Professional Documents
Culture Documents
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN VIỆC BỊ NHIỄM COVID-19 TẠI VIỆT NAM NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN VIỆC BỊ NHIỄM COVID-19 TẠI VIỆT NAM NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện điển hình tại địa thành phố Hà Nội, với mục tiêu
nhằm xác định tác động của vốn xã hội đến việc bị nhiễm COVID-19. Số liệu của nghiên
cứu được thu thập từ 319 phiếu khảo sát hợp lệ từ người dân tại các quận trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Từ mô hình nghiên cứu ban đầu, nhóm đưa ra ba nhân tố là lòng tin,
mạng lưới xã hội và chuẩn mực xã hội ảnh hưởng đến việc bị nhiễm COVID-19. Sau
khi sử dụng kiểm định EFA, mô hình nghiên cứu mới xuất hiện bốn nhóm nhân tố mới
là lòng tin vào các tổ chức, mạng lưới xã hội, chuẩn mực xã hội và sẵn sàng chia sẻ.
Bằng phương pháp hồi quy Binary Logistic, kết quả nghiên cứu cho thấy lòng tin vào
các tổ chức, mạng lưới xã hội và sẵn sàng chia sẻ có ảnh hưởng đến việc bị nhiễm
COVID-19, còn chuẩn mực xã hội không có sự tác động. Ngoài ra, nghiên cứu cũng
đưa ra một số giải pháp và kiến nghị mở rộng nhằm chuyển hóa những mặt tiêu cực vốn
xã hội thành tích cực trong việc giảm thiểu số ca nhiễm COVID-19.
1. GIỚI THIỆU
Những năm gần đây, dịch bệnh COVID-19 đã và đang diễn biến hết sức phức
tạp. Dịch bệnh cũng đã gây ra rất nhiều hệ luỵ toàn cầu trên nhiều khía cạnh như kinh
tế, văn hoá, giáo dục,… Một trong những hệ lụy nặng nề nhất do COVID-19 để lại
chính là số lượng các ca nhiễm bệnh và tử vong ngày càng gia tăng trên toàn thế giới.
Nhận thấy, vốn xã hội là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến số
ca nhiễm COVID-19 tăng nhanh và lan rộng. Bên cạnh đó, trong bối cảnh dịch bệnh và
hậu dịch bệnh, khi các nguồn vốn vật chất hữu hình bị suy giảm thì vốn xã hội sẽ là
phương tiện hữu hiệu để mỗi cá nhân cũng như cộng đồng có thể nhanh chóng hồi phục.
Trái lại, vốn xã hội cũng mang lại những hệ quả tiêu cực gây nên sự gia tăng số ca
nhiễm bệnh.
2
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm xác định sự ảnh hưởng của vốn xã hội tới
việc bị nhiễm COVID-19. Trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp phù hợp làm giảm
nguy cơ bị nhiễm COVID-19 dưới ảnh hưởng của vốn xã hội.
2.3 Ảnh hưởng của vốn xã hội đến việc bị nhiễm COVID-19
Qua quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy vốn xã hội được tiếp cận
dưới nhiều góc độ, hình thức, đặc điểm khác nhau nhưng hầu hết các quan điểm đều có
sự thống nhất và ít nhiều tương quan với nhau. Bên cạnh đó, gắn vào bối cảnh dịch bệnh
hiện nay, các bài nghiên cứu về vốn xã hội và COVID-19 cơ bản tiếp cận trên phương
diện mạng lưới xã hội, lòng tin và chuẩn mực xã hội.
Trong bài nghiên cứu, nghiên cứu tập trung nghiên cứu tác động của vốn xã hội
đến việc bị nhiễm COVID-19 gắn với ba nhân tố: lòng tin, mạng lưới xã hội và chuẩn
mực xã hội. Từ đó, nhìn nhận những mặt tích cực và tiêu cực của vốn xã hội đem lại.
Về khía cạnh lòng tin, mỗi cá nhân tự hình thành lòng tin của mình với những cá
nhân hay các tổ chức khác. Mỗi cá nhân có quyền được tin tưởng và mong đợi vào
những kết quả tốt đẹp trong đời sống của họ, đó là cơ sở tạo nên niềm tin, sự hợp tác để
có thể cùng nhau phát triển và tạo ra lợi ích. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-
19, tất cả mọi người đều đang phải trải qua những khó khăn trong thời gian giãn cách
hoặc cách ly y tế thì vai trò của vốn xã hội càng được thể hiện một cách rõ ràng. Sự
giúp đỡ, san sẻ khó khăn của toàn bộ các thành viên trong gia đình, giữa hàng xóm,
đồng nghiệp,... sẽ phần nào làm giảm bớt gánh nặng về cả vật chất và tinh thần, đồng
thời cũng góp phần vào việc tuân thủ tốt các quy định về phòng chống dịch bệnh, từ đó
làm giảm tốc độ bị nhiễm bệnh trong cộng đồng.
Về khía cạnh mạng lưới xã hội, cá nhân là “tế bào” của mạng lưới xã hội. Nhiều
cá nhân riêng biệt kết hợp lại sẽ tạo ra mạng lưới xã hội. Mặt khác, cá nhân cũng không
thể tồn tại như một cá thể duy nhất trong xã hội. Vì vậy, có thể thấy giữa cá nhân và
mạng lưới xã hội có mối quan hệ hai chiều củng cố và bổ sung cho nhau. Trong bối
cảnh COVID-19, mỗi cá nhân có ý thức chấp hành tốt sẽ tạo nên một mạng lưới xã hội
có ý thức tốt, bảo vệ sự an toàn của cá nhân và cộng đồng trước dịch bệnh.
Về khía cạnh chuẩn mực xã hội, mỗi cá nhân cũng tự hình thành cho bản thân
mình những chuẩn mực và tiêu chuẩn riêng. Qua đó, mỗi người sẽ có suy nghĩ, quyết
định, hành động riêng của mình đối với những sự việc xảy ra trong đời sống hằng ngày.
Bản thân mỗi người sẽ có những yêu cầu, đòi hỏi riêng với xã hội nhằm thỏa mãn nhu
cầu của bản thân nhưng vẫn cần đảm bảo những quy tắc, chuẩn mực chung của xã hội.
hợp lệ. Dựa theo cách tính cỡ mẫu phù hợp để chạy hồi quy đa biến của Harris (1985)
với cỡ mẫu tỷ lệ là 10:1thì số mẫu thu được là phù hợp.
(LT8); Sẵn sàng chia sẻ những thông tin của bản thân liên quan đến dịch bệnh COVID-
19 cho đồng nghiệp (LT9); Sẵn sàng chia sẻ những thông tin của bản thân liên quan đến
dịch bệnh COVID-19 cho hàng xóm (LT10).
Yếu tố mạng lưới xã hội được đo lường bằng 4 biến: Tần suất đến những nơi
đông người (chợ, siêu thị, rạp chiếu phim, hội thảo...) trong dịch COVID-19 (MLXH1);
Tần suất đi lại bằng phương tiện di chuyển có sự tiếp xúc với người khác (xe bus, tàu
điện trên cao, xe ôm công nghệ, taxi công nghệ, taxi truyền thống,...) trong dịch COVID-
19 (MLXH2); Nhận được trợ giúp trong dịch COVID-19 (cung cấp thông tin, hỗ trợ
tiền, hỗ trợ nhu yếu phẩm, động viên tinh thần,...) (MLXH3); Hỗ trợ những người gặp
khó khăn trong dịch bệnh COVID-19 (MLXH4).
Yếu tố chuẩn mực xã hội được đo lường bằng 5 biến: Tâm lý e sợ tiếp xúc với
những người F0, F1 đã khỏi bệnh (CMXH1); Cảm giác e ngại khi phải đi cách ly nếu
bị mắc bệnh (CMXH2);Thích nghi với việc thực hiện 5K: “Khẩu trang – Khử khuẩn –
Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế” trong dịch COVID-19 (CMXH3);
Thích nghi và thực hiện các quy định, chỉ thị trong dịch COVID-19 của Chính phủ và
các cơ quan đoàn thể, doanh nghiệp (CMXH4); Thích nghi với việc hoạt động bằng
hình thức online trong dịch COVID-19 (CMXH5).
Thang đo Likert (1-5) sử dụng để đánh giá các thang đo như sau: (1) Hoàn toàn
không đồng ý; (2) Không đồng ý; (3) Bình thường; (4) Đồng ý; (5) Hoàn toàn đồng ý.
Nữ 184
Độ tuổi Dưới 18 18
51-60 tuổi 8
6
Đã nhiễm 148
Nguồn: Nhóm nghiên cứu
Qua bảng trên có thể thấy mẫu khảo sát thu được có tỷ lệ nam và nữ phù hợp với
tỷ lệ nam nữ trong dân số tại thành phố Hà Nội hiện nay. Về độ tuổi, mẫu khảo sát thu
được chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 18-30 và từ 31-50 do phương pháp tiếp cận mẫu
được thu thập qua các hội nhóm thông tin nên mẫu khảo sát thường có độ tuổi ở trẻ. Tỷ
lệ mẫu khảo sát chủ yếu thu được chủ yếu ở bậc đại học với 251 phiếu thu được. Đa số
người thực hiện khảo sát đang sinh sống cùng với người khác và hầu hết phiếu thu được
có tỷ lệ người đã tiêm Vaccine nhiều hơn 2 mũi. Tỷ lệ mẫu khảo sát thu được chưa
nhiễm COVID cao hơn đã nhiễm COVID.
được hoạt động. Tiếp theo, độ lệch chuẩn của các nhân tố trong nhóm biến này biến
động tương đối nhiều, trải từ 0,838-1,178 cho thấy các câu trả lời khá biến động.
Bảng 3: Mạng lưới xã hội của người dân trong dịch COVID-19
Biến Diễn giải Trung Độ lệch Hệ số Cronbach's
bình chuẩn Alpha
MLXH1 Tần suất đến những nơi
đông người (chợ, siêu thị,
rạp chiếu phim, hội 2.60 1.062
thảo...) trong dịch
COVID-19
MLXH2 .936
MLXH3 .914
MLXH1 .843
CMXH3 .903
CMXH4 .860
CMXH5 .832
LT2 .935
LT1 .918
LT3 .555
CS 0.553 0.015
Constant -0.728 0.465
Cột B là hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa của các biến độc lập, kết quả như sau:
Biến LTTC tác động nghịch lên biến phụ thuộc Covid
Biến MLXH tác động thuận lên biến phụ thuộc Covid
Biến CS tác động thuận lên biến phụ thuộc Covid
Với kết quả ở trên, thế vào phương trình hồi quy logistic ta có:
𝑃𝑖
𝑙𝑜𝑔𝑒 ( ) = −0.728 − 0.911𝐿𝑇𝑇𝐶 + 0.659𝑀𝐿𝑋𝐻 + 0.553𝐶𝑆
1 − 𝑃𝑖
Sử dụng hệ số hồi quy B và Exp(B) = eB, có thể hình thành kịch bản xác suất
thay đổi khi xác suất ban đầu lần lượt là 10%, 30% và 50%.
Đặt P0: Xác suất ban đầu; P1: Xác suất thay đổi, P1 được tính theo công thức:
12
3 CS 0.553 25.05 3
Qua đó, kiểm định các giả thuyết so sánh giữa kỳ vọng và thực tế nghiên cứu.
Bảng 8: Kiểm định các giả thuyết
Kỳ vọng
Kỳ Thực
Mã Giả thuyết so với Giải thích
vọng tế
thực tế
H1’ Lòng tin vào các Khi càng có lòng tin vào các
tổ chức ảnh hưởng tổ chức, chính quyền hay gia
ngược chiều đến đình thì khả năng bị nhiễm
việc bị nhiễm - - Giống COVID-19 càng thấp vì khi
COVID-19. đó người dân có ý thức chấp
hành những yêu cầu, khuyến
nghị được đưa ra.
H2’ Mạng lưới xã hội Khi càng có mạng lưới xã hội
ảnh hưởng cùng rộng lớn thì càng làm gia tăng
chiều đối với việc khả năng bị nhiễm COVID-
bị nhiễm COVID- + + Giống 19 vì gây nên sự tập trung
19. đông người tại những nơi
công cộng hoặc tụ họp thói
quen của các tổ chức.
H4’ Sẵn sàng chia sẻ Khi càng có lòng tin và chia
ảnh hưởng ngược sẻ thông tin cho những người
chiều đến việc bị khác thì càng làm gia tăng khả
nhiễm COVID-19. năng bị nhiễm COVID-19 vì
khi chia sẻ những thông tin
- + Khác
mang tính chất sai lệch,
không đúng so với thực tế thì
gây nên nhiễu loạn thông tin,
khó khăn trong công tác
khoanh vùng dịch.