để gọi cá và tấm lòng trọng ân tình của những người ngư dân với biển:
 Sự giàu có và phong phú của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao
tiếng hát. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
 Tiếng hát căng tràn trên mặt biển gọi cá vào gợi sự thân thiết, niềm vui, sự phấn khởi trong lao động. Lần thứ hai
tiếng hát vang lên trên biển.
 Câu hát vang lên giữa biển khơi như khúc trường ca rộn rã, biển cả bao la thực sự là ngôi nhà thứ hai của ngư
dân, là niềm hạnh phúc, niềm vui, là tâm trạng của người dân miền Bắc đi lên xây dựng CNXH.
 Những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào: “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, đây là hình ảnh lãng mạn
đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc đánh cá trên biển. Âm nhạc và ánh trăng đã tạo nên những thăng hoa trong tâm
hồn người lao động.
 Những người ngư dân còn có một tình cảm thật đặc biệt với thiên nhiên và với biển cả:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
 Với biện pháp nghệ thuật so sánh “Biển như lòng mẹ”, tác giả đã cụ thể hóa tình cảm tha thiết con người với thiên
nhiên, gợi hình ảnh biển cả giàu có, biển rộng lớn bao la gợi cảm giác ấm áp thân thiết, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc
của con người với thiên nhiên, đồng thời nói lên lòng tự hào của người dân làng chài với biển quê hương.
→ Qua hình ảnh so sánh đó, ta thấy được cái nhìn lãng mạn của nhà thơ Huy Cận.
 Khổ 6: Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say với cảnh kéo lưới.
 Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Cả bài thơ chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới nhưng vẫn đầy
lãng mạn:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
 Công việc đánh cá của người dân nhịp nhàng với điệu vận hành của thiên nhiên vũ trụ. Một đêm trôi nhanh trong
nhịp điệu lao động hứng khởi, hăng say.
 “Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu, cũng là lúc khẩn
trương kéo lưới về kịp trời sáng.
 Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. Thời gian trôi càng
nhanh, con người lao động càng hăng say. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên.
 Hai câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ " xoăn tay"
giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung tư thế của những người lao động, đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư
thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng.
 Bóng dáng họ sừng sững giữa biển khơi với bắp tay nổi cuộn, dưới bàn tay ấy là tấm lưới trĩu nặng mẻ cá đầy.
 Hình ảnh "chùm cá nặng" gợi liên tưởng thú vị: cá rất nhiều, che cả mắt lưới. Đó chính là thành quả lao động mà
người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.
 Vẫn là phép liên tưởng và tưởng tượng bay bổng, nhà thơ giúp người đọc nhận ra được vẻ đẹp dũng mãnh với
những chiến tích lớn lao mà những người anh hùng lao động đạt được, họ hoàn toàn xứng đáng khi có những thành
quả ấy.
 Chuyến ra khơi thắng lợi và sao mờ cũng là lúc công việc đánh cá trên biển ngư dân kết thúc:
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
 Lời thơ miêu tả cụ thể màu sắc của thân cá. Sắc màu ấy đã khiến cho cả không gian bừng sáng lên khi sao mờ
trăng khuất. Sự pha trộn màu sắc: trắng – vàng trong câu thơ thật hài hòa sinh động. Và khi người lao động vừa thu
được chùm cá nặng thì cũng là thời điếm kết thúc một ngày lao động mệt nhọc, hăng say.
 “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” – câu thơ với những hành động diễn ra liên tiếp, khẩn trương tạo sự nhịp
nhàng trong lao động của con người với sự vận hành của thiên nhiên vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh
bình minh.
 “Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào
một ngày mới.
 Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy
là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình
minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng.
 “nắng hồng” còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Đó là nắng của một ngày mới, một cuộc đời mới mà cách mạng đem
lại cho chúng ta.
⇒ Như vậy, bằng sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ
ngữ và hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn
lao, phi thường. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui,
niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.
c/ Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh (khổ 7)
 Khổ thơ cuối của đoạn thơ, tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh khi ngày mới
bắt đầu. Sau một đêm cật lực, “Đoàn thuyền đánh cá” trở về bến với khoang thuyền đầy ắp cá. Trong tâm thế phấn
khởi, lạc quan, họ lại cất tiếng hát thắng lợi hân hoan:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
 Câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của bài ca lao động.
 Nếu như ở khổ thơ đầu bài thơ, câu hát có sức mạnh đẩy đoàn thuyền ra khơi nhanh hơn, thể hiện niềm vui, sự
phấn chấn thì ở đây câu hát là niềm vui với thành quả, câu hát ấy thể hiện sự phấn khởi của người dân sau một đêm lao
động hăng say.
 Chính câu hát đã tạo nên khí thế của con người rất hăng say sau một đêm vật lộn với sóng gió đại dương chứ
không hề mệt mỏi.
 Và ở khổ thơ này, hình ảnh đoàn thuyền cũng một lần nữa được tác giả miêu tả thông qua một pháp nhân hóa hết
sức độc đáo: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.
 Phép nhân hóa đã làm cho đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ
của vũ trụ, nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên.
 Không chỉ thế, lời thơ ấy còn gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động.
 Đoàn thuyền là hình ảnh nghệ thuật được dùng để chỉ những người ngư dân. Họ như đang chạy đua cùng với mặt
trời để mau chóng mang thành quả lao động, những con cá tươi ngon vừa đánh bắt vào bờ phục vụ cho phiên chợ sáng.
 Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã
về đến bến.
 Bài thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ rất đẹp: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
 Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng.
 Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…
⋆ Khi bình minh lên “mặt trời đội biển nhô màu mới” còn là hình ảnh ẩn dụ chỉ sử đổi thay, thế đi lên của đất nước với
một tương lai tươi sáng. Sức lao động và mồ hôi yêu đời kỳ diệu của người dân miền biển đã vẽ lên cảnh được mùa cá
và cuộc sống hạnh phúc ấm no của họ.
⋆ Đây là hình ảnh đẹp của bức tranh sơn mài lung linh, huyền ảo được tạo nên bởi sự liên tưởng bay bổng từ sự quan
sát tinh tế của Huy Cận.
3. Đánh giá:
 Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn ngữ. Âm điệu tạo nên âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại
phơi phới bay bổng. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ để cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi
một số bài thơ khác cùng viết về đề tài này đã rơi vào quên lãng.
 Dẫn chứng:
 “Biết cách làm việc, biết cách lao động thì đó cũng là một tài năng”
 “Con người phải hiểu lao động là một món quà”
 “Hãy biết ơn cuộc sống khi mỗi sáng thức dậy ta đều có việc để làm”
 “Lao động là vinh quang”
 “Học vấn là cái kho, lao động là chìa khóa để mở cái kho ấy”
 “Ai lao động thì người ấy sẽ hạnh phúc”
KB:
Với cảm hứng lãng mạn, bay bổng, nhà thơ đã phát họa thành công hình ảnh người lao động với niềm vui phấn
khởi trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một khúc ca tráng lệ về lao động. Đó còn là sự hài hòa thiên nhiên và
con người, bộc lộ niềm tự hào trước sự hồi sinh của đất nước đang từng bước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc trong những năm đầu lịch sử.

4. Bếp lửa – Bằng Việt – 1963:


MB:
Từ khi sinh ra, ai mà chẳng có một bầu trời tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng của riêng mình. Những kỉ niệm ấy dù
có như thế nào đi chăng nữa thì cũng sẽ đi theo ta trong suốt hành trình dài của đường đời. Với Bằng Việt, đó là những
khoảnh khắc hạnh phúc được ở bên bà, nhóm lên ngọn lửa yêu thương. Chính vì thế nên bài thơ “Bếp lửa” được ra đời
khi tác giả đang học tập và sinh sống ở nước ngoài vào năm 1963, như một cách để gợi nhớ hình ảnh tươi đẹp thuở
nhỏ và thể hiện tình cảm sâu sắc đến người bà kính yêu.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng – sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
 Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ.
 Thơ Bằng Việt hướng vào những tình cảm gần gũi, bình dị , những kỉ niệm, ước mơ tuổi trẻ... toát lên vẻ đẹp
trong sáng mượt mà như những bức tranh lụa; trữ tình đằm thắm mà sâu sắc.
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở Liên Xô.
 Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm
đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối
với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước.
 Nghệ thuật:
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.
+ Thể thơ tự do, mạch cảm xúc hồi tưởng trầm lắng, nhịp thơ thay đổi linh hoạt, giọng điệu tha thiết thể hiện
được tình cảm, cảm xúc của cháu đối với bà.
+ Xây dựng hình ảnh sóng đôi đặc sắc, sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm
tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
 Mạch cảm xúc:
 Mạch cảm xúc: Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Cảm xúc của
cháu được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu bộc lộ nỗi nhớ về những
kỉ niệm thời ấu thơ được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng
thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu gửi niềm
mong nhớ về bà.
 Nhan đề bài thơ:
 Bếp lửa là hình ảnh thân thuộc trong mỗi ngôi nhà ở làng quê Việt Nam. Bếp lửa gợi hơi ấm gia đình, gợi nhớ tới
hình ảnh tần tảo sớm hôm của người bà, người mẹ. Nó còn gợi hơi ấm gia đình, gợi tình yêu thương ấm ấp.
 Xuyên suốt bài thơ hình ảnh bếp lửa được nhắc đi nhắc lại 10 lần. Bếp lửa còn là biểu tượng cho cội nguồn, quê
hương, đất nước; cho những gì gần gũi với tuổi thơ mỗi người. Nó có sức tỏa sáng, nâng đỡ tâm hồn con người trong
suốt cuộc hành trình dài rộng của một đời người.
 Bếp lửa vừa là hình ảnh thực vừa là hình tượng nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm
2. Phân tích:
a/ Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà:
 Hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp mở đầu cho dòng hồi tưởng, nguồn cảm xúc trong cháu:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
 Điệp ngữ “một bếp lửa” cùng giọng thơ sâu lắng khẳng định dấu ấn sâm đậm, khó mờ phai của bếp lửa trong kí
ức, trong tâm trí của cháu. Nó như những đợt cảm xúc dâng trào trong lòng cháu cùng những hồi tưởng về kỉ niệm,
chan chứa tình cảm và cảm xúc của cháu.
 Bếp lửa chờn vờn sương sớm là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai.
Đó là hình ảnh bếp lửa có thật được cảm nhận bằng thị giác ẩn hiện trong sương sớm chờn vờn.
 Hình ảnh chờn vờn sương sớm thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình, khi to khi nhỏ, khi lên khi
xuống nhưng rất mạnh mẽ, lung linh, huyền ảo.
Từ láy chờn vờn gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa ấm áp trong cái se lạnh của
sương buổi sớm mai in đậm trong kí ức của cháu. Bếp lửa chờn vờn, sương sớm mai chờn vờn hay kí ức đang chờn
vờn sống dậy trong lòng cháu?
 Hình ảnh bếp lửa còn gợi lên sự ấm áp thân thương, chứa chan tình cảm ấp iu nồng đượm.
 Từ láy ấp iu gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.
 Trong kí ức cháu vẫn còn cảm nhận được hơi ấm nồng đượm thắp lên từ bếp lửa. Cháu nâng niu, giữ gìn và trân
trọng những kỉ niệm gắn với bếp lửa.

 Hồi tưởng về bếp lửa quê hương cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình  người nhóm lửa mỗi
sớm mai:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
 Tình yêu thương của cháu với bà được biểu lộ trực tiếp và giản dị. Cháu thương bà – lời thốt lên từ trái tim cháu
thật chân thật, xúc động, diễn tả tình cảm sâu sắc cháu dành cho bà. Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng cảm xúc
thương bà mãnh liệt
 Cháu thương bà lặng lẽ, âm thầm đi qua biết bao gian khó biết mấy nắng mưa. Hình ảnh ẩn dụ nắng mưa gợi
những cơ cực, vất vả và những khó nhọc mà bà đã trải qua. Từ biết mấy diễn tả nỗi lòng thương bà của cháu.
→ Đoạn thơ gợi lên hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam.
Hình ảnh ấy khơi nguồn cảm xúc trong dòng hồi tưởng của cháu về bà, trào dâng trong lòng cháu tình thương bà sâu
sắc, cảm động.
b/ Bếp lửa gợi nhớ những kỉ niệm tuổi thơ bên bà:
 Đó là một tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
 Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thương, cháu hồi tưởng về bà, về những năm tuổi thơ sống bên bà. Tuổi thơ
cháu nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chi nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
 Tuổi thơ của cháu có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 mà cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ (CLV).
 Cụm từ đói mòn đói mỏi lay động tâm trí người đọc bởi hình ảnh những con người gầy rạc, chết dần chết mòn vì
cái đói thương tâm hành hạ trên những làng quê tiêu điều, xơ xác. Ngay cả còn ngựa cũng khô rạc ngựa gầy.
 Những hình ảnh thơ chân thực đã tái hiện hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người tiều tụy,
đang lụi tàn sự sống vì nạn đói khủng khiếp mà cả dân tộc đang hứng chịu.
 Tuổi thơ thiếu thốn, gian khổ, hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng đó của cháu gắn với bếp
lửa của bà, gắn với khói bếp cay xè hun nhèm mắt cháu khiến mỗi lần nhớ lại, cháu thấy sống mũi còn cay.
 Cay vì khói bếp, cay vì cuộc sống gian khổ, nhọc nhằn, thiếu thốn. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái
cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện.
 Quá khứ và hiện tại như đang đồng hiện. Mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, lay động mạnh mẽ. Bếp lửa trở
thành một dấu ấn khó mở phai thức gợi trong cháu cả một quãng đời tuổi thơ bên bà trong những năm đói khổ.
 Nhớ về những kỉ niệm suốt tám năm bên bà:
 Những năm nhọc nhằn ấy, cháu sống cùng bà trong khắc khoải tiếng chim tu hú:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hủ kêu trên những cảnh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
 Tám năm ròng – một quãng thời gian dài cháu sống cùng bà.
 Giữa cảnh quê hương gặp cảnh đau thương, hai bà cháu nương tựa vào nhau, đi qua chuỗi ngày buồn vắng, đói
nghèo: Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà.
 Hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm hồn
cháu, đó là tiếng chim tu hú kêu.
 Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, khắc khoải, có lúc mơ
hồ văng vẳng, khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha thiết, cuộn xoáy trong lòng cháu.
 Từ tu hú được điệp lại nhiều lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, cảm giác như tiếng tu hú đang từ
xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.
 Tiếng tu hú kêu giục giã lúa chín trên những cánh đồng cũng cũng là chiếc đồng hồ của cháu để nhắc bà kể
chuyện. Tiếng chim tu hú làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của
nỗi nhớ thương.
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
 Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, làng xóm tiêu điều xơ xác vì bị giặc đốt, bố mẹ phải đi công tác,
cháu đã lớn lên trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà.
+ Bên bếp lửa, bà hay kể chuyện những ngày ở Huế, chuyện đời nay, đời xưa để dưỡng nuôi tâm hồn cháu, cho
cháu những khoảng bình yên vui tươi giữa hiện thực gian khổ, nhọc nhằn.
+ Bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Các từ ngữ bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả sâu sắc,
thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút cực nhọc của bà dành cho cháu.
 Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là
người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu học những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn
dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
 Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt đời cháu. Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ,
công thầy. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu
bé bỏng.
 Hồi tưởng kỉ niệm, cháu thương bà và tha thiết nhắn gửi:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
 Câu cảm thán gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau
của âm thanh tiếng chim tu hú, niềm thương nhớ của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết, mạnh mẽ hơn. Giờ cháu
đã đi xa, bà chỉ có một mình, cháu nhớ thương bà tha thiết, sâu sắc của cháu với bà.
⇒ Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú
trong tình yêu thương. Hình ảnh bà, hình ảnh bếp lửa và âm thanh tiếng chim tu hú vang vọng trong một không gian
mênh mông khiến cả bài thơ nhuộm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu sâu sắc ấm nồng.
 Đọng lại trong hồi ức của cháu là:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
 Những kỉ niệm tuổi thơ hiện lên trong kí ức gắn với dòng hồi tưởng về sự khốc liệt của chiến tranh. Các cụm từ
cháy tàn cháy rụi, lầm lụi đặt cuối câu càng nhấn mạnh hơn sự tàn phá của chiến tranh lúc bấy giờ. Giữa hoàn cảnh ấy,
nhà cháy, bà vẫn vững vàng, cần cù dựng lại túp lều tranh. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn.
 Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Bà dặn cháu: Mày có viết thư chớ kể này
kể nọ/Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
 Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi
nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hậu phương luôn phải là chỗ dựa
vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến.
 Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà
của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam cần cù, nhẫn nại, giàu đức hi sinh.
→ Sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự nhuần nhị mà độc đáo đã gợi lên hình
ảnh người bà giàu tình yêu thương cháu, cần cù, giàu đức hi sinh. Cùng với hình ảnh bà là những kỉ niệm tuổi thơ hiện
về sống động, chân thành và giản dị. Qua đó, người cháu thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và biết ơn bà sâu nặng.
 Suy ngẫm về cuộc đời bà:
Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ về cuộc đời bà. Hình ảnh của bà luôn gắn với
bếp lửa:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
 Bếp lửa gắn với tuổi thơ, bếp lửa chắt chiu tình bà dưỡng nuôi cháu khôn lớn luôn được bàn tay khéo léo của bà
nhen lên mỗi ngày. Điệp ngữ một ngọn lửa nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu.
 Từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà yêu quý, tác giả liên tưởng đến lửa một cách tự nhiên, hàm ẩn ý nghĩa sâu
xa. Bếp lửa là hình ảnh cụ thể, hữu hình ngon thân thuộc gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam, gắn với hình ảnh bà, với
tình bà và tuổi thơ của cháu đã chuyển hóa thành ngọn lửa vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
 Ngọn lửa do tay bà nhen lên tỏa sáng, nuôi cháu khôn lớn mỗi ngày. Nó cũng là ngọn lửa bất diệt của tình yêu
thương, sự hi sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên hy vọng, ý chí, thắp niềm tin trong cháu, truyền cho cháu
tình yêu cuộc sống hướng đến ngày mai tươi sáng.
 Từ đó, có thể hiểu bếp lửa bà nhóm không phải chỉ bằng bằng nhiên liệu mà nó còn được nhóm bằng ngọn lửa
của chính lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của lòng yêu thương và của lòng tin mãnh liệt.
 Từ hình ảnh bếp lửa trong đời thường đã trở thành ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát. Như vậy, bà không phải chỉ
là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa sức sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
→ Nhớ về kỉ niệm, về bếp lửa và bà, cháu thấu hiểu được những ý nghĩa sâu xa từ ngọn lửa bà thắp lên, càng nhớ bà,
yêu bà và quý trọng sâu sắc tấm lòng bà. Hình ảnh bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam tần tảo, nhẫn nại, đầy
yêu thương, hi sinh, chăm chút cho con cháu hiện lên lấp lánh ánh sáng kỳ diệu như ngọn lửa tỏa sáng trong suốt bài
thơ.
b/ Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa:
 Từ sự hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ bên bả, người cháu bộc lộ nỗi nhớ thương bà, suy ngẫm về cuộc đời bà
và hình ảnh bếp lửa:
Lận đận đời bà biểt mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xối gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
 Bà tần tảo, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và tình yêu thương, hết lòng chăm lo cho cháu. Từ láy lần đận,
phép đảo ngữ, ẩn dụ nắng mưa gợi sự nhọc nhằn, vất vả, khó khăn của cuộc đời bà. Cụm từ biết mấy gợi cuộc đời bà
đầy gian truân, vất vả, lận đận trải bao mưa nắng gió sương cuộc đời tưởng như không bao giờ dứt.
 Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, cần cù, nhẫn nại, trong gian
khổ, vất vả vẫn sáng ngời, ấm áp tình yêu thương.
 Suốt khoảng thời gian dài (mấy chục năm trời), bà luôn chịu thương, chịu khó dậy sớm để nhóm bếp, nuôi cháu
khôn lớn.
 Bếp lửa của tình bà nhóm lên ngọn lửa, xua đi cái giá lạnh mùa đông, nấu chín những nồi khoai sắn, nồi xôi gạo
để cháu ấm lòng trong những ngày nạn đội hoành hành.
 Không chỉ nhóm bếp lửa của sự sống, bếp lửa từ đôi tay bà chắt chịu, ấp iu còn nồng đượm vị yêu thương, mang
ý nghĩa kỷ lạ và thiêng liêng.
 Bà nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi dạy cho cháu tình yêu xóm làng, yêu quê hương, đất nước nghèo
khó. Bà nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi người. Bà nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ để cháu có một tuổi thơ đầy ắp kỉ niệm, bồi đắp cho cháu về tâm hồn và cách sống.
 Điệp từ nhóm không chỉ mang nghĩa thực mà còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng, tô đậm sự kỳ lạ và thiêng liêng
của bếp lửa.
 Bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã
truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tỉnh yêu thương ruột thịt, tình cảm sẽ chia, tỉnh đoàn kết với
hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước. Cũng từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những
ký ức, kỉ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó, cũng là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước, quê hương,
nhớ về dân tộc minh.
→ Hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim ẩn chứa niềm tin và
sức sống của con người.
 Từ tình cảm với bả, suy ngẫm về cuộc đời bà, người cháu nâng lên thành triết lí:
Ôi, kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
 Câu cảm thân như tiếng cảm xúc dâng trào trong tâm hồn người cháu, thể hiện sự kính trọng bà.
 Hình ảnh bếp lửa ghi dấu ấn lạ kì và có sức rung cảm mãnh liệt gắn với tình cảm thiêng liêng. Bếp lừa là tình bà
ấm áp, là nguồn sống, là biểu tượng của yêu thương, sẻ chia.
+ Bếp lửa kì lạ vì ngọn lửa cháy sáng bất diệt trong mọi hoàn cảnh, sưởi ấm lòng người, thắp sáng tình yêu, nuôi
dưỡng ước mơ cho cháu.
+ Bếp lửa thiêng liêng vì nó ấp ủ tình bà, lòng bà cao đẹp dành cho cháu, cho gia đình, cho quê hương và đất nước.
→ Tình cảm lớn lao bắt nguồn từ những tình cảm đơn sơ, bình dị. Bếp lửa và tình bà giúp cháu trưởng thành, trở thành
hành trang nâng đỡ cháu trên đường đời. Cháu biết yêu đất nước từ tình yêu bà, cháu hiểu được sức mạnh của đất
nước từ cuộc đời vất vả của bà.
c/ Tình cảm sâu nặng, tha thiết của cháu nhớ bà ở nơi xa:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
 Bây giờ, cháu đã trưởng thành, đã khôn lớn và ở nơi xa, được nhìn thấy nhiều điều mới lạ, hiện đại, đón nhận
nhiều niềm vui. Nhưng khoảng cách về không gian, khoảng cách thời gian và cả sự khác biệt về hoàn cảnh sống vẫn
không thể thay thế được hình ảnh bà, hơi ấm bếp lửa, hơi ấm tình yêu thương của bà ở trong tim cháu.
 Nơi phương trời xa xôi, cháu vẫn chẳng lúc nào quên bà, quên kỉ niệm bên bà, quên bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Phó từ vẫn cùng ý nghĩa phủ định chẳng lúc nào quên bộc lộ nỗi nhớ bà da diết và khẳng định tình cảm sâu nặng, son
sắt, thủy chung của cháu với bà.
 Câu thơ cuối là một câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm mãnh liệt của cháu, bộc lộ chân thành mà tha thiết nỗi nhớ,
tình yêu và lòng biết ơn của đứa cháu nơi xa dành cho bà; cũng là biểu hiện của tình cảm đối với gia đình, quê hương,
đất nước.
→ Từ đó, có thể hiểu đạo lí cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn người từ tuổi ấu thơ
sẽ trở nên bất diệt, nhắc nhở mỗi người biết trân trọng, thủy chung với quá khứ. Những tình cảm giá đình ấm áp bình
dị là hành trang nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.
 Dẫn chứng:
 “Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
 “Tiếng bà ru cháu ầu ơ
Yêu thương còn đến bây giờ Ngoại ơi”
 “Yêu bà từ thuở ấu thơ
Những ngày xưa ấy bây giờ đã qua”
KB:
Nhìn chung, “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc đã làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc
giả, giúp ta cảm nhận được tấm chân tình của tác giả đối với người bà kính yêu tảo tần chịu thương chịu khó. Khép lại
bài thơ, hình ảnh người bà vẫn cứ lặng lẽ tỏa sáng, nhóm lên trong lòng người đọc sự kính trọng và lòng biết ơn sâu
sắc.
5. Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải – 1980:
MB:
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Lời ca giản dị cứ mãi ngân vang trong tâm trí bất kỳ ai đã từng một
lần nghe qua bài “Để gió cuốn đi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bất chợt ta sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của nó.
Trong cuộc sống, mỗi con người đều mang trong mình một tấm lòng lương thiện với tình yêu thương dạt dào để giúp
đỡ, sẻ chia và cống hiến cho đời. Cũng chính vì lẽ đó mà “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được sáng tác vào năm
1980 như một món quà dâng cho đời và cũng là lời trăn trối cuối cùng của người thi sĩ trước khi vào cõi vĩnh hằng.
TB:
3. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm bá Ngoãn, là nhà thơ xứ Huế, hoạt động văn nghệ từ cuối những
năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động cách mạng và
là một trong những cây bút có công xây dựng nền Văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
 Thanh Hải đã dành trọn vẹn cuộc đời để cống hiến cho quê hương, đất nước với những vần thơ tha thiết: Thơ ông
chân chất,bình dị, đôn hậu và chân thành... Đối với nền thơ chống Mĩ của miền Nam,Thanh Hải là một trong những
cây bút có nhiều đóng góp (Trần Hữu Tá).
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ ra đời tháng 11/1980 – thời điểm đất nước đã thống nhất nhưng đang xây dựng cuộc sống mới với muôn
ngàn khó khăn, thử thách.
 Bài thơ được viết trong một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải: ông đang bị bệnh nặng phải điều
trị ở bệnh viện Trung ương Huế trong tiết trời mùa đông, và chỉ một tháng sau, ông qua đời. Ngay những ngày cuối
đời nằm bên giường bệnh, vẫn nguyên trong tâm hồn nhà thơ tình yêu cuộc sống và nỗi khát khao, nguyện vọng hiến
dâng cho đời cao đẹp.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân
thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
 Nghệ thuật:
 Thể thơ tự do năm chữ mang âm hưởng dân ca xứ Huế
 Giọng điệu tâm tinh nhẹ nhàng, tha thiết rồi trầm lặng, trang nghiêm.
 Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh biểu tượng kết hợp với phép điệp ngữ, ẩn - dụ, so sánh...
 Cấu trúc chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: đất trời → đất nước → con người.
 Mạch cảm xúc:
 Mạch cảm xúc: bắt đầu từ rung cảm trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và đến những
suy nghĩ, ước nguyện về lẽ sống cao đẹp, muốn góp vào mùa xuân chung một mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ khép lại với
những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua ngợi ca làn điệu dân ca xứ Huế.
 Nhan đề bài thơ:
 “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ. Đó là sự kết hợp giữa một danh
từ chỉ thời gian trừu tượng và một tính từ chỉ hình khối => mùa xuân trở nên hữu hình, cụ thể, thể hiện ước nguyện cao
quý và khiêm nhường của nhà thơ: Mỗi người hãy làm một mùa xuân tươi đẹp và giàu sức sống, hãy đem tất cả những
gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Nghĩa là sống đẹp, sống có ích,
thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng => một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực, một
lí tưởng sống vô cùng cao đẹp của nhà thơ.
4. Phân tích:
a/ Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
 Bức tranh thiên nhiên mùa xuân được tác giả cảm nhận bằng thị giác qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, mang
đặc trưng của xứ Huế: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc:
+ Không gian thiên nhiên mùa xuân rộng lớn, thoáng đãng, có dòng sông mềm mại trải dài, có khoảng trời cao rộng.
+ Màu sắc hài hoà dòng sông xanh được điểm tô thêm sắc hoa tím biếc  đặc trưng của xứ Huế thơ mộng.
+ Sắc xanh của dòng sông, của bầu trời dịu mát làm nền cho màu tím thủy chung của bông hoa mang đến bức tranh
xuân một vẻ đẹp nhẹ nhàng mà tươi mới, sống động.
+ Đảo ngữ “mọc” được đặt lên đầu câu gợi hình dung đóa hoa như đang từ từ trỗi dậy, xòe nở và vươn cánh giữa
dòng sông xanh thẳm. Sự vận động của cảnh vật làm cho bức tranh thiên nhiên nhiên có hồn và vô cùng sống động.
 Từ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn dùng thính giác để lắng nghe âm thanh tiếng chim chiền chiện:
 Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế không chỉ có màu sắc, đường nét mà còn rộn rã âm thanh với tiếng chim
chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh xuân lan toả khắp bầu trời làm vang động cả không gian.
 Cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện rất thân thương với thiên
nhiên “ơi, hót chi… mà…
+ Cảm xúc đến thật tự nhiên, bật lên trong câu hỏi tu từ: Hót chi mà vang trời. Cách nói chỉ mà cũng rất thiết tha
theo đúng kiểu của con người xứ Huế.
+ Ở trong phòng bệnh chật hẹp, âm thanh tiếng chim chiền chiện như làm vang dậy cả không gian, làm sống dậy
sức sống mùa xuân căng tràn. Tác giả thiết tha lắng nghe âm thanh của mùa xuân, của sự sống.
 Nhà thơ đã đón nhận sự sống của thiên nhiên đất trời bằng tình yêu dâng tràn, bằng tâm hồn xao động và cả trí
tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
 Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình vừa trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với
mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện:
 Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt
sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc mà nhà thơ đang đưa tay hứng trọn
với tất cả sự nâng niu, trân trọng.
 Xét trong mối quan hệ với hai câu thơ trước đó thì “giọt long lanh” có thể hiểu là giọt âm thanh tiếng chim chiền
chiện qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển
thành từng giọt, có hình khối (cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm
nhận bằng xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”.
→ Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, giữa lúc cái lạnh của mùa đông đang bao trùm lên mọi nẻo nhưng bằng tâm
hồn nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, trái tim tha thiết với cuộc đời, Thanh Hải đã viết nên những vần thơ trong trẻo và
đầy sức sống về mùa xuân, một mùa xuân trong tâm tưởng nhà thơ.
b/ Cảm xúc trước mùa xuân của con người, đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
 Sức sống mùa xuân đất nước được tâm hồn nhà thơ cảm nhận sâu sắc qua hình ảnh lộc non gắn với người cầm
súng và người ra đồng. Hình ảnh người cầm súng và người ra đồng biểu tượng của hai nhiệm vụ lớn là chiến đấu bảo
vệ tổ quốc và lao động xây dựng đất nước.
 Từ lộc có tính chất chuyển nghĩa mang đến cho người đọc những cách hiểu mới lạ. Lộc là chồi non, cành biếc
mơn mởn của cây cối khi xuân về. Lộc còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp, cho sức sống mãnh liệt.
+ Ở tiền tuyến, người lính ra trận khoác trên vai cành lá ngụy trang xanh tươi như mang sức sống của mùa xuân,
của đất nước vào cả cuộc chiến đấu.
+ Ở hậu phương, người ra đồng cần cù lao động, những nương mạ xanh non mơn mởn cứ thế trải dài đất nước.
+ Mùa xuân với lộc non xanh tươi theo chân họ trên những ngả đường làm nhiệm vụ hay chính họ, bằng bàn tay và
trái tim của mình đã mang lại lộc non, sắc xuân cho đất nước? Câu thơ không chỉ thể hiện sức sống mãnh liệt của đất
nước mà còn bộc lộ tình yêu, niềm tin vào tương lai không ngừng đi lên phía trước.
=> Với nét nghĩa vừa thực vừa ẩn dụ, các điệp từ “mùa xuân”, “lộc” đã khẳng định vai trò, sứ mệnh của những con
người đã làm nên đất nước. Họ không phải là ai cụ thể, họ là toàn thể nhân dân, những người chiến sĩ, những người lao
động bình thường và giản dị.
 Khí thế thời đại của cả một dân tộc hiện rõ trong nhịp điệu hối hả và thanh âm xôn xao:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao..
 Điệp ngữ “Tất cả” và các từ láy giàu sức biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh, gấp gáp diễn
tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đồng thời cũng nói lên tâm trạng náo nức, rộn ràng trong lòng nhà thơ.
 Mùa xuân như tiếp thêm sức sống cho cả dân tộc không ngừng tiến về phía trước sau bốn nghìn năm lịch sử:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
+ Đất nước trải qua bốn nghìn năm, biết bao thăng trầm, vất vả và gian lao. Giang sơn gấm vóc này đã thấm biết
bao xương máu, biết bao nước mắt của bao nhiêu thế hệ, của bao nhiêu tháng năm đằng đẵng. Nhưng sao thì cũng
không khuất phục được dân tộc Việt Nam kiên cường, anh dũng.
 Đất nước vẫn cứ thế mà tỏa sáng như vì sao, không ngừng đi lên phía trước, chẳng sợ gì mà bước đi hiên ngang
trên chính mảnh đất, giang sơn của dân tộc mình. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, thiên thể của vũ trụ, là hiện
thân của sự vĩnh hằng, vẻ đẹp lung linh trong vũ trụ. Hình ảnh so sánh mới lạ cùng cách dùng từ cứ đi lên như khẳng
định chắc chắn sức sống dân tộc, khẳng định đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ và không một thế lực nào
ngăn cản được, nhất định đất nước sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, đi đến bến
bờ hạnh phúc.
→ Qua những cảm xúc trước mùa xuân đất nước, tác giả bộc lộ lòng tự hào, niềm lạc quan, tin yêu đối với đất nước.
Âm thanh mùa xuân của đất nước được vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần
c/ Ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ
 Từ những xúc cảm về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và
tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa và giá trị của cuộc đời mỗi con người.
⋆ Thanh Hải tha thiết, khát khao hòa nhập, dâng hiến cho cuộc đời tươi đẹp:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
 Nếu như khổ đầu, đại từ “tôi” gắn liền với việc thể hiện những cảm xúc riêng của nhà thơ trước mùa xuân thiên
nhiên, đất trời thì trong khổ thơ này, đại từ “ta” đã ngân lên vang vọng, tha thiết. “Ta” trong đó có nhà thơ và mọi
người, mang khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến những phần tốt đẹp dù nhỏ bé của
mình cho cuộc đời chung, cho đất nước, ước nguyện đơn sơ, bình dị mà cao đẹp biết bao!
 Những hình ảnh đẹp của thiên nhiên đơn sơ, giản dị mà giàu ý nghĩa được đưa vào thơ thật tự nhiên, gần gũi,
diễn tả sâu sắc tâm niệm của nhà thơ :
+ Làm một tiếng chim trong muôn ngàn giọng hót của bản hòa ca gọi xuân về, làm cành hoa trong muôn triệu đóa
hoa thẳm tươi tô điểm hương sắc cho cuộc đời, làm nốt nhạc trầm xao xuyến trong bản hòa ca êm ái của dân tộc. Tất
cả những điều ước ấy tưởng chừng nhỏ nhoi nhưng thực sự rất cao đẹp. Ông chọn được thầm lặng, lặng lẽ mà dâng
hiến cho đời, chứ không phông bạt, không phô trương.
+ Nếu như ở khổ đầu, ta bắt gặp hình ảnh bông hoa tím biếc, con chim chiền chiện hót vang lừng trong cảm xúc
say sưa của nhà thơ thì ở đây, hình ảnh thiên nhiên quen thuộc này lặp lại, tạo nên sự đối ứng chặt chẽ.
 Điệp ngữ “Ta làm” kết hợp với các hình ảnh liệt kê tạo nhịp thơ dồn dập diễn tả khát vọng mãnh liệt của nhà thơ.
→ Thanh Hải đã gửi gắm đến ta một quan niệm về lẽ sống, về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái riêng
với cái chung: “Mỗi người đều có thể góp một phần nhỏ bé của mình làm đẹp cho mùa xuân đất nước, mùa xuân cuộc
đời”. Ước nguyện của nhà thơ tuy nhỏ bé, đơn sơ nhưng rất chân thành, tha thiết.
⋆ Bày tỏ khát khao dâng hiến thiết tha, Thanh Hải cho ta thành lẽ sống đẹp:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dàng cho đời
 Làm con chim, làm cành hoa, làm nốt trầm... và góp nhặt tất cả những phần nhỏ bé mà tinh túy nhất ấy để làm
một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời.
 Mùa xuân nho nhỏ là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo và đặc sắc: Mùa xuân là một danh từ chỉ thời gian kết hợp
với tính từ nho nhỏ làm cho mùa xuân trở nên cụ thể, hữu hình. Mùa xuân nho nhỏ là biểu tượng cho những gì tinh
túy, đẹp đẽ của mỗi người. Mỗi người hãy là một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì nhỏ bé đẹp nhất của mình để góp
vào làm đẹp thêm mùa xuân cuộc đời, mùa xuân đất nước.
 Phép đảo ngữ cùng cặp từ láy nho nhỏ, lặng lẽ góp phần thể hiện thái độ sống và cống hiến chân thành mà khiêm
nhường của nhà thơ.
⋆ Ước nguyện, lẽ sống dâng hiến ấy trải dài suốt cả cuộc đời:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
+ Điệp ngữ dù là là tiếng lòng tự nhủ, tự nhắc mình và khẳng định với đời: Dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời,
tuổi hai mươi phơi phới niềm tin và sức trẻ hay tuổi già sức yếu, bệnh tật, mỗi người cũng phải sống đẹp, sống có ích,
sống cống hiến. Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt!
⇒ Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn về bệnh tật,
những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.
d/ Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế:
 Trong hân hoan niềm vui, khát khao dâng hiển, tâm hồn nhà thơ cất lên tiếng nói ngợi ca trong cảm xúc thiết tha
tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế:
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
 Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc bồi hồi, tự hào về quê hương đất nước. Cảnh vật mùa xuân nở
rộ trong lòng Thanh Hải như tiếp thêm sức sống để trái tim nhà thơ say mê tiếng hát làn điệu dân ca thân thương xứ
Huế. Nhà thơ xin hát về quê hương như một lời tạ từ, tạ từ mùa xuân, tạ từ quê hương nơi có điệu Nam ai, Nam bình
sâu lắng, tạ từ nước non ngàn dặm trong nhịp phách tiền đất Huế. Trong lời thơ ấy, tác giả như muốn khẳng định đâu
đâu cũng đẹp, đâu đâu cũng thấm đượm nghĩa tình.
+ Trong âm hưởng lời ca điệu hát quê hương, tác giả như hình dung được vẻ đẹp của non nước hữu tình, cảm thấy
yêu mến và tự hào hơn về bản sắc quê mình. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là
ngàn dặm mình, ngàn dặm tình đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương của một con người tuy cận kề cái chết
vẫn tràn đầy niềm yêu thiết tha cuộc đời!
⇒ Khổ thơ thể hiện tình yêu tha thiết với quê hương, đất nước trong niềm tự hào về vẻ đẹp đất Huế, tự hào về những
giá trị truyền thống bền vững,
 Dẫn chứng:
 “Sống sao nên phải, cho nên sống // Sống để muôn đời, sử tạc ghi” (Nguyễn An Ninh)
 Anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”
 “Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
(Tố Hữu)
 “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
(Trương Quốc Khánh)
KB:
Bài thơ ra đời khi Thanh Hải sắp vĩnh biệt cuộc đời nhưng cả bài thơ vẫn vang vọng vẫn ngập tràn sức xuân và
khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó đã gieo vào lòng người, đọc những rung động sâu xa, truyền cho người đọc niềm
lạc quan, yêu đời ngay cả khi mặt trời sắp lặn. Nhưng chúng ta còn khâm phục hơn ở Thanh Hải đó là một tấm lòng
rộng mở, thanh thản, cao đẹp, sống có ý nghĩa đến những phút chót cuộc đời: Muốn được hòa nhập, được cống hiến
phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Mỗi người hãy góp một nốt trầm, “Một mùa
xuân nho nhỏ” vào giàn hợp xướng bất tận của cuộc đời, của đất nước.

6. Viếng Lăng Bác – Viễn Phương – 1976:


MB:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trǎm dòng máu nhỏ
(Tố Hữu)
Bác Hồ  người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam đã dâng trọn bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp của đời
mình vì độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân để rồi chìm vào giấc ngủ mãi mãi, vĩnh hằng. Cuộc đời
của Người, sự nghiệp của Người là trang sử thi hào hùng, rực rỡ, tỏa sáng cho đời và cả cho thi ca: “Tên Người là cả
một miền thơ”. “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy. Bài thơ là những phút giây ngắn
ngủi mà thiêng liêng, trìu mến mà tha thiết của tác giả khi vào thăm lăng Người.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Viễn Phương (1928 - 2005) quê ở An Giang.
 Tham gia cách mạng trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là một trong những cây bút có
mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam từ những ngày đầu.
 Thơ Viễn Phương dung dị, cảm xúc sâu lắng, thiết tha ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường.
 Một số sáng tác tiêu biểu: “Mắt sáng học trò”, “Như mây mùa xuân”, “Phù sa quê mẹ”,…
b/ Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Tháng 4/ 1976, một năm sau ngày đất nước giải phóng và thống nhất, cũng là lúc lăng chủ tịch Hồ Chí Minh
được khánh thành. Viễn Phương cùng đồng bào miền Nam ra thăm lăng Bác. Trong niềm xúc động thiêng liêng, lòng
kính yêu và niềm tự hào tha thiết, Viễn Phương đã viết nên bài thơ này.
 Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978)
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ
khi vào lăng viếng Bác.
 Nghệ thuật:
 Giọng điệu vừa trang nghiêm vừa trầm lắng, thiết tha cùng vói thể thơ tám chữ linh hoạt góp phần thể hiện cảm
xúc một cách chân thật.
+ Sử dụng nhiều hình ảnh thơ vừa thực vừa mang tính biểu tượng.
+ Các phép tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ,… đặc sắc.
 Mạch cảm xúc:
 Mạch vận động của cảm xúc men theo hành trình một chuyến vào lăng viếng Bác. Đó là niềm ngạc nhiên và xúc
động khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác; nỗi xúc động, tự hào khi được hòa cùng dòng người vào lăng
viếng Bác; nỗi đau đớn, xót thương khi đứng trước di hài của Người và niềm lưu luyến, bịn rịn trước khi phải rời xa
lăng Bác để trở về miền Nam.
 Cảm xúc bao trùm: Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính , niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam xa
xôi ra thăm lăng Bác.
2. Phân tích:
a/ Cảm xúc của tác giả trước cảnh vật bên ngoài lăng Bác:
* Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện thật hay dòng cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
 Mở đầu là lời tự sự rưng rưng niềm xúc động, chan chứa tình cảm lắng sâu: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
 Xưng hô Con – Bác mộc mạc, giản dị, chân chất theo kiểu Nam Bộ mà thân thiết, gần gũi, đạt đào biết bao tình
cảm yêu thương, kính trọng Bác. Cách xưng hô ấy đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân.
+ Cụm từ ở miền Nam gợi lên biết bao ngậm ngùi thương nhớ của nhân dân với Bác. Sinh thời, Bác rất yêu miền
Nam và nhân dân miền Nam cũng luôn mong một lần được thấy Người đặt chân đến thăm. ”Bác nhớ miền Nam nỗi
nhớ nhà // Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”(Tố Hữu). Vì vậy, Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác không chỉ là
tiếng lòng kính yêu của Viễn Phương mà còn là của triệu triệu trái tim đang hướng về Người với niềm thành kính
thiêng liêng. Câu thơ đầy ấm áp tình cảm thiết tha, nỗi bồi hồi xúc động của một người con đất Việt đối với vị cha già
của dân tộc.
+ Nhà thơ dùng từ thăm thay cho từ viếng như cố ý muốn quên đi cảm giác tiếc thương, đau buồn và hình dung
Bác như còn sống mãi với dân tộc Việt Nam.
 Từ bên ngoài nhìn vào lăng Bác, hình ảnh đầu tiên thu vào tầm mắt nhà thơ là hàng tre thân thuộc:
+ Hàng tre bát ngát hiện lên trong làn sương sớm mờ ảo của bầu trời Hà Nội làm thổn thức trái tim, khơi dậy tình
yêu cũng như niềm tự hào trước một hình ảnh quá đỗi thân quen của làng quê khiến lăng Bác vừa trang nghiêm lại vừa
gần gũi. Hàng tre gợi hình ảnh quê hương làng mạc, có bóng dáng đất nước từ ngàn xưa.
+ Từ cảm thán Ôi bộc lộ cảm xúc trào dâng khi bắt gặp hình ảnh hàng tre gần gũi, thương mến.
 Hàng tre xanh xanh là hình ảnh tả thực cảnh quanh lăng Bác nhưng còn mang nét nghĩa ẩn dụ hình ảnh tượng
trưng cho dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam với phẩm chất cốt cách cao quý nhất:
+ Từ gợi tả xanh xanh đảo lên trước như muốn nhấn mạnh sức sống bền bỉ của quê hương, dân tộc giữa đất đai khô
cằn sỏi đá. Màu xanh của tre là màu xanh của sức sống Việt Nam, màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hòa bình.
+ Từ ngàn xưa, lũy tre đã góp phần dựng nên thần đồng Tổ quốc. Tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp, tre cùng
người đánh giặc, cùng người lao động. Tre thanh cao, giản dị, chí khí như người. Tre anh hùng, dẻo dai, cần cù, chịu
thương chịu khó.
 Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã khắc họa vẻ đẹp hiên ngang,
kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam trong muôn vàn khó khăn, thử thách.
→ Trong giây phút nhìn cảnh những hàng tre xanh đứng thẳng hàng quanh lăng Bác, lòng Viễn Phương xúc động
khôn nguôi khi liên tưởng đến dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Hàng tre thân thuộc mang vẻ yên bình của làng
quê Việt Nam đang tô điểm cho vẻ đẹp ngoài lăng Bác hay là hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam đang quây quần bên
Bác, canh giấc ngủ ngàn thu cho Người? Câu thơ giản dị nhưng gợi bao ý nghĩa sâu sắc.
⇒ Tình cảm của nhà thơ và của đồng bào miền Nam khi về với Bác thật chân thành, xúc động biết bao!
b/ Cảm xúc trong dòng người vào lăng viếng Bác:
* Đoạn thơ đã thể hiện nỗi xúc động thiêng liêng xen lẫn niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ khi hòa
cùng dòng người tiến gần vào lăng viếng Bác  vị cha già kính yêu:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
 Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh thơ mới lạ mang ý nghĩa thật sâu sắc:
+ Nếu mặt trời của thiên nhiên soi sáng cho nhân loại, thắp nắng cho vạn vật bừng sự sống thì Bác cũng chính là
vầng mặt trời tỏa sáng, xua đi bóng đêm tăm tối cho dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than.
+ Hình ảnh ẩn dụ mặt trời chỉ Bác Hồ được đặt song song với mặt trời của vũ trụ mang tính vĩnh hằng nhằm ca
ngợi sự vĩ của Bác. Như vầng mặt trời rực sáng, Bác đã sưởi ấm, ôm cả non sông mọi kiếp người.
 Hình ảnh mặt trời thiên nhiên được nhân hóa qua từ đi và thấy đang ngày ngày chiêm ngưỡng vầng mặt trời
trong lăng với niềm ngưỡng mộ và thán phục đã khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của Bác trong lòng dân tộc.
 Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng
yêu nước nồng nàn của Bác.
 Biết ơn và kính yêu Người, hình ảnh những người con đất Việt từ mọi miền tụ họp về đây để vào thăm Bác được
miêu tả thật ấn tượng:
 Điệp ngữ ngày ngày diễn tả nhịp tuần hoàn lặp đi lặp lại một cách đều đặn. Ẩn chứa trong đó là niềm thành kính
thiêng liêng: Bác ra đi để lại trong lòng mỗi người niềm tiếc thương khôn nguôi. Dòng người nối nhau vào thăm Bác
trong nỗi niềm thương nhớ không dứt. Nhịp thơ thiết tha chậm rãi như lắng sâu cảm xúc.
+ Theo nghĩa thực, tràng hoa có thể hiểu là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa mà người người mang
vào lăng viếng Bác. Nhưng tràng hoa cũng là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo và đầy sáng tạo của nhà thơ: Muôn người từ
mọi miền đất hòa vào dòng người như kết thành tràng hoa muôn sắc ngàn hương dâng lên Bác. Mỗi người con Việt
Nam là một đóa hoa tươi thắm, triệu triệu con người là một tràng hoa rực rỡ sắc màu dâng lên Bác.
+ Hình ảnh hoán dụ bảy mươi chín mùa xuân tượng trưng cho bảy mươi chín năm Bác đã cống hiến cuộc đời cho
đất nước, cho cách mạng.
+ Mỗi tuổi đời của Bác là một mùa xuân tươi đẹp dâng hiến cho đất nước, làm nên dáng hình xứ sở. Bác mang mùa
xuân cho Tổ quốc, để mỗi cuộc đời nở hoa. Bác chính là mùa xuân còn dòng người là những đóa hoa tươi thắm.
⇒ Hình ảnh thơ đẹp và đậm đà ý nghĩa đã thể hiện tấm lòng yêu quý, biết ơn, tự hào và thành kính ngợi ca Bác của
Viễn Phương cũng như hàng triệu con tim luôn hướng về Người. Bác đã ra đi nhưng Người vẫn sáng mãi như vầng
thái dương, hình ảnh Người vẫn luôn in đậm trong lòng mọi người. Người mãi trường tồn với non sông, đất nước.
→ Với giọng điệu vừa trang nghiêm vừa trầm lắng thiết tha, đoạn thơ đã diễn tả thật chân thành và sâu sắc tình
cảm yêu mến, nhớ thương, niềm xúc động, thành kính, lòng biết ơn và tự hào khi tác giả từ miền Nam ra viếng thăm
lăng Bác.
c/ Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng Bác:
* Khổ thơ thứ ba đã diễn tả cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài của Bác. Bao tình cảm dồn
nén bấy lâu nay gặp bóng hình thân thương bỗng trào lên thổn thức:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
 Trong lăng, không khí thiêng liêng và thanh tĩnh, không gian và thời gian như ngưng đọng cùng ánh sáng dịu
nhẹ, trong trẻo của vầng trăng:
+ Bác như đang nằm ngủ một giấc ngủ “bình yên”, trong một khung cảnh thơ mộng, Bác chỉ tạm nghỉ ngơi sau một
hành trình dài vất vả, gian nan.
+ Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng khiến tác giả hình dung đó là ánh trăng của đất trời, vốn là tri kỉ tri âm của Bác. Bác
vốn yêu trăng, trăng làm bạn với Bác vào trong nhà lao, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch và trăng lại về đây để
canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
+ Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền bao bọc giấc ngủ của Bác đã gợi cho ta cảm nhận về vẻ đẹp thanh cao, giản dị
của Bác, một tâm hồn luôn yêu và gắn bó với thiên nhiên.
→ Nhìn “Bác ngủ “, nhà thơ đau đớn, xúc động, cố nén nỗi đau lại để khẳng định rằng Bác vẫn còn sống mãi
 Trong trái tim đầy yêu thương, kính trọng và biết ơn của mọi người, Bác như còn sống mãi nhưng lí trí thì lại
phải tỉnh táo để biết rằng Bác đã đi xa:
+ Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. Trời xanh là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: sự nghiệp của
Người vẫn còn mãi mãi mãi vang vọng với non sông đất nước, như trời xanh vĩnh hằng. Bác đã hóa thân vào bầu trời
của dân tộc, thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc.
+ Cụm từ “nghe nhói” đã diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ, nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi
hình dung nỗi đau không chỉ cảm được mà còn nghe thấy được, nỗi đau như giằng xé, day dứt khôn nguôi. Đó là nỗi
đau, sự mất mát sâu thẳm tận đáy lòng của tác giả và triệu triệu trái tim con người Việt Nam.
→ Lời thơ tựa như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con xa về muộn bên di hài người cha kính mến.
d/ Mong ước thiết tha khi sắp rời lăng Bác:
* Ở khổ cuối, nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến và ước nguyện chân thành, xúc động với Bác khi sắp trở về lại
miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
 Dường như lúc này lòng thương nhớ bấy lâu không thể kìm nén được nữa phải nghẹn ngào thốt ra thành lời:
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giống như một lời giã biệt - một lời nói mộc mạc kiểu Nam
Bộ nhưng thiết tha vô cùng.
+ Những nhớ thương của người con về thăm cha muộn màng, những khao khát được ở lại mãi bên Người, dâng lên
tràn đầy, sâu nặng vô cùng. Nó tuôn trào thành dòng lệ mãnh liệt, không thể nào kìm nén.
 Dù có lưu luyến, có bịn rịn, không muốn rời xa Bác thì cũng đến lúc phải trở về, nhà thơ chỉ có thể gửi lòng mình
ở lại bằng cách hóa thân vào cảnh vật bên lăng Bác:
+ Nhà thơ muốn hóa thân làm “con chim hót” để cất tiếng hót đem lại chút tươi vui rộn rã cho Người, muốn làm
“đóa hoa” tỏa hương sắc nơi Người yên nghỉ và đặc biệt, muốn làm “cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bên
lăng, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
+ Điệp ngữ muốn làm và các hình ảnh liệt kê đã tạo nên nhịp điệu thơ dồn dập, diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng
trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ cũng như của toàn thể dân tộc Việt Nam với Bác.
+ Một lần nữa hình ảnh cây tre lại xuất hiện tạo kết cấu đầu cuối tương ứng mang đến một ý thơ mới mẻ: muốn
được làm một cây tre để nhập vào hàng tre bát ngát canh giữ giấc ngủ nghìn thu cho Người. Cây tre trung hiếu là hình
ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung của dân tộc Việt Nam suốt đời đi theo lí tưởng của Người.
 Lời thơ khiến ta nhớ đến ước nguyện của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
+ Nếu như Thanh Hải muốn hóa thân vào cảnh vật để làm đẹp cho cuộc đời, để cống hiến mùa xuân của cuộc đời
mình vào mùa xuân chung của dân tộc thì với Viễn Phương, ước nguyện hóa thân vào cảnh vật là để được bên Bác
suốt đời.
⇒ Kết thúc bài thơ là sự xa cách về không gian địa lí nhưng lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, bài thơ từ đây kết thúc
nhưng tâm sự nhà thơ lại vút cao, một nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, những nỗi niềm tự nguyện về cuộc đời mình để xứng
đáng với Con Người khiêm nhường và vĩ đại. Đó cũng chính là nỗi niềm của muôn triệu con tim Việt Nam với Bác.
⇒ Với những ý nghĩa như thế, khổ thơ cuối thực sự đã tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc.
KB:
Với lời thơ cô đọng, giọng điệu trang nghiêm, thành kính, tha thiết và rất giàu cảm xúc, “Viếng lăng Bác” là kết
tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc một cách tự nhiên và để lại ấn tượng sâu đậm
trong lòng người đọc. Bởi lẽ, bài thơ không chỉ thể hiện lòng thành kính đối với Bác của riêng tác giả mà là của hàng
triệu con người Việt Nam. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được công lao to lớn của vị lãnh tụ vĩ đại đối với hòa
bình dân tộc. Vì vậy, mỗi cá nhân cần cố gắng học tập, rèn luyện để xây dựng, phát triển nước Nhà ngày một giàu
mạnh hơn và đi tiếp con đường của Bác.
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn
(Tố Hữu)

7. Sang Thu – Hữu Thỉnh – 1977:


MB:
Người ta nói thơ là tâm trạng. Phải chăng “Sang thu” cũng là một tâm trạng điển hình của tác giả Hữu Thỉnh?
Cái tâm trạng của một người lính đi qua khói lửa chiến tranh, được cảm nhận cái hạnh phúc đơn sơ khi được sống,
được tự do đón nhận và hòa mình vào tự nhiên. Rồi từ cái hạnh phúc mà trong chiến tranh nằm mơ cũng không thấy
ấy, viết nên “Sang Thu”  những vầng thơ của những rung động ngọt ngào và tinh tế trong thời khắc giao hoà của cuối
hạ với đầu thu, là khi thiên nhiên chuyển mình, là khi thời gian nhẹ nhàng bước những bước khẽ khàng, kín đáo.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Hữu Thỉnh (sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc) là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội, trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ.
 Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam yên bình, tĩnh lặng, mộc mạc, tinh tế và giàu rung cảm
b/ Tác phẩm
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ sáng tác mùa thu năm 1977.
 In trong tập Từ chiến hào đến thành phố, xuất bản năm 1991.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế trước cảnh vật giao mùa từ cuối hạ
sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng, nên thơ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bài thơ của Hữu Thỉnh đã đánh thức tình
cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về quy luật của cuộc sống nhân sinh.
 Nghệ thuật:
 Nhà thơ cảm nhận tinh tế qua nhiều giác quan như khứu giác, xúc giác, thị giác.
 Thể thơ năm chữ, nhịp thơ chậm, âm điệu nhẹ nhàng, phù hợp với dòng cảm xúc của nhà thơ.
 Thơ giàu hình ảnh có giá trị biểu cảm.
 Sử dụng từ láy, phép nhân hóa và ẩn dụ đặc sắc.
 Mạch cảm xúc:
 Mạch cảm xúc xuyên suốt với 2 nội dung nổi bật: cảm nhận về thiên nhiên lúc sang thu và suy ngẫm về đời
người khi chớm thu.
2. Phân tích:
a/ Những tín hiệu giao mùa
 “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới có những tín
hiệu đầu tiên. Viết về mùa thu các tác giả thường dùng những chất liệu quen thuộc: sắc vàng của hoa cúc, của lá vàng
rơi hay tiếng lá xào xạc của lá ngô đồng, của rặng liễu… Còn riêng Hữu Thỉnh lại đón nhận mùa thu bằng những cảm
nhận tinh tế, giản dị:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
 Bức tranh thiên nhiên mùa thu nên thơ khi mới chớm được cảm nhận thật tinh tế qua những hình ảnh giản dị,
thân quen của thôn quê: hương ổi, gió se, sương chùng chình qua ngõ.
 Tín hiệu của mùa thu được cảm nhận qua xúc giác, khứu giác bằng chính sự rung cảm của tâm hồn đồng điệu
đang hòa trong cảnh vật:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
+ Thu của Hữu Thỉnh được bắt đầu bằng một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se”  thứ gió khô và se
se lạnh, đặc trưng khi mùa thu về. Đó là “hương ổi”  mùi hương bình dị, dân dã ở khắp các vườn quê đồng bằng Bắc
Bộ. Bỗng nhận ra – cảm xúc đến đầy bất ngờ và tự nhiên như không hề báo trước. Một chút ngạc nhiên sửng sốt khi
nhận ra tín hiệu mùa thu trong hương ổi và gió se.
+ Từ phả là một động từ mạnh, diễn tả sự bất ngờ nhưng hoàn toàn chủ động như mùi hương ấy đã đợi sẵn để lan
tỏa hương thơm nồng nàn trong không gian, bay qua cánh mũi. Hương ổi “phả” vào trong “gió se” đem đến cho
người đọc một sự liên tưởng thú vị: hương thơm nồng quyến rũ ấy như sánh lại và đậm đặc hơn. Làn gió heo may đã
đưa hương ổi lan tỏa khắp các đường ngõ, thôn xóm. Làn “gió se” ấy đã làm dịu đi cái nắng oi ả, gay gắt của mùa hạ
và khiến cho làn “hương ổi” như sánh lại và trở nên ngọt ngào hơn. Để rồi ta nhận ra trong gió có mùi thơm ngọt mát
của những trái ổi chín vàng, một tín hiệu rõ nhất báo mùa thu về.
 “Hương ổi” còn gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng
nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại sống dậy trong tiềm thức. Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy chính là sứ
giả của mùa thu. Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết.
+ Đằng sau những vần thơ mơ mộng ấy, tác giả  một cá thể, mới vắt qua một cuộc chiến tranh, được thử thách
trong “lửa đỏ và nước lạnh” của một thế hệ “thép đã tôi thế đấy”  thật ra viết về hương ổi chỉ là cái cớ để nói một
điều gì đó lớn lao hơn về đất nước, nhân dân mình: “Hương ổi thì bao đời có sẵn như thế rồi. Nó đã đi vào tiềm thức,
ký ức của con người bao đời nay. Nhưng chiến tranh đã tước đoạt ký ức tự nhiên của con người. Bây giờ trong điều
kiện hòa bình, chúng ta có cơ hội phục hồi những cảm xúc, vẻ đẹp bình thường, giản dị đó”  Lời bộc bạch của người
thi nhân.
⇒ Kể từ đây, tín hiệu chuyển mùa khi thu về không chỉ là sắc lá vàng bay, là hoa cúc vàng nở rộ, là rặng liễu đìu
hiu,… mà vị sứ giả đầu tiên mang đến mùa thu cho mỗi chúng ta là “hương ổi”- một thứ hương quê mộc mạc, dân dã.
Ở đây Hữu Thỉnh đã có một hình ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ so với thơ văn cổ viết về mùa thu, nhưng lại vô cùng
quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.
 Từ những tín hiệu mơ hồ như hương ổi, gió se cảm nhận bằng khứu giác, xúc giác, mùa thu đã hiện rõ trong
không gian đất trời qua quan sát bằng thị giác của nhà thơ. Với Hữu Thỉnh sương thu không chỉ đẹp, nhẹ nhàng, mong
manh hư ảo mà còn rất con người nó đang ngập ngừng lưu luyến trước bước đi của thời gian:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
+ Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ tạo nên một nét rất duyên của mùa thu. Nhà thơ đã nhân hóa làn sương qua
từ láy “chùng chình”. Phép tu từ ấy đã thổi hồn vào những sự vật vô tri, vô giác để làn sương mỏng manh ấy như có
tâm hồn, có cảm nhận riêng như ai đó đang nửa muốn đi, nửa muốn ở, vương vấn khi bước chân qua ngưỡng cửa mùa
thu, ngừng giăng mắc khắp đầu thôn ngõ xóm.
+ Sương thu của Hữu Thỉnh, không phải là làn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả
cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây
Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng
manh, mềm mại, giăng mắc màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ
mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên.
+ “Ngõ” ở đây vừa là ngõ thực của làng quê, nhưng cũng có thể là con ngõ thông giữa hay mùa hạ và thu chăng?
→ Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc. Tâm trạng sang thu hay tâm trạng con người đang
lưu luyến đợi chờ , tiếc nuối một điều gì đó trước ngưỡng cửa thời gian của đời người?

+ Như vậy tín hiệu chuyển mùa được tâm hồn rung cảm tinh tế của nhà thơ cảm nhận bằng tất cả các giác quan:
khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se) rồi đến thị giác (làn sương), tuy vậy trước những tín hiệu ban đầu của khoảnh
khắc giao mùa, cảm xúc của nhà thơ còn mơ hồ chưa rõ ràng. Nhà thơ vẫn ngỡ ngàng, như chưa kịp chuẩn bị, thốt lên
lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về. Thu đã về thật rồi sao? Một chút bối rối đủ để ta cảm nhận được cảm xúc
bâng khuâng của tâm hồn thi sĩ trước những tín hiệu bất ngờ không hẹn trước của mùa thu.
→ Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Câu thơ gợi một
chút mơ hồ về thời gian rõ nét đồng thời Hữu Thỉnh đã rất tinh tế thể hiện được những cảm nhận về cảm xúc giao mùa
của đất trời, của lòng người một cách ngất ngây và say đắm. Phải là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên tinh tế,
nhạy cảm mới có thể cảm nhận được những tín hiệu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa nhẹ nhàng, mơ hồ như vậy.
→ Những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của thiên nhiên trong phút giao mùa được tâm hồn tinh tế, nhạy cảm
của nhà thơ nắm bắt cũng êm đềm, bâng khuâng, lưu luyến như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu. Một bức tranh thu mới
chớm hiện lên thật êm ả, thanh bình.
b/ Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
 Nếu khổ thơ thứ nhất là những cảm nhận về mùa thu còn mơ hồ, chưa rõ nét thì đến khổ thơ thứ hai bức tranh
mùa thu đã được hiện hữu rõ ràng, đậm nét qua dấu ấn đổi thay của cảnh vật. Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui
mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
 Thiên nhiên vào thu đang thay áo mới. Không còn cái bỡ ngỡ, bâng khuâng thanh dịu như ban đầu, thu đến bằng
những rung cảm thật mãnh liệt của Hữu Thỉnh trước những hình ảnh thiên nhiên cụ thể, hữu hình.
 Dấu ấn bức tranh mùa thu được tác giả cảm nhận qua 3 nét vẽ cụ thể: với những hình ảnh: “dòng sông”, “cánh
chim”, “đám mây”.
+ Hình ảnh dòng sông được tác giả miêu tả qua từ láy “dềnh dàng” cùng biện pháp nhân hóa giúp người đọc hình
dung trạng thái của dòng sông mùa thu khác hẳn với mùa hạ. Nếu mùa hạ song cuồn cuộn trở nặng phù sa, dữ dội bao
nhiêu thì đến mùa thu dòng sông ấy lại trở lên hiền hòa. Nó trôi một cách lững lờ, ung dung, thong thả như đang được
nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông. Cái “dềnh dàng” còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm
lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi, nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời hay cũng có thể đang tận hưởng khoảnh
khắc giao mùa tươi đẹp và cũng muốn hòa vào cái thanh nhẹ, dịu êm của đất trời nên nhẹ nhàng, khoan thai trội êm ả.
+ Đi liền với từ “được lúc” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh những con người đã đi qua thời chiến, trải qua lửa đạn
giờ đang được sống chậm lại, đến lúc phải nghỉ ngơi.
+ Đối lập với hình ảnh hiền hòa, khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim. Không gian trở
nên xôn xao, chẳng có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi lên được cái động. Chim là động vật vô cùng nhạy cảm, chúng
nhận ra trong gió heo may cái se lạnh của mùa thu đang về và mùa đông đang tới. Vậy nên chúng gấp gáp làm tổ, hối
hả tha mồi, tất bật chuẩn bị cho những ngày tháng trú đông an toàn nhất hay sự vội vã của một hành trình về phương
Nam trú rét. Nhưng cái tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh lại ở từ “ bắt đầu”. Không phải là những cánh chim đang vội vã
mà mới chỉ là bắt đầu. Nhận ra quy luật này chắc hẳn Hữu Thỉnh phải là người rất yêu cuộc sống nên mới có tâm hồn
nhạy cảm, mới có thể nghe được, thấy được cái vỗ cánh bắt đầu của những cánh chim, cái cựa mình khẽ khàng, nhẹ
nhàng của thời gian.
+ Đi liền với từ “ bắt đầu” gợi ta liên tưởng đến những người lính bước ra từ trong chiến tranh. Họ cứ ngỡ đã đến
lúc phải nghỉ ngơi để suy ngẫm, song lại chính là lúc họ bắt đầu phải “vội vã”, tất bật trong những lo toan của cuộc
sống mới.
→ Bức tranh mùa thu đã đi qua mùa giông bão có nét dịu êm, nhẹ nhàng của sông thu dềnh dàng trôi, lại có nét hối hả,
vội vã của chim di trú về phương Nam. Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng một cách nhịp nhàng, tài tình qua hình
ảnh “ dềnh dàng” và “ vội vã” đã:
+ Làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa.
+ Làm nổi rõ hai tâm trạng trái ngược nhau của con người khi bước từ chiến tranh sang hòa bình.
 Thiên nhiên mùa thu còn được Hữu Thỉnh cảm nhận qua hình ảnh liên tưởng, sáng tạo độc đáo, thú vị đầy chất
thơ:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
+ Chỉ bằng mười con chữ gói gọn trong hai câu thơ mà người đọc có thể hình dung ra một bầu trời trong veo,
những đám mây trắng lững lờ trôi, nắng mùa hạ vẫn còn vương lưng trời, hắt ánh vàng lên đám mây mỏng nhẹ. Thiên
nhiên hai mùa như đang trộn lẫn, đang giao hòa trong áng mây bay. Dường như đám mây vẫn còn chút lưu luyến mùa
hạ nên nó mới chỉ vắt nửa mình sang thu. Động từ “vắt” thể hiện thật tài tình tạo ra nhiều liên tưởng. Hình ảnh đám
mây như một thiếu nữ vừa thảnh thơi, vừa duyên dáng. Mây mỏng như dải lụa treo trên bầu trời, nửa nghiêng về mùa
hạ, nửa nghiêng về mùa thu. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh giữa hạ và thu, ngày càng bé dần, bé dần đi rồi
đến một lúc nào đó cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc mùa thu.
⇒ Khoảnh khắc giao mùa được tái hiện rất tinh tế, sống động bằng những câu thơ giàu giá trị tạo hình. Và ẩn sau
khoảnh khắc đó còn là hình ảnh của đời sống lúc sang thu với biết bao biến chuyển. Bức tranh mùa thu lúc giao mùa,
bằng ngôn từ đặc sắc và những rung cảm tinh tế, hiện lên thật đẹp, mang hơi thở hồn quê vùng Bắc Bộ đem đến cho
người đọc bao dư vị khó quên.
c/ Những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ
 Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối
vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
 Bức tranh phong cảnh lúc giao mùa được tác giả gợi tả bằng những hình ảnh quen thuộc. Bằng giác quan nhạy
cảm, tinh tế, Hữu Thỉnh đã nghe thấy, nhận thấy và đong đếm được những nắng, những mưa, những âm vang, vang
động bất thường của cuộc sống.
+ Hàng loạt từ ngữ chỉ mức độ, ước lượng: “vẫn còn”, “ bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp theo trình tự giảm
dần, cho thấy dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của mùa thu ngày một đậm nét hơn.
+ Với một hồn thơ bay bổng, một trái tim nhạy cảm, một giác quan tinh tế Hữu Thỉnh đã cảm nhận trên bầu trời
thu, nắng hạ vẫn còn nhưng không còn oi nồng, chói chang, đổ lửa như nắng mùa hạ, những cơn mưa rào ào ạt, bất
ngờ cũng vơi dần, sấm thưa và nhỏ dần, không đủ sức lay động hàng cây đã bao mùa thay lá. Tất cả đều chầm chậm,
từ từ, không vội vã, không hối hả.
=> Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời.
 Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy ngẫm về đời người lúc chớm thu qua những
hình ảnh giàu sức gợi:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
 Thu sang, đã bớt đi những náo động của không gian, gợi lên cái xế chiều của cuộc đời. Giọng thơ trầm hẳn
xuống, câu thơ không đơn thuần là giọng kể, mà còn là sự suy nghĩ nghĩa triết lý, chiêm nghiệm sâu xa về đời người:
+ Tác giả sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: Sấm ẩn dụ cho những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời.
Hàng cây đứng tuổi gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc
đời. Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu giờ đây không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa hạ.
+ Phép ẩn dụ thể hiện sâu sắc suy ngẫm của nhà thơ: khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước
những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của
cuộc đời. Khi con người trải nghiệm nhiều sẽ trở nên hiểu mình, hiểu người, hiểu đời hơn. Con người sẽ bình tĩnh đón
nhận mọi biến cố trong cuộc đời. Thời gian trôi nhanh qua cửa, nhưng ta không ngậm ngùi nuối tiếc mà chỉ thấy mình
vững vàng hơn
+ Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và
mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn. Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là
sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người.
+ Thật ra, cái thời khắc Hữu Thỉnh sáng tác “Sang thu” là khi đất nước lại chớm bước vào cuộc chiến bảo vệ biên
giới... Không phải là đã hết “sấm” trên dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta. Nhưng không có gì là bất ngờ với
một nhân dân, đất nước, dân tộc đã trải qua 30 năm chiến tranh bằng cả máu xương mà giành lại toàn vẹn non sông và
nền hòa bình.
⇒ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương
mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
3. Đánh giá:
 Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không phông bạt mà giàu sức gợi cảm. Cùng thể thơ năm chữ, Hữu Thỉnh đã thể
hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang đầu thu nhẹ nhàng,
êm dịu, nên thơ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ của đất nước. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về
tình yêu quên hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.
KB:
Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo trong lòng những bồi hồi về một mùa thu nồng
nàn êm ái. “Sang thu”  khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thì triết lí  đã góp một
tiếng thơ đằm thắm về mùa thu quê hương đem đến cho thế hệ trẻ tình yêu đất nước qua nét thu đẹp Việt Nam. Tác
phẩm là lời bộc bạch về khát khao yêu đời mà Hữu Thỉnh muốn gửi cho bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của
chính mình tự thuở nào. Ai trải qua chiến tranh, từ cõi chết trở về mới đủ cái rung cảm khi đón nhận hòa bình  tựa
như một hơi thở nhẹ nhưng có thể làm ta rùng mình, run rẩy vì hạnh phúc được sống bình thường . Vì thế, mà bài thơ
như một viên pha lê góc cạnh, trải qua bao thăng trầm để tỏa sáng trọn vẹn theo suốt thời gian.

8. Nói với con – Y Phương – 1980:


MB:
Bao ký ức ùa về là như thế
Lời cha khuyên sống đạo nghĩa làm người
Biết Tổ Tiên phải trái nhớ con ơi!
Tình nhân loại sáng ngời tâm đức độ!..
(Sương Trần)
Một trong những tình cảm sâu nặng nhất trong trái tim con người đó là tình cảm gia đình, tình cảm cha con, tình
cảm mẫu tử. Vì thế, đây cũng là một trong các khơi nguồn cảm hứng bất tận cho những người nghệ sĩ để viết lên
những áng thơ hay. Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày  đã thể hiện thật thấm thía, cảm động về tình yêu thương
con qua bài thơ “Nói với con” (1980), được sáng tác như lời tâm tình trò chuyện của người cha dặn dò đứa con đầu
lòng của ông.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
 Y Phương (19482022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, là nhà thơ ơ dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh tỉnh
Cao Bằng
 Sinh ra từ cái nôi văn hóa dân tộc Tày nên những sáng tác của ông mang cách tư duy giàu hình ảnh con người
miền núi. Thơ ông luôn gắn liền về chiều sâu nội tâm. Khi càng có tuổi thì thơ ông càng sâu sắc, và có nặng những ý
nghĩa, giá trị, nhất là về nền văn hóa dân tộc.
b/ Tác phẩm
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các
dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Đây là thời điểm đất nước ta đã giành được độc
lập, đang trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế để hàn gắn vết thương chiến tranh xà xây dựng đất nước.
 Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn… Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con
gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra
đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm
tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích
cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói
khổ bằng văn hóa”. ⇒ Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình,
đồng thời để nhắc nhở con cái sau này.
 Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
 Nội dung: bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương và dân tộc của nhà thơ. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi
nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống
 Nghệ thuật:
+ Giọng điệu thơ vừa trầm thấm, trữ tình vừa đậm chất sử thi kiêu hãnh, vừa chân chất, mộc mạc, vừa sâu lắng tâm
tư, tha thiết.
+ Hình ảnh thơ cụ thể mà khái quát, mộc mạc, giản dị mà cũng tràn đầy chất thơ, bao hàm nhiều ý nghĩa.
+ Thể thơ tự do dẫn dắt cảm xúc cụ thể, rõ ràng.
 Dẫn vào:
 Con gái đầu lòng của ông – người con trong bài thơ “Nói với con” đã chia sẻ trong ngày ông mất: “Cảm ơn ba
đã sống một cuộc đời thành tựu thật đẹp và thương yêu chúng con đến giây phút cuối cùng. Chúng con sẽ là sự tiếp
nối của ba” Cả cuộc đời của một người cha nỗ lực hết sức để có thể sống tốt và có những thành tựu trong sự nghiệp
của mình nhưng cũng không quên dạy dỗ con cái, thương yêu con và luôn đồng hành cùng con. Ông luôn nuôi dưỡng
tinh thần dân tộc và tình yêu quê hương sâu nặng trong con để con có sống tự hào về gốc gác của mình và cảm thấy
yêu thương, gắn bó với cái mảnh đất mình sinh ra.
 Mạch cảm xúc:
 Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, đất nước ; từ những kỉ niệm gần gũi mà nâng
lên thành lẽ sống.
2. Phân tích:
a/ Cha nói về cội nguồn sinh dưỡng của con người.
 Con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ.
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
 Nhịp thơ 2/3 cùng cấu trúc đối xứng và phép điệp ngữ, nhiều từ được láy lại: “chân phải” – “chân trái”, rồi
“một bước” – “hai bước”, “tiếng nói” – “tiếng cười” → tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt gợi hình dung về
khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, tiếng nói, tiếng cười.
 Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói, lúc thì sà vào
lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Và ta cũng hình dung thấy niềm vui sướng, hân hoan của cha mẹ. Mỗi bước con đi,
từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận.
 Điệp ngữ “bước tới” và động từ “chạm” dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi
vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng. Ở đó, mỗi ngày con lớn lên, mỗi đổi thay của con đều là niềm khát khao, mong
mỏi và hạnh phúc vô bờ của cha mẹ.
 Con là niềm hạnh phúc của cha mẹ và con cũng là kết quả của tình yêu đẹp giữa cha mẹ, là một điều đẹp đẽ xuất
hiện trong đời khiến “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Ngày đầu tiên ấy là ngày khởi
đầu của hạnh phúc gia đình, của tổ ấm bình dị  nơi con được sinh ra và lớn lên trong tình yêu trong sáng của mẹ
cha. Để con thấy được rằng sự xuất hiện của con là một điều may mắn, một sự hạnh phúc.
→ Y Phương đã gửi vào đó lời nhắn nhủ kín đáo của người cha: gia đình là cái nôi đầu tiên nuôi con khôn lớn, là cội
nguồn sinh dưỡng quan trọng nhất của cuộc đời mỗi người.
 Con lớn lên trong cuộc sống lao động giàu niềm vui, trong vẻ đẹp của người đồng mình.
 Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
 Cách gọi người đồng mình giản dị, thân thương, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu
mến.
 Nói với con về những người đồng minh, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần về công việc lao động hàng ngày của
người dân quê mình gần gũi, thân thương qua hình ảnh thư:
+ Đan lờ là một loại dụng cụ dùng để đánh bắt cả, được đan bằng những nan vót tròn
+ Ken nhà: người miền núi thường dùng nhiều tấm ván gỗ dựng chắc sát nhau thành vách nha.
 Thế nhưng, qua tâm hồn sôi nổi tươi vui, qua bàn tay tài hoa của con người, những công việc bình thường đó trở
nên thật đẹp, thật thú vị!
+ Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”.
+ Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn  câu hát của niềm vui lạc
quan.
+ Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt
của những con người quê hương trong cuộc sống lao động.
→ Cuộc sống lao động tuy vất vả nhưng ngập tràn niềm vui ấy đã tạo nên cái “yêu lắm” của người đồng mình. Phải
chăng, ẩn sâu bên trong dáng vẻ thô mộc, chất phác của người đồng mình chính là một tâm hồn lãng mạn, yêu sống?
→ Vẻ đẹp của người đồng mình chính là gói hành trang tinh thần để con lớn lên.
 Con lớn lên trong vẻ đẹp thơ mộng, nghĩa tình của thiên nhiên:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
 Quê hương gắn bó với con là những cánh rừng với những bông hoa thơ mộng. Thiên nhiên ấy đã che chở, đã
nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống.
 Cuộc sống quê hương vùng sơn cước giản dị, mộc mạc mà không kém phần đáng yêu. Rừng không chỉ cho gỗ,
cho măng, cho lâm sản quý giá mà còn cho hoa – cho phần đẹp nhất, tinh túy nhất của núi rừng. Hoa là vẻ đẹp mà
thiên nhiên núi rừng ban tặng cho con người, đem sắc thắm điểm tô cho cuộc đời thêm tươi đẹp. “Hoa” – một hình ảnh
vừa thực vừa ẩn dụ để nói rằng: rừng núi thiên nhiên không chỉ mang lại cho người vẻ đẹp mà còn mang đến cả niềm
vui và hạnh phúc.
 Quê hương còn gắn với hình ảnh thân thương: những con đường. Con đường đưa người vào bản làng, con đường
đưa con đi học, con đường đưa người đồng mình xích gần lại bên nhau, con đường cũng dẫn lối đưa con người đến
những miền xa, dẫn tới mọi nẻo đường Tổ quốc… Nhưng đâu chỉ có thế, con đường mà Y Phương nói tới đâu phải chỉ
có con đường đi ngược về xuôi mà là con đường kết nối những tấm lòng, vẻ đẹp tình người luôn sẵn có. Đó là tấm
lòng nhân hậu, bao dung, tình nghĩa ; là hình bóng quê hương thơ mộng, là vẻ đẹp cao quý của người đồng mình.
 Điệp từ “cho” và nghệ thuật nhân hóa đã khẳng định rừng núi quê hương thật thơ mộng, nghĩa tình. Thiên nhiên
ấy ban tặng cho cái đẹp cho con người và che chở, nuôi dưỡng con người cả về vật chất, tâm hồn và lối sống.
→ Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong cội nguồn sinh dưỡng cho con khôn lớn, nâng đỡ tâm
hồn con mà cha muốn con ghi nhớ.
⇒ Cha muốn con hiểu quê hương và gia đình đã che chở và dưỡng nuôi con. Con phải biết yêu và trân trọng nơi đã
sinh ra và nuôi dưỡng mình, tình yêu gia đình, quê hương sẽ khơi nguồn cho những tình cảm lớn lao, bền vững.
b/ Cha nói với con những đức tính tốt đẹp của người đồng mình
 Người đồng mình là những người giàu ý chí và nghị lực:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
 “Người đồng mình” – cách nói mộc mạc, giản dị, gợi bao tình yêu thương, gần gũi ấy là những người vùng mình,
miền mình, những người cùng sống với mình trên mảnh đất quê hương.
 Sự lặp lại nhiều lần cụm từ “người đồng mình” như một lời khẳng định: phẩm chất của người đồng mình chính
là phẩm chất của quê hương bởi lẽ sức sống của quê hương được tạo nên từ mỗi một con người nhỏ bé.
 Nếu trên kia “ yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng
chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”– ấy là thương cho những nỗi vất vả, gian khó của
con người quê hương, cho cái cực khổ của người đồng mình.
 Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của
đất để đo ý chí con người. Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến gắn liền với các hình ảnh trìu tượng
“nỗi buồn”,”chí lớn”, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người lại càng mạnh mẽ.
→ Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua
tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, luôn có niềm tin vào tương lai phía trước
 Người đồng mình là những người sống thủy chung, tình nghĩa:
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
 Nhà thơ đã khẳng định và nhấn mạnh vẻ đẹp cao quý của người đồng mình, đó là tấm lòng thủy chung, tình
nghĩa. Người đồng mình có hoàn cảnh sống vất vả, lam lũ, đói nghèo “sống trên đá”, “sống trong thung” nhưng luôn
thủy chung, một lòng một dạ “không chê đá gập ghềnh”, “không chê thung nghèo đói”.
 Điệp từ “sống”, “không chê” đã nhấn mạnh rằng người đồng mình luôn ân tình, ân nghĩa với quê hương, biết
chấp nhận gian khó và vượt lên thử thách.
 Lời thơ thấm đẫm cảm xúc “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” đã thể hiện mong muốn thiết tha của người cha:
mong con biết kế thừa phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: mạnh mẽ, giàu nghị lực, thủy chung và tình nghĩa.
 Người đồng mình mạnh mẽ, phóng khoáng, giàu mơ ước:
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
 Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ
vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt . Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông
trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
 Thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” gợi bao nỗi vất vả, lam lũ của người đồng mình. Thác, ghềnh là một
cách nói ẩn dụ mang tính chất biểu trưng cho những khó khăn, gian khổ và sức mạnh vượt khó của con người quê
hương. Cùng với cặp từ trái nghĩa “lên”, “xuống” càng nhấn mạnh thêm ý chí của người đồng mình.
 Cụm từ “không lo” đã nhấn mạnh rằng người đồng mình biết chấp nhận gian khó và vượt lên gian khó bằng sức
mạnh của ý chí và nghị lực – nguồn sức mạnh vô song không gì có thể làm gục ngã.
 Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
 Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức
bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi. “Thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình
ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu
khó còn cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.
→ Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu ý chí, niềm tin. Họ có thể
“thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, tầm vóc, về mong ước xây dựng quê hương.
 Người đồng mình luôn khao khát bồi đắp, xây dựng quê hương, giữ gìn nguồn cội. Hình ảnh “Người đồng mình
tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi), vừa
mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm
đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương. Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với những nét phong
tục tập quán riêng nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin vững chắc.
→ Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê
hương tốt đẹp bằng sức lao động cần cù, bền bỉ của người đồng mình
3. Đánh giá:
 Đoạn thơ có giọng điệu thiết tha, trìu mến, cách dẫn dắt tự nhiên cùng với cảm xúc và lối tư duy rất riêng đã thể
hiện thấm thía những tình cảm mà cha dành cho con. Cùng với thể thơ tự do, bay bổng tạo ra sự cộng hưởng hài hòa
với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang con. Bài thơ “Nói với con” có lời lẽ giản dị
nhưng có sức ám ảnh lạ thường trong tâm trí độc giả. Những điều người cha nói với con trong bài thơ phải chăng cũng
là lời căn dặn yêu thương mà biết bao người cha muốn con mình thấu hiểu? Mỗi lần đọc bài thơ là một lần ta cúi đầu
thành kính trở về với cội nguồn, với những gì thân thương nhất.
KB:
Lời nhắn nhủ ân cần của người cha dành cho con trong đoạn thơ cũng là lời nhắn mà người cha nào cũng muốn
con mình mang theo trong hành trang suốt cuộc đời. Đọc đoạn thơ ta càng trân trọng hơn tình cảm thiêng liêng mà cha
mẹ dành cho mình, đồng thời biết tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của quê hương, dân tộc, có ý chí và nghị
lực vươn lên trước những khó khăn vất vả của cuộc đời.

TIẾNG VIỆT
Từ loại
Danh từ

Động từ

 Tính từ
 Phó từ: đã, đang, sẽ, rất, lắm,...
 Chỉ từ: này, kia, ấy, nọ, đó,...
 Lượng từ: nhiều, vài, mấy, những,...
 Đại từ: tôi, bạn, nó, cậu, họ,...
 Quan hệ từ: và, nhưng, bởi vì
 Tình thái từ: ạ, nhé, hình như,...
 Trợ từ: những, có,...
 Thán từ: ôi, chao ôi, trời ơi, hỡi,...
 Số từ: một, hai, ba,...
Loại từ:
1. Từ xét theo cấu tạo:
 Từ đơn: hoa, ong, người, cỏ,...
 Từ phức:
+ Từ ghép: Chính phụ (bạn thân, bút mực, ông nội, bà ngoại,...); Đẳng lập (anh chị, cha mẹ, ông bà,...).
+ Từ láy: láy hoàn toàn; láy bộ phận.
2. Từ xét về nghĩa:
 Nghĩa gốc: chạy, ăn.
 Nghĩa chuyển: chạy tiền, chạy vặt, chạy hàng, ăn xin, ăn gian, ăn bám,...
3. Từ xét theo quan hệ giữa âm và nghĩa:
 Từ đồng âm.
 Từ đồng nghĩa.
 Từ trái nghĩa.
4. Từ xét theo phạm vi sử dụng:
 Từ địa phương.
 Từ toàn dân.
5. Từ xét theo nghĩa gốc:
 Từ thuần Việt.
 Từ mượn.

Câu chia theo mục đích giao tiếp:


 Câu nghi vấn.
 Câu cầu khiến.
 Câu cảm thán.
 Câu trần thuật.
Câu chia theo cấu tạo:
 Câu đặc biệt: Không xác định được cụm C – V.
 Câu đơn: Chỉ có một cụm C – V.
 Câu ghép: Có hai cụm C – V trở lên.
Ngôi kể chuyện:
 Truyện kể theo ngôi thứ nhất: người kể xưng “tôi”.
+ Ưu điểm: dễ đi sâu vào tâm tư, tình cảm, miêu tả được tâm lí nhân vật phức tạp đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật.
+ Nhược điểm: việc miêu tả bao quát các đối tượng nhân vật sẽ thiếu chiều sâu, khó tạo nên cái nhìn nhiều chiều, do
đó dễ gây nên sự đơn điệu trong giọng văn trần thuật.
 Truyện kể theo ngôi thứ ba, người kể giấu mình:
+ Ưu điểm: người kể dường như thấy hết và biết tất cả mọi việc, kể cả mỗi hành động, tâm tư, tình cảm của các nhân
vật trong tác phẩm.
+ Khuyết điểm: Chọn ngôi kể này sẽ khó khăn trong việc nắm bắt diễn biến tâm lí chiều sâu tâm trạng.
Các phương châm hội thoại:
 Phương châm về lượng: Khi giao tiếp, cần nói cho có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp ứng đúng yêu
cầu giao tiếp, không thiếu, không thừa.
 Phương châm về chất: Khi giao tiếp, đừng nói những gì mà mình không tin là đúng hay không có bằng chứng
xác thực.
 Phương châm quan hệ: Khi giao tiếp, cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề.
 Phương châm cách thức: Khi giao tiếp, cần chú ý nói ngắn gọn, rành mạch, tránh cách nói mơ hồ.
 Phương châm lịch sự: Khi giao tiếp, cần tế nhị và tôn trọng người khác.
Khởi ngữ: Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến trong câu.
Các thành phần biệt lập:
 Thành phần tình thái được dùng để thể hiện cách nhìn của người nói đối với sự việc được nói đến trong câu
(hình như, chắc là, dường như, có vẻ như,...).
 Thành phần cảm thán được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói.
 Thành phần gọi – đáp được dùng để tạo lập hoặc duy trì mối quan hệ giao tiếp.
 Thành phần phụ chú được dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu.
 Thành phần tình thái, cảm thán, gọi – đáp, phụ chú được gọi là các thành phần biệt lập vì chúng không tham
gia vào việc diễn đạt ý nghĩa sự việc của câu.
Liên kết câu và liên kết đoạn văn:
 Phép lặp từ ngữ: lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu đứng trước.
 Phép thế: sử dụng ở câu đứng câu các từ ngữ có tác dụng thay thế các từ ngữ đã có ở câu trước.
 Phép nối: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước.
 Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc
cùng trường liên tưởng với các từ ngữ đã có ở câu trước.
Tác dụng: Làm cho đoạn văn/đoạn thơ liên kết chặt chẽ với nhau qua phép… Các câu được sắp xếp theo một trình tự
hợp lí.
Nghĩa tường minh và hàm ý:
 Nghĩa tường minh là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu.
 Hàm ý là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu nhưng có thể suy ra từ
những từ ngữ ấy.
 Điều kiện sử dụng hàm ý:
+ Người nói (người viết) có ý thức đưa hàm ý vào câu nói.
+ Người nghe (người đọc) có năng lực giải đoán hàm ý.

Các biện pháp tu từ:


 So sánh: cụ thể sinh động
 Nhân hóa: gần gũi với con người
Ẩn dụ/hoán dụ: tăng sức gợi hình, gợi cảm
 Điệp ngữ: làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh
 Liệt kê: diễn tả đầy đủ sâu sắc ở những khía cạnh khác nhau
 Nói giảm nói tránh: tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ
 Nói quá: nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm
Tác dụng/hiệu quả:
 Hình thức: làm cho câu thơ câu văn sinh động/hấp dẫn/ấn tượng/dễ hiểu như thế nào?
 Nội dung: nhấn mạnh/làm nổi bật nội dung/tư tưởng/chủ đề nào?
 Thể hiện: tình cảm/tâm tư/suy nghĩ/bâng khuâng của tác giả về cái gì?

You might also like