Professional Documents
Culture Documents
GIÁO DỤC HỌC
GIÁO DỤC HỌC
GIÁO DỤC HỌC
Tính chất: Giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, gd mang tính đảng dân tộc,
nhân dân.
Nội dung: Toàn diện: đức, trí, thể, mĩ, lao động.
Phương pháp: Tôn trọng nhân cách người học, phát huy vai trò tích cực của hs.
- Thứ hai: trong cùng 1 chế độ xã hội nhưng ở các giai đoạn phát triển khác nhau
nền giáo dục cũng thay đổi.
- Thứ ba: Mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển của mình đều có một nền
giáo dục phù hợp với chính quốc gia đó.
* Kết luận:
- Giáo dục không bất biến mà luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của xã hội –
cải cách giáo dục là tất yếu.
- Không được áp dụng rập khuôn, máy móc nền giáo dục nước này với nước khác,
địa phương này với địa phương khác...
- Lưu ý đến tính năng động của giáo dục: đi trước, dẫn đường cho sự phát triển.
b) Tính giai cấp:
Trong xã hội có phân chia giai cấp thì giáo dục tất yếu mang tính giai cấp – tính
chất này trở thành một đặc trưng cơ bản của giáo dục. Giai cấp nắm quyền luôn sử
dụng giáo dục như một công cụ để đảm bảo về mặt chính trị cũng như sự phát triển
của xã hội.
* Biểu hiện:
- Giáo dục là công cụ truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, quan điểm, chính sách,…
của giai cấp cầm quyền.
- Giáo dục là đặc quyền, đăc lợi của giai cấp cầm quyền.
- Giáo dục là đào tạo ra những người trung thành với lợi ích của giai cấp cầm
quyền.
+ Xã hội Việt Nam hiện nay có phân chia giai cấp -> Giáo dục Việt Nam hiện nay
cũng mang tính giai cấp.
+ Giữa các giai cấp không có mâu thuẩn đối kháng -> tính giai cấp của Giáo dục
Việt Nam hiện nay khác về bản chất so với tính giai cấp của Giáo dục Việt Nam
trong xã hội cũ.
* Kết luận:
- Khẳng định: Trong xã hội cũ có giai cấp đối kháng, không thể có một nền giáo
dục trung lập hoặc đứng ngoài cuộc đấu tranh giai cấp, thoát li hệ tư tưởng giai
cấp.
+ Mọi quan điểm phủ nhận tính giai cấp của giáo dục đều sai lầm.
c) Tính kế thừa:
Xuất phát từ đặc trưng của giáo dục: sự truyền đạt kinh nghiệm xã hội từ thế hệ
trước cho thế hệ sau.
* Biểu hiện:
- Xã hội bước sang thời kì mới, nền giáo dục cũ không còn phù hợp, bộc lộ những
yếu tố lạc hậu, bất cập => đòi hỏi thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn
mới.
- Sự thay đổi và phát triển nền giáo dục mới dựa trên những thành quả của nền giáo
dục trước. Ví dụ: nền giáo dục của nước ta hiện nay là nền giáo dục mang tính đột
phá. Một mặt vừa kế thừa những thành quả của hơn 60 năm nền giáo dục cách
mạng và truyền thống hơn 4000 năm văn hiến của dân tộc. Mặt khác vừa phải tiếp
nhận những thành tựu tiên tiến của nền giáo dục trên thế giới cũng như những
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại của nhân loại.
* Kết luận sư phạm:
- Cần tránh hai quan điểm cực đoan, sai lầm: phủ nhận sạch trơn nền giáo dục cũ;
tư tưởng hoài cổ, luyến tiếc quá khứ -> trì trệ, bảo thủ, không chịu đổi mới.
- Cần thừa kế có chọn lọc, phê phán, sáng tạo: tiếp nhận những yếu tố tích cực,
mạnh dạn xóa bỏ những yếu tố lạc hậu.
Câu 3: Vai trò của bẩm sinh – di truyền đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách?
Để phân tích vai trò của yếu tố bẩm sinh- di truyền đối với sự hình thành và phát
triển nhâncách thì chúng ta cần nắm một số khái niệm sau:
- Nhân cách: Là toàn bộ những thuộc tính đặc biệt mà một con người có được
trong hệ thốngcác quan hệ xã hội, là mức độ chiếm lĩnh các giá trị văn hóa vật chất
và tinh thần. Những thuộctính đó bao hàm các thuộc tính về trí tuệ, đạo đức, thẫm
mĩ, thể chất.
- Sự phát triển nhân cách: Là sự biến đổi tổng thể các yếu tố tự nhiên, tâm lí, xã hội
trong con người. Bao gồm cả những biến đổi về lượng và những biến đổi về chất
trong đó chủ yếu là biến đổi về chất. Có tính đến dặc điểm lứa tuổi của họ.Nhân
cách được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng và tác động phối hợp của nhiều
nhân tố khác nhau như: Bẩm sinh- di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá
nhân.
- Bẩm sinh – di truyền:
+ Bẩm sinh: những thuộc tính, đặc điểm sinh học có sẵn ngay từ khi đứa trẻ mới
sinh.
+ Di truyền: sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm sinh học nhất định
của nòi giống, được ghi lại trong một chương tình độc đáo của hệ gen.
a) Vai trò:
- Thứ nhất: nhờ được di truyền các yếu tố tư chất người mà con người (mặt tự
nhiên) trở thành người (mặt tự nhiên + xã hôi), khác với con vật (di truyền tạo ra
sức sống trong bảnchất của con người).
- Thứ hai: di truyền tốt sẽ tạo cơ hội, nền tảng, tiền đề tốt để phát triển nân cách
(tạo ra khả năng cho con người hoạt động có kết quả trong lĩnh vực nhất định. Tuy
nhiên, được di truyền tốt chưa chắc đã có nhân cách tốt nếu không chịu rèn luyện
trong một môi trường nất định.
- Thứ ba: những yếu tố bẩm sinh – di truyền có thể gây khó khan cho sự hình tốt
thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên, không có yếu tố bẩm sinh – di truyền tốt
nhưng nếu có môi trường hoạt động tốt, được hưởng ền giáo dục tốt, đặc biệt nếu
bản than tự cố gắng thì vẫn có thể trở thành người tài.
Bẩm sinh – di truyền là tiền đề vật chất, tạo cơ sở chứ không phải nguyên nhân, là
yếu tốquyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
b) Quan điểm sai lầm:
- Phủ nhận: coi bẩm sinh – di truyền không có vai trò gì đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách.
+ Thuyết “Giáo dục là vạn năng”.
+ Thuyết “Định mệnh do hoàn cảnh” Bỏ lỡ cơ hội phát hiện, phát triển tư chất tốt ở
trẻ; phủ nhận vai trò tích cực cá nhân.
- Đề cao, tuyệt đối hóa: coi bẩm sinh- di truyền là yếu tố quyết định tuyệt đối trong
sự hình thành và phát triển nhân cách.
+ Thuyết “Định mệnh do di truyền”, “Thuyết ưu sinh”.
+ Phái “Nhi đồng học”.
+ Quan điểm của Đức quốc xã trong chương trình nhằm tạo ra những đứa trẻ thuần
chủng Phản khoa học, bảo vệ cho học thuyết phân biệt chủng tộc.
c) Kết luận sư phạm:
- Đánh giá đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách. Không tuyệt đối hóa cũng không phủ nhận, coi thường bất kì một vai
trò nào.
- Tổ chức hoạt động và giao tiếp phong phú, đa dạng điều kiện cho học sinh bộc lộ
tư chất, năng khiếu.
- Quan tâm, phát triển kịp thời, đồng thời, làm tốt công tác bồi dưỡng năng khiếu,
đào tạo nhân tài, động viên khích lệ những học sinh khuyết tật, có hoàn cảnh khó
khăn.
- Phát huy tính tích cực của cá nhân trong quá trình giáo dục.
Trong mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức của xã hội loài người với hoạt động
dạyhọc trong đó hoạt động nhận thức của xã hội loài người có trước và hoạt động
dạy học củagiáo viên và học sinh có sau. Suy cho cùng thì hoạt động dạy học của
giáo viên và học sinhđang đi tổ chức, khai thác những kiến thức, kĩ năng, kinh
nghiệm xã hội đã có từ lâu để củngcố, duy trì, bảo tồn những vốn kinh nghiệm và
phát triển chúng trong những giai đoạn lịch sử.
+ Cơ sở lý luận dạy học: Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học, giữa
giáo viên với học sinh trong quá trình dạy học.
Qúa trình học tập = Giáo viên-dạy <-> Học sinh-học
Chủ đạo Chủ động
Tổ chức Tự tổ chức
Điều khiển Tự điều khiển
Bản chất là các thuộc tính vốn có bên trong của các sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Tiêu chí Hoạt động nhận thức của Hoạt động nhận thức của
học sinh nhà khoa học
Điều kiện của hoạt động Điều kiện sư phạm thuận Điều kiện thực của đời
nhận thức lợi được tổ chức hướng sống xh khó khăn: độc lập
dẫn của những người giáo tự khám phá mò mẫm,..
viên, sách giáo khoa, tài
liệu học tập
Tính chất của hoạt động Luôn mang tính giáo dục Có thể có hoặc không có
nhận thức tính giáo dục
Thời gian hoạt động nhận Ngắn Lâu dài
thức
Đối tướng hoạt động nhận Cái mới đối với bản thân Cái mới đối với nhân loại
thức học sinh
Logic hoạt động nhận 6 khâu: trực quân, tự duy, 3 khâu: trực quan, tư duy,
thức thực tiễn, kích thuchs thực tiễn
hứng thú học tập, ôn tập,
kiểm tra
Kết quả hoạt động nhận Làm phong phú thêm vốn Làm phong phú thêm kho
thức hiểu biết kỹ năng, kỹ tàng văn hóa nhân loại
xảo,.. của học sinh
=> Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh
dưới vai trò chủ đạo của giáo viên.
Câu 4 : Vai trò của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách :
* Môi trường là hệ thống những yếu tố, hoàn cảnh bên ngoài, những điều
kiện tự nhiên, xã hội tác động đến cuộc sống và hoạt động của con người. Có
hai loại môi trường là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội:
- Môi trường tự nhiên là điều kiện địa lý, sinh thái.... Nó có ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển thể chất, đến cuộc sống và hoạt động của con người.
- Môi trường xã hội ở phạm vi rộng đó là chế độ chính trị - xã hội, thể chế
kinh tế, chính sách, nền văn hóa của quốc gia. Ở phạm vi hẹp, đó là một bộ
phận của môi trường lớn, hay còn gọi là hoàn cảnh - cái trực tiếp tác động đến
cuộc sống của các cá nhân. Đó là các mối quan hệ gia đình, nhà trường, nhóm
bạn, địa phương, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị ở
nơi sinh sống. Môi trường nhỏ tác động trực tiếp đến trẻ, môi trường lớn ảnh
hưởng đến trẻ thông qua môi trường nhỏ. Song môi trường nhỏ có tính độc lập
tương đối, chịu sự biến đổi dễ dàng và nhanh chóng hơn.
* Vai trò của yếu tố môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách
Khi nói ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân
cách, trước hết và chủ yếu muốn nhấn mạnh đến môi trường xã hội mà trong
đó chính các hệ thống, các quan hệ chính trị, kinh tế, tư tưởng có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất thông qua địa vị giai cấp, địa vị xã hội của cá nhân. Vai trò đó
được thể hiện cụ thể như sau:
- Một là, môi trường đưa ra những yêu cầu khách quan đối với nhân cách
con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Thực chất đó là mô hình,
kiểu mẫu nhân cách con người mà xã hội xem là mục tiêu phấn đấu phải xây dựng
cho bằng được, đồng thời cũng xem đó là nguồn động lực cho sự phát triển liên tục
của xã hội. Mặt khác mỗi thành viên trong xã hội cũng phải coi mẫu nhân cách đó
là mục tiêu của bản thân để học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo mô hình nhân cách
đó nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã hội và như vậy các cá nhân đã góp phần tích
cực vào sự nghiệp chung của xã hội.
- Hai là, môi trường tạo ra các phương tiện, điều kiện cho sự hình thành
và phát triển nhân cách theo các yêu cầu khách quan đã được xác định. Đó là
những điều kiện, phương tiện giúp cho con người tham gia vào các hoạt động và
giao lưu với những nội dung và hình thức đa dạng, phong phú, nhờ đó mà các cá
nhân có thể chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội, các giá trị văn hóa của loài
người để hình thành và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
- Ba là, môi trường quan tâm đặc biệt, khai thác và sử dụng hợp lý, có
hiệu quả những khả năng hiện có của con người với nhân cách đang phát
triển, nhằm không ngừng thúc đẩy bản thân nó phát triển theo những định
hướng mà môi trường đã xác định. Nói cách khác, mỗi con người với nhân cách
đang phát triển được môi trường kích thích sẽ góp phần tích cực vào việc phát
triển môi trường ngày càng văn minh, hiện đại. Và cũng chính trong quá trình đó,
trong môi trường đó con người có điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển và hoàn
thiện nhân cách của bản thân.
- Bốn là, môi trường ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách con người thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng như: quan hệ giai
cấp, dân tộc, gia đình; quan hệ sản xuất; quan hệ tư tưởng... Nhờ có các quan
hệ xã hội này mà môi trường và con người tác động qua lại với nhau, trên cơ sở đó
nhân cách con người được hình thành và phát triển. Vì thế mỗi người đều cần phải
tham gia vào các mối quan hệ cụ thể nhất định nhằm chiếm lĩnh các kinh nghiệm
xã hội, các giá trị đạo đức, nhân văn... để trên cơ sở đó có thể hình thành, phát triển
và hoàn thiện nhân cách của bản thân phù hợp với những yêu cầu chung của xã
hội.
- Năm là, môi trường ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách, song ảnh hưởng đó theo chiều hướng và mức độ khác nhau đối với các
loại thành phần xã hội khác nhau, thậm chí ở các cá nhân khác nhau. Bởi vì
trong cùng một môi trường xã hội nhưng mỗi thành viên lại có vị trí xã hội, điều
kiện sống, học tập, lao động... khác nhau. Vì vậy ảnh hưởng của môi trường đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách của các thành phần xã hội khác nhau sẽ
không hoàn toàn giống nhau. Tương tự như vậy, ảnh hưởng của các thành viên xã
hội khác nhau đối với môi trường cũng không hoàn toàn giống nhau.
- Sáu là, môi trường không chỉ ảnh hưởng tích cực mà còn ảnh hưởng tiêu
cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân.
Môi trường tác động đến con người nhưng con người cũng có thể tác động
trở lại và cải tạo môi trường. C. Mác nói: “hoàn cảnh sáng tạo ra con người
trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”. Vì vậy, con người bằng
tính tích cực của mình cần phải cải tạo hoàn cảnh theo nhu cầu và lợi ích của
mình. Những gì tốt đẹp thì giữ lại, những gì còn chưa phù hợp thì điều chỉnh
cho phù hợp, những gì lạc hậu thì kiên quyết loại bỏ. Cải tạo cái xấu, tạo dựng
cái tốt đẹp hơn cho xã hội chính là tạo ra môi trường giáo dục tốt cho con
người.
* Phê phán những quan điểm sai lầm về vai trò của yếu tố môi trường
Quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của môi trường đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Tiêu biểu là thuyết “Định mệnh do hoàn cảnh”, những
người theo trường phái này cho rằng, một đứa trẻ sinh ra dù nó có bị khuyết tật gì
nhưng nếu được sống trong môi trường tốt thì chúng sẽ trở thành người tốt. Hoặc
mỗi đứa trẻ, mỗi con người như một tấm lụa trắng, đứa trẻ đó sẽ trở thành người
như thế nào là hoàn toàn do môi trường tạo nên.
Ngược lại với quan điểm trên, quan điểm thứ hai lại phủ nhận hoàn toàn
vai trò của môi trường, những người theo trường phái này cho rằng, môi
trường không có vai trò, tác dụng gì đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách của con người. Tiêu biểu cho quan điểm này là thuyết “Giáo dục là vạn
năng”.
Nếu đề cao quá mức hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò của môi trường
cũng đều sai lầm và phản khoa học. Môi trường tuy không có vai trò quyết
định đối với sự phát triển nhân cách nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng
bởi vì con người không thể trở thành người theo đúng nghĩa, càng không thể
trở thành người có nhân cách nếu không được sống trong xã hội loài người,
không có sự giao lưu với đồng loại, không có quá trình tham gia vào các hoạt
động xã hội.
* Kết luận sư phạm
- Gia đình, nhà trường và mỗi cá nhân cần phải phát huy và khai thác triệt
để những yếu tố tích cực của môi trường.
- Cần phải phòng ngừa, hạn chế tối đa và loại bỏ hẳn những yếu tố tiêu
cực của môi trường đến sự phát triển nhân cách của học sinh.
- Nhà trường, gia đình và xã hội cần phải phối hợp thống nhất với nhau,
tạo ra môi trường trong sạch và lành mạnh, giúp ích cho sự phát triển nhân
cách của các thành viên trong xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ.
- Nhà trường, gia đình cần phải giúp thế hệ trẻ có những hiểu biết cần
thiết về các tệ nạn xã hội, tác hại của chúng thông qua các hoạt động tập thể,
các buổi hoạt động ngoại khóa, đồng thời giúp các em có bản lĩnh vững vàng
để chống lại những cám dỗ tiêu cực của môi trường xã hội.
Câu 5: Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Khái niệm giáo dục
Giáo dục được hiểu theo nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Khi nói đến vai trò
của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách, người ta muốn nhấn mạnh đến giáo
dục nhà trường. Đó là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, có nội
dung, phương pháp được thực hiện trong hệ thống nhà trường nhằm hình thành và
phát triển nhân cách con người phù hợp với những yêu cầu của xã hội trong những
giai đoạn lịch sử nhất định.
Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Trong tất cả các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
con người, giáo dục được xem là yếu tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng mạnh mẽ
và sâu sắc nhất. Bởi vì:
- Một là, giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, kế hoạch, có
nội dung, phương pháp, phương tiện nhằm định hướng cho sự hình thành và
phát triển nhân cách.
- Hai là, giáo dục được thực hiện trong các cơ quan chức năng chuyên biệt
do đội ngũ giáo viên - những người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm, hiểu biết đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi và có khả năng tổ chức hoạt
động phụ trách.
- Ba là, giáo dục tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách
theo mô hình đã được xác định.
- Bốn là, giáo dục còn tác động đến các yếu tố khác như: di truyền, bẩm
sinh; môi trường; hoạt động của cá nhân nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình
phát triển nhân cách
+ Đối với yếu tố di truyền, bẩm sinh: giáo dục có thể tạo ra những điều kiện
thuận lợi để các yếu tố di truyền được bộc lộ và phát triển; phát hiện, những yếu tố
di truyền, có lợi cho một số lĩnh vực hoạt động nào đó (thường gọi là năng khiếu),
bồi dưỡng kịp thời định hướng để phát triển tài năng cho đất nước. Giáo dục còn
có khả năng, cải tạo những yếu tố không thuận lợi do di truyền, bẩm sinh đem lại
cho con người. Thông qua các trung tâm phục hồi chức năng, trung tâm nuôi, dạy
trẻ khuyết tật như: câm, mù, điếc, chậm phát triển trí tuệ... với đội ngũ chuyên viên
được đào tạo chu đáo cộng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật.
+ Đối với yếu tố môi trường: giáo dục có thể phát hiện những yếu tố thuận lợi
của môi trường và sử dụng chúng phục vụ cho việc giáo dục con người. Giáo dục
đã biết kết hợp các môi trường giáo dục như: nhà trường, gia đình và xã hội để tạo
ra sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện để người học sinh được giáo dục ở mọi nơi,
mọi chỗ, mọi lúc. Giáo dục có thể hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng không
thuận lợi của môi trường đối với sự phát triển nhân cách của con người.
+ Đối với hoạt động cá nhân: Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động và
giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân.
Đặc biệt công tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa
thầy trò, giữa bạn bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia
vào các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân
cách.
Qua đây ta thấy, giáo dục có vai trò rất quan trọng không thể thiếu được đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục đóng vai trò chủ đạo nhưng
giáo dục không phải là vạn năng. Bởi vì sự hình thành và phát triển nhân cách là
kết quả phối hợp của nhiều nhân tố tác động. Yếu tố giáo dục chỉ có thể phát huy
được tác dụng khi có sự hỗ trợ, phối hợp với các yếu tố khác. Giáo dục chỉ giữ
được vai trò chủ đạo khi tổ chức khoa học, dựa trên các cơ sở khoa học về con
người. Phải biến được giáo dục là những tác động bên ngoài trở thành tự giáo dục,
làm cho cá nhân có ý thức tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
* Phê phán những quan điểm sai lầm về vai trò của giáo dục
- Tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, tiêu biểu là thuyết “Giáo dục là vạn năng”.
Những người theo trường phái này quan niệm, tâm hồn trẻ em là những tờ giấy
trắng, chiếc bảng sạch, nhà giáo dục có thể đào tạo mọi hình mẫu nhân cách lý
tưởng mà mình mong muốn.
- Phủ nhận vai trò của giáo dục, tiêu biểu là thuyết “Định mệnh do di truyền”
và “Định mệnh do hoàn cảnh”. Những người theo trường phái này phủ nhận hoàn
toàn vai trò của giáo dục, họ quan niệm sự phát triển của mỗi cá nhân do môi
trường, hoàn cảnh tạo nên hoặc do Trời qui định.
Những quan điểm trên hoặc là đề cao quá mức, hoặc phủ nhận hoàn toàn vai
trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, đều là những quan
niệm sai lầm, phản khoa học.
* Kết luận sư phạm
- Giáo dục là yếu tố có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách cho mỗi con người.
- Các nhà giáo dục phải đưa học sinh vào tập thể để giáo dục các em, thông qua
các hoạt động phong phú, đa dạng để giáo dục các em.
- Phát huy vai trò tích cực, tự giác của mỗi cá nhân. Đề cao vai trò tự giáo dục,
tự rèn luyện của học sinh.