Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG

ĐẠI VIỆT NAM


Thạc sĩ, NCS. Trần Viết Thiện

1. Sự thâm nhập của huyền thoại vào văn học viết là một hiện tượng lạ. Sự thâm
nhập của huyền thoại vào truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay lại càng lạ hơn.
Từ sau 1975, nhất là từ sau đổi mới, chúng ta chứng kiến sự tái xuất đầy ấn tượng
của huyền thoại trong đời sống văn học nghệ thuật: âm nhạc, điện ảnh, văn học…
Đặc biệt, huyền thoại trở thành một tố chất thể loại vừa mới mẻ vừa mạnh mẽ
trong truyện ngắn giai đoạn này. Đi sâu vào đời sống thể loại, chúng ta sẽ thấy:
huyền thoại không phải chỉ trở lại ở một vài hiện tượng riêng lẻ, ngược lại, những
sáng tác huyền thoại đã hình thành một dòng truyện ngắn: truyện ngắn - huyền
thoại. Huyền thoại thực sự đã tạo nên những hình thể truyện ngắn mới ở Việt Nam.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đó là kết quả sự ảnh hưởng của truyện ngắn
huyền ảo (Magical short stories), một trong ba xu hướng truyện ngắn phát triển
mạnh của truyện ngắn hậu hiện đại thế giới. Thực ra, truyện ngắn huyền thoại Việt
Nam được hình thành từ một quá trình tương tác vừa đa dạng vừa nhiều chiều. Đó
là sự trở về với những huyền thoại, những mẫu cổ trong vốn liếng folklore dồi dào
của dân tộc; đó là sự thẩm thấu truyền thống truyền kì trong văn học Việt Nam qua
một chu kì phát triển dích dắc và mang tính tiệm tiến; và đó còn là sự kế thừa, tiếp
thu thành tựu của văn học huyền thoại thế giới. Sự tương tác với yếu tố nội sinh và
ngoại sinh đã tạo nên gương mặt vừa phong phú vừa độc đáo của truyện ngắn
huyền thoại Việt Nam sau đổi mới.

2. Như một điều kì diệu - như một huyền thoại, trong cuộc sống đầy tường minh
của những năm cuối thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam lại đầy yếu tố lung linh, hư
ảo với những cổ mẫu, những huyền thoại đã nằm sâu dưới bao lớp trầm tích văn
hóa trong nguồn mạch folklore dân tộc. Vì thế, như đã khẳng định ở trên, trong nẻo
tương tác này, yếu tố huyền thoại không phải là cái gì đó xa lạ mà quý thay khi nó
đến với hiện đại từ truyền thống, đến với hiện đại từ nội lực văn học dân tộc, chúng
tôi coi đó là kết quả của những hồi ức văn học, khi hồi ức là đặc tính rất mạnh, là
gen trội rất đặc trưng của các cư dân nông nghiệp - các dân tộc gieo mầm.

2.1. Nhiều cây bút truyện ngắn đương đại đến với chiều tương tác này: Hòa Vang,
Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Trung Khâu, Lưu sơn Minh,
Phạm Hải Anh, Lê minh Hà, Y Ban, Trần Chiến, Đoàn Lê, Nguyễn Hiệp, Trần Hạ
Tháp, Nguyễn Văn Phú, Hà Khánh Linh,… Với tính chất là những biểu tượng có ý
nghĩa sâu thẳm, vĩnh cửu; huyền thoại dân tộc đã trở về để chiếu sáng cho bao
nhiêu vấn đề của cuộc sống thực tại. Đến với cuộc sống đương đại bằng những
biểu tượng siêu mẫu đã ngưng tụ thành những trầm tích của bao năm tháng, bằng
nẻo đường này, các cây bút truyện ngắn đương đại đã thực sự khôn ngoan khi đứng
trên đôi vai của người mẹ khổng lồ. Với sự hiện hữu của những huyền thoại dân
gian, truyện ngắn đương đại đã tạo nên những song đề truyền thống - hiện đại.
Huyền thoại nguyên thủy không còn "nguyên phiến" mà đã được khúc xạ nhiều khi
đặt dưới góc nhìn của triết mĩ đương thời. Do vậy, những truyện ngắn huyền thoại
theo dạng này thực chất là giả huyền thoại, giả cổ tích; có người gọi là truyện cổ
viết lại. E.M.Meletinsky phát ngôn rất trúng về điều này, ông gọi đó là: phản
huyền thoại, là huyền thoại lộn trái [8].

2.2. Một điều rất thú vị khi chúng ta bắt gặp nhiều biểu tượng huyền thoại truyền
thống đã nằm lòng trong thế giới tâm hồn của mỗi con người Việt Nam được tái
sinh một cách kì diệu trong truyện ngắn hôm nay: huyền thoại Thánh Gióng
trong Gióng, huyền thoại Tấm Cám trong Ngày xưa, cô Tấm, huyền thoại Sơn Tinh
Thủy Tinh trong Sơn tinh Thủy Tinh, huyền thoại An Dương vương trong An
Dương Vương của Lê Minh Hà; huyền thoại về mẹ Âu cơ trong Bức thư gửi mẹ Âu
Cơ của Y Ban; huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh trở lại trong Sự tích những ngày
đẹp trời, huyền thoại Tây du kí trong Nhân sứ, huyền thoại về nhân vật thần tiên
trong Bụt mệt của Hòa Vang; huyền thoại về cô Tấm trong Con quạ của Nhật
Chiêu,… Bên cạnh đó, âm hưởng huyền thoại trong truyện dân gian truyền thống
còn được dội lên từ các motip: hóa kiếp, sự hiển linh của linh hồn người chết,
motip luân hồi, motip "ở hiền gặp lành", motip "thử thách và đền đáp",… Đó còn
là yếu tố thần kì, là không khí truyện, là kết cấu truyện,…
2.3. Huyền thoại trở về trong truyện ngắn với những biểu hiện hết sức đa dạng,
nhiều vẻ. Hòa Vang nhại cổ tích với sự mở đầu bằng "Ngày xửa ngày xưa", "vào
những dịp ấy" đầy tính chất phiếm chỉ trong Huyền thoại Rồng. Truyện ngắn Tạ
Duy Anh đậm chất huyền thoại: Người thắng trận, Ngũ gia truyện, Truyền thuyết
viết lại, Tội tổ tông,… Nhiều truyện ngắn Võ Thị Hảo gợi nhớ về thế giới của
huyền thoại: Nàng tiên xanh xao, Hành trang của người đàn bà Âu Lạc, Nữ hoàng
cô đơn, Đêm bướm ma, Lãnh cung, Nghiệp chướng,… Đó còn là âm hưởng ma mị
của sự đi về giữa thế giới người âm và cõi dương thế trong một loạt tác
phẩm: Nghĩa địa xóm chùa - Đoàn Lê, Chợ rằm ở góc cây cổ thụ - Y Ban,…
Huyền thoại về mẹ Âu Cơ tái xuất hiện trong nhiều truyện ngắn đương đại: Hành
trang của người đàn bà Âu Lạc - Võ Thị Hảo, Bức thư gởi mẹ Âu Cơ - Y Ban,…

Hành trang của người đàn bà Âu Lạc là một huyền thoại sáng thế mới của thời
hiện đại. Hình thể truyện không khác gì huyền thoại xưa. Biến thể của truyện nằm
ở tính chất hàm nghĩa, ở những dụ ngôn đầy sức hàm chứa về hành trang của
những người đàn bà Âu Lạc. Người đàn bà Âu Lạc của Võ Thị Hảo "so bì" gánh
nặng hành trang trên vai mình với hành trang của mẹ Dạ Dần, hành trang của mẹ
Âu Cơ. Sức phát sáng ý nghĩa, tính chất mỉa mai, giễu nhại của truyện bộc lộ trong
ẩn dụ: Hành trang của người đàn bà Âu Lạc nặng trĩu đôi vai bởi phải gánh thêm
một mớ triết lí, một mớ trách nhiệm, một mớ quy định, lại mang nặng: một bên
chồng, bên con, bên tam tòng tứ đức; lại còn chất thêm những mỹ từ của thời đại
mới, … Truyện ngắn Võ Thị Hảo là minh chứng cho một điều: huyền thoại là siêu
ngôn ngữ, huyền thoại phát sinh nhiều ý nghĩa cả khi hoàn cảnh nảy sinh ra nó đã
trôi qua từ rất lâu. Lê Minh Hà lại tái sinh huyền thoại Thánh Gióng qua truyện
ngắn mà nhan đề đã có tính giải thần: Gióng. Giá trị quan trọng xét về phương diện
thể loại là ở đó Lê Minh Hà đã tạo tác những lớp ý nghĩa mới cho huyền thoại xưa.
Lê Minh Hà đã tục biên, đã viết tiếp huyền thoại. Hình tượng Gióng bay về trời
như biểu tượng đẹp về sự thăng hoa để trở thành bất tử. Lê Minh Hà "nối dài" đời
sống trần thế cho Gióng bằng sự trở về. Lê Minh Hà song chiếu nhiều phản đề
nhưng không hề làm "phương hại" đến thần tượng, thậm chí còn tôn dày thêm cho
thần tượng, tạo sinh cho thần tượng những suy tư trong nỗi cô đơn, trong sự cay
đắng của thế thái nhân tình thời hiện đại. Đây là lối liên văn bản, cách chập cấu
trúc vừa khéo, vừa tinh của Lê Minh Hà. Phong cách thể loại độc đáo ấy cũng
được Lê minh Hà thể hiện trong nhiều truyện ngắn: Ngày xưa, cô Tấm, Sơn Tinh,
Thủy Tinh, An Dương Vương,… Hòa Vang góp vào dòng truyện ngắn này những
thiên huyền thoại mới đầy ấn tượng: Bụt mệt, Nhân sứ, Sự tích những ngày đẹp
trời. Hòa Vang như đối thoại với quá khứ qua Sự tích những ngày đẹp trời. Ở
truyện ngắn này, mệnh đề: nơi huyền thoại kết thúc là nơi truyện ngắn bắt đầu,
đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nơi huyền thoại kết thúc là nơi Hòa Vang
bắt đầu Sự tích những ngày đẹp trời. Tính chất giả cổ tích thể hiện ngay ở cụm
từ "sự tích" trong nhan đề truyện. Hòa Vang đã "phản huyền thoại" khi bắt đầu
truyện ngắn của mình bằng cái sự riêng nhỏ âm thầm rất người trong lòng người
con gái lấy chồng xa: "Đó là nỗi nhớ nhà của Mị Nương". Từ đó, Hòa Vang đã
liên tục đưa ra những phản đề để cùng song chiếu với những mệnh đề gắn với
huyền thoại xưa.

Là một cây bút truyện ngắn tiêu biểu, một hiện tượng văn học độc đáo của cao trào
đổi mới văn học Việt Nam từ sau 1986, Nguyễn Huy Thiệp góp mặt ở phương diện
tương tác này với tư cách là tác giả của những truyện ngắn huyền thoại vừa đa
dạng, nhiều dư vị vừa đạt được độ kết tinh cao. Sương mù huyền thoại như bao
trùm nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Hầu hết các truyện ngắn của ông
đều có sự hiện diện của huyền thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, thi ca, lịch sử… Ở
Nguyễn Huy Thiệp có mô hình cổ tích qua Trương Chi, có những huyền thoại bản
mường qua mười truyện ngắn trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát, có
huyền thoại về Mẹ Cả qua Con gái thủy thần, có truyền thuyết huyễn hoặc về con
trâu đen trong Chảy đi sông ơi,… Bên cạnh đó, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
còn gợi lên những biểu tượng sâu thẳm trong tín ngưỡng dân gian, đó là những
biểu tượng mang "mẫu tính", đó là vẻ đẹp "thiên tính nữ" được tái đi tái lại qua
nhiều truyện ngắn, nhiều nhân vật.

"Tái huyền thoại hóa" là quy luật chung của văn học nhân loại. Quy luật ấy chắc
chắn sẽ mạnh hơn với đặc tính của một nền văn hóa gieo mầm. Ở ngả rẽ này,
những truyện ngắn huyền thoại do vậy là kết quả của sự vận động, phát triển từ nội
lực truyền thống văn hoá, văn học Việt Nam. Đến với hiện tại từ cội nguồn
folklore truyền thống, ở hướng tương tác này, truyện ngắn đương đại Việt Nam đã
đi con đường riêng của mình để hòa nhập vào thành tựu phát triển của truyện ngắn
đương đại thế giới.

3. Đều là những truyện ngắn huyền thoại nhưng nếu những truyện ngắn trên đây là
kết quả của sự tương tác từ nội lực truyền thống văn học dân tộc, thì lại có những
truyện ngắn là kết quả của một phạm vi tương tác rộng hơn, trong đó có chiều
tương tác với yếu tố huyền thoại trong văn học phương Tây. Nếu những truyện
ngắn giả cổ tích, giả huyền thoại ở trên có điểm tựa, có cơ sở để cất cánh là những
huyền thoại, những cổ mẫu trong đời sống văn hóa dân tộc; thì có những truyện
ngắn không dựa trên một huyền thoại cụ thể nào mà chỉ dựa trên tư duy huyền
thoại để sáng tạo nên những huyền thoại mới. Chiều tương tác này rất giống với
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Kafka. Như đã nói ở trên, mỗi nhà văn Việt
Nam, tự vô thức hay hữu thức đều tiềm tàng một thế giới huyền thoại. Tự giác hay
không tự giác, mỗi nhà văn Việt Nam đã được đứng trên đôi cánh bay bổng của
người mẹ Huyền thoại. Nhưng các cây bút truyện ngắn đương đại cuối thế kỉ XX
còn có những chân trời mới của sự giao lưu, của sự tương tác. Như lợi thế của
người đến sau, họ đứng trên cả hai vai của những người khổng lồ. Do vậy, ở những
truyện ngắn này, biểu tượng kì ảo có tính huyền thoại trở nên đa dạng hơn, tự do
hơn. Chúng tôi gọi những truyện ngắn đó là: những sáng tạo huyền thoại mới.

3.1. Viết lời tựa cho tập truyện ngắn liêu trai của Phan Đức Nam, Đỗ Lai Thuý
tổng kết: Trải qua gần 300 năm, truyện liêu trai và truyện kinh dị như những bông
hoa lạ, những bông hoa ác mọc lên từ tất cả những dòng văn học [9]. Đầy thú vị
khi những bông hoa kì lạ ấy lại đầy hương sắc trong truyện ngắn Việt Nam giai
đoạn này. Ở đây, cần phân biệt rõ một điều về nguồn tương tác: nếu yếu tố truyền
kì, liêu trai chủ yếu bắt nguồn từ nội lực văn học dân tộc thì chất kinh dị lại chủ
yếu là kết quả sự tương tác thể loại với chủ nghĩa huyền thoại phương Tây. Nhiều
người dùng từ kì ảo, có người dùng từ kinh dị để gọi tên các truyện ngắn này là
xuất phát từ những cơ sở ấy. Điều đó còn có ý nghĩa trong sự phân biệt với chất
huyền thoại dân gian trong hướng tương tác ở trên. Đây là xu hướng thể hiện trong
sáng tác của nhiểu tên tuổi: Nguyễn Tham Thiện Kế, Ngô Tự Lập, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nhật Chiêu, Nguyễn Đức Nam, Hoàng Ngọc Thư, Nguyễn
Huy Thiệp, Hà Khánh Linh, Nguyễn Minh Châu, Võ Thị Hảo,…
Ở những tác phẩm này, chúng ta có thể thấy một đặc điểm: vô thức tập thể đã hoàn
toàn "chuyển bản quyền" thành vô thức cá nhân trong sức sáng tạo mạnh mẽ của
người nghệ sĩ thời đổi mới. Toàn bộ cấu trúc kì ảo của truyện là một ẩn dụ lớn.
Yếu tố kì ảo giúp tác giả biểu đạt biết bao điều của cuộc sống hôm nay. Nói như
Đỗ Lai Thuý: Cái biết của con người càng lớn lên bao nhiêu thì cái chưa biết của
nó cũng lớn lên bấy nhiêu. Trong cuộc sống hiện đại, khi mà lí trí của con người
trở nên rất đỗi sáng suốt và tỉnh táo thì cuộc sống ấy cũng bao hàm biết bao điều bí
ẩn cần cắt nghĩa, cần khai phá. Đôi khi không thể dùng thực tại để giải thích thực
tại, không thể dùng lí trí tỉnh táo để giải thích mọi điều về cuộc sống. Yếu tố kì ảo
đã nhận nhiệm vụ đó và có thể nói đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ đó
trong truyện ngắn.

3.2. Những huyền thoại mới trước hết được tác giả sáng tạo nên nhằm thể hiện cái
nhìn khắc khoải, cay đắng về hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Người lính
không còn trở về trong hào quang chiến thắng. Một số truyện ngắn viết về motip
người lính trở về, nhưng đó là sự trở về của những linh hồn, những oan hồn còn
nhiều lưu luyến với trần gian. Người ta bắt gặp tình huống kích thích thần kinh đó
trong Nguyệt kiếp - Võ Thị Hảo, Bến trần gian - Lưu Sơn Minh, Tiếng vạc
sành - Phạm Trung Khâu,… Ở Bến trần gian, Lưu Sơn Minh đã tạo nên chi tiết
cổ tích thần kì: ông già râu tóc bạc phơ và chiếc lá nhiệm mầu. Với Nguyệt
kiếp của Võ Thị Hảo là hình ảnh đoàn người lũ lượt đi với tiếng hú khóc rùng rợn
trong đặc khu Thủy Yến. Đó chính là linh hồn của những người lính đã chết bao
nhiêu năm lê lết trong cuộc diễu hành kì lạ đi đòi lại đôi tai, gan bàn tay bàn chân
của mình đã bị xẻo trong những ngày chiến tranh. Yếu tố kì ảo đã thức tỉnh cái
nhìn bi đát về hậu quả khắc nghiệt của chiến tranh. Chiến tranh không đơn giản
như nhiều người vẫn tưởng, vẫn nghe. Rùng rợn, đau đớn, nặng nề nhưng đó mới
chính là bản chất của cuộc chiến nặng nề mà cả dân tộc đã đi qua.

3.3. Nhiều truyện ngắn đã sử dụng yếu tố kì ảo để bộc lộ những phương diện sâu
kín nhất; những khát khao đời nhất, người nhất của con người hiện đại. Người
trong gương của Hoàng Ngọc Thư nói được nhiều điều hơn hẳn một truyện ngắn
thông thường. Những mối tình liêu trai trở thành một ẩn ngữ để các cây bút đương
đại dò sâu vào phương diện này. Đó là những mối tình liêu trai trong Chợ rằm ở
gốc cây cổ thụ - Y Ban, Bến trần gian - Lưu Sơn Minh, Tiếng vạc sành - Phạm
Trung Khâu, hầu hết các truyện trong tập Gió lạ của Phan Đức Nam thường đi về
với nguồn cảm hứng này,… Đây cũng là hướng thể nghiệm của Đỗ Hoàng Diệu,
tuy chưa thực sự thành công nhưng được ghi nhận như một nỗ lực đổi mới táo bạo.
Chất liêu trai đã tạo nên một thế giới mà ở đó những hồn ma, những linh hồn oan
khuất đi lại, nói cười, giao du với con người ở dương thế: Vật với ma, Gió lạ, Rắn
trắng - Phan Đức Nam; Nghĩa địa xóm chùa - Đoàn Lê, Người trong gương -
Hoàng Ngọc Thư, Vòng tròn im lặng - Dạ Ngân,…

3.4. Trong nỗ lực sáng tạo mạnh mẽ của văn học giai đoạn này, chúng ta còn bắt
gặp một số motip quen thuộc nhằm bộc lộ những ý chỉ phong phú, độc đáo của tác
giả: motip hóa thân, motip tội ác và trừng phạt,… Đó là những truyện ngắn đậm
chất kinh dị gợi nhớ đến Kafka, Macquez và nhiều nhà hiện thực kì ảo phương Tây
khác.

Motip hóa thân là "triệu chứng" thường thấy trong sáng tác của: Nguyễn Vĩnh
Nguyên, Hoàng Ngọc Thư, Nhật Chiêu, Phan Đức Nam, Nguyễn Minh Châu, Hà
Khánh Linh, Ngô Tự Lập,… Trong truyện ngắn Đổi mặt của Nguyễn Vĩnh
Nguyên, sự hóa thân người/chó, chó/người đã tạo nên những ám gợi lớn về kiếp
người. Với Chuyến bộ hành của Ngô Tự Lập ta lại bắt gặp một motip hóa thân
khác, sự hóa thân người/mèo. Trong Chim hạc đen của Hà Khánh Linh, vị Samon
và công chúa Nguyên Nhung hóa thành những con chim hạc. Sự hóa thân ấy vừa
nhằm tách ra khỏi thế giới ô trọc trong chốn triều thần của vua cha; vừa nhằm nhìn
kĩ, nhìn rõ hơn về thế giới ấy. Ở Rắn trắng của Phan Đức Nam là câu chuyện
người hóa rắn, Những con rối của Hoàng Ngọc Thư lại là người hóa rối, rối hóa
người để cuối cùng con người tan biến trong sự hỗn độn, mờ mịt đến nỗi không
còn phân biệt được đâu là rối, đâu là người. Đặc biệt, trong Phiên chợ Giát của
Nguyễn Minh Châu, sự hóa thân người/bò đã tạo nên những thức nhận sâu xa về
cuộc sống. Trong giấc mơ khủng khiếp, lão Khúng hóa thân thành con bò khoang
đen. Sự hóa thân bò/người đem lại những suy tư sâu thẳm về thân phận con người,
thân phận người nông dân. Đỗ Đức Hiểu coi thành công của Phiên chợ Giát như
kết quả sự kế thừa từ nhiều huyền thoại lớn: “Phiên chợ Giát là một bức tranh lạ
lùng, gợi nhớ đến Biến dạng của Kafka, Ngày cuối cùng của một người bị kết án
của Huygô, Người ở tầng hầm của Đốxtôiepxki, Ông già và biển cả của
Hêminhway…” [281]. Quả thật, bên cạnh sự hóa thân người/ngựa trong Nhân
mã của Jorn Updike, sự hóa thân người/gián trong Biến dạng của Kafka,… motip
hóa trân trong truyện ngắn kì ảo Việt Nam đã góp thêm một tiểu lưu nữa trong
dòng chảy văn học kì ảo nhân loại.

Cùng với motip hóa thân là motip tội ác và trừng phạt, một motip có sức cảnh tỉnh
lớn đối với con người hiện đại. Motip đó góp phần tạo nên sự cân bằng, sự hài hòa
cho cuộc sống thời đổi mới. Thông điệp: chẳng bao giờ có thể sống yên ổn, an bình
trong sự thừa hưởng một cách bỗng dưng từ thành quả lẽ ra phải thuộc về người
khác vẳng lên một cách rùng rợn từ ngôi nhà cổ bí hiểm, ma quái trong truyện
ngắn Tiếng kêu của ngôi nhà thủng mái (Nguyễn Tham Thiện Kế). Ở Gió lạ -
Nguyễn Đức Nam, án trừng phạt không chỉ được thực hiện trong cuộc đời mà sự
nghiêm khắc của tạo hóa còn theo con người đến kiếp sau. Sự hóa kiếp thành rắn
trong Rắn trắng của Phan Đức Nam, sự đổi mặt để nếm trải kiếp chó trong Đổi
mặt của Nguyễn Vĩnh Nguyên, hay vì tham lam nên cuối cùng phải thu nhỏ người
thành mèo trong Chuyến bộ hành của Ngô Tự Lập,… cũng nằm trong motip ấy.
Ở đây, nói như Đỗ Lai Thúy, cái kinh dị một mặt giúp ta đổi mới cái nhìn để
không "nhẵn mặt" với đời sống, mặt khác là cầu nối đưa ta vào thế giới của cái
chưa biết, cái siêu nhiên.

3.5. Những huyền thoại mới còn được các tác giả sáng tạo nên nhằm miêu tả muôn
mặt của cuộc sống. Đây là xu hướng khá phổ biến trong truyện ngắn các cây bút
thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba của hành trình đổi mới văn học: Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Vĩnh Nguyên, Phan Đức Nam, Hoàng Ngọc Thư, Nhật Chiêu,… Một đặc
điểm rất quan trọng của những truyện ngắn này là họ đã hết sức tự do trong việc
sáng tạo nên các biểu tượng kì ảo. Phong cách tư duy này được thể hiện qua nhiều
tác phẩm, các biểu tượng đa nghĩa trở thành những dụ ngôn hiện đại đòi hỏi phải
có sự giải mã mới hiểu hết được.

Phạm Thị Hoài "tạo ra một kiểu "tân huyền thoại" hoặc "phiếm huyền thoại"
không phải bao giờ cũng dễ hiểu". Truyện ngắn Hoàng Ngọc Thư tiềm tàng những
dạng kì ảo như thế: Chiếc áo, Người có phép lạ, Người đi tìm bóng tối, Những
con rối, Những giấc mơ của một người sợ bóng râm,… Nguyễn Vĩnh Nguyên
nói chuyện với nàng Mona Lisa trong đoản thiên Mona Lisa, tạo nên chất phi lí
trong Nói đi, thực ra anh là ai?, Mùa ánh sáng. Với sợi mi hạc gắn lên mắt, công
chúa Nguyên Nhung đã nhìn suốt cả triều thần của vua cha: một thế giới của beo,
gấu, khỉ, lợn, rắn hổ mang,… hiện lên nguyên chân tướng. Thế nhưng vua cha đã
không vui mừng, trái lại, đã phản ứng dữ dội "Như thể chiếc áo giáp ngụy bị một
mũi tên đột ngột xuyên thủng" (Chim hạc đen - Hà Khánh Linh). Ở Chiếc áo là
biểu tượng chiếc áo có phép lạ, vừa đem lại điều may mắn nhưng ngay sau đó lại
đi liền với một tai họa, một biểu hiện theo kiểu âm dương chuyển hóa. Ở Người có
phép lạ là một cô gái có sự mẫn cảm và khả năng kết nối cảm xúc kì lạ với những
người xung quanh. Truyện kết thúc bằng chất kinh dị phương Tây: một ngày kia,
cô bé đi qua đường đúng trên vạch kẻ của người bộ hành, một chiếc xe hơi kiểu thể
thao lao nhanh đâm chết cô bé, nghiến lên thân xác nàng rồi bỏ chạy. Mọi người
đổ xô đến và chứng kiến một cảnh tượng kì dị: "Xác của nàng tan ra thành cát bụi
hòa vào lòng đường. Một cơn gió nhẹ thoảng qua cuốn đi nốt những hạt còn
lại". Cô bé có trái tim thiên thần ấy không thể sống được với trần gian chăng, giác
quan tinh nhạy như một thứ cảm ứng ấy không thể chịu nổi những tổn thương
muôn trùng của cuộc sống hiện đại chăng?

Có thể nói, truyện ngắn huyền thoại phát triển đến đỉnh cao, trở thành nét phong
cách độc đáo nhất ở hiện tượng Nhật Chiêu. Với lợi thế của một tập truyện ra đời
cuối thập niên thứ nhất của thế kỉ XXI, tập truyện ngắn Mưa mặt nạ của Nhật
Chiêu là kết quả của sự tương tác từ nhiều hướng, nhiều chiều. Nói cách khác, yếu
tố huyền thoại đạt được sự kết tinh đậm nhất trong sáng tác của Nhật Chiêu. Ở đó,
vừa có những truyện ngắn huyền thoại lấy cảm hứng từ cổ tích dân gian: Con quạ,
Thác khói,…; nhưng ở đó lại có rất nhiều huyền thoại mới mang đậm chất huyền
ảo của Kafka và yếu tố hậu hiện đại phương Tây: Mưa mặt nạ, Cánh bèo, Chim
đã gọi tôi, Đom đóm, Mưa, Tờ giấy trắng, Salon của chúa trời, Tiếng kêu,…
Thành quả ấy đến từ một quan niệm viết mà cũng có thể nói là tuyên ngôn sáng tác
của Nhật Chiêu: nghệ thuật là ảo thực tương duyên. Với phương châm sáng tác đó,
truyện ngắn Nhật Chiêu đặc biệt phóng khoáng về quy phạm thể loại: "Không có
một biên độ, một biên thùy nào cho chính nó". Hiệu ứng của tất cả những điều đó
là: "truyện ngắn Nhật Chiêu đi lại vô ngại giữa ảo và thực, giữa cổ và kim, giữa
sống và chết, giữa thần và thú, giữa bóng tối và ánh sáng…" [6, tr.173].
Truyện ngắn Nhật Chiêu là nơi tập hợp của nhiều sáng tạo biểu tượng kì ảo. Có
biểu tượng đom đóm trong truyện ngắn Đom đóm, có biểu tượng chiếc lồng trống
rỗng đi tìm nhà thơ trong Chim đã gọi tôi, biểu tượng nước trong Hương thơm
của nước, biểu tượng mặt nạ trong Mưa mặt nạ. Đặc biệt, như sự biểu hiện của
tính liên văn bản, các biểu tượng huyền thoại tái xuất hiện qua nhiều truyện đã gợi
lên những thông điệp ngôn ngữ mới của Nhật Chiêu: đom đóm, con quạ, tờ giấy
trắng, nước, mặt nạ,… Nhiều truyện ngắn nhỏ gọn như một bài thơ nhưng lại hết
sức lung linh, đa nghĩa. Những bài thơ đầy ngụ ý chảy suốt tập truyện làm truyện
ngắn Nhật Chiêu giống truyện truyền kì nhưng phẩm chất tư duy thì đầy yếu tố
hiện thực huyền ảo dạng Kafka. Có thể coi đó là một giá trị, một phẩm chất; giá trị
- phẩm chất của sự kết hợp Đông - Tây, của tự tương tác từ cả hai chiều: nội lực và
ngoại lực.

4. Như vậy, có thể nói, huyền thoại là yếu tố thể loại mới của truyện ngắn sau đổi
mới xét về cả sự phong phú và độ kết tinh. Huyền thoại có mặt ở nhiều tác giả, tác
phẩm; huyền thoại trở thành một dòng chảy trong truyện ngắn đương đại Việt
Nam. Huyền thoại đến với truyện ngắn cũng hết sức đa dạng, nhiều chiều. Có
những huyền thoại mới, là kết quả của sự thâm nhập, sự tiếp thu dòng truyện ngắn
huyền ảo phương Tây. Trong sự phát triển của dịch thuật, của sự giao lưu Đông -
Tây, nhiều cây bút truyện ngắn tìm đến với những thành tựu của thể loại này; như
trường hợp Nguyễn Vĩnh Nguyên, Hoàng Ngọc Thư, đặc biệt là Nhật Chiêu.
Nhưng không phải là tất cả. Từ diễn trình tương tác đa dạng ở trên, chúng tôi cho
rằng: có con đường tương tác giao lưu nhưng cũng có con đường tương tác từ nội
lực truyền thống văn học dân tộc, là sự gặp gỡ thú vị trong sự vận động và phát
triển có tính quy luật của đời sống thể loại. Truyện ngắn Nhật Chiêu có sự tổng
hợp của những con đường tương tác trên, đặc biệt có sự ảnh hưởng của yếu tố kì ảo
phương Tây khá đậm nét. Thế nhưng, nói về văn xuôi: không phải nhà văn Việt
Nam nào cũng là Nhật Chiêu, cũng như nói về thơ: không phải nhà thơ Việt Nam
nào cũng là Bùi Giáng. Ở Việt Nam, nhiều nhà văn chưa từng biết đến Kafka,
Macquez, J. Joyce,… nhưng chắc chắn kho tàng huyền thoại đã nuôi họ lớn dần từ
trong sâu thẳm của vô thức tuổi thơ. Truyền thống và hiện đại, nội sinh và ngoại
sinh; tất cả đã tạo nên gương mặt vừa phong phú vừa độc đáo của truyện ngắn
huyền thoại Việt Nam sau đổi mới. Trở về với huyền thoại dân tộc hay sáng tạo
nên những huyền thoại mới, chất kinh dị phương Tây hay chất liêu trai, truyền kì
phương Đông,… cách phân chia như vậy chỉ có tính chất tương đối nhằm thấy
được những biểu hiện sinh động của tố chất huyền thoại trong truyện ngắn hôm
nay. Tương đối vì ở những tên tuổi lớn, tác phẩm của họ có sự hoà phối, sự trộn
lẫn rất khó phân tách. Đông hay Tây, truyền thống hay hiện đại; trong thế giới
phẳng, tương tác thể loại để tạo nên những liên văn bản có lẽ là hướng đi đầy hứa
hẹn của truyện ngắn huyền thoại Việt Nam.

Nha Trang, tháng 7 năm 2011

Tài liệu tham khảo:

1. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki, NXB Giáo Dục, Hà
Nội.

2. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường Viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội.

3. Roland Bathes (2008), Những huyền thoại, NXB Tri Thức, Hà Nội.

4. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: Lí luận tác gia và tác phẩm (Tập 1), NXB
Giáo Dục, Hà Nội.

5. Lê Huy Bắc (2003), Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới, NXB Giáo dục, Hà
Nội.

6. Nhật Chiêu (2008), Mưa mặt nạ, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

7. Kate Hamburger (2004), Logic học và các thể loại văn học, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. E. M. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, NXB ĐHQG H Nội, Hà
Nội.

9. Phan Đức Nam (2008), Gió lạ, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

10. Nhà xuất bản Văn hoá thông tin (2002), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn
hoá thông tin, Hà Nội.

You might also like