Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

ĐỀ TÀI 1: Luật cộng đồng chính trị-an ninh ASEAN

I. Giới thiệu chung về Cộng đồng Chính trị - An


ninh ASEAN (APSC)
1. Quá trình hình thành trụ cột Cộng đồng chính trị-an
ninh ASEAN
ASEAN được thành lập với mục tiêu được đề ra trong Tuyên bố Băng cốc 1967
là tăng cường hợp tác kinh trrs, văn hóa- xã hội giữa các nước thành viên.

Trong thập kỷ đầu tồn tại:

Tuyên bố về Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN) năm 1971 có
thể nói thành tựu quan trọng nhất của ASEAN trong giai đoạn này.

+ giúp ngăn chặn sự bùng nổ xung đột, cải thiện và tăng cường quan hệ
giữa các nước thành viên
+ tạo dựng ý thức và thói quen về hợp tác khu vực
Tháng 2/1976, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất ở Bali đã diễn ra cùng
với việc ký hai văn kiện là Tuyên bố Hòa hợp ASEAN và Hiệp ước Thân thiện
ĐNA (TAC) và Hợp tác ở

-> Chính thức khẳng định sự hợp tác chính trị của ASEAN trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế và chuyên ngành

Tháng 1/1992 Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Xin-ga-po đánh dấu giai
đoạn phát triển mới của ASEAN lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm, nhưng đồng
thời cũng mở rộng sự hợp tác của ASEAN sang lĩnh vực an ninh

Tuyên bố Cấp cao Xin-ga-po khẳng định “ ASEAN sẽ tìm kiếm các hình thức
cho các nước thành viên tham gia vào lĩnh vực hợp tác về các vấn đề an ninh.”

Trong thập kỷ 90, ASEAN đã đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực chính trị- an ninh
và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong đó có việc thành lập và thúc đẩy
Diễn đàn Khu vực ASEAN(ARF), ký Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí
hạt nhân (SEANWFZ), ra tuyên bố Manila về tình hình biển Đông (1995), tăng
cường sự phối hợp giữa ASEAN với LHQ về vấn đề chính trị- an ninh…

Bước sang thế kỷ 21, và đặc biệt từ sau sự kiện 11/9. ASEAN phải đối mặt với
những thách thức an ninh ngày càng gia tăng cả truyền thống và phi truyền
thống.

vì vậy các nước ASEAN đã nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác chính trị và an
ninh để ứng phó hiệu quả với các thách thức, duy trì môi trường khu vực hòa
bình, ổn định thuận lợi cho tăng cường liên kết kinh tế và hợp tác khu vực…

Sáng kiến thành lập Cộng đồng An ninh ASEAN đã ra đời trong bối cảnh này.

Tại Hội nghị các Quan chức cao cấp (SOM) ASEAN tháng 4/2003 biến
ASEAN từ cơ chế “ quản lý xung đột” sang “ giải quyết xung đột” bằng việc
phát huy các thể chế đã có như Hội đồng Tối cao TAC, thức đẩy” bản sắc tập
thể”, xây dựng” ý thức cộng đồng” và mỗi thành viên là bộ phận trong gia đình
lớn ASEAN.

theo đó, các nước ASEAN đã cùng bàn thảo, điều chỉnh và đi đến thống nhất về
xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN, cùng với Cộng đồng kinh tế ASEAN và
Cộng đồng Văn hóa- xã hội ASEAN, tạo thành ba trụ cột của cộng đồng
ASEAN.
Tuyên bố hòa hợp ASEAN II ( tuyên bố Bali II) được các Lãnh đạo ASEAN ký
tại cấp cao ASEAN lần thứ 9( tháng 10/2003), xác định mục tiêu xây dựng
Cộng đồng ASEAN vào năm 2020, -> Cộng đồng An ninh là một trụ cột.

Tuyên bố Bali II khẳng định Cộng đồng An ninh ASEAN(ASC) không phải là
một khối quân sự, liên minh quân sự hay có chính sách đối ngoại chung mà là
một cộng đồng an ninh tự nguyện có mức độ hội nhập cao hơn hiện trạng, ->
dựa trên nguyên tắc” an ninh toàn diện”, không dùng vũ lực để giải quyết tranh
chấp.

2. Mục tiêu và lĩnh vực hợp tác của Cộng đồng chính trị-
An ninh ASEAN
2.1 Mục tiêu:
- Nhằm nâng cao hợp tác chính trị, an ninh lên một tầm cao mới, với sự
tham gia và đóng góp của các đối tác bên ngoài.
- Nhằm bảo đảm cho các nước ASEAN chung sống hòa bình với nhau và
với thế giới bên ngoài trong một môi trường công bằng, dân chủ và hòa
hợp.
- Thúc đẩy cách tiếp cận toàn diện về an ninh, gồm cả các khía cạnh chính
trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường.
- Tăng cường hợp tác chính trị, xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử
chung.
- Thúc đẩy xu hướng không sử dụng vũ lực và giải quyết mọi tranh chấp
bằng biện pháp hòa bình.
- Rộng mở quan hệ với các đối tác bên ngoài và giữ vững vai trò trung tâm
của ASEAN trong cấu trúc khu vực
- Vậy cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN khi hoàn thành, sẽ gồm 3 đặc
điểm chính:
- Một cộng đồng hoạt động theo luật lệ trên cơ sở các giá trị và chuẩn mực
chung.
- Một khu vực gắn kết, hòa bình, ổn định và tự cường, chia sẻ trách nhiệm
vì một nền an ninh toàn diện
- Một khu vực năng động, rộng mở với bên ngoài trong một khu vực ngày
càng liên kết chặt chẽ và tùy thuộc lẫn nhau.
2.2 Các lĩnh vực hợp tác
(i) Hợp tác chính trị

(ii) Xây dựng và chia sẻ chuẩn mực

(iii) Ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin

(iv) Giải quyết hòa bình sau xung đột

(vi) An ninh phi truyền thống

(vii) Quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp

(viii) Ứng phó kịp thời với các vấn đề khẩn cấp hay tình hình khủng hoảng ảnh
hưởng với ASEAN

(ix) Tăng cường quan hệ với bên ngoài

-> Ngoài ra ASEAN sẽ tiếp tục tham vấn và hợp tác về các vấn đề đa phương
cùng quan tâm tại Liên Hợp Quốc và các diễn đàn quốc tế khác.

II. Các khuôn khổ và lĩnh vực hợp tác chính trị-An
ninh ASEAN
1. Hợp tác về chính trị an ninh
1.1 Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM):
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) là cơ chế đầu tiên của
ASEAN, được thành lập cùng với thời điểm ra đời của ASEAN năm 1967.
Hội nghị họp định kỳ hàng năm, thông thường trong tháng 7, do nước Chủ tịch
ASEAN đương nhiệm chủ trì và đăng cai.
Sau khi Hiến chương ASEAN đi vào hiệu lực và bộ máy, tổ chức của ASEAN
được sắp xếp lại, Hội nghị AMM được đặt dưới Hội đồng Cộng đồng Chính trị-
An ninh ASEAN, chuyển hầu hết các công việc mang tính điều phối cho các
Hội đồng mới được thành lập, và tập trung vào các vấn đề hòa bình, an ninh khu
vực, các vấn đề liên quan về xây dựng Cộng đồng và triển khai Hiến chương,
các lĩnh vực chính trị-an ninh cụ thể như hợp tác chính trị, xây dựng và chia sẻ
chuẩn mực, ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin, hỗ trợ giải quyết xung
đột, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN, quan hệ với các đối tác…
1.2 Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)
Ra đời tháng 7/1994, đến nay có 27 nước tham gia gồm 10 nước ASEAN, 10
bên đối thoại của ASEAN (Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Ô-
xtrây-lia, Niu Di-lân, Ca-na-đa, Liên minh Châu Âu) và Papua Niu Ghi-nê,
Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Pa-kix-tan, Băng-la-đét, Xri-lan-ka, Timo-Létxtê).
Việt Nam đã tham gia từ 1994 và là 1 trong những nước sáng lập ARF.
❖ Về mục tiêu và phương hướng:
ARF là diễn đàn đối thoại và hợp tác giữa các nước tham gia về các vấn đề
chính trị-an ninh khu vực; tiến triển qua 3 giai đoạn: xây dựng lòng tin (CBM),
ngoại giao phòng ngừa (PD) và xem xét phương cách giải quyết xung đột; tiếp
cận các vấn đề theo quan điểm an ninh toàn diện, kể cả về chính trị, kinh tế-xã
hội và các vấn đề xuyên quốc gia.
❖ Về nguyên tắc hoạt động:
ARF tiến triển tiệm tiến, với tốc độ thoải mái với các bên tham gia; mọi quyết
định được thông qua dựa trên cơ sở tham khảo ý kiến và đồng thuận của tất cả
các nước tham gia; thực hiện trên cơ sở tự nguyện. Hoạt động của ARF về cơ
bản dựa trên tập quán và phương thức làm việc của ASEAN.

2. Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng


Hợp tác quốc phòng giữa các nước ASEAN có vai trò quan trọng trong việc giữ
gìn môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á nói riêng và thế giới
nói chung. Hiểu được vấn đề này, trong nhiều năm qua, các nước ASEAN đã có
sự hợp tác quốc phòng ngày càng phát triển và hiệu quả. Cơ chế hợp tác quốc
phòng đã được ghi nhận như một nguyên tắc trong các văn bản pháp lý của
ASEAN, thể hiện rõ nhất qua Hiến chương ASEAN.
Cơ chế hợp tác quốc phòng của ASEAN hiện nay là sự thực hiện những mục
tiêu 1,2 đã nêu trong Hiến chương ASEAN :
“1. Duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định và tăng cường hơn nữa các
giá trị hướng tới hòa bình trong khu vực;
2. Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác chính trị,
an ninh kinh tế và văn hóa – xã hội;…”

2.1 Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM)

Chương trình hành động Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) được thông qua tại
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 (CHDCND Lào tháng 11/2004) quyết định
ASEAN sẽ tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN
(ADMM) thường niên; và ADMM lần thứ nhất đã được tổ chức tại Ku-a-la
Lăm-pơ (Ma-lai-xi-a) vào ngày 9/5/2006.
ADMM là cơ chế hợp tác và tư vấn quốc phòng cao nhất trong ASEAN. Các
mục tiêu của ADMM được Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN nhất trí
đưa ra, đó là:
Thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực thông qua đối thoại và hợp tác về
quốc phòng và an ninh; hướng dẫn cho các quan chức quốc phòng, quân sự cấp
cao về cách thức đối thoại và hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh
giữa các nước thành viên ASEAN và giữa ASEAN và các nước đối tác, đối
thoại; tăng cường sự tin cậy lẫn nhau thông qua việc hiểu biết ngày càng sâu
hơn về các thách thức quốc phòng và an ninh trong khu vực cũng như tăng
cường tính minh bạch và công khai trong Hiệp hội; đóng góp vào việc xây dựng
Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) được ghi nhận trong Thỏa ước Ba-li II (Bali
Concord II) và thúc đẩy thực thi Chương trình hành động Viêng-chăn (VAP) về
xây dựng ASC.

Kể từ khi ADMM được thiết lập, hợp tác quốc phòng ASEAN ngày càng đi vào
thực chất trong các lĩnh vực như an ninh biển, chống khủng bố, các hoạt động
Gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, quân y, công nghiệp
quốc phòng. Nhiều sáng kiến hợp tác đã được triển khai trong khuôn khổ
ADMM như: Khuôn khổ hỗ trợ hậu cần của ASEAN (LSF), Chương trình giao
lưu quốc phòng ASEAN (ADIP), Hợp tác công nghiệp quốc phòng ASEAN
(ADIC), Mạng lưới các trung tâm Gìn giữ hòa bình của ASEAN (APCN),
Nhóm thường trực quân đội ASEAN về hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa
(AMRG về HADR), Trung tâm quân y ASEAN (ACMM), Mạng lưới các
chuyên gia quốc phòng ASEAN về hóa học, sinh học và phóng xạ (CBR)...

2.2 Hội nghị Quốc phòng ASEAN mở rộng


Ý tưởng về cơ chế Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng được ASEAN đưa
ra từ Hội nghị ADMM lần thứ nhất năm 2006 tại Ma-lai-xia, tiếp tục được bổ
sung qua ADMM-2, ADMM-3 và được hiện thực hóa tại ADMM-4 tại Hà Nội
với việc thông qua Tài liệu khái niệm: Cơ cấu và Thành phần; Thể thức và Thủ
tục, hoàn tất cơ sở pháp lý cho việc hình thành cơ chế ADMM mở rộng và giao
Việt Nam đăng cai Hội nghị đầu tiên trong năm Việt Nam làm chủ tịch
ASEAN.

● Về mục tiêu, ADMM+ xác định rõ 4 mục tiêu lớn gồm:

· Thúc đẩy hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực;

· Thúc đẩy ADMM+ thành một diễn đàn hữu ích và có hiệu quả
hợp tác về các vấn đề quốc phòng và an ninh nhằm đóng góp hữu
ích cho hòa bình và an ninh của khu vực;

· Tăng cường hữu nghị, tin tưởng lẫn nhau thông qua đối thoại và
trao đổi nhiều hơn giữa các cơ sở quốc phòng ADMM+;

· Thúc đẩy hợp tác quốc phòng và an ninh khu vực thông qua
thực hiện hợp tác cụ thể và thiết thực nhằm giải quyết các vấn đề
quốc phòng an ninh cùng quan tâm, trong đó hướng tới xây dựng
năng lực, phát triển chuyên môn, và tăng cường phối hợp trong các
lĩnh vực có thể đóng góp cho hòa bình và an ninh khu vực;

Về cơ cấu và thành phần: ngoài 10 nước ASEAN, các đối tác tham gia ADMM
phải hội đủ 3 tiêu chí cơ bản:

+Thứ nhất, là đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN (đã ký Hiệp ước Thân thiện
và hợp tác ở ĐNÁ);

+Thứ hai, có quan hệ quốc phòng thực chất với các nước ASEAN; và Thứ ba,
có khả năng hợp tác với ADMM để tăng cường an ninh khu vực.

Theo tinh thần đó, ADMM+ lần thứ nhất gồm 10 nước ASEAN và 8 nước đối
tác đối thoại của ASEAN là: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ốt-xrây-li-a và Niu Di-lân.

3. Hợp tác trong lĩnh vực công an


Đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia là vấn đề cấp bách mà mỗi
quốc gia, khu vực trên thế giới đều hết sức chú trọng. Khu vực ASEAN cũng là
một nơi trọng điểm về tội phạm xuyên quốc gia. Vì vậy việc hợp tác chặt chẽ
giữa các nước là điều cần thiết và khối ASEAN đã có những hoạt động để tăng
cường hợp tác thông qua các cuộc hội nghị.

Tuyên bố Hòa hợp ASEAN ký năm 1976 (Bali Concord I) kêu gọi tăng cường
hợp tác giữa các quốc gia thành viên và với các tổ chức quốc tế nhằm ngăn chặn
và chấm dứt nạn buôn bán ma túy và nghiên cứu khả năng hợp tác tư pháp bao
gồm việc xây dựng một hiệp ước ASEAN về dẫn độ.

Về hợp tác, ASEAN đã xây dựng và thông qua Kế hoạch hành động ASEAN về
đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia (năm 1999), cùng Kế hoạch công tác
để triển khai cụ thể (năm 2002); trong đó xác định 08 lĩnh vực ưu tiên là: (i)
khủng bố; (ii) buôn bán ma túy; (iii) buôn bán người; (iv) rửa tiền; (v) buôn bán
vũ khí; (vi) cướp biển: (vii) tội phạm kinh tế; và (viii) tội phạm mạng..

Các hoạt động hợp tác tiêu biểu:

Năm 1997, ASEAN thiết lập Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Tội phạm xuyên
quốc gia lần thứ nhất (1st AMMTC) họp vào tháng 12/1997 tại Manila đã ra
Tuyên bố ASEAN về Chống tội phạm xuyên quốc gia (12/1997), nhấn mạnh
quyết tâm chính trị của ASEAN đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc
gia thông qua các biện pháp thể chế và hợp tác cụ thể, như trao đổi và chia sẻ
thông tin, ký kết các hiệp ước song phương và hiệp định tương trợ, thúc đẩy
quan hệ với các nước đối tác, Liên hợp quốc và các tổ chức khác…

Đến nay Hội nghị đã tổ chức 15 lần và tại (AMMTC 15) , các nước ASEAN đã
đồng thuận nối lại các cuộc họp tham vấn với ba nước đối tác đối thoại gồm
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc để tiếp tục củng cố, thúc đẩy quan hệ hợp
tác trong phòng, chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia cũng như ứng phó
các thách thức an ninh phi truyền thống đã và đang nổi lên trong khu vực.

Các nước ASEAN chủ động thích ứng trong trạng thái “bình thường mới” thông
qua tổ chức các hội thảo tập huấn trực tuyến để chia sẻ kinh nghiệm trong
phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia;
Các bên tăng cường hợp tác với các nước đối tác, đối thoại của ASEAN trong
lĩnh vực nâng cao năng lực cán bộ, đào tạo ngoại ngữ cho cán bộ thực thi pháp
luật và hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác phòng,
chống tội phạm xuyên quốc gia.

Tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về An ninh mạng lần thứ 6 (AMCC-6), Bộ
trưởng các nước thành viên ASEAN đã thảo luận về tăng cường hợp tác trên
không gian mạng cấp khu vực trong bối cảnh bình thường mới với trọng tâm là
xác định các lĩnh vực hợp tác giữa các nước ASEAN và các đối tác đối thoại
trong việc thúc đẩy điều phối chính sách mạng khu vực và ứng phó sự cố và các
bài học rút ra từ tốc độ số hóa đang tăng nhanh do ảnh hưởng của đại dịch hiện
nay.

4. Hợp tác trong lĩnh vực tư pháp


Trong khu vực, ngày 29/11/2004, các nước ASEAN đã ký kết
Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự tại Kuala Lumpur,
Malaysia (MLAT).
Hiệp định này được xây dựng theo sáng kiến của Malaysia,
đây là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên về tương trợ tư
pháp trong lĩnh vực hình sự giữa các quốc gia Đông Nam Á,
thể hiện quyết tâm chung của các quốc gia này trong hợp tác
phòng, chống tội phạm khu vực, nhất là tội phạm xuyên quốc
gia. MLAT có hiệu lực từ ngày 20/9/2005 và đến nay, tất cả
các quốc gia thành viên ASEAN đã là thành viên của MLAT
Bên cạnh đó, ASEAN cũng đã ký kết nhiều điều ước quốc tế
trong các lĩnh vực cụ thể có quy định về tương trợ tư pháp
hình sự, như:
• Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007
(ACCT);
• Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2015 (ACTIP).

III. Cộng đồng ASEAN đã đưa lại những cơ hội,


thách thức và triển vọng
1.Về cơ hội
1.1: Giải quyết những vấn đề mang tính chất quốc tế của khu vực mà một quốc
gia đơn lẻ không thể làm được

Giải quyết những vấn đề mang tính khu vực, như: tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ, an ninh, an toàn hàng hải, chủ nghĩa khủng bố, kiểm soát vũ khí, buôn bán
người và vũ khí trái phép, ma túy, bệnh dịch, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn
nước, di cư và tị nạn, tình trạng mất cân đối tài chính và thương mại quốc tế,...
phải thông qua các cơ chế mang tầm khu vực do ASEAN sáng lập. Chính bởi
khả năng hấp dẫn của mình đối với thế giới bên ngoài, cho nên hầu hết các nước
đều muốn thiết lập quan hệ hợp tác với ASEAN tạo cơ hội cho ASEAN có thể
thực hiện ngoại giao cân bằng giữa các nước, góp phần ngăn chặn nguy cơ xung
đột có thể xảy ra trong tương lai.

1.2: Nâng cao vai trò của ASEAN trong liên kết khu vực

Trong tiến trình hoạt động hơn 20 năm qua, ASEAN đã lần lượt tạo ra các cơ
chế hợp tác đa phương, được các nước trong và ngoài khu vực chấp nhận, như:
ARF, ASEAN +3, EAS, ADMM+, Shangri-la... Trong đó, ASEAN đóng vai trò
trung tâm do có cách vận hành phù hợp với mong muốn của các bên và đặc
điểm của bối cảnh Đông Á. Thông qua các cơ chế trên, ASEAN đã thúc đẩy
hợp tác tích cực dựa trên “Phương cách ASEAN” (ASEAN way), và ASEAN
cũng đã tạo ra được một cơ chế “mềm” và “mở” để các thành viên thông qua
những cuộc đối thoại hiểu nhau hơn, chia sẻ quan điểm, thiết lập lòng tin.

1.3: Gia tăng vị thế của APSC trong hoạt động đối ngoại
APSC có khả năng đoàn kết nội khối, nhờ đó việc đưa ra các quyết định dựa
trên nguyên tắc đồng thuận sẽ được tiến hành nhanh chóng và hiệu quả. Đối với
ngoại khối, APSC với ARF là hai cơ chế chính trong việc nâng cao các hợp tác
an ninh - chính trị trong khu vực cùng một loạt các vấn đề hợp tác khác trong
lĩnh vực này, hình thành một mạng lưới các cơ chế liên kết lôi kéo, ràng buộc
các nước ngoài khu vực và tránh nguy cơ trở thành người ngoài cuộc (1). Các cơ
chế này đã cho ASEAN cơ hội xây dựng lòng tin và tranh thủ được sự ủng hộ
trong và ngoài khu vực.
1.4: Sự ủng hộ ngày càng lớn của các cường quốc trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương
Ngay khi APSC xúc tiến các cơ chế hợp tác đa phương ở khu vực, các quốc gia
ở Đông Á đã chào đón tích cực. Các quốc gia và tổ chức khu vực ở Đông Á đã
và đang nỗ lực tìm kiếm và thúc đẩy các cơ chế hợp tác về an ninh để củng cố
thêm sự vững chắc cho môi trường khu vực hiện tại và tương lai. Những cơ chế
của APSC ra đời đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đối với Đông Á và châu Á
- Thái Bình Dương. APSC là sự lựa chọn tốt nhất cho các nước lớn với tham
vọng kiềm chế các đối thủ của mình. lớn khác sẽ tự động gia nhập vào các cơ
chế của ASEAN. Khi APSC nhận được sự ủng hộ của các nước lớn thì vai trò
trung tâm của ASEAN tại khu vực sẽ được bảo đảm.

2.Về thách thức


2.1: Sự đa dạng chế độ chính trị, tôn giáo và chênh lệch trình độ phát triển.

Đông Nam Á hiện nay tồn tại nhiều mô hình nhà nước và thể chế chính trị khác
nhau. Sau khi hai cực Yalta tan rã, mâu thuẫn ý thức hệ đã phần nào bị xóa mờ
nhưng còn nhiều vấn đề cần giải quyết: tình hình chính trị ở một số nước còn
khá phức tạp, quan hệ giữa một số nước thành viên chưa được suôn sẻ. Trong
khi đó, Đông Nam Á cũng là nơi giao thoa của các vùng văn hóa và tôn giáo
khác nhau như: Đạo Phật, Nho giáo, Cơ đốc giáo, Ấn Độ giáo, Islam,... nên các
cuộc xung đột tôn giáo, mâu thuẫn về dân chủ, nhân quyền... đã tạo ra khoảng
cách nhất định giữa các nước thành viên.

Bên cạnh đó, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước thành viên
trong APSC tạo ra khoảng cách về nhận thức chung, nhất là trong hợp tác chính
trị - an ninh khu vực. Sự chênh lệch tập trung ở 4 lĩnh vực chủ yếu, gồm: cơ sở
hạ tầng (Infrastructure), thu nhập (Income), liên kết (Integration) và thể chế
(Institution). Điều này làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể,
hạn chế tính khả thi của các chính sách chung.

2.2: Mâu thuẫn, xung đột vẫn tồn tại trong nội khối.

Trong lịch sử phát triển, các nước thành viên ASEAN vẫn luôn tồn tại tình trạng
mâu thuẫn, xung đột.

Ví dụ: xung đột biên giới Thái Lan - Campuchia xung quanh đền thờ Preah
Vihear; tranh chấp biển đảo giữa Việt Nam - Philippines - Malaysia và một số
nước khác ở quần đảo Trường Sa; tranh chấp ở Vịnh Thái Lan; vấn đề nguồn
nước ở sông Mê Công; vấn đề di cư xuyên biên giới… và trong nội bộ một số
nước ASEAN cũng gặp nhiều bất ổn về chính trị, cuộc chiến giữa quân đội và
các lực lượng sắc tộc, an ninh xã hội cũng như mâu thuẫn giữa các tôn giáo.

2.3: Cơ chế và cách thức hoạt động của ASEAN còn vướng mắc, hiệu quả chưa
cao.

ASEAN có nhiều cơ chế hợp tác đa phương nhưng hầu hết được xây dựng dựa
trên các nguyên tắc truyền thống của “Phương cách ASEAN” (chủ yếu là
nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp”). Các nguyên tắc này phù hợp
với đặc điểm đa dạng của khu vực Đông Nam Á, giúp ASEAN thực hiện hiệu
quả việc thống nhất các thành viên. Tuy nhiên,việc áp dụng một cách tuyệt đối
hai nguyên tắc này có thể cản trở tính linh hoạt cũng như hiệu quả của ASEAN
trong các chương trình và hoạt động cụ thể, nhất là việc giám sát các thành viên
thực hiện cam kết. Bên cạnh đó, các nguyên tắc này cũng chi phối nội dung hợp
tác trong các cơ chế của APSC.

Ngoài ra, hiện nay các xu hướng hợp tác song phương vẫn còn chiếm ưu tiên
trong hợp tác an ninh của các nước. Việc tham gia vào các diễn đàn đa phương
thực chất nằm trong toan tính chiến lược của mỗi nước. Do vậy, việc làm thế
nào để cộng đồng ASEAN có vai trò tích cực trong vấn đề an ninh khu vực là
một thách thức lớn đối với các cơ chế của APSC.

2.4: Vị trí trung tâm của ASEAN đang bị ảnh hưởng bởi các cường quốc.

ASEAN đã và đang cố gắng tranh thủ quan hệ và duy trì sự cân bằng với các
nước lớn nhưng vẫn chịu tác động của chính sách và quan hệ giữa các nước lớn
đó. Sự cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc, đặc biệt là cặp quan hệ Mỹ -
Trung Quốc đã làm phân hóa nội bộ các nước Đông Á. Mỹ và Trung Quốc
trong chiến lược của mình đều muốn lôi kéo và tranh thủ sự ủng hộ của càng
nhiều đối tác càng tốt thông qua việc dùng ưu thế nổi trội của mình để can dự
vào một số quyết định chung của các cơ chế ASEAN, nhằm đạt được lợi ích và
cạnh tranh quyền lực. Điều này ảnh hưởng tới ASEAN trong việc lựa chọn và
cân nhắc chính sách đối ngoại, xu hướng “ly tâm” trong một số vấn đề an ninh
chính trị gia tăng. Nếu ASEAN không khắc phục được tình trạng này thì vị trí
chủ đạo ở Đông Á sẽ rơi vào tay các cường quốc trong khu vực.

3.Về triển vọng


3.1: ASPC tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực

Các nước ASEAN sẽ chủ động xây dựng và chia sẻ với các đối tác bên
ngoài thông qua việc thực thi Hiến chương ASEAN, cùng các chế định có
tính chuẩn mực trong ứng xử khu vực của ASEAN, như: Hiệp ước Thân
thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước khu vực Đông Nam Á
không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về cách ứng xử của các
bên ở Biển Đông (DOC),... Những văn bản này đã trở thành công cụ pháp
lý quan trọng góp phần kiến tạo, giữ vững hòa bình, an ninh ở khu vực.
ASEAN đãvà đangnỗ lực tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin ở
khu vực, thúc đẩy thực hiện DOC và hướng tới sớm thông qua Bộ quy tắc
Ứng xử ở Biển Đông (COC).

3.2: Ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin

APSC cam kết tăng cường hợp tác nội khối và với đối tác bên ngoài trong
các lĩnh vực: xây dựng lòng tin; nâng cao tính minh bạch và chia sẻ thông
tin về chính sách an ninh - quốc phòng; đẩy mạnh tiến trình diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF); giữ vững cam kết tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và thống nhất của các nước thành viên và tạo khuôn khổ cho hợp tác
giữa các lực lượng quốc phòng, an ninh của các nước ASEAN.

3.3: Xử lý những thách thức an ninh phi truyền thống, tạo sự đồng thuận
Các quốc gia thành viên tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin nghiệp vụ;
giáo dục - đào tạo, nâng cao năng lực, hợp tác về tư pháp, dẫn độ tội
phạm; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan; triển khai hiệu
quả các tuyên bố, kế hoạch hành động trong từng lĩnh vực cụ thể; xây
dựng các khuôn khổ pháp lý cho hợp tác. Thí dụ: Công ước ASEAN về
Chống khủng bố, các Tuyên bố ASEAN về phòng chống tội phạm xuyên
quốc gia, HIV, ma túy; xây dựng Hiệp định đa phương ASEAN về phòng
chống thiên tai và cứu trợ nhân đạo...

3.4: Thúc đẩy hợp tác chính trị - an ninh quốc phòng hiệu quả

Thông qua APSC, việc chia sẻ thông tin về cơ chế chính sách, lịch sử và
văn hóa; tăng cường hệ thống luật pháp và tư pháp; quản trị tốt, bảo đảm
dân chủ, nhân quyền và phòng chống tham nhũng trong các nước thành
viên cộng đồng ASEAN hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, đối thoại quốc phòng - an ninh trong khuôn khổ diễn đàn
khu vực ASEAN, các hội nghị quốc phòng và quân sự ASEAN đã từng
bước được thiết lập, tạo thành mạng lưới các khuôn khổ hợp tác rộng rãi
với các hình thức, mức độ hợp tác đa dạng ở nhiều cấp độ, trở thành kênh
hợp tác quan trọng trong tiến trình xây dựng Cộng đồng Chính trị - An
ninh ASEAN. Hợp tác quốc phòng - quân sự ASEAN đã trở thành lĩnh
vực đột phá trên con đường xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung,
Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN nói riêng.

IV. Vai trò của Việt Nam trong cộng đồng Chính trị-
An ninh ASEAN
Việc Việt Nam tham gia ASEAN từ năm 1995 cho đến nay thì đóng góp của
Việt Nam luôn luôn chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Chính những yếu tố
này là sự phát triển của đường lối chính sách sẵn sàng làm bạn, làm đối tác tin
cậy của tất cả các nước các tổ chức khu vực trên thế giới. Thông điệp mà Việt
Nam mang đến là lấy hòa bình và ổn định làm mục tiêu, lấy đối thoại và hợp tác
làm công cụ và cùng nhau hướng tới khu vực hoạt động minh bạch dựa trên luật
lệ và dung nạp tất cả các nước.
Việt Nam đã làm chủ tịch ASEAN 3 lần thì mỗi một lần Việt Nam làm chủ tịch
ASEAN thì đều đem lại nguồn gió mới cho hợp tác ASEAN, một trong những
năm có kết quả lớn nhất là năm 2020 Việt Nam làm chủ tịch, năm đó Việt Nam
đã tạo ra một hình ảnh mới sẵn sàng cùng các nước đóng góp có trách nhiệm
vào tất cả những vấn đề đang xảy ra trong khu vực.

Việt Nam luôn nghiêm túc hoàn thành các cam kết và nghĩa vụ của một thành
viên, có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển và lớn mạnh của ASEAN,
được các nước trong và ngoài khu vực ghi nhận, đánh giá cao.

Với vai trò của mình, Việt Nam sẽ chuyển mạnh từ tư duy “tham gia tích cực”
sang “chủ động đóng góp” xây dựng, định hình luật chơi chung, góp phần quan
trọng vào việc duy trì, bảo đảm hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực và trên thế
giới.

Bên cạnh đó, việc bảo đảm hòa bình, an ninh tại Biển Đông và thúc đẩy hoàn tất
đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) đều có ý nghĩa quan trọng
đối với Việt Nam, song việc đàm phán này hiện gặp nhiều khó khăn do sự bất
đồng giữa các bên liên quan trên nhiều vấn đề. Vì vậy, để có thể gắn kết quan
điểm của các nước ASEAN, Việt Nam cần nỗ lực đóng vai trò trong quá trình
đàm phán COC. Đây sẽ là tiền đề để Việt Nam tiếp tục nâng cao vị thế và tiếng
nói của mình trong quá trình xử lý các vấn đề quốc tế.

V. Cộng Đồng chính trị ASEAN có nhiều phát triển


bất chấp COVID 19: “DẤU ẤN NỖ LỰC GẮN KẾT
VÀ CHỦ ĐỘNG THÍCH ỨNG”

Trải qua 2 năm dịch bệnh COVID 19, với biết bao thay đổi của thế giới cũng
như trong khu vực, ASEAN đã củng cố, phát triển trở thành một trong những tổ
chức hợp tác khu vực quan trọng, thành công trên thế giới, khởi đầu cho tiến
trình liên kết sâu rộng, kiến tạo, gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển ở Đông
Nam Á..

Cho đến nay, bất chấp những tác động tiêu cực từ những thách thức mới như đại
dịch COVID-19 hoành hành, ASEAN vẫn vững vàng và lạc quan trong tiến
trình xây dựng Cộng đồng ASEAN sau năm 2025. Những kết quả đạt được
trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN rất đáng khích lệ, theo đó,
ASEAN đã triển khai được 98% các dòng hành động trong Kế hoạch Tổng thể
của Trụ cột Chính trị-an ninh, 88,3% trong Trụ cột Kinh tế, 72% trong Trụ cột
Văn hóa-xã hội và triển khai 14/15 sáng kiến thuộc 5 lĩnh vực chiến lược của
Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN 2025 (MPAC). ASEAN cũng đang trao
đổi về Chiến lược Hợp nhất về Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4, nhằm tận
dụng tối đa cơ hội do Cách mạng này mang lại.

Dù nguồn lực còn hạn chế, nhưng hình ảnh các nước ASEAN chung tay hỗ trợ
nhau vượt qua tác động nặng nề của đại dịch COVID-19 sẽ mãi là biểu tượng
cho tinh thần đoàn kết và thống nhất ASEAN.

Với tinh thần “ASEAN Hành động: Cùng ứng phó các thách thức”, trên cơ sở
những kết quả tích cực đã đạt được và sự đoàn kết mạnh mẽ, các nước thành
viên ASEAN đã thể hiện quyết tâm cùng vượt qua khó khăn, đặc biệt là thúc
đẩy phục hồi sau COVID-19, thực hiện Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện
Khu vực (RCEP) và nỗ lực xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) ở Biển Đông
hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên
hợp quốc về Luật Biển 1982.

Đoàn kết, đồng thuận và thống nhất trong đa dạng đã gắn kết các quốc gia
thành viên ASEAN cùng thực hiện mục tiêu chung vì một Đông Nam Á hòa
bình, ổn định và thịnh vượng. Không can thiệp nội bộ, tôn trọng độc lập, chủ
quyền và quyền tự quyết là chuẩn mực chung cho ứng xử của các nước thành
viên, song gắn kết hài hòa với tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng, chia sẻ
và tương trợ lẫn nhau trong hoàn cảnh khó khăn.

Việc hình thành Cộng đồng ASEAN mái nhà chung của khoảng 650 triệu người
dân, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt hơn 3.200 tỷ USD và kim ngạch
thương mại đạt 2.800 tỷ USD, trên 3 trụ cột về an ninh-chính trị, kinh tế và văn
hóa-xã hội chính là một minh chứng sống động cho sức sống của ASEAN, nâng
tiến trình liên kết khu vực lên tầm cao mới vì hòa bình, hợp tác và cùng phát
triển thịnh vượng.

You might also like