Professional Documents
Culture Documents
Tổng hợp kiến thức Văn 9
Tổng hợp kiến thức Văn 9
2. Tóm tắt:
Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người con gái Nam Xương thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Lấy chồng chưa được
bao lâu thì chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính. Nàng ở nhà một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng
đau ốm rồi làm ma chay chu đáo khi bà mất. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là
cha nó. Trương Sinh trở về nghe lời con nói về chiếc bóng, nghi vợ thất tiết nên Trương Sinh đánh Vũ Nương, đuổi đi.
Vũ Nương uất ức khấn nguyện rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được thần rùa Linh Phi và các tiên nữ
cứu. Một thời gian sau, Trương Sinh mới biết vợ bị oan. Ở thủy cung, Vũ Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết
đuối được Linh Phi cứu. Khi Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc thoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho
nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng nước nói lời tạ từ rồi biến mất.
3. Phân tích:
a/ Vẻ đẹp của Vũ Nương:
Mở đầu thiên truyện, Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là người con gái đã thùy mị nết na lại thêm tư dung
tốt đẹp. Tác giả dành những lời hay ý đẹp để giới thiệu giản dị mà khái quát và bày tỏ sự trân trọng trước vẻ đẹp của
Vũ Nương – người phụ nữ hoàn hảo, vừa đẹp người lại đẹp nết.
Vẻ đẹp ngời sáng của Vũ Nương là ở tâm hồn, ở những phẩm chất đáng quý ẩn giấu như những viên ngọc lấp
lánh. Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
Được thể hiện thông qua các hoàn cảnh và qua các mối quan hệ với các nhân vật khác:
Vũ Nương là một người vợ dịu hiền, hết lòng yêu thương, thủy chung, son sắt nghĩa tình với chồng, khát
khao hạnh phúc gia đình bình dị:
+ Trong cuộc sống hàng ngày khi mới về làm vợ: Biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn
phép, không để gia đình xảy ra thất hòa. Bằng sự hiền dịu, nết na, thùy mị và khôn khéo của mình, Vũ Nương luôn giữ
cho gia đình dầm ấm, yên vui.
+ Khi tiễn chồng ra trận: Vũ Nương rót chén rượu đầy, nói lời tình nghĩa đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến
này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Trong thời đại chiến tranh loạn lạc, con người ta ai cũng muốn tìm cách để lập công lập
danh, có thể bằng con đường khoa cử hay cũng có thể bằng con đường ra trận đánh giặc. Trương Sinh, tuy là con nhà
hào phú nhưng lại thất học, nên chỉ có thể ghi tên trong sổ đi lính, ra trận giết giặc. Nhưng để lập công lập danh bằng
con đường này thì cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với cái chết, nguy hiểm tính mạng. Xét trong thời đại xã hội
đó, bất cứ người phụ nữ nào cũng muốn được cảnh “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”, mong chồng mình vinh
quy bái tổ, nhưng đối với Vũ Nương nàng chỉ mong chồng mình bình an trở về, không trông mong vinh hoa phú quý
mà chỉ khát khao hạnh phúc bình dị.
+ Khi xa chồng:
Vũ Nương hết lòng chung thủy với chồng chồng, một lòng son sắc, thủy chung “cách biệt ba năm,
giữ gìn một tiết”.
Nàng mong đợi chồng về trong cô đơn, mòn mỏi: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín
núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”.
Vũ Nương rất hiếu kính với mẹ chồng:
+ Mẹ chồng đau yếu, Vũ Nương ân cần, chăm sóc mẹ hết lòng như mẹ đẻ của mình: “Nàng hết sức thuốc thang,
lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, mong mẹ chồng chóng khỏi bệnh, đợi ngày vui sum họp.
+ Sự hiếu thảo của nàng khiến mẹ chồng cũng quý mến, xúc động trăng trối những lời tốt đẹp nhất dành cho
nàng: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người xưa có câu: “Thật thà như thể lái trâu,
thương nhau như thể nàng dâu mẹ chồng” chứng tỏ mối quan hệ phức tạp mẹ chồng – nàng dâu trong xã hội cũ, một
mối quan hệ hiếm khi hòa hơp như của Vũ Nương. Lời từ trái tim người mẹ già đã tô đậm tấm lòng hiếu thảo, phẩm
chất hiếu hạnh hết mực của Vũ Nương.
+ Khi mẹ chồng qua đời, nàng chu đáo trong việc ma chay, cúng lễ, thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con
dâu đáng quý.
Người mẹ giàu lòng yêu thương con:
+ Những năm chồng đi lính, Vũ Nương một mình đảm đang, quán xuyến công việc gia đình. Lấy chồng chưa
được bao lâu, nàng đã phải vò võ, một mình sinh con và nuôi con khôn lớn mà thiếu đi sự sẻ chia an ủi, vỗ về của
chồng. Nàng đã gánh luôn cả trách nhiệm làm chồng, làm cha của Trương Sinh.
+ Nàng nuôi dạy con thơ ân cần, chu đáo. Nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ
tấm lòng của người mẹ, để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha, để con được sống trong
cảnh đoàn viên gia đình. Hơn nữa, chi tiết này cũng nói lên rõ nét tình yêu thương chồng: nàng coi chồng với mình
giống như hình với bóng.
Trọng danh dự, nhân phẩm:
+ Khi bị chồng nghi oan: Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, cố hàn gắn
hạnh phúc gia đình trước nguy cơ tan vỡ. Nàng thể hiện sự đoan trang, đúng mực trong lời lẽ giải thích từ tốn, nhẹ
nhàng:
Lời thoại thứ nhất: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng. Ngõ liễu tường
hoa chưa hề bén gót. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. → Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa
vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ và
danh dự đang bị vấy bẩn của bản thân. Lời nói của nàng từ tốn dịu hiền, hết sức nhẫn nhịn, nhún nhường cho thấy sự
trân trọng, khát khao gìn giữ hạnh phúc gia đình.
Lời thoại thứ hai : Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không tự
bảo vệ được mình, dù có những lời biện bạch, thanh minh của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất
đi hạnh phúc gia đình thú vui “nghi gia nghi thất”. Tình cảm yêu thương, thuỷ chung nàng dành cho chồng đã bị phủ
nhận không thương tiếc. Nàng đau đớn trước cảnh “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa”.
+ Sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương chỉ còn biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Lời
than xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và “tiết sạch giá trong” của nàng cùng hành động tự vẫn cho thấy thái
độ quyết liệt bảo toàn danh dự của một người coi trọng nhân phẩm. Với nàng, một người phụ nữ, danh dự còn quan
trọng hơn cả mạng sống nên nàng đã sẵn sàng chết để bảo toàn danh dự.
Vũ Nương bao dung, tình nghĩa dưới Thủy Cung:
+ Dù bị chồng nghi oan, mang nỗi hàm oan lớn, nàng cũng không buông một lời oán trách.
+ Một năm xa cách ở thuỷ cung, dù cuộc sống sung sướng, dù người chồng ấy đã đối xử tệ bạc với nàng nhưng
nàng không bao giờ quên gia đình, vẫn nặng lòng nhung nhớ quê hương, mộ phần cha mẹ, đau đáu nỗi niềm nơi trần
thế, vẫn khao khát được trả lại danh dự. Khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc thương. Lời nhắn gửi
Phan Lang cùng chiếc thoa vàng chất chứa nỗi niềm thương nhớ, sâu nặng nghĩa tình của nàng.
+ Nàng không hề trách cứ kẻ gây ra cái chết cho mình, vẫn nói lời đa tạ khi Trương Sinh còn nhớ chút “tình xưa
nghĩa cũ” mà lập đàn giải oan để đón nàng về.
b/ Số phận của Vũ Nương
Bi kịch của Vũ Nương:
Bi kịch của người phụ nữ hết lòng thủy chung, yêu thương chồng con mà bị nghi oan thất tiết, bị đối xử tàn nhẫn
bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
Vũ Nương đau đớn vô cùng vì hôn nhân gia đình tan vỡ, tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người
chồng mà mình yêu thương.
Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
Mòn mỏi đợi chờ, vất vả gian lao
Kết duyên chưa được bao lâu thì chồng phải đi lính
Nàng không mong chờ công danh phú quý, chỉ lo những bất trắc ngoài trận mạc, liệu người đi xa có thể trở về.
Vò võ ngóng tin chồng trong nhớ thương vời vợi
Gánh nặng gia đình để lại cho người vợ trẻ: phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ, cáng đáng trọng trách gia đình.
Nỗi oan cách trở
Sự trở về của nàng ở cuối tác phẩm chỉ là ảo ảnh, thực tế người đã chết đi rồi không thể sống lại, hạnh phúc đã mất
khó lòng hàn gắn
Nàng và chồng con mãi mãi âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc bình dị nơi trần thế vĩnh viễn đóng cửa lại rồi.
Nguyên nhân của bi kịch:
Nguyên nhân trực tiếp: Do lời nói ngây ngô của bé Đản về chiếc bóng khiến Trương Sinh ghen tuông.
Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do thói ghen tuông hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh: Là kẻ không có học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt,
Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán
ấy đã vội vàng kết luận đinh ninh là vợ hư. Trương Sinh mắng nhiếc, đánh rồi đuổi Vũ Nương đi cho thấy sự ghen
tuông vô lí, sự thô bạo, tàn nhẫn của người đàn ông gia trưởng.
+ Do chế độ nam quyền với tư tưởng nặng nề của XHPK coi thường rẻ rúng người phụ nữ: Chỉ nghe lời ngây ngô
của con trẻ, Trương Sinh mặc lời phân trần của vợ, lời thanh minh giúp của hàng xóm mà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ
Nương. Trương Sinh lúc ấy không nghĩ gì đến tình nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ
Nương đối với gia đình. Người phụ nữ sống dưới chế độ phong kiến hoàn toàn không được coi trọng. Họ luôn phải
phụ thuộc vào những người đàn ông, bị coi rẻ danh dự và nhân phẩm.
+ Do cuộc hôn nhân bất bình đẳng: Vũ Nương thua thiệt về vị thế, vốn con kẻ khó nương tựa nhà giàu. Giống như
một cuộc mua bán giữa kẻ giàu và người nghèo. Sự bất bình đẳng giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương mặc cảm và cũng là
cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với vợ.
+ Do chiến tranh phi nghĩa khiến tình cảm vợ chồng xa cách: Chiến tranh xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm
trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát
triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương. Vũ Nương là khuôn vàng thước ngọc người phụ nữ trong XHPK thế
nhưng lại phải kết duyên với TS – người đàn ông gia trưởng, độc đoán, hồ đồ, vũ phu, thô bạo,…
→ Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch chung về thân phận của người phụ nữ trong XHPK, là lời tố cáo XHPK bất công
với tư tưởng nam quyền xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình. Đồng thời, qua đó
bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Nó cho thấy tấm lòng nhân đạo của
tác giả Nguyễn Dữ.
Dẫn chứng:
Bác Hồ đã trao cho người phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”
“Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ trước gió biết vào tay ai.”
4. Nghệ thuật:
Nguyễn Dữ đã thành công qua “Chuyện người con gái Nam Xương” bởi cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện đầy
kịch tính, làm cho câu chuyện đầy hấp dẫn và trở nên sinh động hơn. Truyện có những đoạn đối thoại, lời tự bạch của
nhân vật đã khắc họa tâm lý, tính cách của Vũ Nương. Tác giả đã gỡ nút và thắt nút câu chuyện ở hai chi tiết đó là để
cho người mẹ Trương Sinh qua đời và chi tiết chiếc bóng. Đặc biệt những yếu tố kì ảo ở cuối truyện được nhà văn xây
dựng và xen kẽ yếu tố thực góp phần hoàn chỉnh nét đẹp của Vũ Nương.
KB:
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương
và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng
ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn
lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của
thời đại mới.
2. Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô Gia Văn Phái:
MB:
Lịch sử Việt Nam trải qua biết bao đời với vô vàn biến cố thăng trầm lịch sử, dưới sự lãnh đạo của rất nhiều vị
vua tài ba. Trong đó không thể không nhắc đến hình ảnh mạnh mẽ quyết đoán Quang Trung. Điều này đã được thể
hiện rõ qua tiểu thuyết chương hồi “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” - ghi chép lại sự thống nhất của vương triều Lê. Tác
phẩm đã tái hiện lại một lịch sử hào hùng và oanh liệt của dân tộc ta thời xưa.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc Thanh Oai, tỉnh Hà Tây).
Hai tác giả chính:
+ Ngô Thì Chí (1753-1788), làm quan thời Lê Chiêu Thống.
+ Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.
Tác phẩm viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh,
trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Nó còn tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của XHPK Việt Nam vào 30 năm cuối
thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX.
Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi. Văn bản trích hồi thứ 14 kể về việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
Thể loại: chí (là một lối văn ghi chép sự vật, sự việc). Cũng có thể xem tác phẩm là một cuốn tiểu thuyết lịch sử
viết theo lối chương hồi.
Đại ý: Đoạn trích miêu tả chiến thắng lẫy lửng của vua Quang Trung, sự thất bại thảm bại nhục nhã của quân
tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân (kẻ bán nước, cướp nước).
2. Tóm tắt:
Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long, ông giận lắm liền họp các tướng sĩ, cầm quân đi ngay. Tướng
sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm yên lòng người. Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân, ông làm lễ lên ngôi
hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo quân tiến ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển
thêm hơn một vạn lính rồi mở cuộc duyệt binh lớn, phủ dụ tướng sĩ. Đến Tam Điệp, ông mở tiệc khao quân ăn tết
sớm, chia quân sĩ làm 5 đạo, đúng tối 30 tết lập tức lên đường. Trên đường tiến quân ra Bắc, những toán quân Thanh
do thám bị bắt sống. Ngày 03 tháng Giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc Hồi.
Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân
Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy, rơi xuống nước nhiều không kể xiết khiến nước sông tắc nghẽn. Vua tôi Lê
Chiêu Thống chạy trốn đất Bắc.
3. Phân tích:
a/ Hình ảnh một người quyết đoán, mạnh mẽ
Nguyễn Huệ cũng luôn xông xáo, giải quyết nhanh gọn và có chủ đích, thể hiện tính cách mạnh mẽ, quyết đoán.
Nhận được tin giặc chiếm Thăng Long, mất một vùng đất rộng lớn, “ông giận lắm, không hề nao núng, định thân
chinh cầm quân đi ngay”.
Chỉ trong vòng hơn 1 tháng, Nguyễn Huệ đã làm rất nhiều việc lớn:
+ Nghe lời tướng sĩ, tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế để chính vị hiệu, giữ lấy lòng người.
+ Tổ chức hành quân hỏa tốc
+ Tổ chức duyệt binh, tuyển binh
+ Tìm gặp người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp để lập kế hoạch hành quân đánh giặc
b/ Là một con người sáng suốt, nhạy bén trước thời cuộc:
Ông phân tích tình hình thời cuộc, thế tương quan giữa ta và địch rất sắc bén, sáng suốt.
Lời phủ dụ quân sĩ ở Nghệ An như bài hịch, ngắn gọn mà ý tứ sâu xa:
+ Khẳng định chủ quyền của dân tộc (đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng)
+ Lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của quân Thanh, nêu bật dã tâm của chúng (bụng dạ ắt
khác...cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải)
+ Nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta và kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực.
→ Nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức và tình cảm, kích thích lòng yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc.
Nguyễn Huệ sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người:
+ Rất hiểu tướng sĩ, hiểu tường tận năng lực, sở trường sở đoản của bề tôi
+ Khen chê đúng người đúng việc, xử trí vừa có lí vừa có tình với các tướng sĩ tại Tam Điệp (không phạt mà còn
khen 2 tướng Lân và Sở).
c/ Có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng
Mới khởi binh, chưa lấy được tấc đất nào, đã tuyên bố chắc nịch phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng qua
mươi ngay có thể đuổi được người Thanh.
Biết trước kẻ thù lớn gấp mười nước mình, bị thua một trận “ắt lấy làm thẹn mà lo mưu bảo thù” khiến việc binh
đao không bao giờ dứt. Nguyễn Huệ còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng, để có thể dẹp việc binh đao.
d/ Tài giỏi trong việc dùng binh:
Cuộc hành quân thần tốc khiến ai cũng kinh ngạc từ xưa đến nay: Ngày 25/12 bắt đầu xuất phát ở Phú Xuân
(Huế) ngày 29 đã đến Nghệ An, vượt núi băng đèo khoảng 350 km.
Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vòng 1 ngày. Hôm sau, tiến quân ra
Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và đêm 30 tháng Chạp đã lập tức lên đường, tiến quân ra Thăng Long. Tất cả đều là
đi bộ.
Hành quân xa như vậy, nhưng “cờ nào đội ấy vẫn chinh tề, từ quân đến tướng, hết thảy cả năm đạo quân đều
vâng mệnh lệnh, một lòng một chi quyết chiến quyết thắng. Đó là nhờ tài năng quân sự lỗi lạc ở người cầm quân”.
Ông chỉ huy, tổ chức các trận đánh hợp lí, ít hao tổn binh lực mà đều giành chiến thắng vang dội
⇒ Là một vị vua tài ba, có tài cầm quân và mưu lược rất chính xác
e/ Sự thất bại của kẻ bán nước, cướp nước:
Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung đầy nhục nhã của kẻ thù xâm lược:
+ Quân Thanh ở các thành đã không kịp trở tay, “rụng rời sợ hãi”, chống không nổi, “bỏ chạy toán loạn, giày xéo
lên nhau mà chết, thây chất đầy đồng, máu chảy thành suối”,… đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không
chảy được nữa.
+ Tướng Tôn Sĩ Nghị nhục nhã “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính
kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”...
Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống:
+ Vua tôi Lê Chiêu Thống đớn hèn. Vì mưu lợi ích riêng của dòng họ, vua Lê Chiêu Thống đã “cõng rắn cắn gà
nhà, rước voi giày mả tổ” để khi quân Thanh tan rã, cả bọn vội vã chạy bán sống. bán chết, chịu đói, chịu nhục, chỉ
biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.
→ Là những kẻ tôi trung với nhà Lê nên trong cách miêu tả cảnh nhục nhã của vua Lê Chiêu Thống, các tác giả
vẫn thể hiện sự ngậm ngùi, thương cảm, nhưng quan điểm tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc đã giúp họ phản ánh
đúng diễn biến lịch sử, làm nổi bật hành động bán nước của Lê Chiêu Thống, cũng như tô đậm chiến công lấy lừng
của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn.
4. Nghệ thuật
Cách trần thuật đặc sắc, lựa chọn trình tự kể theo diễn biến sự kiện lịch sử.
Lời kể chân thật trên cơ sở tôn trọng lịch sử, giọng kể linh hoạt, ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp,
khẩn trương qua từng mốc thời gian.
Miêu tả nhân vật sinh động qua hành động, lời nói cụ thể, khắc họa đậm nét vẻ đẹp, tính cách nhân vật.
– Một sự mâu thuẫn: Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê,nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục
ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ.
KB:
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả Hoàng lê nhất thống chí đã cho ta thấy một
cách sâu sắc hình ảnh oai phong lẫm liệt của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá
quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Vị anh hùng ấy
mãi là niềm tự hào của con người Việt Nam, là một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ học tập và noi theo.
Lưu ý: Bài này không dùng thơ.
3. Làng – Kim Lân – 1948:
MB:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người”
Đúng vậy! “Quê hương” là tiếng gọi thân thương, tha thiết vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi chúng ta sinh ra
và lớn lên. Có những con người khi xa quê hương thì lòng của họ vẫn luôn hướng về nơi đó với bao nỗi nhớ thương da
diết. Yêu cái nơi mình sinh ra cũng là cách thể hiện lòng yêu nước. Với vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với người nông
dân trước cách mạng thì truyện ngắn “Làng” của Kim Lân được viết năm 1948 là một minh chứng cho tình yêu đó.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
Kim Lân (1920–2007), quê ở Bắc Ninh, được mệnh danh là nhà văn của đồng quê, của nông thôn Việt Nam.
Theo Nguyên Hồng, ông là nhà văn “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn”.
Con gái nhà văn khi nói về cha mình có nói là “Sinh thời thầy tôi là người mang nhiều mặc cảm”. Mặc cảm ở
đây chính là do nhà văn là con của vợ ba. Sau khi gặp những khó khăn trong cuộc sống, bà chọn cách đi tha hương cầu
thực. Sau này, nhà văn đã có chia sẻ rằng “Tôi ở trong gia đình thì bị khinh rẻ, ngoài xã hội cũng bị coi thường vì tôi
là con vợ ba, một người ngụ cư. Chính vì muốn đòi sự công bằng với bè bạn, với làng xóm tôi chọn cách viết. Đây là
cách để chứng tỏ mình không thua kém gì anh em, không thua kém gì ai. Các anh con nhà giàu, là việc này việc kia,
được học đến nơi đến chốn, còn tôi thì tôi viết”. Đây chính là ý chí cao cả của nhà văn, và ý chí đấy đã truyền cho tất
cả nhưng nhân vật mà ông viết. Nhà văn là một người yếu thế trong xã hội, là người xuất thân rất là bình thường, thậm
chí tầm thường. Nên ông chỉ có thể viết, dựa vào chính năng lực của mình để tìm lại giá trị thật của bản thân.
Bởi vì phần lớn cuộc đời của ông sống ở vùng quê Việt Nam, nên những tác phẩm của ông vẵn xoay quanh
những câu chuyện về nông thôn Việt Nam.
Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí
Văn nghệ năm 1948.
2. Tóm tắt:
Ông Hai Thu là người làng Chợ Dầu. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông Hai đã cùng vợ con lên tản
cư ở Bắc Ninh dù rất muốn ở lại làng chiến đấu. Ở nơi tản cư, lúc nào ông cũng nhớ làng, ông luôn khoe về làng mình.
Ở đây, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Nhưng rồi một hôm, ông nghe được câu
chuyện của một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng Dầu của ông theo giặc. Ông vô cùng đau khổ, xấu hổ, cúi gầm
mặt đi thẳng về nhà. Suốt ngày chẳng dám đi đâu, chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi.
Ông không biết bày tỏ với ai, không dám đi ra ngoài. Thế là ông đành nói chuyện với thằng con út cho vơi nỗi buồn,
cho nhẹ bớt những đau khổ tinh thần. Ông chớm có ý định về làng để xác minh sự thật nhưng lại tự mình phản đối vì
nghĩ về làng, làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ bởi làng ông đã theo Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông chủ tịch
dưới xã lên chơi cải chính tin làng ông theo giặc. Ông lão sung sướng mùa tay đi khoe khắp làng rằng nhà ông đã bị
đốt nhẵn. Ông thêm yêu và tự hào về cái làng của mình.
3. Phân tích:
a/ Trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
Ông Hai là người rất yêu làng và thể hiện tình yêu đó rất đặc biệt:
+ Làng Chợ Dầu là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông gắn bó bằng tình cảm máu thịt. Ông yêu làng, tự hào về
làng, kể chuyện về làng say mê, náo nức lạ thường: Ông khoe làng ông có cái làng thông tin tuyên truyền sáng sủa,
rộng rãi nhất vùng; chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh, đường làng lát đá xanh...
+ Từ ngày khởi nghĩa, ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập mà ông gia nhập từ hồi còn bóng tối. Ông kể
rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hào.
Ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông hai hoà nhập với tình yêu nước:
+ Ông nhớ làng da diết, khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường: Hai con mắt ông sáng hắt lên.
Không cần biết người nghe có thích nghe hay không. Ông kể cho sướng cái miệng, cho đỡ nhớ cái làng của ông Ông.
+ Quan tâm tha thiết đến cuộc kháng chiến, đến các tin chiến thắng của quân ta và ruột gan ông lão cứ múa cả lên.
⇒ Kim Lân đã thể hiện một cách tự nhiên, chân thực tình cảm yêu làng của ông Hai. Trong hoàn cảnh cụ thể: xa làng
đi tản cư, tác giả đã để nhân vật bộc lộ nỗi nhớ, tình yêu, niềm tự hào, sự tin tưởng sâu sắc về làng Chợ Dầu. Với ông,
tình yêu làng là tình cảm thiêng liêng, thường trực trong lòng như nguồn sống tinh thần.
4. Nghệ thuật:
Truyện “Làng” được nhà văn Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ trần thuật, thống nhất với ngôn ngữ, quan điểm
nhân vật. Chính điều đó đã thể hiện rõ tâm trạng nhân vật ông Hai qua lối kể chuyện một cách tự nhiên gần gũi. Đặc
biệt nghệ thuật xây dựng truyện bất ngờ khi nghe tin làng theo Việt gian. Tình huống này đã đặt ông Hai vào tình thế
bế tắc, bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật.
KB:
(1) Tóm lại, “Làng” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc khai thác nhiều tình cảm bao trùm và phổ biến trong
con người thời kì kháng chiến, đặc biệt là đối với quê hương, đất nước. Tình yêu làng quê, tinh thần kháng chiến của
nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thật sự của nhân dân ta trong thời kì cách mạng. Truyện giúp chúng ta hiểu,
yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha và cao cả
đến thế. Chính vì vậy, thế hệ trẻ ngày nay cần phải sống đúng, sống đẹp, sống bằng tất cả sức sống tươi trẻ của mình
và cống hiến, góp phần xây dựng Tổ quốc để xứng đáng với công lao của ông cha ta ngày trước.
(2) Văn hào I-li-a Ê-ren-bua từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc”.
Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng chính là cội
nguồn của lòng yêu nước, là cơ sở cho những tình cảm lớn lao, cao đẹp. Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói
chung và trong đoạn truyện ông Hai nghe tin cải chính nói riêng, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động
tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đã đem đến
cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tình yêu quê hương, về đức hi sinh, về lòng yêu nước.
Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, sau bao lớp bụi mờ của thời gian, truyện ngắn “Làng” của nhà
văn Kim Lân vẫn luôn sáng mãi.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
Nguyễn Thành Long (1925-1991) quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kháng chiến chống
Pháp, là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí.
Truyện ngắn của ông nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình.
Văn ông thường ánh lên vẻ đẹp của con người, có khả năng thanh lọc tâm hồn, gợi tình yêu cuộc sống.
– “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả chuyến công tác của Nguyễn Thành Long ở Lào Cai năm 1970, in trong tập “Giữa
trong xanh” (1972). Tác phẩm khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa những công việc thầm lặng.
2. Tóm tắt:
Trên chuyến xe khách tử Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư trẻ tình cờ quen nhau. Xe tới
chân đỉnh Yên Sơn, bác lái xe dừng lại, giới thiệu với ông hoạ sĩ giả và cô kỹ sư trẻ một anh thanh niên làm công tác
khí tượng kiêm vật lí địa cầu, sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn. Ông họa sĩ, có kĩ sư đã gặp và trò chuyện với anh
thanh niên trong 30 phút ngắn ngủi. Anh thanh niên kể về công việc và cuộc sống của mình. Anh đã bộc lộ những suy
nghĩ đúng đắn về công việc và cuộc đời. Khi ông hoạ sĩ định vẽ anh, anh đã giới thiệu những người khác mà anh cho
là xứng đáng hơn như ông kỹ sư vườn rau, nhà nghiên cứu sét. Những con người tình cờ gặp nhau bỗng trở nên thân
thiết. Khi chia tay, ông họa sĩ hứa sẽ quay trở lại, có kĩ sư thấy xúc động, yên tâm hơn về quyết định lên Lào Cai công
tác. Anh đã tặng cô gái một bó hoa và tặng bác một làn trứng.
3. Phân tích:
a/ Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa:
Thiên nhiên Sa Pa đẹp, trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Ngôn ngữ miêu tả cảnh của Nguyễn Thành Long trong
sáng, giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình, chất hội họa và cảm hứng lãng mạn, có nhiều hình ảnh đẹp, gây ấn tượng:
+ Những rặng đào với đường núi quanh co, uốn lượn; những cánh đồng cỏ trong thung lũng, những đàn bò lang cổ
có đeo chuông ... mang đặc trưng của thiên nhiên, cuộc sống muôn màu, muôn vẻ nơi đây.
+ Hình ảnh rừng cây đầu mùa bao bọc lấy nhau. Những cây thông, cây tử kinh đẹp nên thơ được miêu tả qua sự
liên tưởng, từ ngữ gợi hình gợi cảm: Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng bạc
dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng.
+ Nắng mang vẻ đẹp kì lạ khiến cảnh sắc thêm lộng lẫy: Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây; nắng đã
mạ bạc cả con mèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bỏ hoa càng thêm rực rỡ
và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo.
+ Mây cũng được miêu tả mang vẻ đẹp tươi mới: Mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng rồi mây bị
nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.
Nhân hóa : mây, nắng → xua, cuộn, lần, luồn,… ⇒ sống động, ấn tượng, mới lạ, thơ mộng.
Hình ảnh thiên nhiên Sa Pa mang vẻ đẹp thơ mộng, độc đáo, kỳ lạ qua cái nhìn của ông họa sĩ. Chỉ là những nét
phác hoạ nhưng cảnh thiên nhiên hiện lên đẹp như những bức tranh, nên thơ, độc đáo, lạ kì. Thiên nhiên đẹp đến hai
lần – cái đẹp tự nhiên của tạo hóa ban tặng cho Sa Pa và cái đẹp qua tâm hồn nghệ sĩ của người hoạ sĩ.
→ Thiên nhiên đẹp làm nền cho vẻ đẹp con người sống và làm việc ở Sa Pa lặng lẽ, yên bình. Cái hừng hực của nắng,
của gió gợi đến nhiệt huyết hừng hực cháy của con người lao động nơi đây. Thiên nhiên thơ mộng, trong sáng như tâm
hồn những con người ở Sa Pa trong sáng, mộng mở.
THƠ
TRUYỆN KIỀU – Nguyễn Du:
1. Chị em Thúy Kiều:
MB:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
Đó là niềm tự hào, sự kính trọng, ngợi ca của tác giả Chế Lan Viên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói
chung đối với tác phẩm truyện Kiều bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là một kiệt tác bởi ngôn từ tinh
tế, sâu sắc. Góp phần làm nên thành công cho tác phẩm phải kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, vịnh cảnh ngụ tình,
… Đặc biệt chính là bút pháp miêu tả nhân vật thông qua đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều”, mà ở đó, chúng ta sẽ cảm
nhận được tất cả tài năng mà một danh nhân văn hóa thế giới đã thể hiện hết trong tác phẩm.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
Vị trí đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới
thiệu gia đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em thuý vân, Thuý Kiều.
Nội dung: “Chị em Thuý Kiều” là khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài
năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.
Nghệ thuật: Thuý Kiều, Thuý Vân và nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lý tưởng trong Truyện Kiều. Để
khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi
bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy
làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
2. Phân tích:
a/ Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (bốn câu đầu):
Trước hết, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình. Lời giới thiệu với ngôn ngữ trang trọng:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
Trong gia đình Vương viên ngoại, Thuý Kiều và Thuý Vân là hai cô con gái đầu lòng, Kiểu là chị, Vân là em. Họ
đều là những ả tố nga – những người con gái đẹp.
Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em: Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Với bút pháp ước lệ tượng
trưng và phép tiểu đối, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp mang tính lí tưởng tuyệt đối của hai chị em. Đó là vẻ đẹp duyên dáng,
thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ. Kiều và Vân có vóc dáng mảnh mai, thanh tao, quý phái như mai; tâm hồn
trắng trong, tinh khiết như hoa tuyết. Vẻ đẹp đó hải hỏa cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
Tác giả sử dụng lời bình về vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều để khép lại bốn câu thơ đầu: Mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười. Hai chị em đều đạt đến vẻ đẹp tuyệt mĩ, không tì vết mười phân vẹn mười, song lại có nét riêng
từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người.
Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, nhịp nhàng, đối xứng, làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai
chị em.
→ Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng
đậm nét nhất về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ được cảm hứng ca ngợi cái
tài hoa, nhan sắc của con người qua nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du.
b/ Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân (bốn câu tiếp):
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngoài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Câu thơ mở đầu đã khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân: vẻ đẹp mang phong thái đoan trang, cao sang, quý phái.
Vẻ đẹp của Vân được miêu tả qua những bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy những hình ảnh thiên nhiên như trăng,
hoa, mây, tuyết… làm chuẩn mực để tái hiện vẻ đẹp của người giai nhân.
Chân dung của Vân được miêu tả trọn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói: Vân có
khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, sáng trong như vầng trăng tròn; có đôi lông mày đậm, sắc nét như con ngài; miệng cười
tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà và mái tóc của nàng đen dày óng ả, bồng bềnh
hơn mây; làn da của nàng trắng mịn màng hơn tuyết. Vân quả là một người con gái đẹp, đoan trang, quý phái khó có ai
sánh bằng.
+ Vẻ đẹp của Vân hải hòa với vẻ đẹp thiên nhiên khiến thiên nhiên chẳng chút ghen ghét, đổ kị: Mây thua nước tóc,
tuyết nhường màu da. Phép nhân hoá mây thua, tuyết nhường cho thấy vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên, tạo hoá hay đó
còn là cả một xã hội phong kiến, cũng không thể sánh ngang với dung nhan của nàng. Vẻ đẹp của Vân hài hoà với
thiên nhiên, hài hòa trong khuôn khổ của xã hội phong kiến thì dẫu Vân có đẹp hơn những cái đẹp nhất của thiên nhiên
thì nàng vẫn được đón nhận, bao bọc và yêu thương. Dự báo một cuộc đời êm ả, bình lặng, suôn sẻ. Nghệ thuật miêu
tả mang tính dự báo đã gợi lên bức chân dung của người con gái đẹp mang tính cách số phận.
→ Bằng bút pháp cổ điển ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của nhân vật Thúy
Vân để từ đó gợi cho người đọc thấy được tính cách và số phận của nàng.
c/ Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều (mười hai câu tiếp):
Nếu như miêu tả bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ dùng có bốn câu thì đến Thúy Kiều ông dùng đến
mười hai câu. Chứng tỏ, tác giả đã ưu ái, dùng nhiều bút lực và sự yêu mến đặc biệt cho nhân vật này.
Sự yêu mến đó càng được khẳng định khi Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật đòn bẩy một cách tài tình: Ông miêu tả
nhân vật Thúy Vân trước như một tuyệt thế giai nhân để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nếu Thúy Vân chỉ được Nguyễn Du tả về sắc đẹp thì với Kiều, ông tả vẻ đẹp của nhân vật ở cả sắc, tài, tình.
Sắc:
+ Vẻ đẹp của Kiều cũng được tác giả miêu tả qua những hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ, tượng trưng như thu
thủy, xuân sơn, hoa, liễu. Thế nhưng, tác giả không đi vào tả chi tiết như tả Thúy Vân mà chỉ tập trung đặc tả vẻ đẹp
đôi mắt Kiều theo lối điểm nhấn vẽ hồn cho nhân vật: Làn thu thủy nét xuân sơn. Kiều có đôi mắt trong sáng, long
lanh như làn nước hồ thu; hàng lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần
tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tác giả chỉ tả đôi mắt nhưng gợi lên vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc,
khiến hoa ghen liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành. Sử dụng thành ngữ nghiêng nước nghiêng thành là cách nói
sáng tạo, dùng điển cố để cực tả vẻ đẹp, thể hiện sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp của giai nhân. Vẻ đẹp của Kiều
có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người.
Kiều mang vẻ đẹp tuyệt trần khiến thiên nhiên ghen ghét, đố kị: hoa ghen đến phai sắc thắm, liều hờn nên cũng
kém xanh.
Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài
hòa mà vượt qua mọi khuôn khổ, chuẩn mực phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho các vẻ đẹp khác phải ghen
ghét, oán hận, đố kị và chứa đựng ý muốn trả thù. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm, một số phận
sóng gió
Tài:
Không chỉ miêu tả là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí
tuệ thiên bẩm và rất đa tài:
Thông minh vốn sẵn tinh trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Tài của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, nàng giỏi cả cầm, kỳ, thi, hoạ.
– Nàng là người con gái đa tài, đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), họa (vẽ) và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Đặc biệt,
tài đàn đã được Nguyễn Du tập trung miêu tả. Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu luyện và
vượt lên trên mọi người: “ Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”
Tình:
Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh” chính là khúc nhạc mà nàng tự viết, khi cất lên ai cũng
xúc động.
– Miêu tả tài đàn cũng là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu,
đa cảm của Thúy Kiều.
– Cung đàn bạc mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm khiến ai nghe cũng não lòng.
⇒ Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của Kiều khiến tạo
hoá ghen ghét, tài hoa trí tuệ thiên bẩm đủ mùi, tâm hồn đa sầu đa cảm. Có lẽ tất cả dự báo định mệnh nghiệt ngã, số
phận đầy sóng gió của kiếp hồng nhan bạc mệnh bởi Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau, Trời xanh quen thói mà
hồng đánh ghen.
⇒ Nguyễn Du đã rất tinh tế và dành tinh yêu thương đặc biệt cho Thúy Kiều khi chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, dành
tới 12 câu thơ để tả Kiều; Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều tả cả sắc, tài, tỉnh để làm nổi bật vẻ đẹp toàn vẹn, tuyệt mĩ của
nhân vật.
d/ Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em ( 4 câu cuối)
– Hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những đức hạnh và
sống có khuôn phép:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
+ Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề nếp.
+ Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn che”.
+ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “toác búi, trâm cài” của cả hai chị em. Song họ vẫn sống một
cuộc sống kín đáo, gia giáo sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ.
→ Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh
êm đềm và chưa một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo phong kiến.
e/ Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích
– Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con
người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân.
– Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh
tương đố của Nguyễn Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn với
con người của Nguyễn Du.
KB:
Tóm lại, dưới ngòi bút điêu luyện tinh tế của nhà thơ, hình ảnh nhân vật được miêu tả một cách rõ nét thông qua
ngôn ngữ ước lệ sâu sắc. Ở đây ta cảm nhận được tình cảm ưu ái, giàu tính nhân văn của tác giả đối với nhân vật. Thật
vậy, Nguyễn Du là một bậc thầy về nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục
và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man
mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu
Ngưng Bích. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, từ tĩnh đến động ứng với cảm xúc của Thúy Kiều diễn ra theo chiều
hướng tăng từ nỗi buồn, cô đơn, lo lắng, nỗi tuyệt vọng và cuối cùng là sự sợ hãi.
KB:
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích thành công nhất về nghệ thuật tả cảnh ngụ
tình trong “Truyện Kiều”. Đọc đoạn trích , ta càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của tác giả Nguyễn Du và thương
cảm cho tình cảnh bất hạnh của nàng Kiều, cho nỗi đau của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù trang
sách đã gấp lại rồi, lòng ta vẫn thiết tha rung động, vẫn đau đáu nỗi niềm cảm thương và phải chăng chính vì thế mà
sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện Kiều” vẫn là tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam.
LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA – Nguyễn Đình Chiểu:
MB:
Từ khi bắt đầu được cắp sách đến trường, có một bài học vỡ lòng mà thầy cô giáo thường mượn lời dạy bảo của
Bác Hồ kính yêu để giáo dục chúng em, đó là: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình” Trong cuộc sống đời
thường, nhân dân ta hết sức coi trọng việc nghĩa. Ngay cả trong trường hợp khó khăn nhất, ta cũng không được phép
toan tính mà phải nghĩ đến người khác. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một người thi sĩ đã luôn đề cao quan niệm
làm việc nghĩa. Đó chính là thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm nổi tiếng “ Truyện Lục
Vân Tiên” thông qua hai câu thơ:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu truyện “Lục Vân Tiên”. Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ trước
khi lên kinh đô thi, gặp bọn cướp đang hoành hành, Lục Vân Tiên đã một mình làm gậy xông vào đánh tan bọn cướp,
cứu Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
Nội dung: truyền đạt đạo lí làm người: xem trọng đạo nghĩa, đề cao tinh thần nghĩa hiệp, lẽ công bằng và khát
vọng về một cuộc sống tốt đẹp.
Nghệ thuật: Truyện thơ Nôm – 2082 câu thơ lục bát; kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện phương
Đông, theo từng chương hồi.
2. Phân tích:
A. Hành động vì nghĩa
1. Hành động cứu Kiều Nguyệt Nga xuất hiện trong hoàn cảnh Lục Vân Tiên trên đường vào kinh ứng thí. Việc
thi cử trong xã hội phong kiến là việc lớn đối với kẻ sĩ. Trong hoàn cảnh đó, lẽ thường con người dễ né tránh mọi nguy
hiểm, giữ gìn an toàn cho bản thân mình, chỉ toàn tâm toàn ý cho việc thi cử.
2. Hành động đó
Vì nghĩa: Thấy người bị nạn, Lục Vân Tiên đã tìm cách cứu.
Dũng cảm:
• Bọn cướp đông, lại hung hãn:
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng,
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ, tại mày,
Truyền quân bốn phía phì vây bịt bùng.
• Vân Tiên xông vào, vũ khí chỉ là một đoạn gậy:
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
• Một mình Vân Tiên:
... tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
• Với sự dũng cảm đó, Vân Tiên đã đánh tan bọn cướp:
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Vô tư, hào hiệp: Người mà Vân Tiên cứu là một kẻ xa lạ:
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”
• Sau đó, Vân Tiên khước từ lời mời mọc của Nguyệt Nga:
“Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.”
• Trước tấm chân tình mong đền ơn trả nghĩa của Nguyệt Nga, Vân Tiên chỉ cười, bởi chàng cho việc giúp người gặp
nạn là nghĩa vụ của kẻ làm trai:
Vân Tiên nghe nói liền cười,
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc hoạ thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng
rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng
thương người, chí quả cảm, tinh thần vị nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta. Trên một trăm năm
mươi năm qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng
bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỉ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc
vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về
sức mạnh của thi ca, đặc biệt là Truyện LVT của Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời. Tinh thần nghĩa hiệp của LVT
như viên ngọc quý, sáng bừng lên dư vị ngọt ngào của cuộc sống này.
TB:
1. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
Huy Cận, tên khai sinh Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở Hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại Hà Nội.
Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng trách trong chính
quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945.
Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên, vũ trụ là nguồn cảm
hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.
b/ Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được viết vào năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Không khí hào hứng, phấn chấn, tin tưởng bao
trùm trong đời sống xã hội và ở khắp nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất nước.
Chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh vào nửa cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và
sống trong không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp phần quan trọng mở ra một chặng đường mới trong thơ Huy
Cận.
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
Nội dung: Bài thơ là khúc tráng cam ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động trong công cuộc xây
dựng cuộc sống mới. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người
lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Nghệ thuật:
+ Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
+ Âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.
Cảm hứng chủ đạo:
Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng lãng mạn tràn đầy niềm vui hào
hứng về cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ,
vốn là một nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy đã tạo ra những hình ảnh rộng
lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ này.
2. Phân tích:
a/ Hai khổ thơ đầu khắc họa cảnh Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong cảnh hoàng hôn thật tráng lệ và huy
hoàng:
Khổ 1: Cảnh hoàng hôn trên biển và tâm trạng náo nức của người lao động
Hai câu thơ đầu bằng cảm hứng và bút pháp lãng mạn Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên biển cả lúc
hoàng hôn rất đẹp, rất nên thơ, làm nền cho đoàn thuyền đưa con người lên đường ra chinh phục biển cả:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Từ điểm nhìn trên con thuyền ra khơi nhìn về phía Tây bờ bãi, tac giả thấy mặt trời đang từ từ lặng xuống, vũ trụ
đang chuyển mình từ ngày sang đêm, đi vào trạng thái nghỉ ngơi.
Tác giả đã so sánh mặt trời cuối ngày “như hòn lửa” khiến cho cảnh hoàng hôn trở nên tráng lệ, rực rỡ, kì vĩ.
Ánh đỏ của mặt trời lúc này làm cho cảnh biển trở nên ấm áp chứ không hề ảm đạm, hiu hắt như cảnh hoàng hôn
thường thấy trong thơ xưa.
Điểm thêm vào tiếng sóng dịu êm là màn đêm buông xuống qua hình ảnh nhân hóa “ Sóng đã cài then, đêm sập
cửa”. Chính biện pháp tu từ nhân hóa và liên tưởng đã làm cho cảnh biển đêm trở nên gần gũi với con người.
Biển như một ngôi nhà chung rộng lớn mà màn đêm đang buông xuống chính là cánh cửa khổng lồ, còn những
cơn sóng là chiếc then cài.
Con người đi trong biển đêm mà như đang đi chính trong ngôi nhà của mình. Điều đó cũng cho thấy con người ra
khơi trong tư thế yên tâm, an toàn, tự chủ.
→ Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm, khiến cảnh
biển đẹp vừa hùng vĩ tráng lệ nhưng lại rất gần gũi với con người khác hẳn với cảnh hoàng hôn trong thơ của Huy Cận
trước cách mạng tháng 8 thường buồn và hiu hắt.
Trên nền cảnh thiên nhiên tráng lệ là hình ảnh con người lao động phấn khởi, say mê với niềm lạc quan phơi
phới. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi đêm đang dần tới là trở về chính ngôi nhà thên quen:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là một sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã ổn định đi vào
nề nếp. Ra khơi là một công việc diễn ra thường xuyên đều đặn một nhịp sống quen thuộc.
Hoạt động của người lao động hòa nhịp với nhịp điệu tuần hoàn của vũ trụ: khi màn đêm bắt đầu buông xuống
cũng là lúc đoàn thuyền khởi đầu cho một chuyến hành trình.
Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã xây dựng một hình ảnh thơ khỏe khoắn và mới lạ. Trước không gian rộng
lớn của biển cả, con người tự tin hát vang câu hát vang vọng: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn, niềm say sưa, hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu
biển và say mê với những công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho tổ quốc. Tiếng hát của ngư dân hòa cùng sức
gió nâng cánh buồm đưa đoàn thuyền băng băng vượt sóng ra khơi.
Ba sự vật, hiện tượng: Câu hát, căng buồm, gió khơi được gắn kết thật tự nhiên và kì thú.
→ Như vậy bức tranh cảnh trời đêm không hề yên tĩnh mà lại ngân vang câu hát của người lao động.
Khổ 2: Là những câu hát ngợi ca sự giàu có, trù phú, ca ngợi nét đẹp tâm hồn của người lao động
Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm cầu mong của người ngư dân, mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật
nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Giọng thơ ngọt ngào vang xa, cùng những biện pháp nghệ thuật nhân hóa và nghệ thuật so sánh: từ “bạc” có ý
nghĩa chỉ số lượng cá nhiều, sự giàu có quý giá của biển cả; phép so sánh, liên tưởng “cá thu” như “đoàn thoai” miêu
tả hình ảnh những con cá thu mình lấp lánh ánh trăng lướt rất nhanh trên biển như con thoi chạy đi chạy lại trên khung
cửi dệt.
Câu hát còn là lời gọi thân thương, gần gũi gọi cá vào lưới “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”.
Nghệ thuật ẩn dụ , qua cách sử dụng từ “dệt” với mong muốn cá đến thật nhiều. Câu hát cho thấy người lao động
làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình, và niềm tin đánh bắt cá thắng lợi. Câu hát thể hiện sự gắn bó thân
thiết giữa con người lao động với biển cả. Họ yêu biển gắn bó với biển.
⇒ Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã phác
họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao
động và niềm hi vọng của người dân chài. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên,
với đất nước và niềm vui, niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng
biết bao.
b/ Bốn khổ thơ tiếp lại miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm bao la, hùng vĩ.
Khổ 3: Là hình ảnh biển đêm rộng lớn:
Khổ thơ đã làm hiện lên hình ảnh con thuyền kì vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước rộng lớn thiên nhiên, vũ trụ.
Con thuyền có gió làm bánh lái, trăng làm buồm lướt đi phơi phới giữa mênh mang trời nước:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại, cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo ra hình ảnh
người lao động.
Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích
thước rộng lớn, tầm cỡ lớn lao của thiên nhiên vũ trụ.
Thiên nhiên, vũ trụ, gió, trăng như đang góp sức với con người lao động đi khám phá và chinh phục biển cả.
Hình ảnh con người lao động được đặt trong nghệ thuật hài hòa của thiên nhiên (Lái gió, buồm trăng, mây cao,
biển bằng) đã diễn tả cảnh con thuyền tung hoành giữa biển trời mênh mông và đang làm chủ biển khơi.
Từ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với tốc độ phi thường. Thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con
đường lao động khám phá.
→ Chỉ hai câu thơ đó thôi đã cho ta thấy sức tưởng tượng phong phú, bút pháp tài hoa sáng tạo của Huy Cận.
Hai câu thơ tiếp đã vẽ ra trước mắt người đọc tư thế hiên ngang, khéo léo của người lao động, cảnh đánh cá như
một trận đấu:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Những người dân làng chài trở lên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ, nổi bật giữa thiên nhiên vũ trụ.
Họ chủ động chinh phục biển cả.
Sau khi “ra đậu dặm xa dò bụng biển” đến ngư trường, người ngư dân khẩn trương lao vào cuộc: “Dàn đan thế
trận lưới vây giăng”.
Công việc đánh cá là một trận chiến, mỗi ngư dân là một chiến sĩ. Con thuyền, mái chèo, lưới và ngư cụ khác đều
trở thành vũ khí của họ. Công cuộc lao động cũng chính là công cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.
Công việc đánh cá được “dàn đan” như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo như nghệ nhân của người dân làng
chài và tâm hồn phóng khoáng chinh phục biển cả.
→ Tư thế và khí thế của người dân thật là mạnh mẽ đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời.
Khổ 4: là bức tranh biển đêm giàu có nên thơ:
Đoạn thơ thứ tư cho thấy cảnh biển đêm lung linh huyền ảo với màu sắc của các loài cá. Nhưng câu thơ tả đoàn
cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với những loài cá quý, cá ngon: chim, nhụ, đé, song:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Một loạt hình ảnh liệt kê: Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé, cá song đã góp phần diễn tả sự giàu đẹp của biển cả quê
hương.
Vẻ đẹp của các loài cá hòa quyện cùng với vẻ đẹp của trăng trên biển tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và
giàu chất lãng mạn.
Nhà thơ sử dụng một loạt các tính từ chỉ màu sắc “lấp lánh, đen hồng, vàng chóe” để làm nổi bật lên vẻ đẹp của
các loài cá, những con cá song giống như những ngọn đuốc đen hồng lao đi trong luồng nước dưới ánh sáng lấp lánh là
một hình ảnh rất độc đáo sáng tạo, là một nét vẽ tài hoa đẹp hơn nữa là hình ảnh “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”,
ánh trăng in xuống mặt nước, cái đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe.
Cảnh biển đêm còn lung linh với hình ảnh:
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở sao lùa” là hình ảnh sống động có hồn thể hiện sự sáng tạo bất ngờ của tác giả gợi
nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống.
Nhìn bầy cá bơi lượn nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ kỳ ảo lung linh như đưa người
đọc vào cõi mộng. Phải có tình yêu biển sâu nặng tác giả mới viết được một vần thơ tuyệt bút như vậy.
Khổ 5: Tiếng hát hòa với gió để gọi cá và tấm lòng trọng ân tình của những người ngư dân với biển:
Sự giàu có và phong phú của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao
tiếng hát. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Tiếng hát căng tràn trên mặt biển gọi cá vào gợi sự thân thiết, niềm vui, sự phấn khởi trong lao động. Lần thứ hai
tiếng hát vang lên trên biển.
Câu hát vang lên giữa biển khơi như khúc trường ca rộn rã, biển cả bao la thực sự là ngôi nhà thứ hai của ngư
dân, là niềm hạnh phúc, niềm vui, là tâm trạng của người dân miền Bắc đi lên xây dựng CNXH.
Những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào: “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, đây là hình ảnh lãng mạn
đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc đánh cá trên biển. Âm nhạc và ánh trăng đã tạo nên những thăng hoa trong tâm
hồn người lao động.
Những người ngư dân còn có một tình cảm thật đặc biệt với thiên nhiên và với biển cả:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Với biện pháp nghệ thuật so sánh “Biển như lòng mẹ”, tác giả đã cụ thể hóa tình cảm tha thiết con người với thiên
nhiên, gợi hình ảnh biển cả giàu có, biển rộng lớn bao la gợi cảm giác ấm áp thân thiết, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc
của con người với thiên nhiên, đồng thời nói lên lòng tự hào của người dân làng chài với biển quê hương.
→ Qua hình ảnh so sánh đó, ta thấy được cái nhìn lãng mạn của nhà thơ Huy Cận.
Khổ 6: Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say với cảnh kéo lưới.
Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Cả bài thơ chỉ có một chi tiết tả thực cảnh kéo lưới nhưng vẫn đầy
lãng mạn:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
Công việc đánh cá của người dân nhịp nhàng với điệu vận hành của thiên nhiên vũ trụ. Một đêm trôi nhanh trong
nhịp điệu lao động hứng khởi, hăng say.
“Sao mờ” là lúc trời gần sáng, mặt trời đang lên. Đó là dấu hiệu báo một ngày mới bắt đầu, cũng là lúc khẩn
trương kéo lưới về kịp trời sáng.
Con người đang giành giật với thời gian, chạy đua với thời gian để làm việc và cống hiến. Thời gian trôi càng
nhanh, con người lao động càng hăng say. Một cuộc chạy đua âm thầm đang diễn ra giữa con người và thiên nhiên.
Hai câu thơ đã tạo nên bức tượng đài sừng sững của người lao động giữa vùng biển rộng. Hai chữ " xoăn tay"
giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung tư thế của những người lao động, đó là tư thế chắc khỏe, cường tráng, tư
thế của những người đã khẳng định được vị thế của mình trên biển khơi, vị thế của người làm chủ, người chiến thắng.
Bóng dáng họ sừng sững giữa biển khơi với bắp tay nổi cuộn, dưới bàn tay ấy là tấm lưới trĩu nặng mẻ cá đầy.
Hình ảnh "chùm cá nặng" gợi liên tưởng thú vị: cá rất nhiều, che cả mắt lưới. Đó chính là thành quả lao động mà
người ngư dân thu được sau một đêm vất vả.
Vẫn là phép liên tưởng và tưởng tượng bay bổng, nhà thơ giúp người đọc nhận ra được vẻ đẹp dũng mãnh với
những chiến tích lớn lao mà những người anh hùng lao động đạt được, họ hoàn toàn xứng đáng khi có những thành
quả ấy.
Chuyến ra khơi thắng lợi và sao mờ cũng là lúc công việc đánh cá trên biển ngư dân kết thúc:
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Lời thơ miêu tả cụ thể màu sắc của thân cá. Sắc màu ấy đã khiến cho cả không gian bừng sáng lên khi sao mờ
trăng khuất. Sự pha trộn màu sắc: trắng – vàng trong câu thơ thật hài hòa sinh động. Và khi người lao động vừa thu
được chùm cá nặng thì cũng là thời điếm kết thúc một ngày lao động mệt nhọc, hăng say.
“Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” – câu thơ với những hành động diễn ra liên tiếp, khẩn trương tạo sự nhịp
nhàng trong lao động của con người với sự vận hành của thiên nhiên vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh
bình minh.
“Lưới xếp buồm lên” là hai hình ảnh đối lập. “Lưới xếp” là kết thúc của ngày lao động. “Buồm lên” là đón chào
một ngày mới.
Cánh buồm giờ đây không phải vô tri vô giác mà trở nên sống động có hồn. Và ẩn chứa đằng sau cánh buồm ấy
là sức sống tiềm tàng mãnh liệt đang trỗi dậy. Cánh buồm đang vươn lên để đón nắng hồng. Nắng hồng là nắng bình
minh của một ngày mới, một ngày trong trẻo, tươi sáng.
“nắng hồng” còn là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Đó là nắng của một ngày mới, một cuộc đời mới mà cách mạng đem
lại cho chúng ta.
⇒ Như vậy, bằng sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, các từ
ngữ và hình ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã giúp người đọc cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn một bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn
lao, phi thường. Lời thơ còn cho ta nhận ra ở nhà thơ Huy Cận là tình yêu với thiên nhiên, với đất nước và niềm vui,
niềm tin yêu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.
c/ Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh (khổ 7)
Khổ thơ cuối của đoạn thơ, tác giả miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh khi ngày mới
bắt đầu. Sau một đêm cật lực, “Đoàn thuyền đánh cá” trở về bến với khoang thuyền đầy ắp cá. Trong tâm thế phấn
khởi, lạc quan, họ lại cất tiếng hát thắng lợi hân hoan:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của bài ca lao động.
Nếu như ở khổ thơ đầu bài thơ, câu hát có sức mạnh đẩy đoàn thuyền ra khơi nhanh hơn, thể hiện niềm vui, sự
phấn chấn thì ở đây câu hát là niềm vui với thành quả, câu hát ấy thể hiện sự phấn khởi của người dân sau một đêm lao
động hăng say.
Chính câu hát đã tạo nên khí thế của con người rất hăng say sau một đêm vật lộn với sóng gió đại dương chứ
không hề mệt mỏi.
Và ở khổ thơ này, hình ảnh đoàn thuyền cũng một lần nữa được tác giả miêu tả thông qua một pháp nhân hóa hết
sức độc đáo: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.
Phép nhân hóa đã làm cho đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ
của vũ trụ, nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên.
Không chỉ thế, lời thơ ấy còn gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động.
Đoàn thuyền là hình ảnh nghệ thuật được dùng để chỉ những người ngư dân. Họ như đang chạy đua cùng với mặt
trời để mau chóng mang thành quả lao động, những con cá tươi ngon vừa đánh bắt vào bờ phục vụ cho phiên chợ sáng.
Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã
về đến bến.
Bài thơ được kết thúc bằng một hình ảnh thơ rất đẹp: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng.
Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…
⋆ Khi bình minh lên “mặt trời đội biển nhô màu mới” còn là hình ảnh ẩn dụ chỉ sử đổi thay, thế đi lên của đất nước với
một tương lai tươi sáng. Sức lao động và mồ hôi yêu đời kỳ diệu của người dân miền biển đã vẽ lên cảnh được mùa cá
và cuộc sống hạnh phúc ấm no của họ.
⋆ Đây là hình ảnh đẹp của bức tranh sơn mài lung linh, huyền ảo được tạo nên bởi sự liên tưởng bay bổng từ sự quan
sát tinh tế của Huy Cận.
3. Đánh giá:
Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn ngữ. Âm điệu tạo nên âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại
phơi phới bay bổng. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ để cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi
một số bài thơ khác cùng viết về đề tài này đã rơi vào quên lãng.
Dẫn chứng:
“Biết cách làm việc, biết cách lao động thì đó cũng là một tài năng”
“Con người phải hiểu lao động là một món quà”
“Hãy biết ơn cuộc sống khi mỗi sáng thức dậy ta đều có việc để làm”
“Lao động là vinh quang”
“Học vấn là cái kho, lao động là chìa khóa để mở cái kho ấy”
“Ai lao động thì người ấy sẽ hạnh phúc”
KB:
Với cảm hứng lãng mạn, bay bổng, nhà thơ đã phát họa thành công hình ảnh người lao động với niềm vui phấn
khởi trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một khúc ca tráng lệ về lao động. Đó còn là sự hài hòa thiên nhiên và
con người, bộc lộ niềm tự hào trước sự hồi sinh của đất nước đang từng bước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc trong những năm đầu lịch sử.
Hồi tưởng về bếp lửa quê hương cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình người nhóm lửa mỗi
sớm mai:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Tình yêu thương của cháu với bà được biểu lộ trực tiếp và giản dị. Cháu thương bà – lời thốt lên từ trái tim cháu
thật chân thật, xúc động, diễn tả tình cảm sâu sắc cháu dành cho bà. Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng cảm xúc
thương bà mãnh liệt
Cháu thương bà lặng lẽ, âm thầm đi qua biết bao gian khó biết mấy nắng mưa. Hình ảnh ẩn dụ nắng mưa gợi
những cơ cực, vất vả và những khó nhọc mà bà đã trải qua. Từ biết mấy diễn tả nỗi lòng thương bà của cháu.
→ Đoạn thơ gợi lên hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam.
Hình ảnh ấy khơi nguồn cảm xúc trong dòng hồi tưởng của cháu về bà, trào dâng trong lòng cháu tình thương bà sâu
sắc, cảm động.
b/ Bếp lửa gợi nhớ những kỉ niệm tuổi thơ bên bà:
Đó là một tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thương, cháu hồi tưởng về bà, về những năm tuổi thơ sống bên bà. Tuổi thơ
cháu nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chi nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Tuổi thơ của cháu có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 mà cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ (CLV).
Cụm từ đói mòn đói mỏi lay động tâm trí người đọc bởi hình ảnh những con người gầy rạc, chết dần chết mòn vì
cái đói thương tâm hành hạ trên những làng quê tiêu điều, xơ xác. Ngay cả còn ngựa cũng khô rạc ngựa gầy.
Những hình ảnh thơ chân thực đã tái hiện hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người tiều tụy,
đang lụi tàn sự sống vì nạn đói khủng khiếp mà cả dân tộc đang hứng chịu.
Tuổi thơ thiếu thốn, gian khổ, hoàn toàn không thấy có một vòm trời cổ tích màu hồng đó của cháu gắn với bếp
lửa của bà, gắn với khói bếp cay xè hun nhèm mắt cháu khiến mỗi lần nhớ lại, cháu thấy sống mũi còn cay.
Cay vì khói bếp, cay vì cuộc sống gian khổ, nhọc nhằn, thiếu thốn. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái
cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện.
Quá khứ và hiện tại như đang đồng hiện. Mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, lay động mạnh mẽ. Bếp lửa trở
thành một dấu ấn khó mở phai thức gợi trong cháu cả một quãng đời tuổi thơ bên bà trong những năm đói khổ.
Nhớ về những kỉ niệm suốt tám năm bên bà:
Những năm nhọc nhằn ấy, cháu sống cùng bà trong khắc khoải tiếng chim tu hú:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hủ kêu trên những cảnh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Tám năm ròng – một quãng thời gian dài cháu sống cùng bà.
Giữa cảnh quê hương gặp cảnh đau thương, hai bà cháu nương tựa vào nhau, đi qua chuỗi ngày buồn vắng, đói
nghèo: Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà.
Hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm hồn
cháu, đó là tiếng chim tu hú kêu.
Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, khắc khoải, có lúc mơ
hồ văng vẳng, khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha thiết, cuộn xoáy trong lòng cháu.
Từ tu hú được điệp lại nhiều lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, cảm giác như tiếng tu hú đang từ
xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.
Tiếng tu hú kêu giục giã lúa chín trên những cánh đồng cũng cũng là chiếc đồng hồ của cháu để nhắc bà kể
chuyện. Tiếng chim tu hú làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của
nỗi nhớ thương.
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, làng xóm tiêu điều xơ xác vì bị giặc đốt, bố mẹ phải đi công tác,
cháu đã lớn lên trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà.
+ Bên bếp lửa, bà hay kể chuyện những ngày ở Huế, chuyện đời nay, đời xưa để dưỡng nuôi tâm hồn cháu, cho
cháu những khoảng bình yên vui tươi giữa hiện thực gian khổ, nhọc nhằn.
+ Bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Các từ ngữ bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả sâu sắc,
thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút cực nhọc của bà dành cho cháu.
Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là
người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu học những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn
dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt đời cháu. Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ,
công thầy. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu
bé bỏng.
Hồi tưởng kỉ niệm, cháu thương bà và tha thiết nhắn gửi:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Câu cảm thán gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau
của âm thanh tiếng chim tu hú, niềm thương nhớ của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết, mạnh mẽ hơn. Giờ cháu
đã đi xa, bà chỉ có một mình, cháu nhớ thương bà tha thiết, sâu sắc của cháu với bà.
⇒ Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú
trong tình yêu thương. Hình ảnh bà, hình ảnh bếp lửa và âm thanh tiếng chim tu hú vang vọng trong một không gian
mênh mông khiến cả bài thơ nhuộm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu sâu sắc ấm nồng.
Đọng lại trong hồi ức của cháu là:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Những kỉ niệm tuổi thơ hiện lên trong kí ức gắn với dòng hồi tưởng về sự khốc liệt của chiến tranh. Các cụm từ
cháy tàn cháy rụi, lầm lụi đặt cuối câu càng nhấn mạnh hơn sự tàn phá của chiến tranh lúc bấy giờ. Giữa hoàn cảnh ấy,
nhà cháy, bà vẫn vững vàng, cần cù dựng lại túp lều tranh. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn.
Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Bà dặn cháu: Mày có viết thư chớ kể này
kể nọ/Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi
nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hậu phương luôn phải là chỗ dựa
vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến.
Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà
của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam cần cù, nhẫn nại, giàu đức hi sinh.
→ Sự kết hợp, đan xen nhuần nhuyễn giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự nhuần nhị mà độc đáo đã gợi lên hình
ảnh người bà giàu tình yêu thương cháu, cần cù, giàu đức hi sinh. Cùng với hình ảnh bà là những kỉ niệm tuổi thơ hiện
về sống động, chân thành và giản dị. Qua đó, người cháu thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và biết ơn bà sâu nặng.
Suy ngẫm về cuộc đời bà:
Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ về cuộc đời bà. Hình ảnh của bà luôn gắn với
bếp lửa:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Bếp lửa gắn với tuổi thơ, bếp lửa chắt chiu tình bà dưỡng nuôi cháu khôn lớn luôn được bàn tay khéo léo của bà
nhen lên mỗi ngày. Điệp ngữ một ngọn lửa nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu.
Từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà yêu quý, tác giả liên tưởng đến lửa một cách tự nhiên, hàm ẩn ý nghĩa sâu
xa. Bếp lửa là hình ảnh cụ thể, hữu hình ngon thân thuộc gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam, gắn với hình ảnh bà, với
tình bà và tuổi thơ của cháu đã chuyển hóa thành ngọn lửa vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
Ngọn lửa do tay bà nhen lên tỏa sáng, nuôi cháu khôn lớn mỗi ngày. Nó cũng là ngọn lửa bất diệt của tình yêu
thương, sự hi sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên hy vọng, ý chí, thắp niềm tin trong cháu, truyền cho cháu
tình yêu cuộc sống hướng đến ngày mai tươi sáng.
Từ đó, có thể hiểu bếp lửa bà nhóm không phải chỉ bằng bằng nhiên liệu mà nó còn được nhóm bằng ngọn lửa
của chính lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của lòng yêu thương và của lòng tin mãnh liệt.
Từ hình ảnh bếp lửa trong đời thường đã trở thành ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát. Như vậy, bà không phải chỉ
là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa sức sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
→ Nhớ về kỉ niệm, về bếp lửa và bà, cháu thấu hiểu được những ý nghĩa sâu xa từ ngọn lửa bà thắp lên, càng nhớ bà,
yêu bà và quý trọng sâu sắc tấm lòng bà. Hình ảnh bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam tần tảo, nhẫn nại, đầy
yêu thương, hi sinh, chăm chút cho con cháu hiện lên lấp lánh ánh sáng kỳ diệu như ngọn lửa tỏa sáng trong suốt bài
thơ.
b/ Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa:
Từ sự hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ bên bả, người cháu bộc lộ nỗi nhớ thương bà, suy ngẫm về cuộc đời bà
và hình ảnh bếp lửa:
Lận đận đời bà biểt mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xối gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Bà tần tảo, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và tình yêu thương, hết lòng chăm lo cho cháu. Từ láy lần đận,
phép đảo ngữ, ẩn dụ nắng mưa gợi sự nhọc nhằn, vất vả, khó khăn của cuộc đời bà. Cụm từ biết mấy gợi cuộc đời bà
đầy gian truân, vất vả, lận đận trải bao mưa nắng gió sương cuộc đời tưởng như không bao giờ dứt.
Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, cần cù, nhẫn nại, trong gian
khổ, vất vả vẫn sáng ngời, ấm áp tình yêu thương.
Suốt khoảng thời gian dài (mấy chục năm trời), bà luôn chịu thương, chịu khó dậy sớm để nhóm bếp, nuôi cháu
khôn lớn.
Bếp lửa của tình bà nhóm lên ngọn lửa, xua đi cái giá lạnh mùa đông, nấu chín những nồi khoai sắn, nồi xôi gạo
để cháu ấm lòng trong những ngày nạn đội hoành hành.
Không chỉ nhóm bếp lửa của sự sống, bếp lửa từ đôi tay bà chắt chịu, ấp iu còn nồng đượm vị yêu thương, mang
ý nghĩa kỷ lạ và thiêng liêng.
Bà nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi dạy cho cháu tình yêu xóm làng, yêu quê hương, đất nước nghèo
khó. Bà nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui dạy cho cháu biết yêu thương, san sẻ với mọi người. Bà nhóm dậy cả
những tâm tình tuổi nhỏ để cháu có một tuổi thơ đầy ắp kỉ niệm, bồi đắp cho cháu về tâm hồn và cách sống.
Điệp từ nhóm không chỉ mang nghĩa thực mà còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng, tô đậm sự kỳ lạ và thiêng liêng
của bếp lửa.
Bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã
truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tỉnh yêu thương ruột thịt, tình cảm sẽ chia, tỉnh đoàn kết với
hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước. Cũng từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những
ký ức, kỉ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó, cũng là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước, quê hương,
nhớ về dân tộc minh.
→ Hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim ẩn chứa niềm tin và
sức sống của con người.
Từ tình cảm với bả, suy ngẫm về cuộc đời bà, người cháu nâng lên thành triết lí:
Ôi, kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Câu cảm thân như tiếng cảm xúc dâng trào trong tâm hồn người cháu, thể hiện sự kính trọng bà.
Hình ảnh bếp lửa ghi dấu ấn lạ kì và có sức rung cảm mãnh liệt gắn với tình cảm thiêng liêng. Bếp lừa là tình bà
ấm áp, là nguồn sống, là biểu tượng của yêu thương, sẻ chia.
+ Bếp lửa kì lạ vì ngọn lửa cháy sáng bất diệt trong mọi hoàn cảnh, sưởi ấm lòng người, thắp sáng tình yêu, nuôi
dưỡng ước mơ cho cháu.
+ Bếp lửa thiêng liêng vì nó ấp ủ tình bà, lòng bà cao đẹp dành cho cháu, cho gia đình, cho quê hương và đất nước.
→ Tình cảm lớn lao bắt nguồn từ những tình cảm đơn sơ, bình dị. Bếp lửa và tình bà giúp cháu trưởng thành, trở thành
hành trang nâng đỡ cháu trên đường đời. Cháu biết yêu đất nước từ tình yêu bà, cháu hiểu được sức mạnh của đất
nước từ cuộc đời vất vả của bà.
c/ Tình cảm sâu nặng, tha thiết của cháu nhớ bà ở nơi xa:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
Bây giờ, cháu đã trưởng thành, đã khôn lớn và ở nơi xa, được nhìn thấy nhiều điều mới lạ, hiện đại, đón nhận
nhiều niềm vui. Nhưng khoảng cách về không gian, khoảng cách thời gian và cả sự khác biệt về hoàn cảnh sống vẫn
không thể thay thế được hình ảnh bà, hơi ấm bếp lửa, hơi ấm tình yêu thương của bà ở trong tim cháu.
Nơi phương trời xa xôi, cháu vẫn chẳng lúc nào quên bà, quên kỉ niệm bên bà, quên bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Phó từ vẫn cùng ý nghĩa phủ định chẳng lúc nào quên bộc lộ nỗi nhớ bà da diết và khẳng định tình cảm sâu nặng, son
sắt, thủy chung của cháu với bà.
Câu thơ cuối là một câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm mãnh liệt của cháu, bộc lộ chân thành mà tha thiết nỗi nhớ,
tình yêu và lòng biết ơn của đứa cháu nơi xa dành cho bà; cũng là biểu hiện của tình cảm đối với gia đình, quê hương,
đất nước.
→ Từ đó, có thể hiểu đạo lí cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn người từ tuổi ấu thơ
sẽ trở nên bất diệt, nhắc nhở mỗi người biết trân trọng, thủy chung với quá khứ. Những tình cảm giá đình ấm áp bình
dị là hành trang nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.
Dẫn chứng:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
“Tiếng bà ru cháu ầu ơ
Yêu thương còn đến bây giờ Ngoại ơi”
“Yêu bà từ thuở ấu thơ
Những ngày xưa ấy bây giờ đã qua”
KB:
Nhìn chung, “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc đã làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc
giả, giúp ta cảm nhận được tấm chân tình của tác giả đối với người bà kính yêu tảo tần chịu thương chịu khó. Khép lại
bài thơ, hình ảnh người bà vẫn cứ lặng lẽ tỏa sáng, nhóm lên trong lòng người đọc sự kính trọng và lòng biết ơn sâu
sắc.
5. Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải – 1980:
MB:
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Lời ca giản dị cứ mãi ngân vang trong tâm trí bất kỳ ai đã từng một
lần nghe qua bài “Để gió cuốn đi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bất chợt ta sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của nó.
Trong cuộc sống, mỗi con người đều mang trong mình một tấm lòng lương thiện với tình yêu thương dạt dào để giúp
đỡ, sẻ chia và cống hiến cho đời. Cũng chính vì lẽ đó mà “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được sáng tác vào năm
1980 như một món quà dâng cho đời và cũng là lời trăn trối cuối cùng của người thi sĩ trước khi vào cõi vĩnh hằng.
TB:
3. Khái quát tác phẩm:
a/ Tác giả:
Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm bá Ngoãn, là nhà thơ xứ Huế, hoạt động văn nghệ từ cuối những
năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động cách mạng và
là một trong những cây bút có công xây dựng nền Văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
Thanh Hải đã dành trọn vẹn cuộc đời để cống hiến cho quê hương, đất nước với những vần thơ tha thiết: Thơ ông
chân chất,bình dị, đôn hậu và chân thành... Đối với nền thơ chống Mĩ của miền Nam,Thanh Hải là một trong những
cây bút có nhiều đóng góp (Trần Hữu Tá).
b/ Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ ra đời tháng 11/1980 – thời điểm đất nước đã thống nhất nhưng đang xây dựng cuộc sống mới với muôn
ngàn khó khăn, thử thách.
Bài thơ được viết trong một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải: ông đang bị bệnh nặng phải điều
trị ở bệnh viện Trung ương Huế trong tiết trời mùa đông, và chỉ một tháng sau, ông qua đời. Ngay những ngày cuối
đời nằm bên giường bệnh, vẫn nguyên trong tâm hồn nhà thơ tình yêu cuộc sống và nỗi khát khao, nguyện vọng hiến
dâng cho đời cao đẹp.
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
Nội dung: Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân
thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Nghệ thuật:
Thể thơ tự do năm chữ mang âm hưởng dân ca xứ Huế
Giọng điệu tâm tinh nhẹ nhàng, tha thiết rồi trầm lặng, trang nghiêm.
Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh biểu tượng kết hợp với phép điệp ngữ, ẩn - dụ, so sánh...
Cấu trúc chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: đất trời → đất nước → con người.
Mạch cảm xúc:
Mạch cảm xúc: bắt đầu từ rung cảm trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và đến những
suy nghĩ, ước nguyện về lẽ sống cao đẹp, muốn góp vào mùa xuân chung một mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ khép lại với
những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua ngợi ca làn điệu dân ca xứ Huế.
Nhan đề bài thơ:
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ. Đó là sự kết hợp giữa một danh
từ chỉ thời gian trừu tượng và một tính từ chỉ hình khối => mùa xuân trở nên hữu hình, cụ thể, thể hiện ước nguyện cao
quý và khiêm nhường của nhà thơ: Mỗi người hãy làm một mùa xuân tươi đẹp và giàu sức sống, hãy đem tất cả những
gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Nghĩa là sống đẹp, sống có ích,
thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng => một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực, một
lí tưởng sống vô cùng cao đẹp của nhà thơ.
4. Phân tích:
a/ Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân được tác giả cảm nhận bằng thị giác qua những hình ảnh đơn sơ, bình dị, mang
đặc trưng của xứ Huế: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc:
+ Không gian thiên nhiên mùa xuân rộng lớn, thoáng đãng, có dòng sông mềm mại trải dài, có khoảng trời cao rộng.
+ Màu sắc hài hoà dòng sông xanh được điểm tô thêm sắc hoa tím biếc đặc trưng của xứ Huế thơ mộng.
+ Sắc xanh của dòng sông, của bầu trời dịu mát làm nền cho màu tím thủy chung của bông hoa mang đến bức tranh
xuân một vẻ đẹp nhẹ nhàng mà tươi mới, sống động.
+ Đảo ngữ “mọc” được đặt lên đầu câu gợi hình dung đóa hoa như đang từ từ trỗi dậy, xòe nở và vươn cánh giữa
dòng sông xanh thẳm. Sự vận động của cảnh vật làm cho bức tranh thiên nhiên nhiên có hồn và vô cùng sống động.
Từ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn dùng thính giác để lắng nghe âm thanh tiếng chim chiền chiện:
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế không chỉ có màu sắc, đường nét mà còn rộn rã âm thanh với tiếng chim
chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh xuân lan toả khắp bầu trời làm vang động cả không gian.
Cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện rất thân thương với thiên
nhiên “ơi, hót chi… mà…
+ Cảm xúc đến thật tự nhiên, bật lên trong câu hỏi tu từ: Hót chi mà vang trời. Cách nói chỉ mà cũng rất thiết tha
theo đúng kiểu của con người xứ Huế.
+ Ở trong phòng bệnh chật hẹp, âm thanh tiếng chim chiền chiện như làm vang dậy cả không gian, làm sống dậy
sức sống mùa xuân căng tràn. Tác giả thiết tha lắng nghe âm thanh của mùa xuân, của sự sống.
Nhà thơ đã đón nhận sự sống của thiên nhiên đất trời bằng tình yêu dâng tràn, bằng tâm hồn xao động và cả trí
tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình vừa trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với
mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện:
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt
sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc mà nhà thơ đang đưa tay hứng trọn
với tất cả sự nâng niu, trân trọng.
Xét trong mối quan hệ với hai câu thơ trước đó thì “giọt long lanh” có thể hiểu là giọt âm thanh tiếng chim chiền
chiện qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển
thành từng giọt, có hình khối (cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm
nhận bằng xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”.
→ Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, giữa lúc cái lạnh của mùa đông đang bao trùm lên mọi nẻo nhưng bằng tâm
hồn nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, trái tim tha thiết với cuộc đời, Thanh Hải đã viết nên những vần thơ trong trẻo và
đầy sức sống về mùa xuân, một mùa xuân trong tâm tưởng nhà thơ.
b/ Cảm xúc trước mùa xuân của con người, đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Sức sống mùa xuân đất nước được tâm hồn nhà thơ cảm nhận sâu sắc qua hình ảnh lộc non gắn với người cầm
súng và người ra đồng. Hình ảnh người cầm súng và người ra đồng biểu tượng của hai nhiệm vụ lớn là chiến đấu bảo
vệ tổ quốc và lao động xây dựng đất nước.
Từ lộc có tính chất chuyển nghĩa mang đến cho người đọc những cách hiểu mới lạ. Lộc là chồi non, cành biếc
mơn mởn của cây cối khi xuân về. Lộc còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp, cho sức sống mãnh liệt.
+ Ở tiền tuyến, người lính ra trận khoác trên vai cành lá ngụy trang xanh tươi như mang sức sống của mùa xuân,
của đất nước vào cả cuộc chiến đấu.
+ Ở hậu phương, người ra đồng cần cù lao động, những nương mạ xanh non mơn mởn cứ thế trải dài đất nước.
+ Mùa xuân với lộc non xanh tươi theo chân họ trên những ngả đường làm nhiệm vụ hay chính họ, bằng bàn tay và
trái tim của mình đã mang lại lộc non, sắc xuân cho đất nước? Câu thơ không chỉ thể hiện sức sống mãnh liệt của đất
nước mà còn bộc lộ tình yêu, niềm tin vào tương lai không ngừng đi lên phía trước.
=> Với nét nghĩa vừa thực vừa ẩn dụ, các điệp từ “mùa xuân”, “lộc” đã khẳng định vai trò, sứ mệnh của những con
người đã làm nên đất nước. Họ không phải là ai cụ thể, họ là toàn thể nhân dân, những người chiến sĩ, những người lao
động bình thường và giản dị.
Khí thế thời đại của cả một dân tộc hiện rõ trong nhịp điệu hối hả và thanh âm xôn xao:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao..
Điệp ngữ “Tất cả” và các từ láy giàu sức biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh, gấp gáp diễn
tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đồng thời cũng nói lên tâm trạng náo nức, rộn ràng trong lòng nhà thơ.
Mùa xuân như tiếp thêm sức sống cho cả dân tộc không ngừng tiến về phía trước sau bốn nghìn năm lịch sử:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
+ Đất nước trải qua bốn nghìn năm, biết bao thăng trầm, vất vả và gian lao. Giang sơn gấm vóc này đã thấm biết
bao xương máu, biết bao nước mắt của bao nhiêu thế hệ, của bao nhiêu tháng năm đằng đẵng. Nhưng sao thì cũng
không khuất phục được dân tộc Việt Nam kiên cường, anh dũng.
Đất nước vẫn cứ thế mà tỏa sáng như vì sao, không ngừng đi lên phía trước, chẳng sợ gì mà bước đi hiên ngang
trên chính mảnh đất, giang sơn của dân tộc mình. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, thiên thể của vũ trụ, là hiện
thân của sự vĩnh hằng, vẻ đẹp lung linh trong vũ trụ. Hình ảnh so sánh mới lạ cùng cách dùng từ cứ đi lên như khẳng
định chắc chắn sức sống dân tộc, khẳng định đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ và không một thế lực nào
ngăn cản được, nhất định đất nước sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, đi đến bến
bờ hạnh phúc.
→ Qua những cảm xúc trước mùa xuân đất nước, tác giả bộc lộ lòng tự hào, niềm lạc quan, tin yêu đối với đất nước.
Âm thanh mùa xuân của đất nước được vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần
c/ Ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ
Từ những xúc cảm về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và
tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa và giá trị của cuộc đời mỗi con người.
⋆ Thanh Hải tha thiết, khát khao hòa nhập, dâng hiến cho cuộc đời tươi đẹp:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Nếu như khổ đầu, đại từ “tôi” gắn liền với việc thể hiện những cảm xúc riêng của nhà thơ trước mùa xuân thiên
nhiên, đất trời thì trong khổ thơ này, đại từ “ta” đã ngân lên vang vọng, tha thiết. “Ta” trong đó có nhà thơ và mọi
người, mang khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến những phần tốt đẹp dù nhỏ bé của
mình cho cuộc đời chung, cho đất nước, ước nguyện đơn sơ, bình dị mà cao đẹp biết bao!
Những hình ảnh đẹp của thiên nhiên đơn sơ, giản dị mà giàu ý nghĩa được đưa vào thơ thật tự nhiên, gần gũi,
diễn tả sâu sắc tâm niệm của nhà thơ :
+ Làm một tiếng chim trong muôn ngàn giọng hót của bản hòa ca gọi xuân về, làm cành hoa trong muôn triệu đóa
hoa thẳm tươi tô điểm hương sắc cho cuộc đời, làm nốt nhạc trầm xao xuyến trong bản hòa ca êm ái của dân tộc. Tất
cả những điều ước ấy tưởng chừng nhỏ nhoi nhưng thực sự rất cao đẹp. Ông chọn được thầm lặng, lặng lẽ mà dâng
hiến cho đời, chứ không phông bạt, không phô trương.
+ Nếu như ở khổ đầu, ta bắt gặp hình ảnh bông hoa tím biếc, con chim chiền chiện hót vang lừng trong cảm xúc
say sưa của nhà thơ thì ở đây, hình ảnh thiên nhiên quen thuộc này lặp lại, tạo nên sự đối ứng chặt chẽ.
Điệp ngữ “Ta làm” kết hợp với các hình ảnh liệt kê tạo nhịp thơ dồn dập diễn tả khát vọng mãnh liệt của nhà thơ.
→ Thanh Hải đã gửi gắm đến ta một quan niệm về lẽ sống, về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái riêng
với cái chung: “Mỗi người đều có thể góp một phần nhỏ bé của mình làm đẹp cho mùa xuân đất nước, mùa xuân cuộc
đời”. Ước nguyện của nhà thơ tuy nhỏ bé, đơn sơ nhưng rất chân thành, tha thiết.
⋆ Bày tỏ khát khao dâng hiến thiết tha, Thanh Hải cho ta thành lẽ sống đẹp:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dàng cho đời
Làm con chim, làm cành hoa, làm nốt trầm... và góp nhặt tất cả những phần nhỏ bé mà tinh túy nhất ấy để làm
một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời.
Mùa xuân nho nhỏ là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo và đặc sắc: Mùa xuân là một danh từ chỉ thời gian kết hợp
với tính từ nho nhỏ làm cho mùa xuân trở nên cụ thể, hữu hình. Mùa xuân nho nhỏ là biểu tượng cho những gì tinh
túy, đẹp đẽ của mỗi người. Mỗi người hãy là một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì nhỏ bé đẹp nhất của mình để góp
vào làm đẹp thêm mùa xuân cuộc đời, mùa xuân đất nước.
Phép đảo ngữ cùng cặp từ láy nho nhỏ, lặng lẽ góp phần thể hiện thái độ sống và cống hiến chân thành mà khiêm
nhường của nhà thơ.
⋆ Ước nguyện, lẽ sống dâng hiến ấy trải dài suốt cả cuộc đời:
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
+ Điệp ngữ dù là là tiếng lòng tự nhủ, tự nhắc mình và khẳng định với đời: Dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời,
tuổi hai mươi phơi phới niềm tin và sức trẻ hay tuổi già sức yếu, bệnh tật, mỗi người cũng phải sống đẹp, sống có ích,
sống cống hiến. Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt!
⇒ Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn về bệnh tật,
những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.
d/ Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế:
Trong hân hoan niềm vui, khát khao dâng hiển, tâm hồn nhà thơ cất lên tiếng nói ngợi ca trong cảm xúc thiết tha
tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế:
Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc bồi hồi, tự hào về quê hương đất nước. Cảnh vật mùa xuân nở
rộ trong lòng Thanh Hải như tiếp thêm sức sống để trái tim nhà thơ say mê tiếng hát làn điệu dân ca thân thương xứ
Huế. Nhà thơ xin hát về quê hương như một lời tạ từ, tạ từ mùa xuân, tạ từ quê hương nơi có điệu Nam ai, Nam bình
sâu lắng, tạ từ nước non ngàn dặm trong nhịp phách tiền đất Huế. Trong lời thơ ấy, tác giả như muốn khẳng định đâu
đâu cũng đẹp, đâu đâu cũng thấm đượm nghĩa tình.
+ Trong âm hưởng lời ca điệu hát quê hương, tác giả như hình dung được vẻ đẹp của non nước hữu tình, cảm thấy
yêu mến và tự hào hơn về bản sắc quê mình. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là
ngàn dặm mình, ngàn dặm tình đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương của một con người tuy cận kề cái chết
vẫn tràn đầy niềm yêu thiết tha cuộc đời!
⇒ Khổ thơ thể hiện tình yêu tha thiết với quê hương, đất nước trong niềm tự hào về vẻ đẹp đất Huế, tự hào về những
giá trị truyền thống bền vững,
Dẫn chứng:
“Sống sao nên phải, cho nên sống // Sống để muôn đời, sử tạc ghi” (Nguyễn An Ninh)
Anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”
“Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
(Tố Hữu)
“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
(Trương Quốc Khánh)
KB:
Bài thơ ra đời khi Thanh Hải sắp vĩnh biệt cuộc đời nhưng cả bài thơ vẫn vang vọng vẫn ngập tràn sức xuân và
khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó đã gieo vào lòng người, đọc những rung động sâu xa, truyền cho người đọc niềm
lạc quan, yêu đời ngay cả khi mặt trời sắp lặn. Nhưng chúng ta còn khâm phục hơn ở Thanh Hải đó là một tấm lòng
rộng mở, thanh thản, cao đẹp, sống có ý nghĩa đến những phút chót cuộc đời: Muốn được hòa nhập, được cống hiến
phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Mỗi người hãy góp một nốt trầm, “Một mùa
xuân nho nhỏ” vào giàn hợp xướng bất tận của cuộc đời, của đất nước.
+ Như vậy tín hiệu chuyển mùa được tâm hồn rung cảm tinh tế của nhà thơ cảm nhận bằng tất cả các giác quan:
khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se) rồi đến thị giác (làn sương), tuy vậy trước những tín hiệu ban đầu của khoảnh
khắc giao mùa, cảm xúc của nhà thơ còn mơ hồ chưa rõ ràng. Nhà thơ vẫn ngỡ ngàng, như chưa kịp chuẩn bị, thốt lên
lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về. Thu đã về thật rồi sao? Một chút bối rối đủ để ta cảm nhận được cảm xúc
bâng khuâng của tâm hồn thi sĩ trước những tín hiệu bất ngờ không hẹn trước của mùa thu.
→ Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Câu thơ gợi một
chút mơ hồ về thời gian rõ nét đồng thời Hữu Thỉnh đã rất tinh tế thể hiện được những cảm nhận về cảm xúc giao mùa
của đất trời, của lòng người một cách ngất ngây và say đắm. Phải là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên tinh tế,
nhạy cảm mới có thể cảm nhận được những tín hiệu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa nhẹ nhàng, mơ hồ như vậy.
→ Những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của thiên nhiên trong phút giao mùa được tâm hồn tinh tế, nhạy cảm
của nhà thơ nắm bắt cũng êm đềm, bâng khuâng, lưu luyến như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu. Một bức tranh thu mới
chớm hiện lên thật êm ả, thanh bình.
b/ Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
Nếu khổ thơ thứ nhất là những cảm nhận về mùa thu còn mơ hồ, chưa rõ nét thì đến khổ thơ thứ hai bức tranh
mùa thu đã được hiện hữu rõ ràng, đậm nét qua dấu ấn đổi thay của cảnh vật. Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui
mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Thiên nhiên vào thu đang thay áo mới. Không còn cái bỡ ngỡ, bâng khuâng thanh dịu như ban đầu, thu đến bằng
những rung cảm thật mãnh liệt của Hữu Thỉnh trước những hình ảnh thiên nhiên cụ thể, hữu hình.
Dấu ấn bức tranh mùa thu được tác giả cảm nhận qua 3 nét vẽ cụ thể: với những hình ảnh: “dòng sông”, “cánh
chim”, “đám mây”.
+ Hình ảnh dòng sông được tác giả miêu tả qua từ láy “dềnh dàng” cùng biện pháp nhân hóa giúp người đọc hình
dung trạng thái của dòng sông mùa thu khác hẳn với mùa hạ. Nếu mùa hạ song cuồn cuộn trở nặng phù sa, dữ dội bao
nhiêu thì đến mùa thu dòng sông ấy lại trở lên hiền hòa. Nó trôi một cách lững lờ, ung dung, thong thả như đang được
nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông. Cái “dềnh dàng” còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm
lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi, nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời hay cũng có thể đang tận hưởng khoảnh
khắc giao mùa tươi đẹp và cũng muốn hòa vào cái thanh nhẹ, dịu êm của đất trời nên nhẹ nhàng, khoan thai trội êm ả.
+ Đi liền với từ “được lúc” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh những con người đã đi qua thời chiến, trải qua lửa đạn
giờ đang được sống chậm lại, đến lúc phải nghỉ ngơi.
+ Đối lập với hình ảnh hiền hòa, khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim. Không gian trở
nên xôn xao, chẳng có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi lên được cái động. Chim là động vật vô cùng nhạy cảm, chúng
nhận ra trong gió heo may cái se lạnh của mùa thu đang về và mùa đông đang tới. Vậy nên chúng gấp gáp làm tổ, hối
hả tha mồi, tất bật chuẩn bị cho những ngày tháng trú đông an toàn nhất hay sự vội vã của một hành trình về phương
Nam trú rét. Nhưng cái tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh lại ở từ “ bắt đầu”. Không phải là những cánh chim đang vội vã
mà mới chỉ là bắt đầu. Nhận ra quy luật này chắc hẳn Hữu Thỉnh phải là người rất yêu cuộc sống nên mới có tâm hồn
nhạy cảm, mới có thể nghe được, thấy được cái vỗ cánh bắt đầu của những cánh chim, cái cựa mình khẽ khàng, nhẹ
nhàng của thời gian.
+ Đi liền với từ “ bắt đầu” gợi ta liên tưởng đến những người lính bước ra từ trong chiến tranh. Họ cứ ngỡ đã đến
lúc phải nghỉ ngơi để suy ngẫm, song lại chính là lúc họ bắt đầu phải “vội vã”, tất bật trong những lo toan của cuộc
sống mới.
→ Bức tranh mùa thu đã đi qua mùa giông bão có nét dịu êm, nhẹ nhàng của sông thu dềnh dàng trôi, lại có nét hối hả,
vội vã của chim di trú về phương Nam. Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng một cách nhịp nhàng, tài tình qua hình
ảnh “ dềnh dàng” và “ vội vã” đã:
+ Làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa.
+ Làm nổi rõ hai tâm trạng trái ngược nhau của con người khi bước từ chiến tranh sang hòa bình.
Thiên nhiên mùa thu còn được Hữu Thỉnh cảm nhận qua hình ảnh liên tưởng, sáng tạo độc đáo, thú vị đầy chất
thơ:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
+ Chỉ bằng mười con chữ gói gọn trong hai câu thơ mà người đọc có thể hình dung ra một bầu trời trong veo,
những đám mây trắng lững lờ trôi, nắng mùa hạ vẫn còn vương lưng trời, hắt ánh vàng lên đám mây mỏng nhẹ. Thiên
nhiên hai mùa như đang trộn lẫn, đang giao hòa trong áng mây bay. Dường như đám mây vẫn còn chút lưu luyến mùa
hạ nên nó mới chỉ vắt nửa mình sang thu. Động từ “vắt” thể hiện thật tài tình tạo ra nhiều liên tưởng. Hình ảnh đám
mây như một thiếu nữ vừa thảnh thơi, vừa duyên dáng. Mây mỏng như dải lụa treo trên bầu trời, nửa nghiêng về mùa
hạ, nửa nghiêng về mùa thu. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh giữa hạ và thu, ngày càng bé dần, bé dần đi rồi
đến một lúc nào đó cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc mùa thu.
⇒ Khoảnh khắc giao mùa được tái hiện rất tinh tế, sống động bằng những câu thơ giàu giá trị tạo hình. Và ẩn sau
khoảnh khắc đó còn là hình ảnh của đời sống lúc sang thu với biết bao biến chuyển. Bức tranh mùa thu lúc giao mùa,
bằng ngôn từ đặc sắc và những rung cảm tinh tế, hiện lên thật đẹp, mang hơi thở hồn quê vùng Bắc Bộ đem đến cho
người đọc bao dư vị khó quên.
c/ Những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ
Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối
vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Bức tranh phong cảnh lúc giao mùa được tác giả gợi tả bằng những hình ảnh quen thuộc. Bằng giác quan nhạy
cảm, tinh tế, Hữu Thỉnh đã nghe thấy, nhận thấy và đong đếm được những nắng, những mưa, những âm vang, vang
động bất thường của cuộc sống.
+ Hàng loạt từ ngữ chỉ mức độ, ước lượng: “vẫn còn”, “ bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp theo trình tự giảm
dần, cho thấy dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của mùa thu ngày một đậm nét hơn.
+ Với một hồn thơ bay bổng, một trái tim nhạy cảm, một giác quan tinh tế Hữu Thỉnh đã cảm nhận trên bầu trời
thu, nắng hạ vẫn còn nhưng không còn oi nồng, chói chang, đổ lửa như nắng mùa hạ, những cơn mưa rào ào ạt, bất
ngờ cũng vơi dần, sấm thưa và nhỏ dần, không đủ sức lay động hàng cây đã bao mùa thay lá. Tất cả đều chầm chậm,
từ từ, không vội vã, không hối hả.
=> Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời.
Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy ngẫm về đời người lúc chớm thu qua những
hình ảnh giàu sức gợi:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Thu sang, đã bớt đi những náo động của không gian, gợi lên cái xế chiều của cuộc đời. Giọng thơ trầm hẳn
xuống, câu thơ không đơn thuần là giọng kể, mà còn là sự suy nghĩ nghĩa triết lý, chiêm nghiệm sâu xa về đời người:
+ Tác giả sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: Sấm ẩn dụ cho những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời.
Hàng cây đứng tuổi gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc
đời. Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu giờ đây không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa hạ.
+ Phép ẩn dụ thể hiện sâu sắc suy ngẫm của nhà thơ: khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước
những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của
cuộc đời. Khi con người trải nghiệm nhiều sẽ trở nên hiểu mình, hiểu người, hiểu đời hơn. Con người sẽ bình tĩnh đón
nhận mọi biến cố trong cuộc đời. Thời gian trôi nhanh qua cửa, nhưng ta không ngậm ngùi nuối tiếc mà chỉ thấy mình
vững vàng hơn
+ Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và
mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn. Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là
sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người.
+ Thật ra, cái thời khắc Hữu Thỉnh sáng tác “Sang thu” là khi đất nước lại chớm bước vào cuộc chiến bảo vệ biên
giới... Không phải là đã hết “sấm” trên dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta. Nhưng không có gì là bất ngờ với
một nhân dân, đất nước, dân tộc đã trải qua 30 năm chiến tranh bằng cả máu xương mà giành lại toàn vẹn non sông và
nền hòa bình.
⇒ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương
mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
3. Đánh giá:
Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không phông bạt mà giàu sức gợi cảm. Cùng thể thơ năm chữ, Hữu Thỉnh đã thể
hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang đầu thu nhẹ nhàng,
êm dịu, nên thơ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ của đất nước. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về
tình yêu quên hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.
KB:
Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo trong lòng những bồi hồi về một mùa thu nồng
nàn êm ái. “Sang thu” khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thì triết lí đã góp một
tiếng thơ đằm thắm về mùa thu quê hương đem đến cho thế hệ trẻ tình yêu đất nước qua nét thu đẹp Việt Nam. Tác
phẩm là lời bộc bạch về khát khao yêu đời mà Hữu Thỉnh muốn gửi cho bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của
chính mình tự thuở nào. Ai trải qua chiến tranh, từ cõi chết trở về mới đủ cái rung cảm khi đón nhận hòa bình tựa
như một hơi thở nhẹ nhưng có thể làm ta rùng mình, run rẩy vì hạnh phúc được sống bình thường . Vì thế, mà bài thơ
như một viên pha lê góc cạnh, trải qua bao thăng trầm để tỏa sáng trọn vẹn theo suốt thời gian.
TIẾNG VIỆT
Từ loại
Danh từ
Động từ
Tính từ
Phó từ: đã, đang, sẽ, rất, lắm,...
Chỉ từ: này, kia, ấy, nọ, đó,...
Lượng từ: nhiều, vài, mấy, những,...
Đại từ: tôi, bạn, nó, cậu, họ,...
Quan hệ từ: và, nhưng, bởi vì
Tình thái từ: ạ, nhé, hình như,...
Trợ từ: những, có,...
Thán từ: ôi, chao ôi, trời ơi, hỡi,...
Số từ: một, hai, ba,...
Loại từ:
1. Từ xét theo cấu tạo:
Từ đơn: hoa, ong, người, cỏ,...
Từ phức:
+ Từ ghép: Chính phụ (bạn thân, bút mực, ông nội, bà ngoại,...); Đẳng lập (anh chị, cha mẹ, ông bà,...).
+ Từ láy: láy hoàn toàn; láy bộ phận.
2. Từ xét về nghĩa:
Nghĩa gốc: chạy, ăn.
Nghĩa chuyển: chạy tiền, chạy vặt, chạy hàng, ăn xin, ăn gian, ăn bám,...
3. Từ xét theo quan hệ giữa âm và nghĩa:
Từ đồng âm.
Từ đồng nghĩa.
Từ trái nghĩa.
4. Từ xét theo phạm vi sử dụng:
Từ địa phương.
Từ toàn dân.
5. Từ xét theo nghĩa gốc:
Từ thuần Việt.
Từ mượn.