tiểu luận

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 33

Họ tên: Lê Thúy Quỳnh stt 46

Nguyễn Thị Ánh Chúc stt 13


Lớp học phần: Kinh tế khu vực và Asean.

Đề tài: Cơ hội hợp tác đầu tư Việt Nam tại Lào


Chương I: Khái quát Việt Nam và Lào
1.1. Việt Nam
1.2. Lào
1.3. Mối liên kết Việt-Lào
Chương II: Cơ hội hợp tác đầu tư Việt Nam tại Lào
2.1. Thực trạng đầu tư Việt Nam tại Lào
2.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế trong thực trạng hoạt động đầu tư Việt Nam
sang Lào
2.3. Thực trạng về môi trường đầu tư tại Lào
2.4. Đánh giá thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam trong đầu tư tại
Lào
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hiệu quả hoạt động đầu tư

Cơ hội hợp tác đầu tư Việt Nam tại Lào.

Chương I: Khái quát Việt Nam và Lào


1.1. Việt Nam
- Vị trí địa lý: Việt Nam là một nước nằm ở phía đông bán đảo Đông dương, phía
bắc tiếp giáp Trung Quốc, phía tây tiếp giáp Lào và Campuchia, phía đông tiếp
giáp Biển Đông, phía đông và nam tiếp giáp Thái Bình Dương. Ở vị trí này, Việt
Nam là một đầu mối giao thông quan trọng giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương.
- Diện tích: 331.690 km2, đứng thứ 66 trên thế giới. Trong đó có khoảng 327.480
km2 diện tích đất liền và hơn 4.500 km2 biển nội thuỷ với hơn 2.800 hòn đảo và
bãi đá ngầm. Diện tích này đã bao gồm hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (mặc
dù Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng còn quân đội của Philipines, Trung
Quốc và Đài Loan đang đồn trú, kiểm soát một số đảo nhỏ của Trường Sa).
- Dân số: đạt hơn 99 triệu người (năm 2022). Tuổi thọ trung bình hiện nay của
người dân là 75,6 tuổi. Con số này cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới
(72 tuổi).
- Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới có gió mùa, có ánh nắng chan hoà,
lượng mưa dồi dào và độ ẩm cao. Một số nơi gần chí tuyến hoặc vùng núi cao có
tính chất khí hậu ôn đới. Khí hậu Việt Nam có hai mùa rõ rệt, mùa khô rét (từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau), mùa mưa nóng (từ tháng 5 đến tháng 10), nhiệt độ
thay đổi theo mùa rõ rệt nhất ở các tỉnh phía Bắc.
- Dân tộc và ngôn ngữ: 54 dân tộc và 110 ngôn ngữ được thống kê (theo
trang Ethnologue), bao gồm tiếng Việt là quốc ngữ và 2 ngôn ngữ bên lề là tiếng
Hoa Phổ thông và Pháp.
- Thể chế nhà nước: Việt Nam là quốc gia theo chế độ Xã hội Chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền
lựa chọn ra Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ gồm có các Bộ và
Cơ quan ngang Bộ. Về đơn vị hành chính, Việt Nam có 64 tỉnh thành. Uỷ ban
Nhân dân và Hội Đồng Nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước ở các tỉnh
thành và các đơn vị hành chính thấp hơn.
- Kinh tế Việt Nam quy mô GDP năm 2022 theo dự báo của IMF đứng thứ 6 trong
khu vực ASEAN và top 50 các quốc gia có quy mô GDP năm 2022 lớn nhất thế
giới. Nền kinh tế lớn thứ 60 trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009 và đứng thứ 133
xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Đây là nền kinh tế
hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng Cộng
sản Việt Nam chủ trương xây dựng ở Việt Nam một hệ thống kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp
Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế
giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương, ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương
với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Việt Nam cũng đã ký
với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương...
1.2. Lào
- Vị trí địa lí: Nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, Lào có
đường biên giới giáp 5 nước và không giáp biển; phía bắc giáp Trung Quốc, phía
tây bắc giáp Myanmar, phía tây nam giáp Thái Lan, phía nam giáp Campuchia và
phía đông giáp Việt Nam.
- Diện tích: 236.800 km2. Chủ yếu là đồi núi, còn lại là bình nguyên và cao nguyên.
Sông Mekong chảy dọc biên giới phía tây Lào, dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới
phía đông. Được thiên nhiên ưu đãi, Lào có nguồn tài nguyên dồi dào và phong
phú về lâm, nông nghiệp, khoáng sản, như gỗ, thạch cao, thiếc, khí đốt… và có hệ
thống sông ngòi giàu nguồn lợi thủy sản và phù sa.
- Dân số: đạt hơn 7,4 triệu người (năm 2021), với tỷ lệ tăng dân số trung bình là
2%. Tuổi thọ trung bình hiện nay của người dân Lào là 61 tuổi.
- Khí hậu: lục địa, chia làm 2 mùa, mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến 4, mùa mưa từ
tháng 5 đến 10 hằng năm.
- Dân tộc và ngôn ngữ: Lào có 49 dân tộc, bao gồm các bộ tộc chính là Lào Lùm,
Lào Thơng và Lào Sủng. Ngôn ngữ được sử dụng chính thức là tiếng Lào, ngoài
ra, tiếng Anh và Pháp cũng được sử dụng phổ biến.
- Thể chế Nhà nước: Lào đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển chế độ Dân
chủ Nhân dân, tạo tiền đề để từng bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế Lào là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, và do đó, mục tiêu
chính sách hàng đầu của nước này là củng cố nền kinh tế và phát triển các phương
tiện kiếm ngoại tệ của riêng mình. Phần lớn dân số của nó tham gia vào một nền
kinh tế tự cung tự cấp, trong đó các gia đình tự sản xuất những gì cần thiết cho
cuộc sống cơ bản hàng ngày. Bất lợi lớn về kinh tế của Lào là nước này là một
quốc gia không giáp biển với cơ sở hạ tầng yếu kém. Gần 80 phần trăm diện tích
đất nước là núi và/hoặc rừng với chỉ 21 phần trăm diện tích đất có thể canh tác và
dưới 4 phần trăm thực sự được canh tác. Lào có lẽ có tỷ lệ che phủ rừng trên diện
tích đất cao nhất ở châu Á: 47% diện tích đất nước là rừng.

1.3. Mối liên kết giữa Việt Nam và Lào


Mối quan hệ Việt Nam - Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone
Phomvihane và Chủ tịch Souphanouvong dày công vun đắp, được các thế hệ quân
và dân hai nước phát triển, đã trở thành tài sản vô giá và là mối quan hệ có một
không hai trong lịch sử thế giới.
Quan hệ Lào – Việt Nam hay còn được biết đến với tên thông dụng là Quan hệ hữu
nghị Việt – Lào là mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác
toàn diện từ lịch sử tới hiện tại giữa Việt Nam và Lào. Mối quan hệ được Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng như Nhà nước 2 quốc
gia coi là mối quan hệ đặc biệt với vai trò như đồng minh chiến lược của nhau
nhưng không có bất cứ bản cam kết đồng minh nào.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính
thức thiết lập quan hệ ngoại giao trên cơ sở mối quan hệ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Vương quốc Lào ngày 5 tháng 9 năm 1962.

Chương 2: Cơ hội hợp tác đầu tư Việt Nam tại Lào


2.1. Thực trạng đầu tư Việt Nam tại Lào
Theo Bộ trưởng Lào, Việt Nam hiện là một trong 3 nhà đầu tư nước ngoài hàng
đầu tại Lào với 417 dự án còn hiệu lực, trị giá 4,3 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án
ở vùng sâu, vùng xa. Một số lĩnh vực nổi trội có thể kể đến như:
- Trong phát triển nông nghiệp:
Thủ tướng đánh giá cao việc Việt Nam hỗ trợ Lào nghiên cứu, soạn thảo chính
sách phát triển nông nghiệp, hợp tác đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ
cao tại Lào. Ông cho biết thêm, Chính phủ Lào đang khuyến khích Việt Nam đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp thân thiện với môi trường, điển hình như dự án của
Hoàng Anh Attapeu, dự án chăn nuôi bò tại tỉnh Xiengkhuang đã cho kết quả tốt.
- Trong lĩnh vực khai khoáng và năng lượng:
Việt Nam đã triển khai một số dự án trên cơ sở thỏa thuận giữa hai Chính phủ và
pháp luật của Lào, trong đó nêu bật các dự án Xekamane 1, Xekamane Xansay và
Xekamane 3 đóng góp đáng kể cho ngân sách của Lào.
- Trong lĩnh vực dịch vụ:
Chính phủ Lào đang nỗ lực thu hút thêm đầu tư của Việt Nam vào lĩnh vực dịch
vụ, theo Vongphosy. Ông cho biết nhiều dự án của Việt Nam trong lĩnh vực này đã
đóng góp to lớn vào nỗ lực phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo tại Lào.
- Trong phát triển cơ sở hạ tầng:
Bộ trưởng Lào nhấn mạnh rằng nước này đang triển khai Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm lần thứ 9, trọng tâm là kết nối cơ sở hạ tầng với Việt Nam, phù
hợp với chiến lược biến nước Lào không giáp biển thành trung tâm kết nối của khu
vực. Các dự án lớn theo quy hoạch là Cảng Vũng Áng, đường sắt Lào-Việt Nam,
cảng cạn Thanaleng và trung tâm hậu cần ở Viêng Chăn. Theo Bộ trưởng Lào, do
Chính phủ Việt Nam đã đồng ý cho Lào sử dụng Cảng Vũng Áng để vươn ra biển
và thị trường quốc tế nên Chính phủ Lào đặt mục tiêu biến Vũng Áng thành cảng
nước sâu có khả năng tiếp nhận 100.000 tấn tàu, do đó cho phép Lào vận chuyển
hàng hóa sang nước thứ ba với chi phí thấp hơn so với đường bộ. Ông cho biết, khi
đi vào hoạt động, Vũng Áng sẽ trở thành cửa ngõ kinh tế của Lào.
Song song với việc phát triển Cảng Vũng Áng, Chính phủ hai nước đã nhất trí xây
dựng một tuyến đường sắt nối Vũng Áng với Thakkek ở tỉnh Khammoune và
Viêng Chăn ở miền trung Lào. Bộ trưởng Vongphosy cho biết, dự án đường sắt
được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng vận tải hành
khách, hàng hóa cũng như hệ thống hậu cần, từ đó giảm thời gian và chi phí vận
tải.
Khi hoàn thành, hai dự án này sẽ hiện thực hóa quy hoạch hành lang kinh tế Đông
Tây từ Vũng Áng, Hà Tĩnh, Việt Nam qua Khammoune, miền Trung Lào, đến các
tỉnh Đông Bắc Thái Lan.
Chính phủ Lào đang bỏ dần các quy định, thủ tục hành chính rườm rà, giảm thời
gian thành lập doanh nghiệp, giảm thuế và tăng cường cơ sở hạ tầng. Đây là một
trong những thông tin quan trọng về hoạt động cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có dòng vốn đầu tư từ Việt Nam,
được đưa ra tại Hội thảo “Thị trường Lào – Hiện trạng và tiềm năng kinh doanh –
đầu tư”, do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TPHCM (ITPC) phối hợp
với Tổng lãnh sự quán Lào tại TPHCM tổ chức mới đây.

2.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế trong thực trạng hoạt
động đầu tư Việt Nam sang Lào
2.2.1. Thành tựu
- Thứ nhất: số lượng dự án và vốn đầu tư đến từ Việt Nam đã tăng nhanh trong vài
năm gần đây. Đặc biệt, từ những năm 2008,2009, Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu
về đầu tư nước ngoài vào Lào (cả về số dự án và số vốn cam kết đầu tư). Hiện
16/17 tỉnh của Lào đã có nhà đầu tư Việt Nam triển khai dự án trong các lĩnh vực
công nghiệp, nông – lâm nghiệp, dịch vụ, du lịch, khách sạn, tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm.
- Thứ hai: hoạt động đầu tư sang Lào đã góp phần tăng doanh thu và đóng góp cho
nhân sách. Các khoản lợi nhuận được chuyển về nước một mặt giúp cho các doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất nậng cao năng lực chính, tăng hiệu quả kinh doanh
và mức tăng trưởng của ngành cũng như nèn kinh tế. Và một phần sẽ đóng góp vào
ngân sách nhà nước.
- Thứ ba: vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam được nâng cao và khẳng định trên
thị trường. Chúng Ta đã đạt được vị thế là quốc gia đứng hàng đầu trong đầu tư tại
Lào. Thông qua đầu tư vào Lào chúng ta đã tận dụng được lợi thế so sánh, sản xuất
và cung cấp hàng hóa giá cả cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu thị hiếu. Nhờ thế, vị thế,
uy tín , thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng được biết đến.
- Thứ tư: trình độ và kinh nghiệm quản lý của các doanh nghiệm Việt Nam ngày
càng được hoàn thiện. Khi tiến hành đầu tư mục tiêu hàng đầu của các doanh
nghiệp là lợi nhuận, nên thông qua đó công tác quản lý vốn, nhân sự, sản xuất…
được thực hiện nghiêm túc, các doanh nghiệp nhận thức rõ vai trò của công tác
quản lý. Là tiền đề kinh nghiệm huận lợi khi doanh nghiệp muốn mở rộng đầu tư
sang thị trường mới.
- Thứ năm: dòng vốn được sử dụng một cách có hiệu quả, không dàn trải vì các dự
án phải nhận được sự chấp thuận đầu tư, xin giấy phép, thẩm định, đảm bảo tính
khả thi, vì vậy đã được nghiên cứu tỷ mỉ trước khi quyết định đầu tư.
- Thứ sáu: các dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết việc làm
đặc biệt là các dự án cần nguồn lớn lao động như trồng cao su, chế biến gỗ, nhà
máy thủy điện,.. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư sang Lào cũng đóng góp lớn ttrong
duy trì mối quan hệ đối ngoại, hợp tác giữa hai quốc gia, tăng cường ảnh hưởng
của Việt Nam tại Lào. Một số dự án giáp ranh cũng góp phần củng cố an ninh trật
tự vùng biên, đảm bảo ổn định chính trị xã hội trong nước, tạo điều kiện phát triển
kinh tế, thu hút đầu tư, cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo.
Tóm lại, đầu tư sang Lào đã tạo ra một luồng sinh khí mới, năng lực mới cho nền
kinh tế hai nước, đưa sản phẩm hai nước hòa nhập với thị trường khu vực và thế
giới, tạo cơ sở cho quá trình phát triển đất nước và tăng cường mối quan hệ hợp tác
trên nhiều mặt giữa hai quốc gia.
2.2.2. Hạn chế
- Số lượng và qui mô các dự án: Quy mô vốn đầu tư trên mỗi dự án còn thấp.
Nguyên nhân là do:
 Năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu.
 Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm khi đầu tư ra nước ngoài
về quy trình thủ tục cũng như các luật lệ.
 Khi xin cấp phép đầu tư ra nước ngoài còn mất nhiều thời gian.
- Công tác thẩm định, cấp phép dự án đầu tư:
Nhìn chung là quá trình thẩm định cấp phép các dự án đầu tư sang Lào còn chậm,
quy trình chưa rõ ràng, nhiều dự án có quy mô lớn xin được cấp phép, thời gian
thẩm định dài, cụ thể là nhà máy thủy điện Xekaman 3 phải sau 2 năm mới được
cấp phép.
Thời gian thẩm định, cấp giấy phép kéo dài không những làm ảnh hưởng đến tâm
lý nhà đầu tư mà có thể làm lỡ mất cơ hội đầu tư.
Việc quản lý các dự án đầu tư chưa được quan tâm một cách xứng đáng., khó khăn
do việc thực hiện các báo cáo chưa đầy đủ. Do vậy gây nhiều vướng mắc nảy sinh
khi các doanh nghiệp gặp tranh chấp hay khó khăn cũng không thể nhận được sự
hỗ trợ tối đa từ phía nhà nước.
- Cơ chế chính sách
Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề tiếp cận vốn. Bên cạnh đó hệ thống
pháp luật về đầu tư ra nước ngoài còn nhiều hạn chế. Các quy định thiếu thống
nhất, thủ tục phiền hà, can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Về quản lý Nhà nước, hiện cũng chưa có cơ quan có đủ thẩm quyền, điều kiện và
năng lực triển khai quản lý, theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động đầu tư, sản xuất
kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động tại Lào, cũng
như chưa có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ trong quản lý, chưa làm rõ nội dung
quản lý, từ khâu thẩm định tư cách pháp nhân, thẩm định năng lực của các doanh
nghiệp đến khâu giám sát hoạt động
Về phía Lào: thiếu thông tin, thủ tục đăng ký sử dụng lao động nước ngoài không
rõ ràng, mất nhiều thời gian; cấp phép đầu tư còn chậm, các thủ tục xuất nhập cảnh
vật tư cho các dự án vẫn còn khó khăn; thời gian cấp hợp đồng thuê đất số lượng
lớn kéo dài; điều kiện cơ sở hạ tầng chưa được cải thiện (khu vực Bắc Lào)...
- Triển khai thực hiện dự án:
Lao động của Lào tuy rẻ nhưng trình độ lỹ thuật còn thấp, tác phong và trách
nhiệm chưa nghiêm gây lãng phí thời gian và tiền bạc ảnh hưởng đến hiệu quả của
dự án. Một số ngành, lĩnh vưa được quan tậm đúng mức như: đầu tư sản xuất các
linh kiện điện tử, thiết bị bưu chính viễn thông, thiết bị công nghệ cao… từ đó sản
phẩm làm ra chỉ đáp ứng được nhu cầu cảu Lào và Việt Nam, chưa xuất khẩu được
sang nước thứ 3.
Tiến độ giao đất cho các dự án trồng cao su chậm, khó khăn cho việc lập kế hoạch
sản xuất của doanh nghiệp, công tác đền bù giải phóng mặt bằng thiếu những quy
định thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tính thống nhất về đất đai chưa cao
và chưa có quy hoạch rõ ràng về vùng dành cho đất trồng cây công nghiệp, đất
rừng, đất ở.
Ngoài ra năng lực điều hành quản lý của các nhà quản lý Việt Nam cũng là một
hạn chế. Thiếu kinh nghiệm trong quản lý nhưng đây là những dự án phức tạp đòi
hỏi chuyên môn cả về luật lệ, phong tục tập quán, lối sống văn hóa của Lào mới có
thể điều hành, phát huy năng lực của họ.
- Hạn chế khác:
Tình trạng thiếu vốn thực hiện các dự án đầu tư sang Lào còn thấp, có thể do một
số lý do sau:
 Doanh nghiệp còn thiếu thông tin về nơi đầu tư, do vậy triển khai dự án còn
chậm.
 Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu.
 Doanh nghiệp chưa nhận được sự hỗ trợ của nhà nước.
Bên cạnh đó trong qúa trình đầu tư doanh nghiệp cũng gặp khó khă n do thiếu
thông tin. Các doanh nghiệp bước vào môi trường kinh doanh quốc tế còn thiếu
kinh nghiệm, do vậy việc tìm kiếm sử lý thông tin có vai trò quan trọng. tuy nhiên
các doanh nghiệp lại thiếu thông tin thị trường Lào, các chính sách ưu đãi, hiệp
định ký kết hàng năm giũa chính phủ hai nước … doanh nghiệp vẫn chưa được cơ
quan cung cấp thông tin do vậy rất khó khăn trong việc ra quyết định đầu tư.
Ngoài ra, vấn đề tham nhũng cửa quyền trong cấp phép đầu tư cũng làm nản lòng
các nhà đầu tư hai phía.

2.3. Thực trạng về môi trường đầu tư tại Lào


2.3.1. Cởi mở và hạn chế đầu tư nước ngoài
- Chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chính phủ Lào chính thức hoan nghênh đầu tư cả trong nước và nước ngoài khi
nước này tìm cách duy trì tốc độ tăng trưởng cao và thoát khỏi tình trạng Quốc gia
kém phát triển nhất vào năm 2026. Tốc độ đầu tư nước ngoài đã tăng lên trong vài
năm qua. Theo thống kê của chính phủ Lào, khai khoáng và thủy điện chiếm
95,7% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nông nghiệp chỉ chiếm 2% vốn
FDI vào năm 2019. Trung Quốc, Thái Lan, Pháp, Việt Nam và Nhật Bản là những
nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất, với Trung Quốc chiếm một phần đáng kể trong
tổng số vốn FDI tại Lào. Cục xúc tiến đầu tư của chính phủ khuyến khích đầu tư
thông qua trang web www.investlaos.gov.la, và chính phủ cũng cố gắng cải thiện
môi trường kinh doanh bằng cách tạo điều kiện đối thoại mang tính xây dựng hàng
năm với khu vực tư nhân và các phòng kinh doanh nước ngoài thông qua Diễn đàn
Doanh nghiệp Lào, được quản lý bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Quốc gia
Lào (LNCCI).
Luật Khuyến khích đầu tư 2009 đã được sửa đổi vào tháng 11 năm 2016, với 32
điều khoản mới được ban hành và 59 điều khoản hiện hành được sửa đổi. Đáng
chú ý là luật mới làm rõ các ưu đãi đầu tư, chuyển giao trách nhiệm đối với các
SEZ từ Văn phòng Thủ tướng Chính phủ sang Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) và
loại bỏ các yêu cầu khắt khe về vốn đăng ký để thành lập doanh nghiệp, thay vào
đó chuyển giao cho các bộ liên quan. Người nước ngoài có thể đầu tư vào bất kỳ
lĩnh vực hoặc doanh nghiệp nào trừ trường hợp chính phủ cho rằng khoản đầu tư
đó có hại cho an ninh quốc gia, sức khỏe hoặc truyền thống dân tộc hoặc có tác
động tiêu cực đến môi trường tự nhiên. Cụ thể, Điều 12 (ưu đãi thuế giá trị gia tăng
và thuế) đã được cải thiện vào năm 2019 khi chính phủ muốn cung cấp cơ chế tạo
thuận lợi cho đầu tư đối với các hoạt động hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên,
ngay cả trong trường hợp được phép sở hữu hoàn toàn nước ngoài, nhiều công ty
nước ngoài vẫn tìm kiếm đối tác địa phương.
Các nhà đầu tư nước ngoài thường phải trải qua một số bước thủ tục trước khi bắt
đầu hoạt động. Nhiều chủ doanh nghiệp nước ngoài và các nhà đầu tư tiềm năng
cho rằng quy trình này quá phức tạp và các quy định được áp dụng một cách thất
thường, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư cũng bày tỏ
sự nhầm lẫn về vai trò của các bộ khác nhau khi nhiều bộ tham gia vào quá trình
phê duyệt. Trong trường hợp giấy phép đầu tư chung (trái ngược với giấy phép ưu
đãi do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp, nhà đầu tư nước ngoài phải xin nhiều giấy
phép, bao gồm đăng ký kinh doanh hàng năm từ Bộ Công Thương (MOIC), đăng
ký thuế từ Bộ Tài chính, đăng ký logo doanh nghiệp từ Bộ Công an, giấy phép của
từng bộ ngành liên quan đến đầu tư (tức là, MOIC đối với sản xuất và Bộ Năng
lượng và Mỏ đối với phát triển ngành điện), giấy phép phù hợp của chính quyền
địa phương và giấy phép xuất nhập khẩu, nếu có. Việc xin các giấy phép cần thiết
có thể khó khăn và tốn thời gian, đặc biệt là ở các khu vực bên ngoài thủ đô.
Có một số phương tiện có thể cho đầu tư nước ngoài. Đối tác nước ngoài trong liên
doanh phải góp ít nhất 30 phần trăm vốn đăng ký của công ty. Các công ty 100%
vốn nước ngoài có thể là công ty hoàn toàn mới hoặc là chi nhánh của một doanh
nghiệp nước ngoài hiện có. Vốn chủ sở hữu trong các doanh nghiệp quy mô vừa và
lớn có thể đạt được thông qua liên doanh với chính phủ Lào.
Khó có được số liệu thống kê đáng tin cậy, tuy nhiên với sự suy giảm của nền kinh
tế thế giới, chắc chắn rằng đầu tư nước ngoài đã bắt đầu dao động so với những
năm trước. Theo Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD), dòng vốn FDI vào Lào đã giảm 58% từ 1,3 tỷ USD năm 2018 xuống
còn 557 triệu USD vào năm 2019. Lào đã nhận được khoảng 1,07 tỷ USD vốn FDI
từ Trung Quốc vào năm 2019. Tổng vốn FDI vào Lào đã tăng từ 5,7 tỷ USD năm
2016 lên 10 tỷ USD năm 2019.
- Giới hạn về kiểm soát nước ngoài, quyền sở hữu và thành lập tư nhân
Như đã thảo luận ở trên, mặc dù thực tế là người nước ngoài có thể đầu tư vào hầu
hết các lĩnh vực hoặc doanh nghiệp (tùy thuộc vào các ngoại lệ đã lưu ý trước đó),
nhiều công ty nước ngoài tìm kiếm đối tác địa phương để điều hướng các quy trình
chính thức và không chính thức của Byzantine. Các công ty tham gia vào các dự án
FDI lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực khai khoáng và thủy điện, thường thấy có lợi
hoặc được yêu cầu phải trao cho chính phủ một phần quyền sở hữu.
- Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Lào chưa có trang web đăng ký doanh nghiệp trung ương, nhưng Bộ Công Thương
(MOIC) đã cải thiện trang web đăng ký doanh nghiệp trực tuyến của mình để đẩy
nhanh quá trình đăng ký. Như đã phân tích ở trên, thời gian trung bình để được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh nói chung
giảm từ 174 xuống còn 17 ngày. Tuy nhiên, thời gian và quy trình cho các hoạt
động được kiểm soát và nhượng quyền có thể khác nhau đáng kể, vì nó đòi hỏi sự
tham gia của các cơ quan chính phủ khác nhau để cấp giấy phép hoạt động. Do đó,
nhiều nhà đầu tư và thậm chí cả người dân địa phương thường thuê các công ty tư
vấn hoặc công ty luật để hướng dẫn quy trình đăng ký sử dụng nhiều lao động.
Chính phủ Lào đã cố gắng hợp lý hóa việc đăng ký kinh doanh thông qua việc sử
dụng mô hình một cửa. Việc đăng ký các hoạt động kinh doanh nói chung có thể
được thực hiện tại các văn phòng của Cục Đăng ký và Quản lý Doanh nghiệp,
MOIC, trong khi dịch vụ cho các hoạt động cần sự nhượng bộ của chính phủ là
thông qua MPI. Đối với đầu tư vào SEZ, đăng ký một cửa được thực hiện thông
qua MPI hoặc tại các văn phòng dịch vụ một cửa đặc biệt trong chính SEZ (thuộc
thẩm quyền của MPI).
Để thúc đẩy và tạo thuận lợi cho đầu tư trong và ngoài nước, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Lệnh 02 và Lệnh 03 lần lượt trong năm 2018 và 2019 nhằm cải cách
tạo điều kiện kinh doanh và cải thiện các dịch vụ về giấy phép đầu tư và hoạt
động. Điều này bao gồm việc hoàn thiện hệ thống One Stop Service và triển khai
thực hiện nghiệp vụ gắn với minh bạch một cách thống nhất và kịp thời. Chính phủ
cũng khuyến khích sự tham gia của cả nhà đầu tư trong và ngoài nước để phát triển
các dự án cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ công bằng cách ban hành nghị định
hợp tác công tư (PPP) vào năm 2020 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cho đến nay, các chủ doanh nghiệp đưa ra nhiều đánh giá trái chiều về khái niệm
cửa hàng một cửa. Nhiều người thừa nhận rằng đó là một sự cải tiến, nhưng mô tả
nó như một cuộc cải cách chưa hoàn chỉnh với một số bước bổ sung vẫn phải được
thực hiện bên ngoài điểm dừng duy nhất. Các doanh nghiệp cũng phàn nàn rằng
thường có các yêu cầu đăng ký khác nhau ở cấp trung ương và cấp tỉnh.
- Đầu tư ra nước ngoài
Chính phủ Lào không tích cực thúc đẩy, khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư ra nước
ngoài.
2.3.2. Hiệp định đầu tư song phương và Hiệp định thuế
Theo Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), Lào có
các hiệp định đầu tư song phương với Australia, Belarus, Campuchia (chưa có hiệu
lực), Trung Quốc, Cuba, Đan Mạch, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Kuwait,
Malaysia (không có hiệu lực), Mông Cổ, Myanmar, Hà Lan, Pakistan, Liên bang
Nga, Singapore, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thái Lan, Vương quốc Anh và Việt
Nam. Vào ngày 1 tháng 2 năm 2005, Hiệp định Thương mại Song phương (BTA)
có hiệu lực giữa Hoa Kỳ và Chính phủ Lào có một số điều khoản về đầu tư.
2.3.3. Chế độ pháp lý
- Tính minh bạch của hệ thống quản lý
Các quy định ở Lào có thể mơ hồ và mâu thuẫn, một chủ đề mà khu vực tư nhân
thường xuyên nêu ra với chính phủ, kể cả thông qua các diễn đàn chính thức như
Diễn đàn Doanh nghiệp Lào. Luật Lập pháp năm 2013 quy định tất cả các luật phải
được đăng trực tuyến tại trang web công báo. Các dự thảo luật cũng có sẵn để lấy ý
kiến công chúng thông qua trang web công báo, mặc dù không phải tất cả các dự
luật đều được đăng để lấy ý kiến hoặc trên công báo, và các tỉnh hiếm khi đăng luật
địa phương của họ. Mặc dù tình hình tiếp tục được cải thiện, nhưng thực tế hoạt
động kinh doanh tại Lào có thể không tương ứng với luật pháp và quy định hiện
hành. Việc triển khai và thực thi thường không tuân thủ chặt chẽ nội dung của luật
và các điều khoản mơ hồ hoặc mâu thuẫn trong luật và các quy định dẫn đến nhiều
cách hiểu khác nhau. Các quy định ở cấp quốc gia và cấp tỉnh thường có thể khác
nhau, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với nhau.
Các hệ thống luật pháp, quy định và kế toán non trẻ không đặc biệt có lợi cho môi
trường kinh doanh cạnh tranh, minh bạch. Các chuẩn mực kế toán quốc tế được áp
dụng và các công ty quốc tế lớn có mặt trên thị trường, mặc dù sự hiểu biết và tuân
thủ các chuẩn mực này chỉ giới hạn ở một bộ phận nhỏ trong cộng đồng doanh
nghiệp. Có 11 công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán Lào. Các quy
định quy định rằng các công ty niêm yết trên sàn giao dịch phải tuân theo các tiêu
chuẩn kế toán, nhưng khả năng thực thi các tiêu chuẩn đó của chính phủ là thấp.
Chính phủ hiện công khai ngân sách đã ban hành, bao gồm tổng số nghĩa vụ nợ
trong nước và nợ nước ngoài của cả nước.
- Cân nhắc quy định quốc tế
Lào là thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và đang tìm cách thực
hiện tất cả các tiêu chuẩn đã được AEC đồng ý trong nước. Tuy nhiên, năng lực
xây dựng tiêu chuẩn quy định của địa phương còn yếu, trong khi việc thực thi quy
chuẩn kỹ thuật còn yếu hơn. Về mặt tích cực, chính phủ Lào đã tích cực thông báo
các dự thảo quy định kỹ thuật – chẳng hạn như luật mới về tiêu chuẩn – cho ủy ban
WTO về Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT).
- Hệ thống pháp luật và độc lập tư pháp
Lào hiện có một khu vực pháp lý kém phát triển. Chính phủ đã thông qua Kế hoạch
tổng thể lĩnh vực pháp lý với mục tiêu trở thành một nhà nước pháp quyền vào
năm 2020. Kế hoạch hiện đã hoàn thành và đạt được những thành tựu quan trọng
bao gồm tăng cường pháp quyền và tiến bộ trong việc thực thi các quyền. Tuy
nhiên, pháp quyền ở Lào vẫn còn sơ khai. Để cải thiện hệ thống pháp luật, chính
phủ sẽ tiếp tục làm việc với nhiều đối tác phát triển về cải cách toàn diện lĩnh vực
pháp luật. Từ năm 1975 đến năm 1991, Lào không có hiến pháp và các nghị định
của chính phủ do nhiều bộ và quan chức ban hành chỉ làm trầm trọng thêm khung
pháp lý yếu kém của đất nước. Mặc dù đã có những cải tiến đáng kể trong hệ thống
pháp luật trong thập kỷ qua, nhưng vẫn có tương đối ít luật sư, nhiều thẩm phán
thiếu kinh nghiệm và được đào tạo bài bản,
Hệ thống hiện tại kết hợp một số yếu tố chính của hệ thống luật dân sự của Pháp,
nhưng nó cũng bị ảnh hưởng bởi các hệ thống pháp luật của Liên Xô cũ và một số
nước láng giềng trong khu vực. Các quyết định của tòa án không được công bố
rộng rãi và cũng không nhất thiết ảnh hưởng đến các quyết định trong tương
lai. Mặc dù độc lập về mặt hành chính với nội các chính phủ, nhưng tư pháp Lào
vẫn chịu sự can thiệp của chính phủ và chính trị.
Luật hợp đồng ở Lào còn thiếu trong nhiều lĩnh vực quan trọng đối với thương mại
và thương mại. Luật pháp quy định tính bất khả xâm phạm của hợp đồng, nhưng
trên thực tế, hợp đồng phải chịu sự can thiệp và bảo trợ của chính trị. Các doanh
nghiệp báo cáo rằng các hợp đồng có thể bị vô hiệu nếu chúng được coi là bất lợi
cho một bên hoặc nếu chúng xung đột với lợi ích của nhà nước hoặc công
cộng. Các doanh nhân nước ngoài mô tả các hợp đồng ở Lào là “khuôn khổ đàm
phán” chứ không phải là một thỏa thuận ràng buộc, và ngay cả khi phải đối mặt với
phán quyết, việc thực thi vẫn yếu và chịu ảnh hưởng của tham nhũng. Mặc dù đã
tồn tại hệ thống tòa án thương mại nhưng hầu hết các thẩm phán xét xử các tranh
chấp thương mại đều ít được đào tạo về luật thương mại. Những người đang cân
nhắc kinh doanh tại Lào nên liên hệ với một công ty luật có uy tín để được tư vấn
thêm về hợp đồng.
Một bước phát triển tích cực từ năm 2019 là dưới sự lãnh đạo của MOIC, Lào đã
trở thành Quốc gia thành viên thứ 92 tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về Hợp
đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế.
- Luật và Quy định về Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài
Như đã thảo luận ở trên, Luật Khuyến khích đầu tư năm 2009 đã được sửa đổi vào
tháng 11 năm 2016. Luật mới quy định rõ ràng hơn về các quy định và thủ tục,
đồng thời quy định chi tiết hơn về trách nhiệm cụ thể của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư. Luật Khuyến khích đầu tư 2016 đưa ra các yêu cầu đăng ký kinh doanh thống
nhất và ưu đãi thuế áp dụng bình đẳng cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư
trong nước. Như đã lưu ý ở trên, người nước ngoài có thể đầu tư vào bất kỳ lĩnh
vực hoặc hoạt động kinh doanh nào trừ trường hợp chính phủ cho rằng khoản đầu
tư đó gây phương hại đến an ninh quốc gia, sức khỏe hoặc truyền thống dân tộc
hoặc có tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên. Ngoài các lĩnh vực này, không
có giới hạn theo luật định đối với quyền sở hữu hoặc kiểm soát nước ngoài đối với
các doanh nghiệp thương mại. Vì những lý do đã thảo luận ở trên,
Tóm lại, cả bộ máy quan liêu về đầu tư của chính phủ lẫn hệ thống tòa án thương
mại đều không phát triển tốt, mặc dù hệ thống đầu tư đang được cải thiện và cải
cách. Các nhà đầu tư đã trải qua các hoạt động của chính phủ sai lệch đáng kể so
với luật pháp và quy định công khai. Một số nhà đầu tư chỉ trích khả năng hạn chế
của tòa án trong việc xử lý các tranh chấp thương mại và dễ bị tham nhũng. Chính
phủ Lào đã nhiều lần nhấn mạnh cam kết tăng cường khả năng dự đoán trong môi
trường đầu tư, nhưng trên thực tế, với một số ngoại lệ trong việc thành lập và vận
hành SEZ, và đầu tư của các công ty lớn hơn, các nhà đầu tư nước ngoài mô tả việc
áp dụng luật và quy định không thống nhất.
- Luật Cạnh tranh và Chống độc quyền
Không có bản cập nhật nào kể từ năm 2017. Luật cạnh tranh mới đã được phê
duyệt vào năm 2015 áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức nước ngoài và trong
nước. Luật được soạn thảo với sự hỗ trợ của chính phủ Đức và các nhà tài trợ
khác. Luật cạnh tranh là một trong những nỗ lực chính sách của chính phủ Lào
nhằm thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN, hay AEC, trước năm 2016. Luật đã
thành lập hai cơ quan chính phủ mới, Ủy ban Kiểm soát Cạnh tranh Kinh doanh
(BCC) và Ban Thư ký BCC. Ủy ban BCC là cơ quan cấp cao và thành viên của nó
do Thủ tướng Chính phủ quyết định với sự tư vấn của Bộ trưởng Bộ Công Thương
(MOIC). Theo luật, nó nên bao gồm các quan chức cấp cao từ nhiều bộ cũng như
các doanh nhân, nhà kinh tế và luật sư. Ủy ban BCC có thể soạn thảo các quy định,
phê duyệt sáp nhập, áp dụng các hình phạt và cung cấp hướng dẫn tổng thể về
chính sách và quy định cạnh tranh của chính phủ. Ban thư ký BCC, một tổ chức
cấp thấp hơn tương đương với một vụ hoặc bộ phận của MOIC, có thể nghe các
khiếu nại, tiến hành điều tra và tiến hành nghiên cứu và báo cáo theo yêu cầu của
Ủy ban.
- Thu hồi và bồi thường
Theo luật, tài sản và đầu tư nước ngoài tại Lào được bảo vệ khỏi bị tịch thu, tịch
thu hoặc quốc hữu hóa trừ trường hợp cần thiết cho mục đích công cộng. Tuy
nhiên, mục đích công cộng có thể được định nghĩa một cách rộng rãi, và người dân
Lào cũng như người nước ngoài lo sợ việc chiếm đoạt đất đai. Trong trường hợp
chính phủ sung công, chính phủ Lào có nghĩa vụ cung cấp bồi thường công bằng
theo thị trường. Tuy nhiên, một doanh nghiệp dựa trên một lô đất cụ thể có thể bị
mất giấy phép đầu tư nếu đất đang có tranh chấp. Việc thu hồi giấy phép đầu tư
không thể được khiếu nại lên một cơ quan độc lập và các công ty bị thu hồi giấy
phép phải nhanh chóng thanh lý tài sản của họ. Những mảnh đất nhỏ, đất có quyền
sở hữu không rõ ràng hoặc đất chưa nộp thuế có nguy cơ bị tịch thu đặc biệt.
- Giải quyết tranh chấp
Công ước ICSID và Công ước New York
Nghị định thành lập cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế tư nhân theo quy định tại
Điều 4 của Luật giải quyết tranh chấp kinh tế số 51/NA, (2018) quy định về các cơ
quan trọng tài tư nhân tại CHDCND Lào. Tuy nhiên, khung pháp lý để cho phép
khu vực tư nhân thiết lập một kênh thay thế cho trọng tài kinh doanh vẫn đang
được xây dựng với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế như USAID.
Lào không phải là quốc gia thành viên của Trung tâm Quốc tế về Giải quyết Tranh
chấp Đầu tư (Công ước ICSID). Tuy nhiên, đây là một bên ký kết Công ước về
Công nhận và Thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài (Công ước New York năm
1958).
- Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước
Theo Luật Khuyến khích đầu tư, việc giải quyết tranh chấp nên tiến hành theo quy
trình sau: hòa giải, giải quyết tranh chấp hành chính, giải quyết tranh chấp bởi Ủy
ban giải quyết tranh chấp kinh tế và cuối cùng là tố tụng. Tuy nhiên, do tình trạng
kém phát triển của hệ thống pháp luật Lào, các nhà đầu tư nước ngoài thường được
khuyên nên tìm kiếm trọng tài bên ngoài đất nước. Có rất ít hồ sơ công khai về
tranh chấp đầu tư quốc tế. Theo luật khuyến khích đầu tư 2016, Điều 96 về Giải
quyết tranh chấp của Văn phòng giải quyết tranh chấp kinh tế tại CHDCND Lào
hoặc tổ chức quốc tế mà CHDCND Lào là thành viên quy định: “Khi có tranh chấp
liên quan đến đầu tư, một trong hai bên sẽ có quyền yêu cầu Văn phòng Giải quyết
Tranh chấp Kinh tế giải quyết trong phạm vi CHDCND Lào hoặc nước ngoài theo
thỏa thuận của các bên tranh chấp. CHDCND Lào công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài hoặc trọng tài quốc tế với sự chứng nhận của tòa án
nhân dân CHDCND Lào.” Tuy nhiên, trên thực tế, Đại sứ quán không hề biết về
việc một nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện thành công điều khoản mới này.
- Trọng tài thương mại quốc tế và Tòa án nước ngoài
Ngoài những cơ chế được liệt kê ở trên, không có cơ chế giải quyết tranh chấp thay
thế chính thức nào được quy định trong luật của Lào nhưng dựa trên Luật khuyến
khích đầu tư sửa đổi và luật về luật giải quyết tranh chấp đầu tư ngày 22 tháng 6
năm 2018, cả hai bên có thể quyết định xem họ có muốn sử dụng trọng tài hay
không tại Lào hoặc nước ngoài như đã đề cập trong hợp đồng. Không có lịch sử
nào về việc Lào thực thi các phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài.
- Quy chế phá sản
Luật phá sản năm 1994 cho phép doanh nghiệp hoặc chủ nợ có quyền yêu cầu tòa
án ra phán quyết phá sản và cho phép doanh nghiệp có quyền yêu cầu hòa
giải. Luật cũng cho phép thanh lý tài sản theo yêu cầu của con nợ hoặc chủ nợ. Tuy
nhiên, chưa có ghi nhận nào về việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dù là
con nợ hay chủ nợ, nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản. Theo Báo cáo Môi
trường Kinh doanh thuận lợi của Ngân hàng Thế giới, Lào đứng cuối bảng xếp
hạng toàn cầu về mức độ dễ giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán.
2.3.4. Chính sách công nghiệp
- Ưu đãi đầu tư
Lào cung cấp một loạt các ưu đãi đầu tư tùy thuộc vào phương tiện đầu tư, đặc biệt
tập trung vào các nhượng bộ của chính phủ và các Khu kinh tế đặc biệt. Nhiều ưu
đãi trong số này có thể được tìm thấy và thường được điều chỉnh bởi Luật Khuyến
khích Đầu tư.
- Khu ngoại thương/Cảng tự do/Tạo thuận lợi thương mại
Luật Đầu tư nước ngoài mới cho phép thành lập Đặc khu kinh tế và Khu kinh tế
đặc thù (cả hai đều được gọi là SEZ). Đặc khu kinh tế nhằm hỗ trợ phát triển cơ sở
hạ tầng và cơ sở thương mại mới, đồng thời bao gồm các ưu đãi đầu tư. Các Khu
kinh tế cụ thể nhằm mục đích phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất hiện có,
đồng thời cung cấp các ưu đãi và hỗ trợ ở mức độ thấp hơn so với các Khu kinh tế
đặc biệt. Lào đã công bố kế hoạch xây dựng tới 40 đặc khu và khu cụ thể, nhưng
tính đến năm 2020, nước này mới chỉ thành lập 12. Một số, chẳng hạn như Savan
Seno SEZ ở Savannakhet và Khu Thương mại và Công nghiệp Viêng Chăn SEZ,
hoặc VITA Park, ở Viêng Chăn, đã thu hút thành công các nhà đầu tư nước
ngoài. Những người khác bị buộc tội chứa chấp các hoạt động bất hợp pháp, chẳng
hạn như Đặc khu Tam giác vàng ở tỉnh Bokeo, nơi có Sòng bạc Kings Roman. Vào
đầu năm 2018, Văn phòng Kiểm soát Tài sản Nước ngoài của Bộ Tài chính đã chỉ
định Sòng bạc Kings Roman và các chủ sở hữu của nó là Tổ chức Tội phạm Xuyên
quốc gia vì tham gia buôn bán ma túy, buôn người, rửa tiền, hối lộ và buôn bán
động vật hoang dã. Nhiều SEZ do Trung Quốc đầu tư dự kiến sẽ mở cửa trong
những năm tới, đặc biệt là dọc theo tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào. Các công ty
Thái Lan cũng đang khám phá các khu công nghiệp kiểu SEZ mới ở Lào. Nhiều
SEZ do Trung Quốc đầu tư dự kiến sẽ mở cửa trong những năm tới, đặc biệt là dọc
theo tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào. Các công ty Thái Lan cũng đang khám phá
các khu công nghiệp kiểu SEZ mới ở Lào. Nhiều SEZ do Trung Quốc đầu tư dự
kiến sẽ mở cửa trong những năm tới, đặc biệt là dọc theo tuyến đường sắt Trung
Quốc-Lào. Các công ty Thái Lan cũng đang khám phá các khu công nghiệp kiểu
SEZ mới ở Lào.
Nói chung, chính phủ Lào đặt ưu tiên cao cho các biện pháp tạo thuận lợi thương
mại trên các diễn đàn quốc tế, đặc biệt khi nước này phụ thuộc vào thương mại
giữa các nước láng giềng để đến các cảng biển. Kể từ năm 2012, công tác quản lý
hải quan đã được hiện đại hóa thông qua việc triển khai ASYCUDA do Liên hợp
quốc và Ngân hàng Thế giới hỗ trợ để khai báo hải quan và kiểm tra biên giới tại
các điểm kiểm tra quốc tế, bao gồm sân bay và Đặc khu kinh tế. Chính phủ cũng
đang xây dựng Cơ chế một cửa quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho các yêu cầu
và cấp giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu và quá cảnh tất cả hàng hóa, cơ chế này
hiện đã có hiệu lực trên toàn quốc. Rõ ràng, những cách tiếp cận như vậy đã giảm
việc sử dụng giấy tờ và thời gian liên quan đến thủ tục hải quan, tức là từ 2 ngày
trước đây xuống còn dưới 8 giờ vào năm 2020.
Với sự hỗ trợ từ Nhật Bản, chính phủ Lào đã thiết lập một hệ thống mới để thu phí
hải quan điện tử tại một số cửa khẩu biên giới lớn vào năm 2016, đây là một cải
tiến đáng kể và vào đầu năm 2019, Cục Hải quan đã giới thiệu thanh toán hải quan
điện tử tại Hội nghị Hữu nghị Lào – Thái Cầu cho hành khách. Trên một số cửa
khẩu biên giới với Việt Nam, các quan chức Lào và Việt Nam cùng tiến hành kiểm
tra để tạo thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa.
Ngoài những hành động này, chính phủ đã ban hành phiên bản mới của Luật Thuế
(số 81/NA) vào cuối năm 2020, tập trung vào tạo thuận lợi thương mại hơn là thu
ngân sách với việc loại bỏ một số cơ quan trong quy trình phê duyệt. Tuy nhiên,
Lào đã đấu tranh để hài hòa các quy trình nội bộ của mình. Ví dụ, thông lệ hải
quan rất khác nhau tại các cảng nhập cảnh khác nhau.
- Yêu cầu về hiệu suất và bản địa hóa dữ liệu
Lào không có yêu cầu về hiệu suất. Các yêu cầu liên quan đến tuyển dụng lao động
nước ngoài được điều chỉnh bởi Luật Lao động 2014, nhưng trên thực tế, các nhà
đầu tư lớn đã có thể nhận được các nhượng bộ bổ sung của chính phủ đối với việc
sử dụng lao động nước ngoài. Một số doanh nghiệp thuộc sở hữu nước ngoài đã
chỉ trích các quy định lao động vì yêu cầu nghiêm ngặt rằng nhân viên nước ngoài
không được ra nước ngoài trong những tháng đầu tiên cư trú tại Lào.
Lào hiện không có luật hoặc quy định ban hành về các yêu cầu lưu trữ hoặc bản địa
hóa dữ liệu trong nước.
2.3.5. Bảo Vệ Quyền Sở Hữu
- Bất động sản
Năm 2020, chính phủ công bố Luật Đất đai sửa đổi. Mặc dù hạn chế về quyền sở
hữu của người nước ngoài đối với đất đai vẫn không thay đổi, luật sửa đổi cho
phép bất động sản được sở hữu và đầu tư bởi người nước ngoài. Sự thay đổi đáng
kể này trong khung pháp lý dự kiến sẽ thúc đẩy đầu tư và phát triển trong lĩnh vực
bất động sản của Lào.
Ngoài Luật Đất đai, Điều 16 của Luật Khuyến khích Đầu tư 2016 cho phép nhà
đầu tư được sử dụng đất thông qua hình thức cho thuê dài hạn hoặc sang nhượng,
đồng thời cho phép quyền sở hữu hợp đồng thuê và quyền chuyển nhượng cũng
như cải thiện lợi ích từ việc cho thuê. Không cần phải có sự chấp thuận của chính
phủ để chuyển nhượng quyền lợi tài sản, nhưng việc chuyển nhượng phải được
đăng ký và trả phí đăng ký. Theo Báo cáo Môi trường Kinh doanh của Ngân hàng
Thế giới, Lào xếp thứ 88 trong số 190 quốc gia về đăng ký tài sản vào năm 2020.
Theo luật hiện hành, chủ nợ có thể thực thi các quyền bảo đảm đối với con nợ và
khái niệm thế chấp tồn tại. Chính phủ Lào hiện đang tham gia vào một dự án phân
lô và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhưng vẫn khó xác định liệu một
phần tài sản có bị vướng mắc ở Lào hay không. Việc thực thi các khoản thế chấp
rất phức tạp bởi sự bảo vệ pháp lý dành cho những người thế chấp chống lại việc
tịch thu nơi cư trú duy nhất của họ.
Lào quy định quyền lợi được bảo đảm đối với động sản và tài sản không thể di
chuyển theo Luật Giao dịch Bảo đảm năm 2005 và Nghị định hướng dẫn thi hành
năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2013, Cơ quan quản lý tài sản nhà nước
thuộc Bộ Tài chính đã ra mắt Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm (STR) mới,
nhằm mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ
hơn. STR cho phép đăng ký các tài sản lưu động như phương tiện và thiết bị để các
tổ chức tài chính có thể dễ dàng xác minh chúng và được sử dụng làm tài sản thế
chấp cho các khoản vay.
Bên ngoài các khu đô thị, quyền sử dụng đất có thể còn phức tạp hơn. Quyền sở
hữu và quyền sở hữu không rõ ràng, và một số khu vực thực hiện quyền sở hữu
chung.
- Quyền sở hữu trí tuệ
Bảo vệ sở hữu trí tuệ ở Lào còn yếu, nhưng đang dần cải thiện. Dự án Hội nhập
Quốc tế và ASEAN giữa CHDCND Lào và Hoa Kỳ (USAID LUNA II) do USAID
tài trợ đã hỗ trợ các nỗ lực của chính phủ Lào nhằm nâng cao năng lực của chính
phủ trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ và tiến tới các cam kết liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ được cam kết trong khuôn khổ WTO năm 2013 của Lào gói gia
nhập. USAID LUNA II đã phối hợp với Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công
nghệ thiết lập cổng thông tin trực tuyến cung cấp thông tin chi tiết về đăng ký bản
quyền, nhãn hiệu, Chỉ dẫn địa lý và Giống cây trồng. Các cá nhân quan tâm có thể
sử dụng cổng thông tin để hoàn thành các mẫu đơn trực tuyến. Cổng thông tin
chính thức ra mắt vào tháng 2 năm 2019. Ngoài ra, USAID LUNA II đã hỗ trợ kỹ
thuật cho chính phủ Lào trong việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ.
Chính phủ đã tuyên bố giải thể Bộ Khoa học và Công nghệ vào tháng 2 năm 2021.
Do đó, MOIC hiện chịu trách nhiệm cấp bằng sáng chế, bản quyền và nhãn
hiệu. Lào là thành viên của Hệ thống nộp hồ sơ chung ASEAN về bằng sáng chế
nhưng thiếu các thẩm định viên bằng sáng chế có trình độ. Thỏa thuận song
phương về Quyền sở hữu trí tuệ (IPR) giữa Thái Lan và Lào quy định rằng bằng
sáng chế được cấp ở Thái Lan cũng được công nhận ở Lào.
Lào là thành viên của Công ước của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) và
Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp nhưng chưa tham gia Công ước
Berne về Bản quyền.
Năm 2011, Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi toàn diện Luật Sở hữu trí tuệ nhằm
tuân thủ các tiêu chuẩn của WIPO và các tiêu chuẩn về Các khía cạnh liên quan
đến thương mại của Sở hữu trí tuệ (TRIPS). Các sửa đổi của Luật Sở hữu trí tuệ
2011 đã được công bố vào tháng 5 năm 2018. Việc hợp nhất trách nhiệm về quyền
sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ là một bước phát triển tích cực,
nhưng Bộ này thiếu năng lực thực thi.
Lào không được liệt kê trong Báo cáo 301 đặc biệt của USTR hoặc báo cáo Thị
trường khét tiếng.
2.3.6. Lĩnh vực tài chính
- Thị trường vốn và danh mục đầu tư
Lào không có một thị trường vốn phát triển tốt, mặc dù các chính sách của chính
phủ ngày càng hỗ trợ việc hình thành vốn và dòng chảy tự do của các nguồn tài
chính. Sàn giao dịch chứng khoán Lào (LSX) bắt đầu hoạt động vào năm 2011 với
hai cổ phiếu được niêm yết, cả hai đều thuộc sở hữu nhà nước – Banque Pour
l'Commerce Exterieur (BCEL) và chi nhánh phát điện của công ty điện lực,
Electricite du Laos – Generation (EDL-Gen). Năm 2012, chính phủ Lào đã tăng tỷ
lệ cổ phần mà người nước ngoài có thể nắm giữ trên LSX từ 10% lên 20%. Tính
đến tháng 3 năm 2021, có 11 công ty được niêm yết trên LSX.
Các doanh nghiệp báo cáo rằng họ thường không thể đổi đồng kip sang ngoại tệ
thông qua các ngân hàng trung ương hoặc địa phương. Các nhà phân tích cho rằng
những lo ngại về dự trữ đô la có thể đã dẫn đến các vấn đề tạm thời về khả năng
chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Các ngân hàng tư nhân cáo buộc rằng Ngân
hàng Trung ương Lào giữ lại dự trữ đô la. Ngân hàng CHDCND Lào cáo buộc
rằng các ngân hàng tư nhân đã nắm giữ một khoản dự trữ khá lớn và miễn cưỡng
cung cấp ngoại hối cho khách hàng của họ để duy trì mức dự trữ cao bất hợp
lý. Thị trường ngoại hối thắt chặt đã dẫn đến chênh lệch tạm thời 9,1% giữa tỷ giá
tiền tệ chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường chợ đen vào tháng 12 năm 2020
và kể từ năm 2017, đồng kip của Lào đã mất giá so với cả đồng đô la và đồng baht
của Thái Lan.
Các công ty Lào và nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME),
lưu ý rằng thị trường trong nước thiếu tín dụng dài hạn. Các khoản vay có thể hoàn
trả trong hơn 5 năm là rất hiếm và việc lựa chọn các công cụ tín dụng trên thị
trường địa phương bị hạn chế. Cục Thông tin Tín dụng, được phát triển để giúp
bơm thêm tín dụng vào thị trường, vẫn có rất ít thông tin và chưa thành công trong
việc giảm thiểu những lo ngại về rủi ro của người cho vay.
- Hệ thống tiền tệ và ngân hàng
Hệ thống ngân hàng nằm dưới sự giám sát của Ngân hàng CHDCND Lào, ngân
hàng trung ương của quốc gia, và bao gồm hơn 40 ngân hàng, hầu hết là ngân hàng
thương mại. Các ngân hàng tư nhân nước ngoài có thể thành lập chi nhánh tại tất
cả các tỉnh của Lào. ATM đã trở nên phổ biến ở các trung tâm đô thị. Hỗ trợ kỹ
thuật cho lĩnh vực tài chính của Lào đã dẫn đến một số cải cách và cải thiện đáng
kể đối với cơ chế quản lý của Lào về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố,
nhưng năng lực tổng thể trong cơ cấu quản trị tài chính vẫn còn kém.
Hệ thống ngân hàng bị chi phối bởi các ngân hàng lớn, thuộc sở hữu của chính
phủ. Sức khỏe của ngành ngân hàng rất khó xác định do thiếu dữ liệu đáng tin cậy,
mặc dù các ngân hàng được cho là hoạt động kém hiệu quả và có nhiều lo ngại về
nợ khó đòi và nợ xấu vẫn chưa được nhà nước giải quyết triệt để. điều hành các
ngân hàng, đặc biệt. IMF và các tổ chức khác đã khuyến khích Ngân hàng Trung
ương Lào tạo điều kiện tái cấp vốn cho các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước để
cải thiện khả năng phục hồi của ngành.
Mặc dù rất khó tìm thấy dữ liệu công khai, nhưng các khoản nợ xấu được cho là
mối quan tâm lớn trong lĩnh vực tài chính, một phần là do tốc độ tăng trưởng
nhanh của hoạt động cho vay tư nhân trong nhiều năm. Khó khăn tài chính của
chính phủ trong năm 2013 và 2014 đã dẫn đến việc không thanh toán cho các dự
án cơ sở hạ tầng của chính phủ. Đến lượt các công ty xây dựng thực hiện dự án
không trả được nợ vay vốn sử dụng vốn đầu tư xây dựng. Nhiều nhà phân tích tin
rằng những khó khăn tài chính của chính phủ vẫn chưa ảnh hưởng đầy đủ đến nền
kinh tế. Trong những năm gần đây, Lào được dự đoán sẽ tiếp tục chịu mức thâm
hụt ngân sách 7,6%, cùng với nợ công hoặc nợ công tăng ước tính lên tới 69%
GDP, làm tăng thêm mối lo ngại về triển vọng tài khóa của Lào.
- Ngoại hối và Chuyển tiền
Ngoại hối
Không có hạn chế chính thức, được công bố về chuyển đổi ngoại hối, mặc dù các
hạn chế đã được báo cáo trước đó và do thị trường cho đồng kíp Lào tương đối nhỏ
nên đồng tiền này hiếm khi được chuyển đổi bên ngoài khu vực trực tiếp. Lào liên
tục duy trì mức dự trữ ngoại hối thấp, ước tính chỉ đủ để trang trải tổng giá trị nhập
khẩu trong 1,1 tháng. Bộ đệm dự trữ dự kiến sẽ duy trì ở mức tương đối thấp do
tăng trưởng xuất khẩu yếu về cơ cấu trong lĩnh vực phi tài nguyên và các khoản
thanh toán nợ. Dự trữ sụt giảm là do tiền gửi của chính phủ bị cắt giảm chủ yếu để
thanh toán nợ nước ngoài, một số can thiệp vào thị trường ngoại hối để quản lý sự
biến động của tiền tệ (mặc dù có một loại tiền tệ linh hoạt hơn) và tài trợ cho thâm
hụt tài khoản vãng lai đang tiếp diễn.
Để tạo thuận lợi cho các giao dịch kinh doanh, các nhà đầu tư nước ngoài thường
mở tài khoản ngân hàng thương mại bằng cả nội tệ và ngoại tệ chuyển đổi tại các
ngân hàng trong và ngoài nước ở Lào. Luật kế toán doanh nghiệp không hạn chế
các nhà đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận sau thuế, thu nhập từ chuyển giao
công nghệ, vốn ban đầu, tiền lãi, tiền lương và tiền lương hoặc các khoản chuyển
tiền khác về nước sở tại của công ty hoặc nước thứ ba với điều kiện họ phải được
chính phủ Lào chấp thuận. Doanh nghiệp nước ngoài phải báo cáo kết quả hoạt
động hàng năm và nộp báo cáo tài chính hàng năm cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(MPI).
Theo một báo cáo gần đây của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Lào (NIER),
nhu cầu ngày càng tăng đối với USD và đồng baht Thái Lan để nhập khẩu thiết bị
vốn cho các dự án và hàng tiêu dùng, cùng với nhu cầu ngoại tệ ngày càng tăng để
trả các khoản nợ nước ngoài. dẫn đến tỷ giá hối đoái giảm vào năm 2020. Tỷ giá
tham chiếu danh nghĩa chính thức của đồng kip/đô la Mỹ giảm 6,23% vào năm
2020, trong khi tỷ giá hối đoái kip/baht giảm 8,15%.
- Chính sách chuyển tiền
Gần đây không có thay đổi nào về luật hoặc chính sách chuyển tiền ở Lào. Về mặt
chính thức, tất cả các khoản chuyển tiền ra nước ngoài, chuyển tiền vào Lào, các
khoản vay nước ngoài và các khoản thanh toán không bằng đồng kíp Lào phải
được BOL chấp thuận. Trên thực tế, nhiều khoản kiều hối được hiểu là chảy vào
Lào một cách không chính thức và tương đối dễ dàng, từ một lực lượng lao động
khá lớn của Lào có trụ sở tại Thái Lan. Các quy tắc liên quan đến chuyển tiền có
thể mơ hồ và thông lệ chính thức được báo cáo là không nhất quán.
2.3.7. Tham nhũng
Tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng ở Lào ảnh hưởng đến tất cả các cấp của
nền kinh tế. Chính phủ Lào đã xây dựng một số luật chống tham nhũng nhưng việc
thực thi vẫn còn yếu. Khi nhậm chức vào đầu năm 2016, Thủ tướng Thongloun
Sisoulith khi đó đã tập trung vào các nỗ lực chống tham nhũng của chính
phủ. Truyền thông Lào và Quốc hội hiện nay thường xuyên đưa tin về các thách
thức tham nhũng và việc sa thải hoặc kỷ luật các quan chức tham nhũng. Tháng 9
năm 2009, Lào đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Vào
tháng 3 năm 2021, Thongloun được bổ nhiệm làm Chủ tịch nước CHDCND
Lào. Ông và Thủ tướng mới được bổ nhiệm Phankham Viphavanh đã cho biết họ
sẽ tiếp tục ưu tiên quản trị tốt trong chính quyền mới của mình.
Các công ty trong nước và quốc tế đã nhiều lần xác định tham nhũng là một vấn đề
trong môi trường kinh doanh và là yếu tố cản trở lớn đối với các công ty quốc tế
tìm hiểu các hoạt động đầu tư hoặc kinh doanh tại thị trường địa phương.
Cơ quan Thanh tra và Chống tham nhũng Nhà nước Lào (SIAA), một cơ quan độc
lập, cấp bộ, chịu trách nhiệm phân tích tham nhũng ở cấp quốc gia và đóng vai trò
là văn phòng trung tâm để thu thập thông tin chi tiết và bằng chứng về các nghi vấn
tham nhũng. Ngoài ra, mỗi bộ và tỉnh có một văn phòng SIAA độc lập với tổ chức
nơi nó được đặt. Các văn phòng SIAA này đưa vào hệ thống trung tâm của SIAA.
Theo luật pháp Lào, cả đưa và nhận hối lộ đều là hành vi phạm tội có thể bị phạt
tiền và/hoặc phạt tù. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ngoài thường cho rằng
tham nhũng là một trở ngại khi hoạt động tại Lào. Thường được coi là một khoản
phí cho dịch vụ khẩn cấp, các quan chức thường nhận hối lộ với mục đích phê
duyệt hoặc giải quyết các đơn đăng ký. Lào không phải là một bên ký kết Công
ước OECD về chống hối lộ.
Năm 2014, chế độ kê khai tài sản có hiệu lực đối với các quan chức chính phủ,
trong đó yêu cầu họ phải kê khai thu nhập, tài sản và các khoản nợ của bản thân và
các thành viên trong gia đình họ; điều này đã được tăng cường hơn nữa vào năm
2017 và 2018. Các quan chức hiện được yêu cầu kê khai bất kỳ tài sản nào có giá
trị trên 2.500 USD, bao gồm đất đai, công trình kiến trúc, phương tiện và thiết bị,
cũng như tiền mặt, vàng và các công cụ tài chính. Theo báo cáo, những tuyên bố
này được chính phủ giữ kín và bảo mật. Nếu một quan chức có khiếu nại về tham
nhũng, SIAA có thể so sánh bản kê khai được niêm phong với tài sản hiện tại của
quan chức đó. Cho dù chương trình này đã hoạt động hay đang hoạt động vẫn chưa
rõ ràng.
2.3.8. Môi trường chính trị và an ninh
Lào nói chung là một quốc gia hòa bình và ổn định về chính trị. Vào năm 2021,
Lào một lần nữa có sự thay đổi chính quyền có trật tự theo hệ thống độc đảng của
mình. Nguy cơ bạo lực chính trị nhắm vào các doanh nghiệp hoặc doanh nhân
nước ngoài là thấp. Gần như không có bạo lực chính trị trong thập kỷ qua và sự ổn
định chính trị của Lào là một đặc điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
2.3.9. Chính sách và Thông lệ Lao động
Mặc dù Lào có dân số trẻ, khoảng 62% trong số đó ở độ tuổi từ 30 trở xuống,
nhưng thị trường lao động vẫn khan hiếm khi các nhà tuyển dụng cho biết tình
trạng thiếu lao động ở tất cả các cấp, đặc biệt là lao động có tay nghề, phản ánh
trình độ học vấn tương đối thấp ở Lào. Chính phủ ban hành luật lao động mới vào
cuối năm 2014 đã thiết lập nhiều biện pháp bảo vệ mới cho người lao động. Nó
cũng bao gồm các điều khoản nhằm nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động Lào
và thiết lập các điều khoản chặt chẽ hơn đối với việc thuê lao động nước ngoài.
Luật mới cũng cho phép các nhóm công nhân độc lập bầu ra những người lãnh đạo
của riêng họ và đại diện cho lợi ích của họ và thay mặt họ tham gia thương lượng
tập thể. Liên đoàn Công đoàn Lào (LFTU), liên kết với Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào cầm quyền, là đại diện chính của người lao động và đại diện cho người lao
động trong các quy trình ba bên. Quốc hội Lào đã thông qua Luật Công đoàn mới
vào tháng 11 năm 2017 nhưng tác động của luật mới đối với thị trường lao động và
các nhà đầu tư nước ngoài vẫn chưa được xác định. Không có bản dịch tiếng Anh
chính thức nào của Luật Công đoàn cuối cùng được công bố rộng rãi.
Lao động trẻ em bị đặt ngoài vòng pháp luật trừ những điều kiện rất nghiêm ngặt,
hạn chế nhằm đảm bảo không ảnh hưởng đến việc học hành hoặc sức khỏe thể chất
của trẻ. Luật năm 2014 cấm một số hình thức phân biệt đối xử trong việc làm và
đưa ra các tiêu chuẩn về giờ làm việc. Mức lương tối thiểu được thiết lập theo quy
định riêng, và trong những năm gần đây, mức lương này đã tăng hàng năm sau khi
đàm phán ba bên giữa LFTU, Bộ Lao động và Phúc lợi Xã hội và Phòng Thương
mại và Công nghiệp Quốc gia Lào. Luật năm 2014 cũng thiết lập các tiêu chuẩn về
an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, nhưng việc kiểm tra vẫn chưa nhất quán. Một dự
án của Tổ chức Lao động Quốc tế được thực hiện vào năm 2015 và 2016 đã đào
tạo các thanh tra lao động về các thông lệ cơ bản, đặc biệt tập trung vào ngành may
mặc.
Các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nhượng quyền như một phương tiện đầu tư
được cho là có thể thương lượng tỷ lệ lao động nước ngoài sẽ được sử dụng trong
đầu tư. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn lao động như mức lương tối thiểu và các tiêu
chuẩn về sức khỏe và an toàn nên được áp dụng thống nhất bất kể phương tiện đầu
tư hay việc sử dụng đặc khu kinh tế. Năm 2018, mức lương tối thiểu là khoảng 130
USD mỗi tháng.
Luật lao động mới cho phép đình công nếu một số bước giải quyết tranh chấp
không thành công; tuy nhiên, không có ghi nhận đình công nào xảy ra ở Lào. Văn
hóa không thích đối đầu công khai và tình trạng thiếu lao động nói chung tiếp tục
khiến các cuộc đình công rất khó xảy ra.
Hợp đồng lao động là bắt buộc theo luật lao động, nhưng hiếm khi được sử dụng
trong thực tế. Tháng 2 năm 2018, chính phủ ban hành nghị định mới về giải quyết
tranh chấp lao động.
Thương lượng tập thể thường do đại diện của Liên đoàn Công đoàn Lào đảm nhận,
mặc dù luật lao động 2014 cũng cung cấp cho đại diện được bầu của các nhóm
người lao động độc lập khả năng thương lượng thỏa thuận thương lượng tập thể
của riêng họ với người sử dụng lao động. Nông nghiệp cơ bản và tự cung tự cấp,
doanh nghiệp phi chính thức và doanh nghiệp gia đình nhỏ chiếm phần lớn việc
làm, do đó thương lượng tập thể tương đối hiếm trong nền kinh tế nói chung và
không quen thuộc với nhiều người.

2.4. Đánh giá thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp Việt
Nam trong đầu tư tại Lào
2.4.1. Thuận lợi:
- Hai nước có quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt. Do đó Chính phủ Lào rất ủng
hộ và ưu tiên các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Lào.
- Việt Nam và Lào gần gũi về địa lý, do đó hoạt động trao đổi về kinh tế cũng như
đi lại, xuất nhập khẩu hàng hóa, lao động giữa 2 nước rất thuận lợi.
- Đất nước Lào có nhiều tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác
đầu tư như: thủy điện, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, trồng cây công
nghiệp, chế biến nông lâm sản...
- Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam rải rác ở các miền của Lào, hỗ trợ
doanh nghiệp khi gặp khó khăn.
2.4.2. Khó khăn:
Nhìn chung, hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của Lào đang trong quá trình
sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất, thiếu minh bạch và
khó tiếp cận. Thêm vào đó, sự phối hợp giữa các ngành, giữa Trung ương và địa
phương chưa linh hoạt, đồng bộ làm ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách. Nhìn
chung, trao đổi về việc đầu tư ban đầu giữa doanh nghiệp và các cơ quan có thẩm
quyền của Lào rất thuận lợi nhưng khi triển khai, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
về thủ tục hành chính, quy hoạch đất đai, sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính
sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính
sách của nhà nước. Đây là khó khăn cơ bản nhất trong hoạt động đầu tư tại Lào. Cụ
thể:
- Về đất đai: Tiến độ giao đất cho các dự án trồng cao su chậm, khó khăn cho việc
lập kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp, công tác đền bù giải phóng mặt bằng thiếu
những quy định thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tính thống nhất về đất
đai chưa cao và chưa có quy hoạch rõ ràng về vùng dành cho đất trồng cây công
nghiệp, đất rừng, đất ở. Theo quy định phân cấp về đất đai, đất với diện tích trên
100ha do trung ương cấp phép, dưới 100ha do địa phương cấp phép. Khi tiếp xúc
với nhà đầu tư, các tỉnh thường cam kết dành đất trên 100ha để làm nông nghiệp,
nhưng khi giao thực tế, chỉ giao thành từng đợt 100ha, dẫn tới khả năng chồng lấn
cao, đặc biệt khi dự án vì lý do nào đó triển khai không đúng tiến độ. Hiện nay quỹ
đất để trồng cao su, cây công nghiệp tại Lào không còn nhiều trong khi có
nhiều doanh nghiệp từ Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan đều đang muốn đầu tư
sang Lào để trồng cao su, cây công nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng các doanh
nghiệp nước ngoài nói chung và thậm chí ngay trong cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư sang Lào đang tranh giành đất tại Lào để trồng cao su.
- Về lao động: lực lượng lao động tại Lào rất hạn chế, trình độ chuyên môn thấp,
không đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất
lượng. Do đó, doanh nghiệp bắt buộc phải đưa lao động từ Việt Nam sang với số
lượng lớn trong khi lại bị giới hạn về số lao động nước ngoài trong các doanh
nghiệp không quá 10% theo Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài của Lào. Mặt
khác, doanh nghiệp phải đưa các lao động người Lào về Việt Nam để đào tạo. Cả
hai cách này đều đẩy chi phí lên cao.
- Về thuế và các loại phí: doanh nghiệp phải đóng nhiều loại thuế và phí như thuế
lương thực, thực phẩm, thuế bảo trì đường bộ, thuế thu nhập cá nhân (10% trên
tổng thu nhập, không quy định mức thu nhập phải nộp thuế), thuế tài nguyên, chi
phí làm thẻ lao động, thẻ lưu trú, nhập khẩu lao động.
- Về ngôn ngữ: mặc dù nhiều người Việt Nam hiện đang sinh sống và làm việc tại
Lào nhưng những người hiểu biết pháp luật về đầu tư của Lào, đủ trình độ lập hồ
sơ dự án bằng tiếng Lào lại không nhiều. Chính sách, văn bản quy phạm pháp luật
không dễ tiếp cận, phải mất thời gian tìm kiếm, dịch sang tiếng Việt cũng là một
trong những cản trở hoạt động đầu tư sang Lào của doanh nghiệp Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh hiệu quả hoạt động đầu tư
3.1 Giải pháp vĩ mô
3.1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài.
Đầu tư ra nước ngoài vẫn là lĩnh vực mới mẻ đối với doanh nghiệp Việt Nam. Do
vậy cần có một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện cho chủ đầu tư
dẽ dàng đầu tư ra nước ngoài chúng ta cần tiến hành hoàn chỉnh các văn bản qui
phạm pháp luật. Do đều kiện tình hình có nhiều thay đổi, nhiều điểm trong nghị
định đầu tư không phù hợp, cản trở hoạt động đầu tư> vì vậy cần nhanh chóng sửa
đổi nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện, cụ thể: Mở rộng phạm vi điều
chỉnh của Nghị định cho phép cho các doanh nghiệp Việt Nam liên doanh liên
doanh với các nước khác để nâng cao năng lực tài chính, công nghệ… Nới rộng
quy mô cho phép đầu tư ra nước ngoài mà không cần phải xin ý kiến của Thủ
Tướng Chính Phủ để các doanh nghiệp phát huy được năng lực tài chính cũng như
khả năng huy động vốn của mình. Bên cạnh đó cần phải tiến hành xây dựng các
văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài và thực hiện một số
biện pháp sau:
• Xây dựng chế độ chuyển tiền đồng Việt Nam sang Kíp Lào và ngược lại.
• Xây dựng các quy chế hướng dẫn cụ thể, chi tiết chuyển giao công nghê ra nước
ngoài.
• Xây dựng các chế tài qui định cụ thể chế độ báo cáo tài chính của các doanh
nghiệp, chế độ kiểm tra, đánh giá cuả dự án đầu tư tại nước ngoài.
• Trong quá trình ban hành trong các văn bản pháp luật đặc biệt cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các ngảnh, địa phương để tránh các sai sót, chồng chẻo trái ngược
nhau gây khó khăn cho các nhà đầu tư.
• Tiến hành thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát để đánh giá hiệu quả, những
vướng mắc trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài để kịp thới điều chỉnh các văn
bản quy phạm một cách phù hợp.
• Cải cách các thủ tục hành chínhtrong thực hiện cấp phép đầu tư ra nước ngoài.
• Hệ thống pháp luật chính là cơ sở ban đầu hết sức quan trong làm tiền đềcho
doanh nghiệp có nhửng quyết định đầu tư nước ngoài. Một hệ thống luật pháp về
đầu tư ra nước ngoài thông thoáng, ưu đãi sẽ khuyến khích được các doanh nghiệp
tích cực tham gia vào quá trình đầu tư quốc tế, nâng cao năng lực cũng như vị thế
của doanh nghiệp.
3.1.2 Đơn giản hóa thủ tục đăng ký thẩm định và cấp phép đầu tư
Theo đánh giá hiện nay thủ tục đăng ký thẩm định vá cấp phép đầu tư đang là vấn
đề gây bức xúc với nhiều doanh nghiệp, làm chậm hoặc lỡ mất cơ hội kinh doanh
của doanh nghiệp. Do vậy, cần đưa ra các biện pháp để các thủ tục này được tiến
hành nhanh chóng, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
• Trước hết, cần mở rộng phân cấp cấp phép cho dự án đầu tư ra nước ngoài, giao
cho địa phương thẩm quyền cấp phép đầu tư ra nước ngoài đặc biệt là trong tương
lai khi khối lượng vốn cũng như số lượng vốn đấu tư ra nước ngoài tiếp tục gia
tăng.
• Thứ hai, tiến hành điều chỉnh quy trình thẩm định, giao công việc vế chung một
đầu mối xem xét, cấp phép không phải qua thẩm định, xin ý kiến từ nhiều cơ quan
chức năng theo cơ chế chịu trách nhiệm tập thể như hiện nay. Trên cơ sở đăng ký
cấp phép, cơ quan này sẽ quyết định cấp phép mà không phải lấy ý kiến từ các ban
ngành địa phương, những dự án lớn, quan trọng chỉ lấy ý kiến một nơi là cơ quan
ngân hàng, hoặc cơ quan tài chính.
• Thứ ba, tiến hành thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát hệ thống các loại giấy
phép, nội dung trong hồ sơ dự án, để xóa bỏ các loại giấy tờ không cần thiết nhằm
tiết liệm thời gian và chi phí doanh nghiệp. Các biện pháp trên nếu được thực thi,
thời gian thẩm định và cấp phép đầu tư sẽ rút ngắn lại không những giúp doanh
nghiệp tận dụng được thời cơ kinh doanh mà còn tạo tâm lý an tâm cho doanh
nghiệp.
3.1.3 Xây dựng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện đầu tư.
Các doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ thiết thực từ phía nhà nước từ phía nhà nước
khi tiến hành đầu tư sang Lào. Do vậy, nhà nước cần phải xây dựng các chính sách
ưu đãi giúp đỡ doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có thể tiến hành sản
xuất kinh doanh cũng như thu lợi nhuận, cụ thể:
• Hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp để đầu tư sang Lào.
• Nghiên cứu, ban hành danh mục các lĩnh vực đầu tư sang Lào có hiệu quả, được
ưu đãi, khuyến khích như:
- Dự án sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Dự án nông lâm nghiệp, sản xuất chế biến các sản phẩm từ nông lâm nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp.
- Dự án công nghiệp chế biến, áp dụng công nghệ hiện đại, dự án nghiên cứu,
phân tích khoa học, dự án bảo vệ môi trường.
- Dự án liện quan đến phát triển nguồn nhân lực, tay nghề lao động và bảo vệ sức
khỏe con người.
- Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
• Xây dựng các chính sách bảo lãnh, hỗ trợ của chính phủ về vay vốn đầu tư, vầ
các loại rùi ro kinh doanh và đầu tư tại Lào.
• Xây dựng các chính sách khuyến khích ngân hàng thương mại mở chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Lào để hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ thanh toán,
chuyển tiền phục vụ hoạt động đầu tư.
• Giao nhiệm vụ cho đại sứ quán Việt Nam tại Lào thực hiện các công việc hỗ trợ
cung cấp visa, hoàn thành các thủ tục đăng ký đầu tư tại Lào…để doanh nghiệp
Việt Nam có thể hoạt động ổn định, lâu dài, và được bảo vệ quyền lợi, lợi ích trong
các trường hợp có tranh chấp, khó khăn.
• Thường xuyên tổ chức trao đổi, tiếp xúc với chi1ng phủ Lào kí các chương trình,
hiệp định tạo ưu đãi cho Việt Nam trong quá trình đầu tư sang Lào về các mặt như:
- Hỗ trợ trong thủ tục xuất nhập cảnh đối với các nhà đầu tư và lao động Việt Nam,
tiến tới bãi bỏ thủ thị thực xuất nhập cảnh.
- Giảm bớt thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu, giảm thuế cho hàng
hóa của các dự án do Việt Nam sản xuất tại Lào xuất khẩu trở lại Việt Nam phục
vụ nhu cầu trong nước phù hợp với công thức đầu tư chung của Việt Nam sang
Lào là 3+2, bao gồm vốn, công nghệ và thị trường của Việt Nam với tài nguyên
thiên nhiên và lao động của Lào.
- Hỗ trợ giảm thuế sử dụng đất tại Lào vì hiện giờ đây là khoản phí khá cao.
- Đơn giản hóa các quy định về sử dụng vật tư, thiết bị, lao động cũng như vận
chuyển các thiết bị này qua biên giới phục vụ việc triển khai thực hiện dự án một
cách hiệu quả, với chính sách ưu đãi nhất. Tiến hành rà soát, đánh giá lại các quy
chế, thỏa thuận hợp tác đã ban hành, tiến hành điều chỉnh, bồ sung cho phù hợp với
điều kiện hợp tác mới, khắc phục những vướng mắc nảy sinh. Trong hoàn cảnh đầu
tư ra nươc ngoài còn là một hình thức mới mẻ, và đầu tư sang Lào là quốc gia được
khuyến khích, các chính sách hỗ trợ sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng thích ứng
với môi trường đầu tư tại Lào, thuận lợi trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh
doanh.
3.1.4 Tăng cường tổ chức công tác xúc tiến đầu tư giữa hai nước
Khi tiến hành đầu tư bất kỳ một thị trường nào, công việc cần quan tâm hàng đấu
đó là phân tích, đánh giá thị trường. Thông qua công tác này chúng tôi sẽ xác địng
được ngành, lvực hoạt động đầu tư có thể mang lại hiệu quả. Để tiến hành tốt công
việc này chúng tôi cần thực hiện tốt một số công việc. • Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thông tin về văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, lĩnh vực về đầu tư ra
nước ngoài, thông tin về lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư tại Lào, thông tin
về hệ thống hiệp định ký kết hàng năm giửa hai nước. Tiến hành thành lập và đưa
vào hoạt động các trang web riêng thông tin về hoạt động đầu tư sang Lào.
• Tăng cường nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội, thị trường, chính sách đầu tư tại
Lào để có thể đưa ra các hường dẫn cụ thể định hướng các doanh nghiệp đầu tư tại
Lào vào các lĩnh vực có hiệu quả, kịp thời điều chỉnh hoạt động của dự án phù hợp
với luật lệ của Lào cũng như thông lệ quốc tế thông qua hoạt động của cơ quan đại
diện ngoại giao thương mại của Lào.
• Tiến hành xây dựng ngân hàng thông qua liên quan đến đầu tư tại Lào bao gồm
các thông tin cơ bản của đất nước Lào, các vấn đề pháp lý của Lào…. để hỗ trợ cho
doanh nghiệp làm cơ sở ban đầu cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào Lào có cơ
sở tham khảo.
• Thường xuyên có các chương trình hội thảo, các chương trình đào tạo, hướng
dẫn thủ tục, quy trình đầu tư sang Lào, giới thiệu, quảng bá các cơ hội đầu tư tại
Lào để các doanh nghiệp có thể tham khảo, lực chọn lĩnh vực dầu tư phù hợp.
• Nâng cao chất lượng của hoạt động tư vấn đầu tư bằng cách hình thành nhiều tổ
chức tư vấn đầu tư có đủ năng lực, hoạt động cạch tranh nhằm nâng cao chất lượng
dịch vụ tư vấn phục vụ tốt yêu cầu của nhà đầu tư với chi phí hợp lý.
• Mở rộng hệ thống tư vấn không chỉ đơn thuần hướng dẫn thủ tục đầu tư sang
Lào…mà còn thực hiện dịch vụ tư vấn hoạt động tài chính, tư vấn kĩ thuật, tư vấn
giải quyết các tranh chấp trong hoạt động đầu tư. Làm tốt công tác xúc tiến đầu tư,
nhả nước sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong tim kiếm các cơ hội đầu tư có chất
lượng cao, có được những kiến thức chung trong đầu tư ra nước ngoài cũng như
sang Lào.
3.1.5 Tăng cường mối quan hệ đặc biệt Việt- Lào
Mối quan hệ Việt - Lào là cơ sở tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư của Việt Nam
sang Lào được hưởng các ữu đãi hơn so vớ các quốc gia khác. Do vậy, tăng cường
quan hệ Việt - Lào chính là tạo điều kiện ưu đãi ngày càng nhiều hơn cho các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại Lào. Một số công tác cần tiến hành nhằm
thúc đẩy quan hệ giữa hao nước trong lĩnh vực đầu tư:
• Thường xuyên tổ chức ác cuộc gặp gỡ, trao đổi giũa hai chính phủ, đánh giá kết
quả hoạt động đầu tư, chỉ ra những vướng mắc trong hoạt động đầu tư. Từ đó tiến
đến đàm phán, ký kết các hiệp định điều chỉnh, sửa đổi các điều khoản hợp tác đầu
tư theo hướng ngày càng thông thoáng, ưu đãi hơn. Tiến hành viện trợ cho Lào
trong một số ngành và lĩnh vực nhằm mở đường cho hoạt động đầu tư trực tiếp
sang Lào như: lĩnh vực cơ sở hạ tầng phục vụ việc lưu thông, vận chuyển hàng
hóa, lĩnh vực đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu lao
động có chất lượng cao của các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang Lào.

3.2 Giải pháp vi mô


3.2.1 Tăng cường tìm hiểu môi trường đầu tư của Lào
Muốn đầu tư có hiệu quả, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm cơ hội cũng
như tìm hiểu môi trường vĩ mô, vi mô của Lào, từ đó thấy được nhữngthuận lợi và
khó khăn cũng như khả nawngthaam nhập thị trường của doanh nghiệp mình. Như
vậy mới có thể lựa chọn được lĩnh vực, địa bàn đầu tư phù hợp. Muốn làm được
điều đó, doanh nghiệp cần phải:
- Chủ động tìm kiếm thông tin qua các trang Web, các cơ quan đã có kinh trong
đầu tư tại Lào.
- Thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường, liên tục cập nhật các thông tin
về hệ thống luật pháp, các thay đổi trong cơ chế, chính sách, hoạt động của thị
trường lao động, thị trường tài chính tại Lào.
- Tiến hành điều tra thị trường Lào một cách trực tiếp thông qua các chuyến đi thực
tế tại Lào.
- Thường xuyên tham gia các buổi hội thảo xuacs tiến đầu tư của Lào, các chương
trình tập huấn về đầu tư ra nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức.
3.2.2 Hoàn thiện năng lực quản lí dự án
Để thực hiện dự án một cách có hiệu quả, các doanh nghiệp phải từng bước nâng
cao năng lực quản lí dự án tên tất cả các khâu: quản lí thời gian, tiến độ chi phí,
chất lượng… Muốn đạt được điều đó, doanh nghiệp cần tiến hành các biện pháp
như:
- Lập kế hoạch chi tiết cụ thể cho các dự án, đảm bảo các nội dung trong dự án
được thực hiện một cách đầy đủ.
- Thường xuyên tổ chức công tác kiểm tra, giám sát thực hiện dự án.
- Nâng cao năng lực quản lí dự án mới.
- Thường xuyên tổ chức học hỏi kinh nghiệm, mô hình quản lí dự án của các doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
3.2.3 Tăng cường năng lực tài chính và khoa học công nghệ
Đầu tư sang Lào chúng ta không thể góp vốn hoặc mang những tài sản như: đất
đai, nhà xưởng để góp vốn. Mặt khác Lào lại lad một quốc gia có nền kinh tế kém
phát triển, thiếu vốn trầm trọng cũng như khả năng về công nghệ hết sức hạn chế.
Đầu tư sang Lào, nhà đầu tư cần phải chủ động, tăng cường năng lực tài chính sẽ
giúp các dự án được tiến hành suôn sẻ, thuận lợi, đúng theo tiến độ. Do vậy các
doanh nghiệp cần phải:
- Lựa chọn kĩ càng cơ hội đầu tư, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để vốn đầu tư
cho một dự án không thiếu hụt chậm trễ.
- Thực thiện các biện pháp huy động vốn thông qua các trung gian tài chính như
ngân hàng, qua thị trường vốn, hoặc kêu gọi các đối tác cùng hợp tác đầu tư sang
Lào.
- Quản lí có hiệu quả nguồn tài chính của doanh nghiệp, từng bước gia tăng qui mô
vốn thông qua nguồn lợi nhuận trích lại.
Các doanh nghiệp cần phải chủ động trong các dây chuyền sản xuất, có những cải
tiến về khoa học công nghệ phù hợp với nước sở tại. Cụ thể là:
- Không ngừng học hỏi, cập nhật những tiến bộ về khoa học công nghệ.
- Có chính sách thu hút, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí công nghệ cho doanh
nghiệp.
- Đào tạo nguồn nhân lực tại Lào, những người tham gia trực tiếp vào sản xuất.
- Thường xuyên nghiên cứu đổi mới công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất
cũng như lao động Lào, đáp ứng được chất lượng mẫu mã sản phẩm theo yêu cầu
của thị trường tiêu thụ.
3.2.4 Xây dựng quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào còn đơn thương độc mã mà chưa có
sự phối hợp giúp đỡ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần tạo
mối quan hệ hợp tác, tổ chức các hiệp hội kinh doanh theo từng lĩnh vực, lãnh thổ.
Các hiệp hội phải được tổ chức hoạt động một cách khoa học mới có thê lien kết
các doanh nghiệp lại với nhau tạo nên một khối vững mạnh và đoàn kết, nhằm
nâng cao sức cạnh tranh cũng như vị thế của doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tại
Lào mà còn trên trường quốc tế.
KẾT LUẬN.
Trong tiến trình hội nhập, đầu tư sang Lào nói riêng và đầu tư ra nước ngoài nói
chung là một hướng đi đúng đắn đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhằm từng
bước nâng cao hình ảnh cũng như vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường
quốc tế. Trong quá trình đầu tư sang Lào các doanh nghiệp Việt Nam đã gặt hái
được không ít thành công và trở thành một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Lào
Tuy vậy việc tiến hành đầu tư đã gặp không ít vướng mắc từ phía cơ chế chính
sách cũng như từ chính năng lực của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực nhận thức
về vai trò của nhà đầu tư cũng như thực hiện tốt các văn bản qui định, các thỏa
thuận hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào là cơ sở để các doanh nghiệp Việt Nam
có được một môi trường ban đầu thuận lợi tiến hành đầu tư tại Lào. Các doanh
nghiệp Việt Nam cần năng động, linh hoạt hơn nữa mới có thể hoạt động kinh
doanh có hiệu quả trong môi trường đầu tư quốc tế.

You might also like