Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 100

LUẬN VĂN:

Chính sách đối ngoại trong điều kiện


hội nhập quốc tế của Cộng hoà Dân
chủ nhân dân Lào
mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Từ Đại hội IV năm 1986, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khởi xướng và lãnh
đạo công cuộc đổi mới đất nước. Hai mươi năm qua, sự nghiệp đổi mới của Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng.
Đường lối, chính sách đối ngoại là một bộ phận trong toàn bộ đường lối, chính sách nói
chung của một chủ thể quyền lực chính trị. Là sự tiếp tục của chính trị đối nội, chính
sách đối ngoại có mục tiêu góp phần bảo vệ và nâng cao vị trí của quốc gia trên trường
quốc tế. Việc đề ra và thực thi chính sách đối ngoại như thế nào đều có ảnh hưởng tới
hoà bình, ổn định và phát triển của mỗi quốc gia, cũng như sự hưng vong của mỗi dân
tộc. Vì vậy, cũng giống như các chủ thể nắm quyền lực chính trị ở các nước khác, trong
tổng thể đường lối và chính sách của mình, Đảng và Nhà nước Lào luôn rất quan tâm
tới chính sách đối ngoại.
Trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt về mặt kinh tế và khoa học - công nghệ
trên thế giới, mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia đang diễn
ra những chuyển biến quan trọng. Đây là một nhân tố mà nhất thiết các nước phải tính
đến trong việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển của mình.
Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất thế giới
đã có bước phát triển vượt bậc chưa từng có trong lịch sử, nó không giới hạn trong
phạm vi của mỗi nước, mà trở thành xu hướng có tính chất quốc tế mạnh mẽ. Trong bối
cảnh đó, xu hướng tăng cường quan hệ hợp tác về mặt kinh tế của mỗi nước ngày càng
phát triển, trở thành yếu tố quan trọng góp phần củng cố và tăng cường xu hướng vừa
hợp tác vừa đấu tranh giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau trên thế giới hiện nay.
Do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá kinh
tế, nên quá trình hội nhập quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia trở thành một
đòi hỏi khách quan, mang tính tất yếu.
Với vị trí địa lý thuận lợi, nước CHDCND Lào trở thành địa bàn đóng vai trò
"trung tâm" của Đông Nam á, nối liền từ phía Tây tới phía Đông, từ phía Bắc xuống
phía Nam. Do có vị trí chiến lược quan trọng và khá nhạy cảm như vậy, nên trong các
thời kỳ lịch sử trước đây cũng như hiện nay, đất nước Lào có điều kiện thuận lợi thúc
đẩy sự hợp tác quốc tế nói chung cũng như trong ASEAN nói riêng. Đồng thời, sự phát
triển hợp tác giữa nước CHDCND Lào và các nước góp phần đẩy mạnh tiến trình hội
nhập, trước hết về mặt kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV (1986) của Đảng NDCM Lào về công tác đối
ngoại theo tư duy mới, các bộ tộc Lào đã cố gắng tạo lập môi trường hoà bình nhằm
phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ
quốc tế của mình, phối hợp đấu tranh hướng tới biện pháp giải quyết về mặt chính trị
đúng đắn các vấn đề quốc tế có liên quan, góp phần củng cố hoà bình, ổn định ở Đông
Nam á, đóng góp vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới, địa vị của đất nước Lào trên
trường quốc tế ngày càng được củng cố và tăng cường. Quan hệ quốc tế, nhất là về mặt
kinh tế được mở rộng, do đó từng bước kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đúng như Đảng và
Nhà nước Lào đã khẳng định: Nguyện vọng tha thiết của nhân dân các bộ tộc Lào là lúc
nào cũng mong muốn được sống và lao động trong hoà bình, có quan hệ hữu nghị tốt
với các dân tộc trên thế giới. CHDCND Lào tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính
sách đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị tốt với tất cả các nước, không phân biệt chế
độ chính trị, xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của
nhau, bình đẳng đôi bên cùng có lợi, góp phần cùng với các dân tộc trên thế giới trong
sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội".
Thế giới ngày nay đang vận động, biến đổi rất nhanh chóng, phức tạp và khó
lường. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các bộ tộc Lào đang đứng trước
những vận hội mới, nhưng cũng đang đối diện với không ít thách thức to lớn về nhiều
mặt. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay là phải
bám sát sự biến động của tình hình trong nước và quốc tế để đề ra chính sách đối ngoại
có hiệu quả, nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào
hướng tới mục tiếu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Việc nghiên cứu để nắm được quá trình hình thành và phát triển đường lối, chính
sách đối ngoại đổi mới của nước CHDCND Lào là một trong những vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ nhận thức đó, học
viên chọn đề tài: "Chính sách đối ngoại trong điều kiện hội nhập quốc tế của Cộng
hoà Dân chủ nhân dân Lào" làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đường lối, chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhà nước
Lào cũng như các vấn đề liên quan đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu trực tiếp
hoặc gián tiếp với những khía cạnh khác nhau.
Những nội dung cơ bản về chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nước Lào. Trong được thể hiện rõ nét trong văn kiện Đảng, các sách và bài
viết, bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Lào. Trong thời kỳ đổi
mới, khi nghiên cứu về chính sách và quan hệ đối ngoại không thể không đề cập các
văn kiện như: Văn kiện Đại hội III Đảng NDCM Lào Lào (Nxb Nhà in quốc gia Lào,
1982); Văn kiện Đại hội IV Đảng NDCM Lào Lào (Nxb Nhà in quốc gia Lào, 1986);
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương 5 khoá IV (1988); Chuyển xuống nông thôn
và mở rộng quan hệ với nước ngoài - Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương 7
khoá IV (1989); Văn kiện Đại hội V Đảng NDCM Lào ( Nxb Quốc gia Lào, 1991); Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương 5 khoá V (1992); Văn kiện Đại hội VI Đảng
NDCM Lào (Nxb Quốc gia Lào, 1996); 5 kinh nghiệm của Đảng NDCM Lào từ sự lãnh
đạo đổi mới ( Ban Tuyên huấn Trung ương, 2000); Văn kiện Đại hội VII Đảng NDCM
Lào Lào (Nxb Quốc gia Lào, 2001); Hiến pháp của CHDCND Lào (sửa đổi, bổ sung);
Luật pháp về sự quản lý địa phương (2003); Văn kiện Đại hội VIII Đảng NDCM Lào,
(Nxb Quốc gia, 2006).
Bên cạnh đó, các tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Lào cũng
tập trung phân tích làm rõ những định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối
ngoại Lào thời kỳ đổi mới. Trong đó, đáng chú ý là các tác phẩm của lãnh tụ Cay Xỏn -
Phôm - Vi - Hản về Cách mạng dân tộc dân chủ (Tuyển tập, tập 1, Nxb Viêng Chăn,
1985); Vấn đề quan hệ kinh tế với nước ngoài, (Tuyển tập, tập 2, Nxb Viêng Chăn,
1987); Điều chỉnh toàn diện giành lấy thắng lợi mới trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược (Nxb Quốc gia, 1988) và tác phẩm của đồng chí Khăm Tay Xỉ-Phăn-Đon: Trong
sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Nxb Viêng Chăng,
1998). Bài phát biểu ý kiến của đồng chí Khăm Tày Xỉn- Phăn - Đon với công tác đối
ngoại lần thứ 7 (ngày 21/2/1997).
Ngoài ra, công tác đối nogại của Đảng và Nhà nước Lào còn được phản ánh trên
nhiều khía cạnh trong các văn bản chính thức của Chính phủ CHDCND Lào như: Báo cáo
tổng kết kết quả hoạt động đối ngoại của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào từ 1995-2001;
Chiến lược xoá đói giảm nghèo (2001); Báo cáo phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 5
năm lần thứ VI (2006 - 2010); Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2005-2006 và các
bài viết trên các tạp chí tuyên truyền của Đảng và Nhà nước Lào về hoạt động đối
ngoại.
ở Việt Nam, có một số luận văn, luận án, tài liệu đã đề cập những vấn đề đối
ngoại của CHDCND Lào có liên quan đề tài này cả về nội dung và phương pháp tiếp
cận như: Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (Nxb Sự thật, 1983); Trần Xuân Cầu:
Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993); GS. Lương
Ninh - PGS. Nguyễn Đình Vỳ - PGS. Đinh Ngọc Bảo: Đất nước Lào lịch sử và văn hoá
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn và Th.S Thái Văn
Long: Quan hệ đối ngoại của các nước ASEAN (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997);
Đề tài khoa học cấp Bộ: Quan hệ giữa Việt Nam và Lào trong giai đoạn hiện nay của
Viện Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Hà Nội, 2000);
Nguyễn Văn Lung: Một số vấn đề về quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Lào (Tiểu luận
tốt nghiệp lý luận chính trị cao cấp lớp Ban Tổ chức Trung ương khoá 1999-2001);
Dương Thị Huệ (2004): Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối
ngoại trong những năm đổi mới từ 1991-2001 (Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh); Ngô Chí Nguyện (2005): Quá trình hoạch định và
thực thi đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ 1991 đến nay
(Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)...
Các công trình và các bài viết nói trên, dưới góc độ và cách tiếp cận khác nhau
đã đề cập, phân tích từng mặt, từng khía cạnh của đường lối, chính sách đối ngoại đổi
mới của Đảng và Nhà nước Lào; đồng thời nêu ra những bài học kinh nghiệm lãnh đạo
đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam, có giá trị tham khảo hữu ích khi nghiên cứu
đổi mới chính sách đối ngoại của CHDCND Lào hiện nay. Mỗi công trình, bài viết có
một cách tiếp cận, phạm vi nghiên cứu và sự đánh giá khác nhau. Song, nhìn chung đều
nhấn mạnh yêu cầu tất yếu của việc đổi mới mạnh mẽ chính sách đối ngoại của
CHDCND Lào nói riêng và của các nước nói chung nhằm hội nhập với khu vực và thế
giới một cách hiệu quả. Mặt khác, các công trình, bài viết cũng nêu bật những thành tựu
cùng với những khó khăn, hạn chế trong quá trình tiến tới chính sách đối ngoại của
CHDCND Lào. Trong phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận dưới góc độ của khoa học
chính trị học, đề tài luận văn này mong muốn góp thêm một tiếng nói trong việc nghiên
cứu, đánh giá về quá trình hình thành , những kết quả của việc thực hiện đường lối,
chính sách đối ngoại của CHDCND Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay và
xu hướng vận động của nó những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luậnvăn
* Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, sự hình thành hoàn thiện, phát triển
đường lối, chính sách đối ngoại của nước CHDCND Lào trong điều kiện hội nhập quốc
tế hiện nay, từ đây nêu và đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện
đường lối, chính sách đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong những năm tới.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước Lào trong thời kỳ đổi mới.
- Đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách đối ngoại trong điều kiện hội nhập
quốc tế, chỉ ra những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế chủ yếu.
- Đề xuất một số kiến nghị đối với công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào
nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế trong những năm tới.
Việc nghiên cứu đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào được
nhìn nhận, phân tích và đánh giá dưới góc độ của khoa học chính trị học.
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào có thể tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau về mặt thời gian, không gian và nội dung. Song đề tài này
tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của CHDCND Lào từ Đại hội Đảng NDCM
Lào lần thứ VI (1996) đến nay. Đại hội VI với tính cách một dấu mốc bước ngoặt trong
đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới do Đảng NDCM Lào khởi xướng từ Đại hội IV
(1986). Tuy nhiên, trong tính hệ thống của nó, đề tài có liên hệ, phân tích chính sách đối
ngoại từ Đại hội IV và việc thực hiện chính sách đó như là nền móng ban đầu của quá
trình đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong điều
kiện hội nhập quốc tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về dân tộc và thời đại, về
các mối quan hệ quốc tế và về đường lối, chính sách đối ngoại. Đây là cơ sở lý luận
quan trọng nhất định hướng quá trình thực hiện đề tài luận văn.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ các phương pháp phân tích, tổng
hợp thống kê, khảo sát văn bản, kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, lịch sử và lôgíc.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, từ đó phân
tích chính sách đối ngoại của nước CHDCND Lào thời kỳ đổi mới một cách lôgíc, hệ
thống và luận giải dưới góc độ của khoa học chính trị. Luận văn đi sâu phân tích, làm rõ
chính sách đối ngoại của nước CHDCND Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện
nay, góp phần tổng kết việc thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà
nước Lào trong 20 năm qua. Đồng thời, trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và
quốc tế hiện nay và những năm sắp tới, luận văn đề xuất một số kiến nghị đối với việc
tăng cường hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong điều kiện từng
bước đi sâu hội nhập kinh tế quốc tế.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc tiếp
tục đổi mới tư duy đối ngoại và chính sách đối ngoại của nước CHDCND Lào trong
điều kiện hội nhập quốc tế. Những kiến nghị được đề xuất trong luận văn sẽ góp phần
nhất định vào thúc đẩy sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới chính sách đối ngoại nói
riêng tiếp tục hoàn thiện, phát triển. Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
đối với những ai quan tâm tìm hiểu về đường lối đổi mới nói chung và đường lối, chính
sách đối ngoại đổi mới nói riêng của Đảng và Nhà nước Lào.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
sự hình thành, phát triển chính sách đối ngoại
đổi mới của đảng và Nhà nước lào

1.1. một số vấn đề lý luận về đường lối, chính sách đối ngoại
Nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển chính sách đối ngoại đổi mới
của Đảng, Nhà nước Lào rất cần thiết phải làm rõ một số vấn đề lý luận chung về đường
lối, chính sách đối ngoại. Trong đó, việc nắm vững khái niệm về đường lối, chính sách
đối ngoại, mối quan hệ giữa đối nội và đối ngoại, sự phân biệt giữa đường lối đối ngoại
của Đảng NDCM Lào với chính sách đối ngoại của Nhà nước CHDCND Lào... có ý
nghĩa rất quan trọng.
Trước hết có thể thấy, chủ thể hạt nhân của quyền lực chính trị ở các quốc gia
dân tộc bao gồm các đảng phái và các lực lượng chính trị khác trong xã hội. Mỗi đảng
phái chính trị đều có cương lĩnh, đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại riêng phản
ánh lợi ích, bản chất, mục tiêu chính trị của giai cấp và đều hướng tới việc nắm và chi
phối quyền lực nhà nước để từ đó hiện thực hoá ý chí của giai cấp mình đối với toàn xã
hội. Như vậy, việc hoạch định đường lối, chính sách, trong đó có lĩnh vực đối ngoại,
trước hết được thực hiện bởi các đảng chính trị.
Nhà nước - chủ thể trung tâm của quyền lực chính trị ở mọi quốc gia dân tộc đều
thể hiện quyền lực và thực hiện vai trò quản lý của mình đối với xã hội bằng việc đề ra
các đường lối, chính sách trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và tổ chức thực hiện nó
bằng một hệ thống các thể chế và thiết chế thống nhất. Đường lối chính sách của một
đảng phái chính trị sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với toàn xã hội nếu đảng phái chính trị đề
ra đường lối, chính sách đó cũng là đảng phái nắm và chi phối quyền lực nhà nước ở
quốc gia đó. Việc hoạch định đường lối, chính sách là khâu đầu tiên và là công việc
quan trọng hàng đầu mà mỗi chủ thể quyền lực chính trị phải tiến hành trong quá trình
xác lập, củng cố vai trò lãnh đạo, quản lý xã hội của mình.
Cho đến nay, về khái niệm đường lối, chính sách, còn tồn tại nhiều cách giải thích
khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt do Nguyễn Văn Đạm chủ biên, đường lối được hiểu là
cách thức về phương hướng đề ra cho một hoạt động nhằm thực hiện một chủ trương
chung [94, tr.306]. Còn chính sách là đường lối, chủ trương do một chính phủ hoặc một
đảng cầm quyền thực hiện để điều hành việc nước trong nội bộ hoặc trong mối quan hệ
đối ngoại [94 tr.147]. Như vậy, ở đây sự phân biệt giữa hai khái niệm đường lối và chính
sách là có tính tương đối, trong đó đường lối của một chủ thể quyền lực chính trị cũng
chính là chính sách của chủ thể đó, và chính sách do chủ thể nắm quyền đề ra và thực
hiện cũng là đường lối, phương châm hoạt động của chủ thể đó. Cách hiểu này đúng với
nhiều trường hợp, nhưng nó làm người ta dễ lẫn lộn và đồng nhất đường lối với chính
sách là một.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, do Nguyễn Như ý chủ biên, đường lối là phương
hướng có tính chủ đạo lâu dài trong hoạt động của một quốc gia hay một tổ chức chính
trị lớn [92, tr.683]. Còn chính sách là chủ trương và các biện pháp của một đảng phái,
một Chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội [92, tr.368]. ở đây có sự phân biệt
khá rõ giữa hai khái niệm đường lối và chính sách.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đường lối là những chuẩn tắc cơ bản về
phương hướng, nhiệm vụ, phương châm, lực lượng, phương thức tổ chức thực tiễn về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, tư tưởng, tổ chức... do một nhà nước, một
chính đảng, một tổ chức chính trị - xã hội vạch ra nhằm thực hiện một mục tiêu nhất
định... Đường lối là cơ sở để hoạch định chính sách, biện pháp thực hiện trên mọi lĩnh
vực hoặc một lĩnh vực nhất định [92, tr.915]. Còn chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính
sách tuỳ thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ, chính trị, kinh tế, văn hoá [6]. Hai
khái niệm này đã phân biệt rành mạch giữa đường lối và chính sách cũng như mối quan
hệ giữa chúng.
Trên cơ sở những quan niệm hiện nay và từ thực tiễn hoạch định đường lối,
chính sách của các nước cũng như của CHDCND Lào thì có thể hiểu rằng, xét dưới góc
độ chính trị, đường lối là những chuẩn tắc, những phương hướng cơ bản, xuyên suốt có
tính chỉ đạo lâu dài các lĩnh vực hoạt động của một nhà nước, một chính đảng, một tổ
chức chính trị - xã hội do chính các chủ thể đó vạch ra nhằm thực hiện những mục tiêu
chiến lược nhất định trong từng thời kỳ tương đối dài. Tuỳ theo phạm vi và nội dung
khác nhau mà có thể chia ra thành đường lối chung và đường lối cụ thể trên các lĩnh vực
chính trị, đối ngoại, tư tưởng, kinh tế, quân sự, văn hoá...
Còn chính sách là những biện pháp cụ thể được đề ra trong những lĩnh vực cụ
thể, được thể hiện trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện từng bước, tiến tới thực
hiện thắng lợi mục tiêu cuối cùng của đường lối cơ bản trong từng lĩnh vực hay đường
lối chính trị nói chung của chủ thể quyền lực chính trị.
Từ những trình bày trên cho thấy, đường lối có trước, là phương châm chỉ đạo,
còn chính sách là sự cụ thể hoá việc thực hiện đường lối trên cơ sở phù hợp với từng
điều kiện, hoàn cảnh và từng đối tượng cụ thể. Bản chất, nội dung, phương hướng của
chính sách tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối đã được xác định. Đường lối là cơ sở
để hoạch định chính sách, biện pháp thực hiện trên mọi lĩnh vực hoặc một lĩnh vực nhất
định. Muốn định ra chính sách đúng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh
vực, ở từng thời điểm cụ thể. Việc đề ra và thực hiện chính sách phải trên cơ sở giữ
vững mục tiêu, phương hướng đã được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung,
nhưng lại phải hết sức linh hoạt, vận dụng sáng tạo vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Quan niệm về đường lối và chính sách như đã nêu, là sự phân biệt khá rành
mạch, nó phù hợp với nền chính trị của nước Lào. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa đường
lối với chính sách là mang tính tương đối. Sự tách biệt rạch ròi giữa hai khái niệm đó
trong nhiều trường hợp là máy móc và không đúng với thực tiễn chính trị vốn rất đa
dạng và phức tạp. Ngay ở nước Lào, khi nói đường lối thì thường được hiểu là đường
lối của Đảng, còn chính sách là của Nhà nước. Đường lối của Đảng là phương châm chỉ
đạo có tính xuyên suốt, còn chính sách của Nhà nước là sự thể chế hoá, cụ thể hoá
đường lối của Đảng trong từng thời kỳ nhằm từng bước thực hiện thắng lợi đường lối
đó. Đường lối của Đảng trong từng lĩnh vực cụ thể cũng là chính sách của Đảng về các
lĩnh vực đó. Có thể vận dụng cách tiếp cận này khi nghiên cứu đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Lào thời kỳ đổi mới.
ở các nước trên thế giới, nhất là ở các nước TBCN thì về nguyên tắc, đường lối
của một đảng chính trị sẽ có thể trở thành chính sách, pháp luật của Nhà nước nếu Đảng
chính trị đó nắm và chi phối được quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, ở các nước này, khái
niệm chính sách thường được hiểu với nghĩa là chính sách công, đó là những văn bản có
tính chất hành chính của Nhà nước để thực hiện sự quản lý và điều hành các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Thuật ngữ đường lối ít được sử dụng so với thuật ngữ chính sách là
bởi các nước tư bản áp dụng nền chính trị đa nguyên, đa đảng. Chính sách, pháp luật để
thực hiện sự quản lý và điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì thế, chính sách,
pháp luật của Nhà nước vừa thể hiện đường lối của Đảng cầm quyền, nhưng vừa phản
ánh ở mức độ nào đó ý chí chính trị của các đảng phái và các nhóm lợi ích khác. Sự
phản ánh đó tới đâu còn phụ thuộc vào sức mạnh và tương quan lực lượng giữa các
đảng phái, các nhóm lợi ích đó trên chính trường và trong xã hội. ở nước Lào đường lối
của Đảng thể hiện ý chí, nguyện vọng của đại đa số nhân dân, Đảng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội, do đó, chính sách, pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hoá chủ trương,
đường lối của Đảng. Vì vậy, sự phân biệt giữa đường lối và chính sách là rõ ràng hơn.
Có nhiều cách phân loại đường lối, chính sách của một chủ thể quyền lực chính
trị. Căn cứ vào phạm vi của nội dung khác nhau thì có thể phân ra thành đường lối,
chính sách chung và đường lối, chính sách riêng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quân sự, an ninh, khoa học công nghệ, văn hoá, xã hội... còn nếu phân loại theo đối
tượng tác động thì đường lối, chính sách của một chủ thể quyền lực chính trị bao gồm
hai bộ phận là đường lối, chính sách đối nội và đường lối, chính sách đối ngoại.
Như đã trình bày ở trên, mỗi chủ thể quyền lực chính trị (đảng phái, nhà nước...)
đều có chủ thuyết đối ngoại của mình. Chủ thuyết đối ngoại của một đảng hay một lực
lượng chính trị ở một quốc gia sẽ trở thành chính sách đối ngoại của nhà nước ở quốc
gia đó nếu đảng chính trị đó nắm và chi phối được quyền lực nhà nước. Chính sách đối
ngoại của một quốc gia đối với các chủ thể của quan hệ quốc tế được thể hiện tập trung
ở chính sách và hành động đối ngoại của nhà nước ở quốc gia đó. Tuy nhiên, cần thấy
rằng, chính sách và hoạt động đối ngoại của nhà nước đó được chỉ đạo bởi đường lối,
chính sách của một đảng, một lực lượng chính trị hay một liên minh chính trị nào đó,
chứ không phải bản thân nhà nước có chính sách đối ngoại riêng độc lập, phi giai cấp,
phi đảng phái.
Khái niệm đối ngoại theo nghĩa chính trị đó là thái độ, là cách ứng xử trong mối
quan hệ mang tính quốc gia của chủ thể quyền lực chính trị ở một nước (mà xuất phát là
đảng chính trị) đối với các chủ thể của quan hệ quốc tế. Còn đường lối, chính sách đối
ngoại của một nhà nước quốc gia là tổng thể các quan điểm xác định mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại mà quốc gia đó thể
hiện trong quan hệ với các nhà nước quốc gia và các chủ thể khác trong qua hệ quốc tế
nhằm mục đích thực hiện những lợi ích của quốc gia dân tộc và của giai cấp cầm quyền
trong từng giai đoạn lịch sử.
Việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại là một đòi hỏi tất
yếu khi quốc gia là một bộ phận của cộng đồng quốc tế, có quan hệ với các chủ thể khác
của hệ thống quan hệ quốc tế. Khi mới hình thành các quốc gia dân tộc trên thế giới thì
các quốc gia đã có quan hệ với nhau, nhưng khi đó mới chỉ là quan hệ giữa các nước lân
bang. Khi ấy chưa thể nói rằng các quốc gia dân tộc đã có đường lối, chính sách đối
ngoại riêng với tính cách như một chủ thuyết trị nước của giới cầm quyền. Xã hội ngày
càng phát triển, sự giao lưu tiếp xúc giữa các quốc gia dân tộc ngày càng thường xuyên
và sự phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ. Do đó,
chính sách đối ngoại dần dần ra đời và trở thành một bộ phận trong chính sách trị nước
của giới cầm quyền. CNTB ra đời đã phá tan những rào cản giữa các quốc gia dân tộc,
làm cho thế giới dần dần trở thành một chỉnh thể thống nhất. Vì vậy, ứng xử với thế giới
như thế nào trở thành mối quan tâm thường trực của mỗi quốc gia và việc hoạch định
chính sách đối ngoại là một đòi hỏi tất yếu đối với giới cầm quyền ở mỗi nước.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội
loài người, thế giới đã trở thành một chỉnh thể thống nhất và mỗi quốc gia trở thành một
đơn vị cấu thành của chỉnh thể đó. Xu thế này đã làm cho nền chính trị quốc tế biến đổi
sâu sắc từ một nền chính trị của các quốc gia, giữa các Chính phủ, giữa các Nhà nước
quốc gia, do các quốc gia triển khai và chịu sự chi phối rất lớn bởi lợi ích quốc gia, nay
đã đẩy tới hình thành cái gọi là chính trị thế giới mà trong đó các chủ thể phi quan
phương như các lực lượng xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các phong trào xã
hội, mạng công dân toàn cầu... ngày càng có vai trò quan trọng và tham gia tích cực vào
đời sống quốc tế.
Toàn cầu hoá cũng làm biến đổi mạnh mẽ xã hội quốc tế với hạt nhân là các
chính phủ, các tổ chức quốc tế chính thức, các lực lượng xuyên quốc gia, nay đã xuất
hiện ngày càng nhiều những nhân tố mới phi quan phương, phi nhà nước như các nhóm
lợi ích, cộng đồng tôn giáo, dân tộc, hiệp hội chuyên môn, nghề nghiệp, các tổ chức từ
thiện, mang cộng đồng toàn cầu... Những tổ chức phi quan phương ngày càng tạo ra
những không gian quyền lực chung vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ quốc gia
và mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh đó, dù muốn dù không, mỗi quốc gia không thể
đứng tách biệt, do tính phức tạp và sự biến động khó lường của tình hình quốc tế nên
việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại trở thành nhu cầu thường
xuyên và tất yếu của mọi quốc gia dân tộc.
Các quốc gia hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại thường dựa
trên cơ sở lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, mục tiêu của quốc gia trong từng thời kỳ,
sức mạnh tổng hợp quốc gia, xu thế biến động của các nhân tố địa - chính trị, địa - kinh
tế, địa - chiến lược và địa - văn hoá của khu vực và thế giới trong từng thời kỳ. Xét trên
góc độ quan hệ giữa các quốc gia với nhau thì lợi ích quốc gia dân tộc ngày càng trở
thành nhân tố quan trọng chi phối việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối
ngoại của quốc gia trong mọi thời kỳ. Đường lối, chính sách đối ngoại của bất cứ quốc
gia nào cũng đều hướng tới bảo vệ và thực hiện lợi ích của quốc gia trong quan hệ với
cộng đồng quốc tế. Nhưng lợi ích quốc gia dân tộc lại được nhìn nhận dưới lăng kính
của giai cấp cầm quyền. Ngay từ khi xuất hiện nhà nước quốc gia, thậm chí là khi đã
hình thành dân tộc thì lợi ích quốc gia bị chi phối bởi một giai cấp trung tâm, đó là giai
cấp thống trị. Hệ quả là, cả chính trị đối nội và chính trị đối ngoại của nhà nước, đảng
phái không thể phi giai cấp, phi hệ tư tưởng, mà trái lại, nó luôn mang bản chất giai cấp,
dù dưới nhiều hình thức khác nhau. Do đó, việc xác định mục tiêu, biện pháp của đường
lối, chính sách đối ngoại thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan và lợi ích giai cấp mà
giới cầm quyền đại diện. Giai cấp cầm quyền khác nhau sẽ có đường lối, chính sách đối
ngoại khác nhau. Vì thế, chính sách đối ngoại của một quốc gia không chỉ biểu hiện mối
tương quan lực lượng giữa các quốc gia mà còn phản ánh bản chất của giai cấp cầm
quyền, phản ánh lợi ích và tương quan giữa các lực lượng chính trị trong quốc gia đó.
Tuy nhiên, lợi ích giai cấp nằm trong lợi ích dân tộc và chỉ có thể thực hiện trên
cơ sở đảm bảo các lợi ích dân tộc, nếu không, giai cấp cầm quyền không còn là người
đại diện cho dân tộc và sớm muộn cũng sẽ mất quyền lãnh đạo dân tộc. Điều này đặc
biệt đúng với giai cấp vô sản, giai cấp duy nhất mà chỉ có thể giải phóng được mình sau
khi giải phóng nhân dân lao động và toàn thể dân tộc và, do đó, lợi ích của giai cấp vô
sản thống nhất với lợi ích dân tộc. Ngược lại, lợi ích của giai cấp tư sản về bản chất là
trái với lợi ích dân tộc. Nó chỉ tìm mọi cách bảo vệ lợi ích cho tầng lớp giầu có trong xã
hội. Vì lợi ích của mình, giai cấp tư sản có thể bỏ qua, thậm chí chà đạp lên lợi ích của
đại đa số nhân dân lao động trong nước.
Lợi ích dân tộc được xác định mục tiêu của quốc gia ở từng thời kỳ, và đường
lối, chính sách đối ngoại phải hướng tới thực hiện các mục tiêu quốc gia. Mục tiêu quốc
gia bao gồm mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn. Mục tiêu dài hạn có thể không thay
đổi, nhất là đối với những nước có tiềm lực mạnh và có nhà cầm quyền ổn định, nhưng
biện pháp đối ngoại có thể thay đổi trước những thay đổi của tình hình thế giới và
nhiệm vụ, nhu cầu bên trong của đất nước trong từng thời kỳ. Trong hoạch định và thực
thi đường lối, chính sách đối ngoại, việc xác định mục tiêu quốc gia và các biện pháp
nhằm đạt được các mục tiêu đó phải căn cứ vào khả năng thực hiện mục tiêu. Khả năng
đó do sức mạnh tổng hợp của quốc gia quy định. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia bao
gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần; sức mạnh hữu hình và sức mạnh vô
hình; sức mạnh thực tế và sức mạnh tiềm năng. Sức mạnh hữu hình bao gồm: sức mạnh
kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, quy mô dân số, tiềm lực quân sự, an ninh,
sức mạnh vô hình bao gồm: tiềm lực thuộc lĩnh vực con người (năng lực lãnh đạo và
năng lực ra quyết sách của giới chính trị; thể chất, trí tuệ và năng lực sáng tạo của công
dân); tính chất giai cấp của giới lãnh đạo đất nước, sức mạnh của thể chế chính trị, sức
mạnh văn hoá dân tộc (lịch sử, bản sắc, truyền thống, tôn giáo...). Như vậy, một quốc
gia chỉ có thể đề ra và thực hiện được các mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại
trong phạm vi thực lực của mình. Điều quan trọng là với sức mạnh thực lực mình có,
quốc gia phải làm sao tận dụng để phát huy được tối đa sức mạnh đó, khai thác triệt để
những thuận lợi và hạn chế tới mức thấp nhất các thách thức từ bên ngoài để thực hiện
các mục tiêu đã đề ra.
Đường lối, chính sách đối ngoại bị chi phối bởi môi trường quốc tế vẫn rất phức
tạp và luôn biến động, có nhiều yếu tố bất ngờ, khó lường. Nó liên quan đến nhiều vấn
đề, chịu tác động đan xen của mối quan hệ phức tạp giữa các quốc gia và của nhiều
nhân tố bao gồm cả chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, văn hoá, xã hội... và
sự tác động qua lại giữa các nhân tố đó, vì vậy, khi hoạt động và thực thi đường lối,
chính sách đối ngoại phải dựa vào sự phân tích tình hình trên mọi lĩnh vực, xem xét sự
tác động qua lại giữa các quốc gia và giữa các lĩnh vực. Những yếu tố về chính trị đối
ngoại và mối quan hệ giữa chính trị đối nội với chính trị đối ngoại cần phải được xem
xét kỹ lưỡng khi hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại.
+ Về chính trị đối ngoại, cần quan tâm đến những nội dung sau đây:
Thứ nhất, phải phân tích hiện trạng, xu hướng vận động và tương quan giữa các
lực lượng chính trị trên thế giới để có thái độ thích hợp. Nhưng sự phân tích và nhận
định tình hình phải trên cơ sở nắm được tính chất và xu thế của thời đại để khỏi bị dao
động, dẫn tới đi chệch phương hướng và mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai, lịch sử thế giới đã chứng minh rằng các nước lớn luôn đóng vai trò chi
phối tình hình quốc tế, định hình nền chính trị thế giới, duy trì trạng thái ổn định và cân
bằng của hệ thống quan hệ quốc tế, đồng thời có tác động chủ yếu tới xu thế vận động
của trật tự quốc tế. Trật tự quốc tế hiểu theo nghĩa chính trị học là sự phân bổ sức mạnh
mang tính thứ bậc giữa các chủ thể chính trị quốc tế trên phạm vi toàn cầu, mà các chủ
thể chính trị quốc tế chủ yếu là các quốc gia dân tộc hoặc cộng đồng nhà nước liên quốc
gia. Nhưng thực chất, trật tự quốc tế là trật tự giữa các nước lớn, là sự phân bổ quyền
lực và ảnh hưởng chi phối thế giới giữa các nước lớn, với tiềm lực và sức mạnh của
mình. Các nước lớn có khả năng gây ảnh hưởng tới cách ứng xử của nhiều quốc gia, có
tác động ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của các nước nhỏ. Do vậy, trong hoạch
định đường lối, chính sách đối ngoại các quốc gia khác, đều phải tính đến vai trò của
các cường quốc, phải xác định được mục tiêu của các cường quốc đó đối với khu vực,
đối với thế giới, và đối với đất nước mình để chủ động đề ra nguyên tắc và hành động
ứng xử cho phù hợp.
Thứ ba, thế giới luôn luôn biến động một cách khó lường. Trong mỗi thời kỳ nó
lại xuất hiện cả thời cơ và thách thức đối với mỗi quốc gia, đối với từng khu vực khác
nhau trên mọi lĩnh vực. Vì vậy, chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia trong đó có
CHDCND Lào phải bám sát sự vận động địa - chính trị, địa - chiến lược, địa - kinh tế,
địa - văn hoá của khu vực và trên thế giới để biết khai thác vận hội và vượt qua thách
thức.
Thứ tư, trong quan hệ quốc tế thường có sự trao đổi qua lại, nương tựa phụ thuộc lẫn
nhau về mặt lợi ích giữa các quốc gia, nhất là đối với các nước nhỏ yếu. Vì vậy, trong chính
sách đối ngoại, các quốc gia phải xác định được mục tiêu cho mình, đồng thời phải xem đối
tượng mình quan hệ đang có mục tiêu và nhu cầu gì trên thế giới nói chung và trong quan
hệ đối với đất nước mình nói riêng, khả năng quốc gia mình đáp ứng những mục tiêu và
nhu cầu của họ, biện pháp mà họ sẽ thực hiện và phản ứng của quốc gia sẽ ra sao. Có như
vậy quốc gia mới khai thác được tốt nhất những lợi thế trong quan hệ với họ.
Ngày nay, môi trường quốc tế ngày càng tác động to lớn và trực tiếp tới mỗi
quốc gia. Sự tác động đó bao gồm cả nhân tố thời cơ và thách thức. Việc xác định các
nhân tố thời cơ và thách thức, khả năng tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức của mỗi
quốc gia tuỳ thuộc vào khả năng tự chủ và sức mạnh của mỗi quốc gia, quan niệm
chuẩn mực và giá trị thế giới quan và nhân sinh quan của từng giai cấp, dân tộc, đặc biệt
là phụ thuộc vào nhãn quan chính trị nhạy bén và khả năng chèo lái đất nước của giới
lãnh đạo cầm quyền quốc gia. Hoạch định và thực thi một đường lối, chính sách đối
ngoại đúng đắn, sáng tạo là một trong những chìa khoá để đứng vững và phát triển trong
môi trường thế giới ấy.
+ Về quan hệ giữa chính trị đối nội và chính trị đối ngoại:
Trước hết, cả đường lối, chính sách đối nội và đường lối, chính sách đối ngoại
đều do một chủ thể hoạch định. Đó có thể là một đảng chính trị hay chủ thể nắm quyền
lực nhà nước của một quốc gia. Bất cứ một chủ thể quyền lực chính trị nào dù nắm
quyền lực nhà nước hay chưa nắm được quyền lực nhà nước thì đều phải có chủ thuyết
về đối nội và đối ngoại. Đây là hai nhân tố điều hoà, hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau để giúp
chủ thể hoạch định đường lối, chính sách có thể giành, giữ và thực thi quyền lực của
mình. Đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại cũng giống nhau ở mục tiêu cơ bản
cuối cùng. Nó đều nhắm đạt tới mục tiêu là bảo vệ đất nước và phát triển quốc gia. Suy
cho cùng đó chính là lợi ích quốc gia dân tộc và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Tuy nhiên, đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại khác nhau ở một số điểm
cơ bản sau đây
Thứ nhất, đường lối, chính sách đối nội và đường lối, chính sách đối ngoại có sự
khác nhau về đối tượng tác động. Đường lối, chính sách đối nội có đối tượng tác động là
công dân và các tổ chức trong nước. Do đó, việc xấc định mục tiêu tác động, việc hoạch
định và thực thi chính sách có cơ sở đảm bảo và có sức mạnh cưỡng chế. Trong khi đó
đối tượng tác động của đường lối, chính sách đối ngoại là các chủ thể bên ngoài quốc
gia. Vì vậy, việc xác định mục tiêu, hoạch định và thực thi chính sách thiếu cơ sở bảo
đảm, tính khả thi không cao, chứa đựng nhiều yếu tố không chắc chắn, bị động, khó
lường. Hơn nữa, sức mạnh áp đặt và cưỡng chế bằng thể chế và thiết chế trong thực thi
đường lối, chính sách đối ngoại là không có tính hiệu quả cao. Sự tồn tại của thể chế và
thiết chế trong quan hệ quốc tế trong nhiều trường hợp là mang tính hình thức, thiếu
tính khả thi mà nó thường phải dựa trên cơ sở tương quan lực lượng giữa các quốc gia
và thực hiện mục tiêu thông qua đàm phán, thương lượng.
Thứ hai, tuy đều gặp nhau ở mục tiêu cuối cùng, nhưng đường lối, chính sách đối
nội và đối ngoại khác nhau ở mục tiêu cụ thể, trực tiếp, mục tiêu cụ thể của đường lối,
chính sách đối nội là phải trực tiếp tạo ra sự ổn định và phát triển về mọi mặt ở trong
nước, còn mục tiêu cụ thể của đường lối, chính sách đối ngoại là tạo ra môi trường quốc
tế thuận lợi để phục vụ tốt cho việc thực hiện đường lối, chính sách đối nội.
Thứ ba, đường lối, chính sách đối nội và đường lối, chính sách đối ngoại khác
nhau về biện pháp thực hiện. Việc thực hiện đường lối, chính sách đối nội thường thông
qua hệ thống pháp luật, quy định trong nước do các cơ quan nhà nước ban hành nó được
đảm bảo thực thi nhờ hệ thống thiết chế quyền lực nhà nước trừ Trung ương tới địa
phương. Ngoài ra, việc thực hiện đường lối, chính sách đối nội còn dựa vào những giá
trị đạo đức, văn hoá truyền thống của dân tộc và công tác tuyên truyền vận động của hệ
thống chính trị. Nhưng việc thực hiện quan hệ với các chủ thể bên ngoài quốc gia lại
không thể bằng sự áp đặt một chiều ý chí, thể chế và thiết chế của nhà nước quốc gia
mà chủ yếu thông qua đàm phán, thương lượng, mặc cả lẫn nhau. Hiệu quả của các mối
quan hệ và lợi ích đạt được tới đâu là phụ thuộc vào sức mạnh và vị thế của mỗi quốc
gia cũng như đàm phán của cơ quan đối ngoại. Đối ngoại cũng bị điều chỉnh bởi hệ
thống luật pháp, nhưng đó là luật pháp quốc tế và thường do các nước lớn áp đặt. Việc
hình thành các thể chế thiết chế cũng như quá trình thực thi các thể chế quốc tế thường
lại phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các quốc gia, cá chủ thể tham gia thể chế.
Do đó, nó thường mang tính bất bình đẳng và kém hiệu lực. Ví dụ: với sức mạnh của
một siêu cường duy nhất, Mỹ đã thường xuyên coi thường và bỏ qua các thể chế và thiết
chế quốc tế để đơn phương hành động, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế. Đối
ngoại cũng bị điều chỉnh bằng các giá trị nhưng đó là những giá trị cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, không vì những khác nhau đó mà lại có thể khu biệt rạch ròi giữa
đường lối, chính sách đối ngoại. Đối nội và đối ngoại trên thực tế có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay. Đường lối, chính
sách đối nội là cơ sở cho việc đề ra về thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại. Đường
lối, chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của đường lối, chính sách đối nội và phục vụ cho
đường lối, chính sách đối nội. Nội dung và mục tiêu của đường lối, chính sách đối nội
như thế nào thì đường lối, chính sách đối ngoại phải hướng tới thực hiện mục tiêu đó.
Nhiều khi đối tượng là đối nội, song lại có ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện đường
lối, chính sách đối ngoại. Một động thái điều chỉnh hoạt động hay thể chế trong nước có
tác động trực tiếp và quyết định, tạo cơ sở cho việc thực hiện đường lối chính sách đối
ngoại. Ví dụ, bước đột phá trong đường lối, chính sách đối ngoại của Lào thời kỳ đổi
mới đã giúp phá bỏ được thế bao vây cấm vận, đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, mở ra một tương lai mới cho sự phát triển của các bộ tộc Lào, nâng
cao uy tín của nước Lào trên thế giới.
Ngày nay, quan hệ giữa đối nội và đối ngoại chặt chẽ tới mức trong nhiều trường
hợp khó có thể phân biệt được tính chất đối nội hay đối ngoại của một đồng thái hay
một đường lối, chính sách nào đó. Trong khi thế giới ngày càng xích lại gần nhau, các
quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau chặt chẽ thì mới chủ trương, chính sách đối nội
đều có thể mang tính đối ngoại và lập tức tác động tới các vấn đề đối ngoại, hay có
những vấn đề thuộc về đối nội nhưng lại bị quốc tế hoá trở thành vấn đề quốc tế. Ngược
lại, có những hoạt động đối ngoại lại trực tiếp nhắm mục tiêu đối nội. Do giữa đối nội
và đối ngoại có mối quan hệ gắn bó với nhau, chặt chẽ như vậy, vì thế để bảo vệ và thực
hiện tốt nhất, các lợi ích giai cấp và dân tộc thì chủ thể nắm quyền lực quốc gia phải biết
vận dụng khôn khéo và linh hoạt mối quan hệ giữa đối nội và đối ngoại để kết hợp, phát
huy tới mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong việc bảo vệ và phát
triển đất nước, không để cho vấn đề đối nội ảnh hưởng xấu tới bang giao quốc tế, không
để vấn đề trong nước bị quốc tế hoá và bị nước ngoài can thiệp, đồng thời cũng không
để chính sách đối ngoại làm ảnh hưởng tiêu cực hay làm cản trở tới việc thực hiện các
mục tiêu đối nội.

1.2. cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối, chính sách đối ngoại đối mới
của đảng và Nhà nước lào
1.2.1. Cơ sở lý luận
Đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào được xây
dựng và thực thi trên cơ sở di sản lý luận quan trọng, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và tư duy ngoại giao truyền thống của nhân dân
các bộ tộc Lào.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận đầu tiên của
đường lối, chính sách đối ngoại của Lào trong thời kỳ đổi mới.
Ngay trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Mác và ăngghen đã có những
nhận định và dự báo rất xác đáng rằng: "đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới"
[62, tr.598]. "Giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang
tính chất thế giới" [62, tr.601], thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương
và dân tộc tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến. Sự phụ thuộc, phổ
biến giữa các dân tộc... Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không
thể tồn tại được nữa"; "giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào
trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng
tất cả những bức vạn ý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách
ngoan cường nhất cũng phải hàng phục"; giai cấp tư sản "bắt những nước dã man hay
nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn minh, nó đã bắt những dân tộc nông dân
phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương
Tây" [62, tr.602].
Những nhận định đó của Mác - ăngghen chính là những dự báo về xu thế toàn
cầu hoá do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Trước xu thế ấy không một
quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu đứng biệt lập, mà mỗi quốc gia, dân tộc trở
thành một bộ phận của cộng đồng quốc tế. Do đó, sự phụ thuộc lẫn nhau, sự giao lưu
quan hệ với nhau vừa là một nhu cầu tất yếu của các quốc gia, lại vừa là một quy luật
phát triển của thời đại.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác - ăngghen cũng khẳng định lực lượng sản
xuất là yếu tố quyết định tính chất của một hình thái kinh tế - xã hội quyết định sự
thắng lợi của một chế độ xã hội này với một chế độ xã hội khác. Các ông khẳng định
những lực lượng sản xuất mà xã hội tư bản tạo ra là thành tựu chung của văn minh nhân
loại. Từ đó cho thấy, muốn xây dựng thành công CNXH, nhất là ở những nước nghèo
và kém phát triển thì những người cộng sản phải biết tiếp thu tất cả những thành tựu đã
đạt được tạo ra trong xã hội tư bản để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho CNXH, tạo tiền đề vật chất cho sự thắng lợi củ CNXH ở mỗi nước
cũng như trên toàn thế giới. Việc tiếp thu những thành tựu của nhân loại chỉ có thể thực
hiện thông qua mở rộng quan hệ đối ngoại và được chỉ đạo bởi đường lối, chính sách
đối ngoại đúng đắn.
Thời kỳ Lênin lãnh đạo nước Nga xây dựng CNXH hiện thực trong những năm
đầu sau cách mạng Tháng Mười, nhất là trong thời kỳ thực hiện "chính sách kinh tế
mới", trước tình hình thế giới rất phức tạp và rối ren, Lênin đã đưa ra những tư tưởng
đối ngoại rất đúng đắn và sáng tạo nhằm đảm bảo cho nước Nga Xô viết đứng vững và
phát triển. Những tư tưởng đó của Lênin có thể khái quát ở bốn điểm chính:
Thứ nhất, một trong những tư tưởng quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Lênin là đề cao quyền dân tộc tự quyết. Với sự nhận thức đúng đắn các quy luật của thời
kỳ quá độ, để góp phần đấu tranh cho hoà bình và tiến bộ của nhân loại, Lênin đã đề ra
cương lĩnh dân tộc, trong đó Người khẳng định tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ, giầu
hay nghèo đều có quyền bình đẳng ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực, mỗi quốc gia dân
tộc đều có quyền tự quyết định vận mệnh của mình, tự do lựa chọn chế độ chính trị - xã
hội cho mình mà không có một khuôn mẫu nào, một lực lượng nào bắt buộc tất cả các
dân tộc phải thực hiện theo mình. Cương lĩnh đó là sự thể hiện chính sách cùng tồn tại
hoà bình giữa các dân tộc, nhưng nó cũng là cơ sở đề cao dân tộc trên thế giới đấu tranh
cho một thế giới hoà bình, bình đẳng, chống lại những mưu toan, can thiệp và áp đặt của
các nước tư bản đế quốc đối với các nước khác.
Thứ hai, đó là tư tưởng cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ xã hội
khác nhau. Từ sự nhận thức tính chất phức tạp của các mâu thuẫn trên thế giới, của cuộc
đấu tranh giai cấp và của các mối quan hệ quốc tế trên thời kỳ quá độ lên CNXH, cũng
như sự nhận thức được tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH. Lênin đã đi tới nhận định rằng sự cùng tồn tại hoà bình giữa CNTB
và CNXH là một quy luật và là hình thức quan hệ quốc tế tất yếu trong thời kỳ quá độ.
Nắm vững quy luật đó, ngay sau khi cách mạng tháng Mưới thắng lợi Lênin đã công bố
"sắc lệnh hoà bình" trong đó Người đưa ra những nguyên tác của một kiểu quan hệ quốc
tế mới đó là chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội
khác nhau trên cơ sở thừa nhận quyền bình đẳng giữa các dân tộc, nền độc lập của tất cả
các quốc gia. Theo Lênin, một nền hoà bình bền vững cho nước ngoài và thế giới phải
được thiết lập trên cơ sở môi trường quốc tế hoà bình, và chung sống hoà bình với các
nước là điều kiện để Nhà nước Xô viết non trẻ có thể tồn tại và phát triển. Người viết:
"nước Cộng hoà Liên bang XHCN Xô viết Nga mong muốn được sống hoà bình với
nhân dân tất cả các nước, đem toàn bộ lực lượng của mình vào công cuộc kiến thiết
trong nước, để ổn định sản xuất, vận tải và công tác quản lý xã hội trên cơ sở chế độ xô
viết" [55, tr. 467].
Trong tư tưởng của Lênin, một nền hoà bình bền vững giữa các nước có chế độ
xã hội khác nhau không chỉ là những hiệp định hoà bình giữa cá nước mà còn là mối
quan hệ hợp tác làm ăn, gắn bó lợi ích với nhau thông qua việc thúc đẩy hợp tác liên kết
mọi mặt. Người nói "chúng tôi đã nhiều lần tuyên bố về nguyện vọng hoà bình của
chúng tôi rằng chúng tôi cần hoà bình, cũng như việc chúng tôi sẵn sàng dành cho tư
bản nước ngoài những khoản tố nhượng và bảo đảm vô cùng hào phóng"; và Người
khẳng định: "tôi thấy không có một lý do gì mà một nhà XHCN như nước chúng tôi lại
không thể có những quan hệ làm ăn rộng rãi với các nước TBCN" [56, tr.176]; phê phán
quan điểm của một số phần tử tả khuynh trong Đảng phản đối nước Nga ký kết hoà ước
với các nước đế quốc, Lênin đã chỉ rõ: "nếu theo những quan điểm ấy thì một nước
Cộng hoà XHCN nằm giữa các nước đế quốc chủ nghĩa sẽ không thể ký kết một hiệp
ước kinh tế nào và sẽ không thể tồn tại, trừ phi bay lên cung trăng" [54, tr.489]. Tuy
nhiên, trong tư tưởng của Lênin, từng tồn tại hoà bình giữa CNXH với CNTB là kết quả
của đấu tranh, có vẫn bao hàm sự đấu tranh và là sự thể hiện cụ thể của đấu tranh trong
điều kiện của thời đại quá độ lên CNXH. Như thế, trong tư tưởng của Lênin, việc cùng
tồn tại hoà bình giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa là quy luật
của thời kỳ quá độ, vừa là chiến lược và sách lược để CNXH tồn tại và phát triển trong
vòng vây của CNTB.
Thứ ba, theo Lênin, CNXH phải biết tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân
loại được tạo ra trong CNTB để xây dựng CNXH.
Lênin cho rằng, sẽ khó có thể xây dựng được CNXH, nhất là ở những nước
nghèo như nước Nga nếu những người cộng sản cầm quyền không biết lợi dụng những
thành tựu kinh tế và khoa học, kỹ thuật tiên tiến của CNTB. Người viết "nếu không có
một số quan hệ nào đó giữa ta với các nước TBCN, thì ta không thể kiến lập được
những quan hệ kinh tế bền vững" [57, tr.369]. Với những nước lạc hậu như Nga thì "đại
công nghiệp của các nước TBCN giúp chúng ta khôi phục lại nền kinh tế của nước ta"
[57, tr.372]. Với tư tưởng đúng đắn đó, sau khi nước Nga thoát khỏi cuộc chiến tranh
với các nước đế quốc, Lênin đã tuyên bố thực hiện "chính sách kinh tế mới" (NEP) mà
thực chất là mở cửa kinh tế để thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các
nước thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nước tư bản tiên tiến để
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
Lênin rất đề cao những thành tựu khoa học, kỹ thuật của CNTB và xem việc tiếp
thu những thành tựu đó là mục tiêu quan trọng của "chính sách kinh tế mới". Trả lời
phỏng vấn của một phóng viên Mỹ ngày 18/2/1920, Lênin nói "chúng tôi thậm chí sẵn
sàng dùng vàng để mua của họ (nước Mỹ) các máy móc, công cụ và các thứ khác có ích
cho vận tải và sản xuất" [56, tr.167-168]. Trong "chính sách kinh tế mới", Lêninh chủ
trương và áp dụng một số hình thức kinh tế của CNTB trên đất nước Nga. Một trong
những hình thức đó là tô nhượng. Mặc dù đây là biện pháp đơn độc mà theo nước Nga
sẽ phải mở cửa cho các nhà tư bản nước ngoài vào đầu tư. Các nhà tư bản nước ngoài sẽ
kinh doanh và bóc lột nhân dân lao động Nga ngay trên chính quê hương của mình.
Nhưng theo Lênin thì: "đó là một trong những biện pháp để nước Ngay tranh thủ sự
viện trợ kỹ thuật của các nước tiên tiến hơn về mặt này trong suốt thời kỳ các nước
XHCN và TBCN sẽ tồn tại bên cạnh nhau" [55, tr.226]. Để trấn an các đồng chí của
mình về việc cần thiết phải áp dụng NEP, Lênin phân tích: "Bên cạnh các đồng chí sẽ có
các tư bản, cũng sẽ có các nhà tư bản nước ngoài, những người được tô nhượng và
những nhà trúng thầu, họ sẽ quơ của các đồng chí những món lợi nhuận lên tới hàng
trăm phần trăm: họ sẽ làm giàu bên cạnh các đồng chí. Cứ để cho họ làm giàu; còn các
đồng chí thì sẽ học được ở bọn họ cách quản lý kinh tế, chỉ có như thế, các đồng chí
mới xây dựng được nước Cộng hoà cộng sản chủ nghĩa" [57, tr.209]. Đáp lại những
người chống đối NEP, Lênin thậm chí đã cả quyết sẵn sàng "đánh đổi một trăm người
cộng sản tồi để lấy một chuyên gia tư bản" "chính sách kinh tế mới" được Lênin ví von
một cách hình ảnh rằng đó là nhằm để cho tư sản cày xới trên mảnh đất của CNXH, từ
đó những người cộng sản sẽ gieo trồng những hạt giống của CNXH.
Thứ tư, trong chính sách đối ngoại mở cửa, Lênin đặc biệt coi trọng mối quan hệ
hợp tác làm ăn với các nước tư bản phát triển, các trung tâm KHKT tiên tiến của thế
giới như Mỹ, Đức, Pháp... Đó là những quốc gia tư bản giàu mạnh, có nhiều lợi thế để
nước Nga có thể thu hút các nguồn lực phục vụ cho sự phát triển đất nước. Với chủ
trương ấy nên mặc dù nước Nga chưa có quan hệ ngoại giao với Mỹ và đang coi Nga
như một kẻ thù, nhưng Lênin vẫn rất coi trọng quan hệ với Mỹ. Người nói: "chúng tôi
hoàn toàn tán thành ký hiệp nghị kinh tế với nước Mỹ - với tất cả các nước, nhưng đặc
biệt là với nước Mỹ" [55, tr.239].
Khi nói về tư tưởng đối ngoại của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét
rằng, những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại do Lênin đưa ra "đã mở ra thời
đại của một chính ngoại giao mới, chính sách hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc"
[70, tr.560]. Quá tình tìm đường cứu nước và đối với chủ nghĩa Lênin đã giúp Người đi
đến nhận định: đó là "chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất". Là
một nhà mác-xít chân chính, Bác Hồ đã tiếp thu, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin cả trong lý luận và hành động cáchmạng, trong đó có tư tưởng về đối
ngoại và quan hệ quốc tế. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh có cội nguồn từ chủ nghĩa
Mác - Lênin từ thế giới quan và phương pháp luận mác-xít kết hợp với chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống văn hoá Việt Nam nói chung, truyền thống ngoại giao Việt Nam
nói riêng, tạo thành nền tảng để kết hợp tinh hoa văn hoá và kinh nghiệm ngoại giao của
thế giới. Với nhân cách, bản lĩnh trí tuệ, và kinh nghiệm được tôi luyện, vun đắp suốt cả
cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là ánh
sáng soi đường và đảm bảo cho mọi thắng lợi của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới. Tư tưởng ấy thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây:
Một là, ngoại giao luôn phải quán triệt tư duy biện chứng. Đây có thể coi là
phương châm, nguyên tắc xem xét và giải quyết những vấn đề chiến lược và sách lược
trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Nắm chắc tình hình, phân tích và dự báo kịp
thời cả thời cơ và thách thức, ngoại giao tấn công, chủ động linh hoạt trên cơ sở biết
mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến hoá, đó là những phương pháp ngoại
giao rất cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là tư tưởng "thêm bạn, bớt thù", chủ
động, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước trên cơ sở độc lập
tự chủ, tôn trọng lẫn nhau và cùng chung sống hoà bình.
Ngay từ khi đất nước chưa giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã chủ trương:
"một khi đã độc lập, Việt Nam sẽ đứng với tất cả các bầu bạn" [68, tr.576]. Khi trả lời
phóng viên báo Telepress tháng 3/1949, Người nói: "Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả
các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà" [68, tr.578].
Trong quan hệ với các nước. Người đòi hỏi phải được xây dựng trên cơ sở độc lập, tự
chủ và tôn trọng các nguyên tắc quan hệ quốc tế. Người chỉ rõ "nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên
nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm
phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống
hoà bình" [70, tr.5].
Các quan điểm trên cho thấy, trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã hiểu rất
rõ những nội dung của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ quốc tế mà Đảng NDCM Lào đang vận dụng hiện nay.
Ba là, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng quan hệ thân thiện, hữu
nghị hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực.
Tư tưởng nhất quán trong đường lối đối ngoại của Hồ Chí Minh, trong hoạt động
đối ngoại. Người luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng quan hệ thân
thiết, hữu nghị với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, nhất là các nước có
chung biên giới với Việt Nam, trước hết là Lào và Campuchia - những quốc gia có số
phận gắn bó chặt chẽ với nước Việt Nam. Với nhận thức sâu sắc rằng "sự biệt lập", "sự
thiếu tin cậy lẫn nhau" đã làm suy yếu các dân tộc ở phương Đông nên ngay từ buổi đầu
cách mạng Người đã nỗ lực xây dựng và vun đắp cho mối quan hệ đoàn kết giữa ba nước
Đông Dương.
Bốn là, coi trọng và quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn là một
chủ trương lớn trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh với nhạy cảm chính trị sâu sắc,
Hồ Chí Minh khôn khéo trong xử lý quan hệ với các nước lớn. Liên Xô và Trung Quốc
vừa là hai nước lớn, vừa hai thành viên trong cộng đồng XHCN nên trong suốt quá trình
cách mạg, Người đặc biệt quan tâm tới mối quan hệ với hai nước này. Người đó khéo
léo xử lý trong quan hệ để cả hai nước đều ủng hộ ta hết lòng trong kháng chiến cứu
nước. Ngoài ra, Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các
nước lớn khác ở khu vực châu á như ấn Độ, Inđônêxia. Đối với những nước lớn đã và
đang thù địch với ta Hồ Chí Minh cố gắng tận dụng mọi cơ hội để thương lượng hoà
bình và hoá giải quan hệ với họ.
Trong quan hệ với các nước lớn, Người lưu ý chúng ta phải có bản lĩnh, giữ được
tư thế đất nước và phẩm giá con người Việt Nam, không chịu lệ thuộc sức ép nhưng
phải giữ thể diện nước lớn cho họ, tránh rơi vào thế đối đầu hoặc đứng về nước này để
chống lại nước khác, phải biết khai thác điểm đồng và hạn chế tối đa bất đồng để giữ
gìn và phát triển quan hệ với họ. Vì vậy, xây dựng quan hệ hài hoà tốt đẹp với tất cả các
nước lớn là một bài học lớn mà chúng ta phải lưu tâm.
Năm là, Hồ Chí Minh sớm có chủ trương mở cửa kinh tế để thu hút các nguồn
lực từ bên ngoài, nhất là từ các nước phát triển để xây dựng đất nước.
Hồ Chí Minh luôn phân biệt giữa thành tựu của CNTB với bản chất xấu xa của
giai cấp bóc lột. Người đánh giá cao mọi thành tựu mà CNTB đạt được và khẳng định
các nước XHCN, nhất là những nước còn nghèo phải biết mở rộng hợp tác với các nước
TBCN để khai thác các nguồn lực quốc tế, phát huy tốt nhất lợi thế so sánh của đất nước
trên tinh thần hợp tác bình đẳng cùng có lợi nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất
nước.
Qua những chỉ dẫn trên đây cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng quan hệ
quốc tế theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá và hội nhập quốc tế đã rất rõ ràng và
đầy đủ. Những tư tưởng đó đang hiện hữu trong đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời đại, về quan hệ quốc tế
và chính sách đối ngoại của người cộng sản luôn luôn gắn liền và không tách rời việc
thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước XHCN và
phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Đó là nguyên tắc, là bản chất của các đảng cộng
sản và công nhân trên thế giới. Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Lào cũng luôn trung thành nhất quán với nguyên tắc ấy.
Trước thành lập nước CHDCND Lào (1975), đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn đã
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược không mệt mỏi của cách mạng Lào đi song song với
nhau, đấu tranh vũ trang trong nước và đấu tranh trên trường quốc tế. Đồng chí Cay
Xỏn Phôm-Vi-Hản xác định hai vấn đề đó gắn bó hữu cơ với nhau là đúng và phù hợp
nhất với tình hình của thế giới và tình hình của Lào thời gian đó vì đối phương có ưu
thế hơn Lào nhiều lần và tập hợp với nhau để áp đặt nước Lào dưới ách thống trị của nó.
Trước tình hình đó, Đảng NDCM Lào muốn vững mạnh phải biết kết bạn với ai và đấu
tranh với ai, hay nếu nói cách khác theo tư duy của nhà chiến lược quân sự "biết ta, biết
đối phương đánh 100 trận cũng thắng 100 trận". Thực tiễn cho thấy, dưới sự lãnh đạo
của Đảng NDCM Lào và đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn, phong trào yêu nước đã cố
gắng tận dụng mọi thời cơ tình hình thế giới, tranh thủ tình thế kẻ thù đang mâu thuẫn
về lợi ích và suy yếu nhiều mặt trong và ngoài nước để xây dựng tình đoàn kết quốc tế
vững mạnh với nhân dân Việt Nam, với nhân dân Campuchia, những dân tộc cùng
chung hoàn cảnh như nhau đều nằm dưới ách thống trị của bọn xâm lược. Tình đoàn kết
được tôi luyện trong ngọn lửa của cuộc đấu tranh ác liệt và nặng nề, đã trở thành tình
đoàn kết đặc biệt giữa nhân dân 3 dân tộc cùng nhau vun đắp đến ngày nay. Đảng và
đồng chí Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản còn biết dựa vào các nước thành tâm ủng hộ sự
nghiệp cứu quốc của Lào như Trung Quốc, Liên Xô và các nước bạn bè khác do biết
liên kết với bạn, biết giành lực lượng giữa ta và kẻ thù. Bạn bè của Neo Lào yêu Tổ
quốc trên trường quốc tế được phát triển mở rộng. Mặt trận Lào yêu Tổ quốc lớn mạnh,
góp phần đưa sự nghiệp cách mạng Lào giành thắng lợi. từ Hiệp nghị Giơnevơ năm
1954 công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước Đông Dương
đến Hiệp nghị Giơnevơ năm 1962 về Lào và Hiệp ước Viêng Chăn 1973, đất nước Lào
được giải phóng hoàn toàn và thành lập nước CHDCND Lào năm 1975.
Nước Lào giáp 5 nước có dân số hơn tỷ người, trong khi dân số của Lào hơn 4
triệu người. Đảng NDCM Lào và đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn luôn nhấn mạnh vấn
đề xử lý mối quan hệ với nước ngoài là vấn đề sống còn của đất nước. Vì vậy, trong dịp
thành lập nước CHDCND Lào tháng 12/1975 đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn chỉ rõ:
Thiết lập, tăng cường, củng cố quan hệ tốt giữa nước Lào với các nước
trong thế giới thứ ba, tiếp tục giữ gìn quan hệ ngoại giao và phát triển thương
mại thường xuyên với các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng nhau ổn định, tìm kiếm sự hiểu biết lẫn nhau
và sự ủng hộ từ các chính phủ và nhân dân có ý đồ tốt muốn giúp đỡ chính phủ
và nhân dân Lào phục hồi sau chiến tranh, phục hồi phát triển kinh tế, văn hoá
và làm cho đời sống của nhân dân ngày càng tốt hơn [94, tr.81].
Quan điểm của Đảng và tư tưởng đối ngoại của đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn
nêu trên là một cơ sở hình thành đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị của CHDCND
Lào. Các quốc gia trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với Lào, đặt đại sứ quán tại
Lào và tiếp tục có quan hệ với Chính phủ mới của Lào, ủng hộ hợp tác hữu nghị với
Lào. Đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn và các đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Lào đã
thực hiện nhiều chuyến thăm Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô và các nước
khác hoặc đi dự Đại hội các Đảng anh em và các hội nghị quốc tế, góp phần mở rộng
quan hệ quốc tế của Lào. Một năm sau ngày thành lập CHDCND Lào, năm 1976, đồng
chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn đã tổng kết: "Do đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của
Đảng và Nhà nước Lào, quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước được giữ gìn, củng cố
và có sự phát triển, đóng góp xây dựng cho Lào có lợi thế mới, lực lượng mới, tạo điều
kiện thuận lợi cho Lào bảo vệ xây dựng đất nước" [94, tr.82].
Đối với một số nước ASEAN, do nhiều nguyên nhân nên còn chưa hiểu nhau,
bởi vậy những năm 80, đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn đã chỉ rõ cần tăng cường liên
hệ, bàn bạc, tìm cách thức thật tốt cùng nhau xây dựng khu vực Đông Nam á có hoà
bình, ổn định và hợp tác. Trong báo cáo tại Đại hội Đảng lần thứ ba của Đảng NDCM
Lào, đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn nói: "Chính sách nhất quán của Lào đối với các
nước ASEAN là cùng sống ổn định giữa hai khối nước Đông Dương và khối nước
ASEAN, cùng sống ổn định, có quan hệ láng giềng tốt với nhau, có bàn bạc thương lượng
với nhau" [94, tr.84].
Trong tư duy đối ngoại, Đảng NDCM Lào đặc biệt coi trọng quan hệ với các
nước láng giềng Đông Nam á. Riêng với Vương quốc Thái Lan, nước láng giềng, mặc
dù từ cuối những năm 70và 80, quan hệ giữa hai nước vẫn chưa ổn định, nhưng Đảng
và Nhà nước Lào kiên trì quan điểm hoà bình, tránh khỏi bạo lực, tìm tòi biện pháp
thương lượng chính trị để giải quyết các vấn đề trong quan hệ. Đồng chí Cay Xỏn Phôm
Vi Hẳn đã cố gắng rất lớn vạch ra cơ sở mới củng cố quan hệ giữa hai nước, điều này
được thể hiện trong tuyên bố chung giữa hai Thủ tướng năm 1979 và năm 1988. Những
năm sau đó, Lào và Thái Lan đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai Chính phủ,
thúc đẩy quan hệ Lào - Thái vì lợi ích của cả hai bên.
Do chính sách và nguyên tắc phù hợp về mặt ngoại giao, CHDCND Lào nâng
cao được vị trí trên trường quốc tế trong đó đáng chú ý là vai trò của Lào ở Liên hiệp
quốc và phong trào không liên kết.
Tổng kết những bài học kinh nghiệm quý báu trong hoạt động đối ngoại từ cả
mặt tích cực và tiêu cực những năm 80 và so sánh với kinh nghiệm đổi mới của nhiều
nước trên thế giới, đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn nhấn mạnh chủ trương phải hoạch
định phương hướng mới trong quan hệ đối ngoại nhằm làm cho đất nước Lào vượt lên,
cho nhân dân Lào ấm no hạnh phúc từng bước trong hoà bình, ổn định và an ninh.
Trong bài chỉ đạo mang tính chiến lược có tiêu đề: "Chuyển xuống nông thôn và rộng
mở quan hệ với nước ngoài", năm 1989 đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn đã đưa tư duy
mới vận dụng vào công tác ngoại giao. Người viết:
Trong tình hình mới, phương châm trong hoạt động ngoại giao của Lào
là lấy quan hệ mặt chính trị, công việc ngoại giao hoà nhập quan hệ kinh tế
với nước ngoài, rà soát mới về mặt kinh tế - xã hội của nước Lào coi đó là
nhân tố quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào, trở thành
cơ sở cho quan hệ hữu nghị vững bền và lâu dài giữa nước Lào với các nước
có liên quan [94, tr.85].
Trên tinh thần đó, đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn và Ban Chấp hành Trung
ương có quyết tâm cao để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng, điều chỉnh hệ thống
pháp luật chung kể cả phương hướng, nội dung của Hiến pháp, đáp ứng cho việc mở
rộng hợp tác và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài để chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh
tế sản xuất hàng hoá. Đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn đi thăm CHXHCN Việt Nam,
CHDCND Trung Hoa, CHDC Triều Tiên, Nhật Bản, Pháp, Vương quốc Thái Lan để
quảng bá đường lối đổi mới và tìm cách thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, đồng chí
Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn còn đón tiếp các chuyên gia ngân hàng, tài chính, pháp luật...
của nước ngoài đến thăm Lào để trao đổi ý kiến, nhằm vận dụng kinh nghiệm của thế
giới vào hoàn cảnh thực tiễn của Lào, làm cho sự nghiệp đổi mới ở Lào tiến hành tốt
hơn, giữ vững ổn định chính trị và xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn, quan hệ quốc tế của
CHDCND Lào từng bước được mở rộng, tăng cường. Tình hình biên giới với các nước
láng giềng tốt lên, biên giới Lào - Việt Nam, biên giới Lào - Trung Quốc, về cơ bản ổn
định, hữu nghị, việc cắm mốc biên giới hoàn thành chính thức theo hiệp ước giữa hai
bên. Biên giới Lào - Campuchia cũng hoàn thành cắm mốc theo phạm vi hiệp ước hữu
nghị và hợp tác. Đây được coi là hiệp ước lịch sử chưa từng có giữa hai nước. Sự thắng
lợi trong thực hiện nhiệm vụ ngoại giao nói trên là sự đóng góp rất to lớn đối với việc
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của dân tộc Lào. Đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn là
lãnh tụ có sáng tạo và tầm nhìn xa trông rộng trong các vấn đề quốc tế, tư tưởng của
đồng chí soi đường cho sự nghiệp hoạt động đối ngoại, đặt nền móng cho sự hình thành,
hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào.
Tư duy ngoại giao truyền thống của dân tộc Lào là một trong những cơ sở lý luận
quan trọng của nền ngoại giao Lào thời kỳ đổi mới.
Do bối cảnh lịch sử và địa lý khá đặc biệt của dân tộc, tổ tiên Lào đã triển khai
mối bang giao khá đặc biệt với các thực thể lân bang. Nước Lào là một nước nhỏ lại
nằm ở vị trí địa lý chính trị khá nhạy cảm, nên muốn non sông thanh bình, dân cư an lạc
thì phải xử lý đúng đắn, phù hợp quan hệ với lân bang. Vì thế, trải mấy nghìn năm dựng
nước và giữ nước, các thế hệ người Lào đã gây dựng, hun đúc và truyền lại cho con
cháu những di sản tinh thần quý báu mang đậm đà bản sắc dân tộc và bản lĩnh Lào,
trong đó ngoại giao là một di sản có cội nguồn truyền thống lâu đời của cha ông. Những
tư tưởng quan trọng trong di sản đó được đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng NDCM
Lào đang kế thừa và phát triển.
Một là, ngoại giao Lào từ ngàn xưa luôn giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ và
chủ quyền quốc gia. Là đất nước nhỏ, nhưng suốt chiều dài lịch sử của mình, ông cha
Lào luôn kiên cường và bản lĩnh chống lại mọi thế lực xâm lược hùng mạnh và bạo tàn
để bảo vệ đất nước, giữ gìn giống nòi nước Lào. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết, của
trí tuệ và bản lĩnh Lào đã không chịu khuất phục trước bất cứ một thế lực nào có âm
mưu xâm lược và nô dịch đất nước mình. Trên đường xây dựng Vương quốc, vua Pha
Ngừm đã tăng cường mối quan hệ mật thiết sẵn có với vương quốc Campuchia, có quan
hệ hoà hiếu với Xiêm và đặc biệt đã lập quan hệ thân hữu với Đại Việt. Việc làm đúng
đắn này đã tạo thế đứng vững chắc cho Lan Xang, củng cố uy tín của vương quốc và
xác định hướng phát triển tự chủ trên cơ sở lập quan hệ thân hữu chủ yếu với các quốc
gia phía Đông và phía Nam, xu hướng liên kết phía Đông trở thành xu hướng lịch sử tất
yếu để bảo vệ nền tự chủ và giữ gìn bản sắc riêng của Lào.
Hai là, truyền thống ngoại giao Lào là hoà bình, hoà hiếu, hữu nghị và khoan
dung. Bản chất của ngoại giao Lào trong lịch sử là hoà bình, hữu nghị với các dân tộc,
là tinh thần hoà hiếu, khoan dung, là sự ứng xử tinh tế trên nền tảng văn hiến Lào, là sự
coi trọng đạo lý, là nguyên tắc linh hoạt mềm dẻo, cốt bảo vệ và thực hiện được lợi ích
quốc gia dân tộc. Đường lối hoà bình, chính nghĩa và khoan dung là vũ khí ngoại giao
sắc bén mà ông cha Lào đã sử dụng để tạo ra môi trường chung sống hoà bình với các
nước, hoá giải thù hận "dập tắt muôn đời chiến tranh" với các nước lân bang. Trong
quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng, các vua nước Lào luôn thực hiện chính sách
hoà hiếu, hữu nghị.
Ba là, ngoại giao là truyền thống là một nền ngoại giao rộng mở, biết tiếp thu
thành tựu của văn minh nhân loại để phát triển đất nước.
Nền văn hoá Lào là nền văn hoá mở để tiếp thu cái mới, không kỳ thị, bài ngoại,
vì thế tôn giáo đạo phật của nền văn hoá, văn minh của thế giới sớm xâm nhập vào nước
Lào và dễ dàng được tiếp thu, chấp nhận cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ở
nước Lào đều hiện hữu sự ảnh hưởng của nhiều nền văn minh trên thế giới. Truyền
thống ngoại giao rộng mở cửa của ông cha Lào vừa xuất phát, vừa là sự biểu hiện của
nền tảng văn hoá đó.
Như vậy, chính sách ngoại giao hoà bình, hữu nghị rộng mở là truyền thống
xuyên suốt của dân tộc Lào trong lịch sử. Chính sách đó được hun đúc và trải nghiệm
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nó được khẳng định là phù hợp
với điều kiện địa lý, lịch sử, văn hoá dân tộc và là một trong những bí quyết dựng nước
và giữ nước mà ông cha Lào đã để lại cho con cháu mai sau.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn trực tiếp nhất của đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của
Đảng và Nhà nước Lào từ Đại hội IV (1986) đến nay là tình hình trong nước và mục tiêu,
nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, nước Lào đứng trước rất nhiều khó khăn, phức
tạp, đất nước chậm phát triển và bị các thế lực thù địch bao vây, cô lập về chính trị trên
tất cả các diễn đàn quốc tế, khu vực, đồng thời cấm vận Lào một cách ngặt nghèo về
kinh tế. Việc đưa đất nước thoát khỏi khó khăn thách thức đó là vấn đề có ý nghĩa sống
còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự
thật, xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn những xu thế vận động của tình hình quốc tế
cũng như thực trạng, yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Lào trong giai đoạn mới. Đại
hội IV của Đảng NDCM Lào đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là
đổi mới tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước Lào.
Sau khi thẳng thắn phân tích những sai lầm khuyết điểm trong đường lối phát
triển đất nước những năm sau giải phóng, Đại hội IV đã nêu lên 5 bài học lớn trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Lào, trong đó khẳng định một trong những bài học quan trọng
là "Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan"
[36, tr.20]. Từ đó, Đại hội đã xác định:
Để bảo đảm độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và xây dựng quan hệ bình
đẳng, gắn bó với nhau lâu dài với các nước anh em, bầu bạn quốc tế đó, chúng ta dựa
dẫm với bạn là không được, mà phải tôn trọng nguyên tắc "hai bên cùng có lợi".
Chúng ta phải củng cố làm chủ và phải làm tròn nghĩa vụ của mình, liên hệ với cộng
đồng các nước XHCN. Vì vậy, phải kiên quyết đấu tranh các quan điểm nói đến dân
tộc mình, ứng dụng, dựa dẫm, nói đến mặt kinh tế, không thấy mặt chính trị, tư
tưởng, nói đến lợi ích trước mắt, không thấy lợi ích lâu dài [36, tr.21].
Đại hội xác định: "Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát những năm còn lại
của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường tiếp
theo" [35, tr.78].
Với sự chỉ đạo kiên quyết và với những bước đi vững chắc, thực hiện đường lối
đổi mới, nước Lào đã có những chuyển biến rõ rệt về mọi mặt như: kinh tế quốc dân
tăng trưởng khá, tính bình quân là 5,5% năm, mặc dù năm 1987-1988 bị thiên tai hạn
hán nặng nề nhưng đến năm 1990 GDP tăng 30%, nhịp tăng dân số 15% so với năm
1985, lạm phát ở mức độ không dữ dội, giá trị hàng hoá không ổn định, từ đó làm cho
đời sống của nhân dân được cải thiện từng bước, đảm bảo trật tự an ninh bình thường.
Một số mặt cũng được cải thiện tốt hơn. Quan hệ kinh tế với nước ngoài rộng mở và có
khả năng thu hút được vốn viện trợ và vốn vay từ nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài
muốn thi hành kinh doanh ở CHDCND Lào ngày càng tăng lên. Về mặt ngoại giao, do
thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới nhất quán, Lào đã phát triển quan hệ hợp tác với nước ngoài về các mặt kinh tế,
khoa học - công nghệ, theo nguyên tắc bình đẳng và các cùng có lợi, và cố gắng đóng
góp chính đáng vào phong trào hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, tiếp
tục củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết và hợp tác toàn diện với nước Việt
Nam, Campuchia, Liên Xô, Trung Quốc, các nước và tổ chức quốc tế khác.
Trên lĩnh vực đối ngoại, Lào đã đẩy lùi được một bước sự bao vây cô lập của các
thế lực thù địch, tăng thêm bạn bè và dần lấy lại uy tín của Lào trên trường quốc tế. Đối
ngoại đã góp phần rất lớn vào những thắng lợi ban đầu của sự nghiệp đổi mới. Tất cả
những thành tựu trên đây đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới và nó tạo ra
nền tảng vững chắc cả về lý luận và thực tiễn cho việc tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới trong những năm tiếp theo.
Mặc dù vậy, đến đầu thập kỷ 90, tình hình đất nước Lào vẫn còn khó khăn phức
tạp, đời sống của nhân dân vẫn khó khăn. Những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi
mới cùng với sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô trong thời gian này đã làm cho cách
mạng nước Lào gặp phải những thách thức cực kỳ nghiêm trọng. Bối cảnh quốc tế và khu
vực sau chiến tranh lạnh cùng với yếu cầu của việc tiếp tục công cuộc đổi mới đòi hỏi Đảng
và Nhà nước Lào phải có những bước đi mạnh dạn hơn nữa để bắt kịp thời cơ và vượt qua
thách thức.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V tháng 3/1991 trên cơ sở đánh giá những thành
tựu và hạn chế của 5 năm đổi mới, phân tích xu hướng biến động của tình hình trong
nước và quốc tế những năm sắp tới đã đi tới khẳng định đẩy mạnh công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Đại hội xác định tiếp tục sự nghiệp đổi mới toàn diện, tăng cường
tình đoàn kết thống nhất tất cả các bộ tộc trên cơ sở liên minh công - nông và trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng, tích cực phát huy kinh tế nhiều thành phần nhằm phát triển
lực lượng sản xuất vững mạnh, chuyển dịch kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sang kinh
tế hàng hoá làm cho đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân các bộ tộc Lào được cải
thiện rõ rệt, phát triển dân chủ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cổ vũ vai trò của các tổ
chức quần chúng và tổ chức xã hội - xây dựng bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân thật sự hoạt động theo hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, Đại hội
cũng nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện vai trò sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính
trị không ngừng củng cố quốc phòng an ninh toàn dân, bảo vệ độc lập, chủ quyền của
dân tộc và chế độ mới giữ vững chắc, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an ninh trong xã
hội, tiếp tục rộng mở quan hệ và hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế.
Về đối ngoại, Đại hội V khẳng định: CHDCND Lào sẽ tiếp tục giữ vững và thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại hoà bình độc lập, hữu nghị và hợp tác với các nước
không phân biệt chế độ chính trị khác nhau, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ
quyền của nhau, bình đẳng và hai bên cùng có lợi.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V, tình hình kinh tế – xã hội trong nước
đạt được những thành tựu to lớn, đồng thời, tình hình quốc tế cũng có những yếu tố rất
thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới và phát triển liên tiếp tốt lên trong những năm 1986-
1990. GDP tăng trưởng bình quân 4,8% năm và trong những năm 1991-1995, tăng 6,4%
năm, quan trọng là CHDCND Lào đã xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và một số cơ
sở hạ tầng đó là nhân tố thúc đẩy sự phát triển liên tiếp tốt lên trong những năm 1986-
1990. GDP tăng trưởng bình quân 4,8% năm và trong những năm 1991-1995 tăng 6,4%
năm, quan trọng là CHDCND Lào đã xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và một số cơ sở
hạ tầng đó là nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự ổn định chính
trị của đất nước. Quan hệ quốc tế của nước Lào rộng mở nhiều mặt, nhiều mức độ khác
nhau, vị thế vai trò của Lào trong khu vực và trên trường quốc tế được củng cố, nâng
cao.
Đại hội VI của Đảng NDCM Lào (3/1996) đã chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm của đất
nước trong thời kỳ mới là xây dựng đất nước của Lào tiến bộ qua từng bước và chắc
chắn. Trên tinh thần đó, Đảng NDCM Lào xác định mục tiêu đến 2020:
Phấn đấu đưa nước Lào thoát khỏi nước kém phát triển kinh tế - xã hội,
có sự phát triển và được điều chỉnh mới bằng mức độ khác với tình hình hiện
nay như: sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phát triển và có một số mặt hiện
đại, đời sống của nhân dân về mặt vật chất và văn hoá trở nên ổn định và có chất
lượng cao hơn, dân số được giáo dục và dịch vụ y tế, văn hoá tốt đẹp của dân
tộc không ngừng được phát triển, bảo hiểm xã hội được đảm bảo, có nhân sự và
lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng sự đòi hỏi của sự phát triển đất nước,
trật tự xã hội được đảm bảo, hệ thống chính trị dân chủ có Đảng là hạt nhân có
tính vững mạnh, nước Lào có quan hệ hợp tác rộng mở với quốc tế và có khả
năng hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, có làm được như vậy chế độ dân
chủ nhân dân của chúng ta sẽ vững mạnh, xây dựng cơ sở vững bền cho sự
nghiệp xây dựng nước Lào, hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và phồn vinh
[42, tr.29].
Trên cơ sở thực lực của đất nước đã được tạo ra sau 15 năm đổi mới và trước xu
thế mới của thế giới đầu thế kỷ XXI, Đại hội VII Đảng NDCM Lào (3/2001) đã xác
định mục tiêu chiến lược của đất nước đến 2005 – 2010 và 2020, trong đó phấn đấu đến
2010 “làm cho nước Lào thoát khỏi tình trạng kém phát triển", ổn định về chính trị và
trật tự – an toàn xã hội bền vững, kinh tế phát triển liên tục và vững chắc do tốc độ tăng
trưởng tương đối nhanh, nhân dân có đời sống hơn ngày nay 3 lần, kinh tế quốc dân có
cơ sở vững bền do cơ cấu nông nghiệp – lâm nghiệp gắn chặt với công nghiệp và dịch
vụ cân đối và tích cực, kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thành hệ thống và
có nhân tố cơ sở của công nghiệp hoá và hiện đại hoá tất cả các thành phần kinh tế phát
triển hoà nhập và trở thành phần sức mạnh của kinh tế quốc dân, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác của nhân dân chiếm phần lớn trong kinh
tế quốc dân, hệ thống chính trị dân chủ có Đảng NDCM Lào làm hạt nhân có vững
chắc, tính chất nhà nước của dân, do dân và vì dân chứng tỏ rõ rệt quyền công dân có
bảo đảm do quản lý theo pháp luật có hiệu lực, nhân dân các bộ tộc Lào có đoàn kết bền
vững, có trình độ giáo dục tốt nghiệp tiểu học cơ sở, được dịch vụ y tế và có điều kiện
phát triển chính bản thân, văn hoá tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn và phát triển cho giàu
có thêm, CHDCND Lào có quan hệ hợp tác rộng mở với các nước vì lợi ích chính đáng
của dân tộc và có khả năng hội nhập trong hoạt động quốc tế có hiệu quả, thực hiện các
cam kết song phương và đa phương [45, tr.23-24].
Để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng đã vạch ra, Đảng NDCM
Lào đã chú trọng việc ngày càng hoàn thiện một đường lối đối ngoại rộng mở nhằm tạo
ra môi trường quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trên cơ sở đảm bảo có
thể kết hợp và phát huy tới mức tối đa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phục vụ
cho sự phát triển đất nước.
Một cơ sở thực tiễn quan trọng để hoạch định chính sách đối ngoại của
CHDCND Lào trong thời kỳ hội nhập quốc tế là tình hình thế giới và khu vực. Đây
cũng là yếu tố quy định tính tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế của CHDCND Lào.
Có thể nói, nhân tố quốc tế có vai trò tác động thường trực, mạnh mẽ tới việc
hoạch định và thực thi đường lối, chính sách của mỗi quốc gia, trong đó đặc biệt là
đường lối, chính sách đối ngoại. Để hoạch định đường lối, chính trị đúng đắn và thực thi
nó có hiệu quả, nhất là đường lối đối ngoại thì phải bám sát sự vận động của tình hình
quốc tế và xu thế của thời đại. Đối với những nước nhỏ không có sức ảnh hưởng lớn tới
nền chính trị, kinh tế và hệ thống trật tự quốc tế như nước Lào thì việc hoạch định và
thực thi đường lối, chính sách chính trị nói chung, đường lối, chính sách đối ngoại nói
riêng càng chịu sự tác động lớn của tình hình quốc tế và phụ thuộc vào những biến động
của môi trường quốc tế. Vì vậy, để ổn định và phát triển, các quốc gia nay phải luôn
bám sát những biến động của môi trường quốc tế để có những điều chỉnh trong đường
lối, chính sách cho phù hợp. Đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà
nước Lào ra đời và phát triển cũng xuất phát từ một trong những cơ sở quan trọng, đó là
sự nhận thức và nắm bắt kịp thời những biến động mau lẹ của tình hình thế giới và khu
vực từ nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, tình hình thế giới diễn ra những
biến đổi hết sức to lớn trên tất cả các mặt của đời sống quốc tế. Quan hệ giữa hai siêu
cường Xô - Mỹ đã lắng dịu và đi vào đối thoại hoà bình. Xuất phát từ lợi ích chiến lược
của mình, các nước lớn theo hướng thoả hiệp, tránh xung đột, tiến tới xây dựng quan hệ
đối tác ổn định, lâu dài nhằm tạo lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn để phát triển đất
nước và xác lập địa vị quốc tế của mình trong bối cảnh mới. Động thái của các nước lớn
đã góp phần tạo ra xu thế hoà dịu trên quy mô toàn cầu. Chiến tranh thế giới được đẩy
lùi từng bước, đối thoại, hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình ngày càng trở thành xu thế
nổi trội trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, tất cả các nước đều nhanh chóng điều chỉnh
chiến lược đối nội, đối ngoại theo hướng tập trung mọi nỗ lực vào phát triển kinh tế,
chạy đua kinh tế trở thành trọng tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển của mỗi quốc
gia và là tâm điểm chi phối của mối quan hệ quốc tế đương đại. Hoà bình về phát triển
đã trở thành mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lĩnh vực này là tiền đề và
cũng là cơ sở cho lĩnh vực kia.
Xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ bởi cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kéo theo đó là xu thế toàn cầu
hoá và khu vực hoá đang ngày càng gia tăng nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực ở các
tầng nấc khác nhau như là dòng chảy tất yếu của thời đại. Trong trào lưu phát triển mới
của thế giới, tính tuỳ thuộc giữa các quốc gia ngày một gia tăng, mỗi quốc gia trở thành
một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng quốc tế. Bối cảnh ấy đem lại thời cơ lớn
và cả những thách thức không nhỏ cho các quốc gia trên con đường phát triển, hội nhập
theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế nhằm tạo ra môi
trường bên ngoài thuận lợi để phát triển đất nước là hướng đi đúng đắn và là sự lựa
chọn khôn ngoan của mỗi quốc gia trong thời kỳ mới.
Về tính chất của thời đại thì vẫn không thay đổi, loài người vẫn đang trong thời
kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin đã từng khẳng định,
năng suất lao động và trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất suy cho cùng là yếu tố
quyết định sự chiến thắng của một chế độ xã hội này đối với một chế độ xã hội khác. Do
chậm đổi mới mô hình XHCN, các nước XHCN đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Trong khi đó, CNTB đã kịp thời có những điều chỉnh cần thiết, đặc biệt đã triệt
để tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KHCN hiện đại nên nền kinh tế của
các nước tư bản đã vượt qua khủng hoảng và có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Khoảng cách
về trình độ phát triển giữa CNXH và CNTB ngày càng xa theo hướng có lợi cho CNTB.
Trước tình hình ấy, các nước XHCN buộc phải điều chỉnh chiến lược phát triển theo
hướng cải cách, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Trung Quốc bắt đầu cải cách năm
1978, Liên Xô bắt đầu bước vào cải tổ năm 1985, các nước Đông Âu cũng lần lượt cải
cách. Muốn thực hiện cải tổ, cải cách các nước XHCN phải quan hệ với các nước tư bản
bởi các nước này đang nắm trong tay những nguồn lực kinh tế khổng lồ và hầu hết
những thành tựu KHCN tiên tiến nhất của thế giới.
Thực chất của những cải tổ, cải cách đó xét trên góc độ đối nội là sự nhận thức
lại và tìm ra con đường đúng đắn hơn để củng cố và phát triển CNXH. Còn xét trên góc
đối ngoại, đó là sự đổi mới nhận thức về thời đại, về mối quan hệ giữa CNXH và
CNTB. Đây là chiến lược và sách lược của những người cộng sản. Trong điều kiện quốc
tế mới, quan hệ giữa CNXH và CNTB thực chất không thay đổi. Nó vẫn là quan hệ giữa
hai thực thể đối lập nhau về mặt bản chất, nhưng không nhất thiết là quan hệ đối kháng
toàn diện, định sẵn, công khai, trực tiếp, “một mất, một còn” mà là mối quan hệ vừa hợp
tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Trong xu thế quốc tế mới, mọi sự nhận
thức giáo điều, tả khuynh, ấu trĩ về CNTB và mối quan hệ giữa CNXH và CNTB đều là
bảo thủ, vừa không phù hợp với tình hình thực tiễn, không bắt kịp và tranh thủ được
những thành tựu của văn minh nhân loại để xây dựng CNXH, mà nó còn đi ngược lại
những chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác-xít về thời đại, về các mối quan hệ quốc tế và
về chính sách đối ngoại của những người cộng sản.
Các cuộc cải cách, cải tổ ở các nước XHCN đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức
về đường lối, chiến lược phát triển đất nước của Đảng NDCM Lào đòi hỏi Đảng phải có
tư duy và hành động mới nhằm thích nghi với thời cuộc.
Trong quá trình cải tổ, cải cách nếu như Trung Quốc có sự vươn lên mạnh mẽ,
thì Liên Xô và Đông Âu đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối và cách
làm. Vì vậy, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu ngày càng lún sâu vào khó khăn, rơi vào
khủng hoảng toàn diện và sụp đổ hoàn toàn vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu XHCN đã làm cho CHDCND Lào mất đi
chỗ dựa to lớn cả về chính trị và kinh tế, cả về vật chất và tinh thần. Bài học từ những
thành công và thất bại của các cuộc cải tổ, cải cách ở các nước XHCN cùng với những
khó khăn to lớn do hậu quả của sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu càng thúc
bách CHDCND Lào phải kiên định và đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới với những bước đi
mạnh mẽ hơn cả trong đối nội và đối ngoại.
Trên bình diện khu vực Đông Nam á và châu á - Thái Bình Dương, xu thế hoà
dịu, hợp tác và phát triển đã xuất hiện từ giữa năm 80 và đặc biệt rõ nét sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc. Tất cả các quốc gia trong khu vực đều có nhu cầu hoà bình, ổn định
hợp tác để tập trung sức phát triển kinh tế. Châu á - Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông
á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế năng động, là nơi tập trung những nền
kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Các nước của nền kinh tế công nghiệp mới
(NICs) và ASEAN luôn giữ được tốc độ tăng trưởng 6-8%/năm. Đặc biệt, Trung Quốc
suốt từ khi cải cách ở cửa năm 1978 đến 1996 luôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất
thế giới với 9,5% [52]. Từ những nước nghèo và lạc hậu, chỉ sau một vài thập kỷ, một
số quốc gia và lãnh thổ đã vươn lên trở thành những “con rồng” kinh tế châu á như Hàn
Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapo. Một số nước khác cũng ngấp nghé “hoá rồng”
như Malaysia, Thái Lan, Inđônêxia. Trong đó, ASEAN đã trở thành một thực thể đáng
chú ý về liên kết khu vực với sự thống nhất trong đa dạng. Hàng loạt các tổ chức và
diễn đàn hợp tác kinh tế, an ninh đã ra đời tại khu vực trong thời gian này chứng minh
xu thế nổi trội của hoà bình, hợp tác, liên kết cùng phát triển vì sự phồn vinh của mỗi
quốc gia và của cả khu vực. Những mâu thuẫn về ý thức hệ và sự khác biệt về chế độ
chính trị không còn là trợ lực lớn ngăn cản bước đi hợp tác giữa các nước trong khu
vực. Trước những thay đổi sâu sắc như vậy, sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Lào là
mở cửa hội nhập, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước láng giềng trong khu vực cơ
sở bình đẳng cùng có lợi.
Thành tựu và kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đối ngoại của thời kỳ
1986-1996 là cơ sở thực tiễn quý báu của đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của
Đảng và Nhà nước Lào từ 1996-2006.
Đại hội Đảng lần thứ IV (11/1986) đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó có những đổi mới rất quan trọng về tư duy đối ngoại: sự hợp tác toàn diện với
các nước XHCN anh em, xây dựng lực lượng cùng phát triển quan hệ đặc biệt giữa nước Lào
với Việt Nam và Campuchia, vận dụng các điều kiện thuận lợi của thời đại thành yếu tố
không thể thiếu được trong việc xây dựng CNXH ở Lào. Từ sự đổi mới nhận thức về tình
hình quốc tế và nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới, Đại hội IV của Đảng NDCM
Lào nêu rõ:
Xu hướng chủ yếu của tình hình thế giới là đấu tranh quyết liệt trong
cùng tồn tại hoà bình, trong đó đấu tranh về mặt kinh tế có ý nghĩa rất quan
trọng mà phát huy tính chất ưu việt của chế độ XHCN, hệ thống CNXH thế
giới sẽ giành lấy chiến thắng lợi to lớn được nhận định trong nỗ lực mặt kinh
tế và khoa học – kỹ thuật của thời đại chúng ta [37, tr.41].
Từ nhận định nêu trên, Nghị quyết lần thứ V của BCHTW Đảng NDCM Lào
khóa IV chủ trương: Chủ động chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức
cùng tồn tại hoà bình giữa ba nước Đông Dương với Trung Quốc, với các nước
ASEAN, với Mỹ, xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những nhận
thức và chủ trương mới hết sức đúng đắn, tạo ra bước đổi mới tư duy và hành động đối
ngoại. Việc giải quyết tốt những vấn đề đối ngoại then chốt có tác động rất to lớn tới
quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Lào.
Dưới ánh sáng Hội nghị cấp cao của ba nước Lào - Việt Nam – Campuchia tại
Viêng Chăn tháng 2/1983, sự mở rộng hợp tác toàn diện giữa ba nước, giữa ngành và
địa phương với nhau trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, liên hệ chặt chẽ
trong hoạt động đối ngoại... các hình thức làm cho quan hệ đặc biệt dồi dào phong phú
và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tin cậy nhau, giúp đỡ nhau và bổ sung cho nhau
trong sự nghiệp cách mạng của mỗi nước, tăng cường sự thống nhất cao về mặt chính trị
giữa 3 Đảng. Đảng NDCM Lào nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng là tăng cường đoàn kết
chiến đấu, rộng mở hợp tác toàn diện với Việt Nam và Campuchia làm cho sự hợp tác
đi vào chiều sâu, có số lượng và chất lượng tốt, xây dựng sức chiến đấu để giành thắng
lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đông Dương phát huy vai trò
tích cực của mình vì hoà bình, ổn định trong khu vực châu á cũng như hoà bình và tiến
bộ trên thế giới.
Với Trung Quốc, Lào chủ trương vun đắp tình hữu nghị với nhân dân Trung
Hoa, khẳng định quan điểm nhất quán, cố gắng để giữ gìn tình hữu nghị. Trung Quốc là
nước lớn, là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an của Liên hiệp quốc, có trách
nhiệm vì hoà bình ở châu á - Thái Bình Dương và trên thế giới, Lào mong muốn quan
hệ giữa Lào – Trung Quốc được phục hồi bình thường trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc của nhau, không
xâm phạm nhau, bình đẳng và mỗi bên cùng có lợi, cùng sống hoà bình. Điều đó là phù
hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, với lợi ích hoà bình, ổn định trong châu á và hoà
bình thế giới.
CHDCND Lào và Vương quốc Thái Lan là nước láng giềng có biên giới chung
1.835km, nhân dân hai nước đã có quan hệ tốt đẹp tình nghĩa anh em từ lâu đời. Nhân
dân hai nước hoàn toàn hy vọng cùng nhau sống hoà bình, đấu tranh chống âm mưu xảo
quyệt tàn ác của bọn phản động, cấu kết với đế quốc và phản động quốc tế gây thù ghét
giữa dân tộc, phá hoại tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Lào – Thái.
CHDCND Lào kiên trì lập trường đúng đắn và thái độ thiện chí của mình, lúc nào cũng
hy vọng muốn phát triển và tăng cường quan hệ giữa hai nước trên cơ sở hai bản Tuyên
bố chung Lào – Thái tháng 1 và tháng 4/1979. Lào coi mọi vấn đề xảy ra trong quan hệ
giữa hai nước đều có khả năng giải quyết được và phải giải quyết bằng đàm phán trên
cơ sở sự hiểu biết nhau và tôn trọng lẫn nhau. Chính phủ Lào sẵn sàng làm hết sức của
mình, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng cường sự hiểu biết nhau và tin cậy nhau
giữa hai nước.
Với các nước ASEAN, Đảng và Nhà nước Lào chủ trương không ngừng phấn đấu
nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các bên, đồng thời bảy tỏ mong
muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở
Đông Nam á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam á trở thành
khu vực hoà bình, hợp tác và hữu nghị.
Trong quan hệ với Mỹ, Lào bày tỏ rõ thiện chí của mình bằng hành động thực tế
đơn phương trong tìm kiếm người Mỹ mất tích. Lào kiên trì quan điểm đòi Mỹ chấm
dứt các hoạt động, can thiệp vào công việc của Lào, mở đường cho việc bình thường
hoá quan hệ giữa hai nước, củng cố quan hệ đó tốt trên cơ sở các nguyên tắc cùng
chung sống hoà bình.
Lào tiếp tục phát triển quan hệ với các nước khác trên thế giới, không phân biệt
chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau,
bình đẳng và mỗi bên cùng có lợi. Là thành viên của cộng đồng XHCN thế giới, trên
cương vị thành viên của Liên Hiệp quốc và phong trào không liên kết, Lào cố gắng làm
hết khả năng của mình đóng góp vào đấu tranh cùng với nhân dân các nước vì hoà bình
và an ninh quốc tế, vì tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
Như vậy, đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới được Đại hội IV khởi xướng
và các nghị quyết của Trung ương Đảng sau đó cụ thể hoá và phát triển cùng với thực
tiễn hoạt động ngoại giao thời kỳ 1986-1991 đã thể hiện rõ nét đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng NDCM Lào. Nó mở ra một trang mới cho nền ngoại giao Lào hiện đại và đặt
cơ sở vững chắc cho bước đột phá trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng
hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Lào từ Đại hội V đến
nay.

1.3. Những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại đổi mới
1.3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo, phương châm của đường lối,
chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào
Với tư cách là một bộ phận rất quan trọng của đường lối chính trị và chính sách
nói chung của mọi quốc gia, dân tộc, đường lối, chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của
đường lối, chính sách đối nội, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện đường lối, chính
sách đối nội. Thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn sẽ góp phần phục vụ
đắc lực cho việc hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ trong nước của CHDCND Lào.
Đặc biệt, trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, khi mà sự ổn định và phát triển
của mỗi quốc gia ngày càng phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường quốc tế thì đường lối,
chính sách đối ngoại cũng ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của chủ thể cầm quyền
ở mỗi quốc gia dân tộc. ở nước Lào, đường lối, chính sách đối ngoại luôn là một bộ
phận hữu cơ của đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước Lào trong mọi thời kỳ cách
mạng. Nó nhằm hướng tới phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu cách mạng của
Đảng và dân tộc. Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào là sự thể
hiện những đặc trưng của đất nước và dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại và quy luật
vận động của tình hình quốc tế. Nó nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, phục
vụ sự nghiệp phát triển đất nước, nâng cao uy tín của Đảng và vị thế của đất nước trên
trường quốc tế, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của cả
nhân loại tiến bộ. Như vậy, mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại là kế tục và
phục vụ mục tiêu đối nội, kết hợp biện chứng và hài hoà lợi ích dân tộc với nghĩa vụ
quốc tế.
Mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong
thời kỳ đổi mới là hướng vào thực hiện mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Lào. Mục
tiêu chiến lược chung của đường lối đối ngoại của Lào, dựa vào sự phân tích đặc điểm
nổi bật và xu hướng phát triển của thế giới trong thế kỷ XXI, dựa vào sự thành công và
kinh nghiệm của Lào trên lĩnh vực ngoại giao trong những năm vừa qua để phát triển
đường lối chung cũng như đường lối đối ngoại do Đại hội VII Đảng NDCM Lào xác
định:
Một là, giữ vững đường lối đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác nhất
quán, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước, ý thứcựt chủ dựa vào sức mình là
chính với việc ra sức giành lấy sức mạnh và thời cơ thuận lợi của thời đại, góp phần bảo
vệ thành quả của sự nghiệp cách mạng. Củng cố, nâng cao vai trò của CHDCND Lào
trên trường quốc tế, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung các dân tộc trên thế giới
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hai là, tiếp tục thắt chặt và tăng cường hợp tác toàn diện với các nước bạn chiến
lược XHCN, coi đó là cơ sở vững bền cho Lào trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo lập thế mạnh cho nước Lào trong quan hệ
quốc tế, coi trọng việc vun đắp truyền thống quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn
diện với Việt Nam, phát triển quan hệ toàn diện với Trung Quốc.
Ba là, coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác có hiệu quả với các nước láng
giềng, tin cậy lẫn nhau, tạo lập bầu không khí hoà bình, lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi
cho Lào trong sự nghiệp xây dựng đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế và hội nhập với
khu vực cũng như với thế giới. Ngoài việc tăng cường quan hệ bạn chiến lược với hai
nước Việt Nam và Trung Quốc, Lào coi trọng quan hệ và hợp tác có hiệu quả với các
nước láng giềng ở Đông Nam á tham gia vào tiến trình hợp tác liên kết khu vực trên cơ
sở phát huy cao nhất.
Bốn là, tăng cường tình đoàn kết và hợp tác với các nước không liên kết, các
nước đang phát triển để cùng nhau bảo vệ những lợi ích chính đáng về mặt chính trị và
kinh tế cho mình. Trong cương vị là thành viên phong trào không liên kết, CHDCND
Lào tích cực tham gia cuộc đấu tranh của các nước đang phát triển vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, thiết lập trật tự quốc tế mới công bằng, dân chủ và
cùng phát triển.
Năm là, tiếp tục phát triển quan hệ bình thường với các nước tư bản chủ nghĩa,
chủ động thu hút sự hợp tác và viện trợ trong nhiều hình thức từ các nước công nghiệp
phát triển, đáp ứng kịp thời sự đòi hỏi của phương hướng phát triển kinh tế quốc gia của
Lào. Do đó, đối với các nước TBCN, Lào phải giữ quan hệ bình thường với họ giữa nhà
nước với nhà nước để Lào có điều kiện tranh thủ sự viện trợ, vốn đầu tư, khoa học -
công nghệ và kinh nghiệm quản lý kinh tế, xã hội. Vấn đề đặt ra là Lào phải chủ động
xây dựng kế hoạch hợp tác với họ và giải thích rõ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của Lào, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tranh thủ các cơ hội thúc đẩy hợp tác trên cơ
sở tôn trọng độc lập chủ quyền, các bên cùng có lợi.
Sáu là, đẩy mạnh hội nhập, tham gia tích cực trong hoạt động của Liên hợp quốc và
tổ chức của khối các nước có sử dụng tiếng Pháp cũng như các thể chế tài chính, các tổ
chức quốc tế và khu vực, vì sự nghiệp hoà bình và phát triển.
Bảy là, chăm lo phát triển quan hệ với các đảng chính trị ở các nước trên cơ sở
tôn trọng độc lập, tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, coi trọng việc
thúc đẩy quan hệ với các đảng cầm quyền.
Tám là, phát triển hoạt động ngoại giao nhân dân rộng mở để tăng cường sự hiểu
biết giữa nhân dân Lào và nhân dân thế giới, vì hoà bình, tình hữu nghị và thúc đẩy hợp
tác, phát triển. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, hoạt động ngoại giao của nhân dân có
tác dụng rất quan trọng. Ngoại giao nhân dân được thể hiện trong hoạt động của các hội
hữu nghị, cơ quan tổ chức đoàn kết hay các tổ chức xã hội, nghề nghiệp khác. Vì vậy,
Lào tất yếu phải củng cố các cơ quan, tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội cho vững
mạnh để hoạt động theo mục tiêu củng cố tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác và phát triển
giữa nhân dân các nước trên thế giới. Đấu tranh cho những mục tiêu cao cả ấy vừa là
lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ của các bộ tộc Lào đối với nhân loại tiến bộ, nhưng đó
cũng là nhằm bảo vệ và thực hiện hoá những lý tưởng tốt đẹp của Đảng NDCM Lào và
Nhà nước Lào. Tham gia tích cực cùng với nhân loại tiến bộ đấu tranh cho những giá trị
tốt đẹp của con người, đồng thời loại trừ những hành động, những yếu tố tiêu cực, phản
tiến bộ, phản nhân văn là một trong những nhiệm vụ của đối ngoại Lào thời kỳ đổi
mới...
Bản chất của nền ngoại giao Lào thời kỳ đổi mới là nền ngoại giao hoà bình và
cách mạng. Đặc điểm về địa lý, chính trị, lịch sử, tự nhiên, văn hoá, bản chất của con
người Lào cũng như vị thế của Lào trong khu vực và thế giới đã quy định rằng nếu
muốn đất nước yên bình, dân cư an lạc thì Lào phải có đường lối đối ngoại khéo léo trên
tinh thần hoà bình, hữu nghị và khoan dung. Hơn nữa, đất nước Lào luôn phải tiến hành
những cuộc kháng chiến chống xâm lược rất lâu dài, gian khổ và chịu nhiều hy sinh mất
mát to lớn. Vì vậy, dân tộc Lào hiểu rõ giá trị của hoà bình và chính nghĩa. Nền ngoại
giao Lào thời kỳ đổi mới mang bản chất chính trị là nền đối ngoại hoà bình, hoà hiếu,
nhân nghĩa, khoan dung, sẵn sàng hiệp tác với tất cả các dân tộc trên thế giới.
Bản chất hoà bình của nền ngoại giao Lào thời kỳ đổi mới luôn quán triệt và thể
hiện tính cách mạng và tiến bộ. Điều đó bắt nguồn từ bản chất, mục tiêu lý tưởng của
Đảng NDCM Lào và chế độ xã hội của Lào. Kiên định với mục tiêu lý tưởng XHCN
trước mọi biến động to lớn của thời cuộc, đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của
Đảng và Nhà nước Lào khẳng định sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân, đứng về phía nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu cao cả của
loài người. Đại hội IV Đảng NDCM Lào khẳng định: “Tiếp tục giương cao ngọn cờ hoà
bình, độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hiệp tác quốc tế, ra
sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế với nhân dân thế giới” [36,
tr.78].
Nền ngoại giao đổi mới của Lào còn thể hiện bản chất hữu nghị và mở rộng.
Bản chất ấy thể hiện ở phương châm đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá
với tinh thần Lào sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Hợp tác vì sự phát triển là mục tiêu trong các hoạt động đối ngoại của Đảng và
Nhà nước Lào thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở bình đẳng, các bên cùng có lợi và thúc đẩy
sự hợp tác giữa các dân tộc vì mục tiêu phát triển, ra sức phấn đấu để đưa đất nước thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, Lào cùng với các nước, nhất là cá nước đang phát triển phối
hợp và giúp đỡ lẫn nhau nhằm thúc đẩy sự phồn vinh chung của các dân tộc, vì hoà bình
và thịnh vượng của khu vực và trên thế giới.
Đường lối đối ngoại hoà bình là ngọn nguồn sức mạnh và uy tín của Lào trong
bang giao quốc tế, nó tạo ra môi trường trong nước và quốc tế thuận lợi cho Lào đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới và phát triển. Đến lượt mình sự ổn định và phát triển của nước
Lào lại là một đóng góp quan trọng cho hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc.
Nguyên tắc đối ngoại:
Để thực hiện mục tiêu chiến lược đối ngoại, Đảng và Nhà nước Lào trong thời kỳ
đổi mới luôn kiên trì các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, giữ vững nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
nhau không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và mỗi bên
cùng có lợi. Nguyên tắc này cũng là nguyên tắc chung của Liên hiệp quốc mà Đảng và
Nhà nước Lào kiên trì thực hiện trong quá trình mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng
hoá, đa phương hoá.
Hai là, ủng hộ việc giải quyết các xung đột, mâu thuẫn, bất đồng và tranh chấp
giữa các nước bằng hoà bình, không tán thành phương pháp giải quyết bằng vũ lực hoặc
uy hiếp bằng vũ lực, phản đối sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác hoặc đi
xâm lược nước khác với bất kỳ lý do nào.
Ba là, ủng hộ xây dựng trật tự quốc tế mới về mặt chính trị và kinh tế công bằng,
dân chủ và hợp lý trên cơ sở tôn trọng 5 nguyên tắc cùng chung sống hoà bình theo
Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế.
Cùng với những nguyên tắc cơ bản nêu trên, để phục vụ cho ngoại giao Lào đạt
được: các mục tiêu chiến lược chung, Đảng và Nhà nước Lào nêu và luôn quán triệt sâu
sắc 6 phương châm đối ngoại chủ yếu sau:
Một là, kiên trì các nguyên tắc hoạt động đối ngoại, đồng thời phải linh hoạt và
sáng tạo, chuyển trọng tâm công tác ngoại giao sang phục vụ sự phát triển kinh tế, tranh
thủ thu hút nguồn vốn, khoa học – công nghệ và kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài
trong mọi lĩnh vực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước.
Hai là, kết hợp chặt chẽ quan hệ chính trị ngoại giao và quan hệ hợp tác kinh tế
quốc tế với an ninh, quốc phòng, giữ vững thế chủ động trong quan hệ quốc tế; nhạy
bén với tình hình mới, không rơi vào âm mưu khiêu khích của thế lực thù địch.
Ba là, quan hệ hợp tác quốc tế phải mở rộng từng bước phù hợp điều kiện và khả
năng bản thân mình.
Bốn là, thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, mở rộng
quan hệ quốc tế vì mục tiêu hợp tác để phát triển và tiến bộ xã hội.
Năm là, tiến hành ngoại giao khéo léo, mềm dẻo trên cơ sở lập trường chiến lược
và sách lược của bản thân mình.
Sáu là, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương với nhau, giữa trung ương
với địa phương, giữa địa phương với nhau và giữa trong nước với nước ngoài, đặt các
hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
1.3.2. Quá trình bổ sung, phát triển đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Lào từ 1996 – 2006
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, mặc dù sự nghiệp đổi mới của Lào đã
tiến hành được 10 năm và đã giành được thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên,
đất nước và chế độ vẫn đứng trước những khó khăn to lớn. Tiếp đó, những đảo lộn
chính trị lớn lao trên thế giới do sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô
càng đẩy đất nước Lào vào tình thế rất nghiêm trọng về nhiều mặt. Bình tĩnh và tỉnh táo
trước thời cuộc, với những hành trang quý báu là di sản lý luận và thành tựu bước đầu
của 10 năm đổi mới, Đại hội VI của Đảng NDCM Lào (tháng 3/1996) đã đưa ra những
quyết sách táo bạo và đúng đắn. Theo đó, Đảng NDCM Lào đã thực hiện một bước
ngoặt trong việc đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại với tuyên bố thực hiện chính
sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc
tế. Do sự hoạt động tích cực của Đảng, Nhà nước và tổ chức quần chúng theo đường lối,
chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác được làm cho "quan hệ
quốc tế của nước Lào mở rộng ra nhiều mặt, nhiều mức độ khác nhau, cương vị vai trò
của nước Lào trong khu vực và trên diễn đàn quốc tế được củng cố, nâng cao hơn" [42,
tr.14].
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tăng cường quan hệ với các nước láng
giềng và các đối tác truyền thống, CHDCND Lào xác định quan hệ hữu nghị, tinh thần
đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa nước Lào với Việt Nam cần không ngừng
được củng cố theo phương châm thực tế và có hiệu quả, phù hợp với sự đổi mới của
mỗi nước và đặc điểm của tình hình quốc tế. Quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác
toàn diện của Lào với Trung Quốc, được thúc đẩy cả về chiều sâu và chiều rộng theo cơ
chế mới. Quan hệ hữu nghị tốt đẹp với các nước láng giềng giữa Lào với Campuchia;
tình đoàn kết hữu nghị anh em với Cu ba và CHDCND Triều Tiên tiếp tục tăng được
tăng cường. Quan hệ hữu nghị với các nước ASAN ngày càng mở rộng, đi vào thực
chất, hiệu quả.
Quan hệ hợp tác giữa nước Lào với các nước công nghiệp phát triển có bước
phát triển mới, Lào góp phần xứng đáng trong hoạt động của Liên hiệp quốc, của phong
trào không liên kết và khối các nước có sử dụng tiếng Pháp. Phấn đấu vì sự nghiệp hoà
bình, hữu nghị và hợp tác trên thế giới, Lào chủ động tăng cường phối hợp và hợp tác
với các tổ chức quốc tế. Những nỗ lực đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào đã tạo lập
môi trường hoà bình thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào. Việc bổ
sung, hoàn thiện chính sách đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế, tranh thủ sức mạnh và viện trợ của quốc tế một cách có nguyên tắc là không thể
thiếu được đối với sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước [42, tr.51].
Trước bối cảnh mới của tình hình trong nước và quốc tế đầu thế kỷ XXI, Đại hội
VII Đảng NDCM Lào (tháng 3/2001) đã kịp thời có bổ sung phát triển mới trong đường
lối, chính sách đối ngoại với những nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn, Đại hội đã đề ra
chủ trương: "Thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và
hợp tác trước sau như một và tích cực, vai trò uy tín của nước Lào trong khu vực và trên
trường quốc tế đã phát triển lên từng bước" [45, tr.18].
Đảng và Nhà nước Lào nhấn mạnh quan điểm cần tăng cường tính chủ động
trong hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, giữ vững một cách nhất quán đường lối,
chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác, trên cơ sở các nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng mỗi bên cùng có lợi. Đồng thời, cần thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng
hoá, mở rộng quan hệ quốc tế từng bước thích hợp theo điều kiện và khả năng, lấy quan
hệ mặt chính trị, ngoại giao gắn bó với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại
hội VII Đảng NDCM Lào khẳng định: "Tiếp tục thực hiện chính sách mở rộng và hợp
tác kinh tế với nước ngoài và cơ quan tổ chức quốc tế để thu hút vốn, khoa học - công
nghệ và kinh nghiệm... phục vụ sự phát triển đất nước, xoá đói giảm nghèo của nhân
dân Lào" [45, tr.50].
Tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện với các nước bạn chiến lược
XHCN, trong đó vun đắp truyền đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với CHXHCN
Việt Nam, phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với CHND
Trung Hoa.
Coi trọng xây dựng quan hệ tốt và hợp tác có hiệu quả với các nước láng giềng,
tích cực tham gia vào hoạt động của ASEAN, tăng cường hợp tác với các nước công
nghiệp phát triển, các nước không liên kết, các nước đang phát triển, Khối các nước có
sử dụng tiếng Pháp, Liên hiệp quốc, cũng như các thể chế tài chính và cơ quan tổ chức
quốc tế khác.
Ngoài quan hệ ngoại giao Nhà nước Lào nhấn mạnh việc tăng cường quan hệ với
các đảng cầm quyền, đảng chính trị và phong trào chính trị xã hội trên thế giới trên cơ
sở tôn trọng độc lập và tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, góp phần
vào tăng cường quan hệ hữu nghị và hiệp tác giữa nhà nước với nhà nước.
Đảng và Nhà nước Lào chứng minh rằng:
Phải quyết chí giữ vững đường lối ngoại giao, hoà bình, độc lập hữu
nghị và hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, công bằng và hai bên cùng
có lợi, không đe doạ và không dùng bạo lực với nhau và giải quyết vấn đề
mâu thuẫn giữa các nước bằng hoà bình [46, tr. 68].
Tiếp tục thực hiện chính sách quan hệ song phương, đa phương, nhiều hình thức,
lấy quan hệ chính trị, ngoại giao gắn với hợp tác kinh tế với quốc tế, tạo lập môi trường
bên ngoài tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời góp
phần chính đáng trong đấu tranh của cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập, dân chủ và
sự tiến bộ của xã hội. Cổ vũ vai trò của Đảng và Nhà nước Lào trên trường quốc tế.
Song song với quan hệ nhà nước, Lào tăng cường quan hệ với các đảng và phong
trào tiến bộ thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập và tự chủ, không can thiệp công việc
nội bộ của nhau. Góp phần tăng cường hữu nghị và hợp tác giữa nhà nước với nhà
nước, tăng cường ngoại giao nhân dân và động viên bà con người Lào ở nước ngoài.
Nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là rất nặng nề, công việc này
có nhiều khó khăn phức tạp. Để thực hiện công việc đó được tốt vấn đề có tính chất
quyết định là không dựa dẫm trông chờ từ bên ngoài mà phải chủ động củng cố, phát huy
mạnh mẽ nguồn nội lực. Làm như vậy sẽ củng cố được lòng tin của các đối tác nước
ngoài, đồng thời sử dụng tốt được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Đảng và Nhà nước Lào
nhận thức rõ phải quan tâm đặc biệt đến công tác nghiên cứu vấn đề quan hệ kinh tế với
nước ngoài, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Tháng 3/2006, Đại hội VIII Đảng NDCM Lào đã đề ra chủ trương: "Tăng cường
tình đoàn kết vững chắc của tất cả các bộ tộc Lào, phát huy sức mạnh tổng hợp, tích cực tiếp
tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng những bước mới vững chắc,
xây dựng, bảo vệ và phát triển Tổ quốc Lào theo hướng XHCN" [45, tr.11]. Đại hội khẳng
định kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của nước Lào trên trường
quốc tế.
Suốt trong thời gian 20 năm qua, Đảng NDCM Lào đã luôn quán triệt quan điểm
thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp
tác, thực hiện chính sách quan hệ đa phương hoá, đa dạng hoá, mở rộng từng bước thích
ứng theo điều kiện cụ thể và thiết thực; kết hợp quan hệ chính trị, ngoại giao với quan
hệ kinh tế, do đó vai trò, uy tín của Đảng và Nhà nước Lào được nâng cao trên trường
khu vực và quốc tế.
Tích cực thực hiện phương châm phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc, kết
hợp với sức mạnh của thời đại, CHDCND Lào đã thu hút sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc
tế đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Nước Lào là thành viên, của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, luôn quan tâm
thực hiện các hiệp ước quốc tế và các thoả thuận quốc tế hữu quan. Thông qua đó,
CHDCND Lào, góp phần cùng với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã
hội, vì hoà bình, ổn định ở khu vực và thế giới. Chẳng hạn, Lào đã có sự đóng góp trong
đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố và tội hình sự xuyên quốc gia. Song song với quan
hệ về mặt nhà nước, Lào còn tăng cường quan hệ với các đảng chính trị và phong trào
tiến bộ trên thế giới.
Nhận thức ngày càng sâu sắc tính chất phức tạp của những diễn biến trên thế giới
trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước Lào một mặt
luôn kiên trì các nguyên tắc chiến lược trong hoạt động đối ngoại; mặt khác cũng luôn
tỏ rõ sự chủ động, linh hoạt bổ sung điều chỉnh chính sách đối ngoại một cách thích hợp
trong thời kỳ đổi mới. Điều này giúp CHDCND Lào có thể tận dụng tốt thời cơ, khắc
phục nguy cơ và thách thức để từng bước hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả thiết
thực.
Như vậy, đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào
được Đại hội IV Đảng NDCM Lào khởi xướng, các đại hội, hội nghị của Ban BCHTW
Đảng sau đó bổ sung, phát triển và hoàn thiện đã hình thành đường lối, chính sách đối
ngoại rộng mở chưa từng có trong lịch sử ngoại giao Lào hiện đại. Đường lối, chính
sách đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại của dân tộc, là sự vận dụng
đúng đắn, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chỉ
đạo của đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hẳn về đối ngoại. Đường lối, chính sách đó còn là
hệ quả của sự đúc kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng hơn nửa thế
kỷ qua của dân tộc Lào, do Đảng NDCM Lào lãnh đạo. Nó thể hiện tư duy nhạy bén,
sáng tạo của Đảng và Nhà nước Lào được thực tiễn chứng minh là đúng đắn và nó đã có
những đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước của nhân
dân Lào.
Chương 2
Quá trình thực hiện chính sách đối ngoại
của cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế

2.1. Đánh giá về thành tựu thực hiện chính sách đối ngoại trong điều kiện
hội nhập quốc tế
Việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và
Nhà nước Lào là xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn, từ những yếu tố khách
quan và chủ quan, trong đó trước hết là kết quả của sự đổi mới tư duy lý luận chính trị
đối ngoại của Đảng NDCM Lào. Đó là những nhận thức mới về thời đại và các mâu
thuẫn của thời đại về những đặc điểm và xu thế vận động của thời đại, về quan hệ quốc
tế sau chiến tranh lạnh, về chính sách đối ngoại, về tính chất của thời đại ngày nay.
Trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại mở cửa hội nhập với khu vực
và thế giới, tư duy đối ngoại, nhận thức thế giới của Đảng, Nhà nước Lào có sự trưởng
thành rất đáng ghi nhận. Đây có thể coi là một thành tựu rất quan trọng trên lĩnh vực đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong thời kỳ đổi mới.
Trung thành với cách tiếp cận mác xít về thời đại, Đảng NDCM Lào thừa nhận
quan điểm do Hội nghị của 81 Đảng cộng sản, công nhân quốc tế tại Mátxcơva năm
1960 đã nhất trí xác nhận, thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH mở
đầu bằng cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Từ ngày đó đến ngày nay, thế giới có
sự thay đổi do kết quả tác động của cuộc đấu tranh của các dân tộc và sự phát triển của
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhưng nội dung, tính chất cơ bản của thời đại quá
độ vẫn giữ nguyên giá trị của nó.
Thời đại chúng ta là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, loài người sẽ nhất định
tiến lên CNXH. Mục tiêu của cuộc đấu tranh của thời đại chúng ta là hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung được tiến hành
bằng nhiều hình thức, nhiều mức độ khác nhau như: cuộc đấu tranh của các nước
XHCN để giữ vững hoà bình và xây dựng CNXH; cuộc đấu tranh của các nước vốn là
thuộc địa, nửa thuộc địa, phụ thuộc chủ nghĩa thực dân và đế quốc nhằm giải phóng
khỏi ách thuộc địa và giữ độc lập về mặt chính trị, giành độc lập về kinh tế và thiết lập
trật tự kinh tế quốc tế mới; cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
ở các nước tư bản phát triển, đòi hoà bình, dân chủ, quyền sống và tiến bộ xã hội. Các
cuộc đấu tranh đó gắn bó với nhau, tác động và thúc đẩy qua lại lẫn nhau trong thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH.
Thời kỳ quá độ lên CNXH được Đảng NDCM Lào nhận thức đầy đủ hơn với nội
dung phong phú, đa diện, nhiều chiều. Đó không phải là con đường chơn tru, thẳng tắp
mà còn bao gồm nhiều giai đoạn và chứa đựng cả những bước quanh co, phức tạp, thậm
chí có cả những bước thụt lùi lớn. Nội dung quá độ cũng diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội... Tính chất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại đan xen giữa CNXH và
CNTB trên phạm vi mỗi nước cũng như trên phạm vi thế giới, mặc dù CNTB hiện đang
chiếm ưu thế tuyệt đối về nhiều mặt và có nhiều tiềm năng lớn, còn khả năng tiếp tục
điều chỉnh thích nghi và phát triển. Vì vậy, sự tồn tại đan xen, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh giữa CNXH và CNTB còn diễn ra lâu dài và là một quy luật tất yếu của lịch sử.
Trên cơ sở những nhận thức chung về thời đại, Đảng NDCM Lào khẳng định
rằng 4 mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại, thậm chí nó ngày càng chín muồi và
có mặt gay gắt hơn, nội dung và hình thức biểu hiện của nó có nhiều nét mới. Bên cạnh
bốn mâu thuẫn cơ bản, thời đại ngày nay đã xuất hiện hàng loạt các mâu thuẫn mới phát
sinh như: mâu thuẫn giữa sự phát triển bền vững của nhân loại với những yếu tố phản
phát triển, mâu thuẫn giữa văn minh và dã man, giữa chiến tranh và hoà bình, giàu và
nghèo, giữa Bắc và Nam, giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, giữa
chủ nghĩa đơn cực, bá quyền, áp đặt hiếu chiến với ý thức độc lập tự chủ của các quốc
gia và nhu cầu thiết lập một thế giới hoà bình, công bằng và bình đẳng. Cuộc đấu tranh
giữa các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới nhằm giải quyết tất cả những mâu
thuẫn đó là cốt lõi của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay và nó là một động
lực thúc đẩy và quyết định xu thế vận động của thời đại.
Cũng cần nói ngay rằng, mâu thuẫn thời đại là phạm trù cực kỳ phức tạp chẳng
khác nào tính phức tạp của thế giới, trong nhiều trường hợp nó không thật rạch ròi, do
đó không thể tiếp cận một cách giản đơn. Trong cuộc sống của nhân loại còn không ít
những hiện tượng một số nước về bản chất giai cấp không có mâu thuẫn đối kháng song
đã từng mâu thuẫn, kình địch, thậm chí tiến hành chiến tranh chống lại nhau? Làm thế
nào giải thích được hiện tượng các nước đối nghịch nhau về bản chất chế độ lại liên
minh chống lại những nước cùng chế độ bên nay hay bên kia? Nguồn gốc các xung đột
tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa khủng bố hiện nay đang diễn ra hằng ngày cũng còn đang
chờ sự lý giải tháo đáo.
Trên cơ sở xác định những đặc điểm của thời đại như trên, Đảng NDCM Lào đã
chỉ ra những xu thế chủ yếu của thế giới là:
Thứ nhất, hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn, phản ánh đòi
hỏi bức xúc của các quốc gia dân tộc. Các nước đều tập trung cho phát triển kinh tế, coi
kinh tế có vai trò quyết định trong việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước và
xác lập vị thế của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, xu thế hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế trên nhiều lĩnh vực
nhất là về kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ và thu hút mọi quốc gia vào quá trình này.
Hợp tác, liên kết gia tăng nhưng cạnh tranh cũng ngày càng khốc liệt.
Thứ ba, trong quá trình hợp tác và phát triển, các quốc gia dân tộc ngày càng nêu
cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đấu tranh chống lại mọi sự cường quyền, can thiệp
và áp đặt.
Thứ tư, cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh tiến bộ và công
bằng xã hội của các nước XHCN, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới còn nhiều khó khăn nhưng sẽ có bước phát triển mới.
Thứ năm, hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế
độ chính trị - xã hội khác nhau là một xu thế cơ bản của thời đại. ý thức hệ không còn là
trở ngại lớn cản trở bước đường hợp tác và hội nhập quốc tế, lợi ích dân tộc là yếu tố cơ
bản chi phối các mối quan hệ quốc tế đương đại.
Thứ sáu, các diễn đàn đa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan
hệ quốc tế [87]..
Từ những nhận thức đó, Đảng NDCM Lào đã kịp thời có những chuyển hướng
chiến lược về tư duy đối ngoại với việc đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế trên tinh thần "Lào sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển". Đặc biệt, Đảng NDCM Lào đã có những nhận thức rất biện
chứng và xác đáng về vấn đề "đối tác" và "đối tượng" trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Những đổi mới về tư duy đối ngoại của Đảng được xây dựng trên cơ sở giữ vững những
mục tiêu chính trị, phương châm, nguyên tắc đã được xác định, nhưng linh hoạt, mềm
dẻo về sách lược, hướng tới mục tiêu tối cao là phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
và xây dựng thành công CNXH trên đất nước Lào.
Việc nhận thức đúng đắn về thời đại, nắm bắt được những đặc điểm và xu thế
của thế giới, nhìn nhận rõ những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra cho đất nước
Lào là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn để Đảng NDCM
Lào hoạch định và thực thi thành công đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới góp
phần quan trọng vào những thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới ở đất nước Lào.
Đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới tiếp tục được Đảng NDCM Lào
khẳng định, bổ sung và từng bước được hoàn thiện tại các Đại hội lần thứ VI (tháng
3/1996) và Đại hội lần thứ VII của Đảng NDCM Lào (tháng 3/2001). Chính sách đối
ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế được Đảng NDCM
Lào bổ sung và nâng lên một bước với tuyên bố mang nội dung mới "Lào sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển" [44, tr.49]. Với những bổ sung mới, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Lào ngày càng trở nên sâu sắc thêm, mở ra khả năng có thể tranh
thủ tối đa các điều kiện quốc tế để phát triển quan hệ của Lào với tất cả các nước
trên thế giới, đồng thời cảnh giác trước những đe doạ đến an ninh của đất nước Lào.
Như vậy, đổi mới tư duy và chính sách đối ngoại là một quá trình từ đánh giá,
nhìn nhận và nắm bắt xu thế thời đại, xác định mục tiêu và định hướng phát triển cho
đất nước, từ đó đề ra vai trò và nhiệm vụ đối ngoại cũng như chính sách để thực hiện
được những quan điểm ấy. Từ chỗ nhận thức đối tác, đối tượng tương đối cứng nhắc,
siêu hình sang dạng tư duy mới phù hợp với cục diện mới, coi hiệp tác, đấu tranh là hai
mặt biện chứng, đan xen và biến hoá. Lào hết sức linh hoạt trong việc xử lý những vấn
đề nảy sinh trong quan hệ quốc tế, thực hiện "dĩ bất biến ứng vạn biến" đưa đất nước
Lào ra khỏi những tình huống khó khăn, tạo dựng môi trường hoà bình ổn định để phát
triển đất nước. Đây là kết quả trong quá trình phát triển tư duy lý luận, hoạch định chính
sách và triển khai thực hiện các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào, trên cơ
sở quán triệt và vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin
về con đường cách mạng Lào.
Đổi mới tư duy đối ngoại đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chủ động tiến
công, kiên định nguyên tắc và linh hoạt sách lược, gắn kết mục tiêu cách mạng và định
hướng phát triển đất nước và những xu hướng của thời đại.
Những thành tựu đối ngoại nổi bật trong 20 năm đổi mới:
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng NDCM Lào, công tác đối ngoại của
Lào đã phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động sáng tạo, tích cực tham mưu xây dựng và
thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối ngoại giao của Đảng NDCM Lào, vận
dụng sáng tạo tư tưởng và phong cách ngoại giao của Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản như
"thêm bạn bớt thù", góp phần xứng đáng vào những thành tựu to lớn của đất nước Lào
trong 20 năm đổi mới vừa qua, tạo dựng thế và lực mới cho đất nước tiếp tục bước vào
thế kỷ XXI.
CHDCND Lào kiên định đường lối đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị, chính
sách hợp tác đa dạng hoá, đa phương hoá, tăng cường hợp tác mọi mặt với các nước bạn
chiến lược XHCN, trong đó nhấn mạnh: thắt chặt truyền thống đoàn kết đặc biệt và hợp
tác toàn diện với Việt Nam, quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc, mở rộng quan
hệ hợp tác với các nước láng giềng, tích cực tham gia hoạt động trong Hiệp hội các
nước Đông Nam á (ASEAN), mở rộng quan hệ hiệp tác với các nước và tổ chức quốc
tế.
Một trong những thành tựu đối ngoại quan trọng nhất của CHDCND Lào trong
thời kỳ đổi mới là đã nỗ lực, chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá, tạo môi trường thuận lợi và tranh thủ sự hợp tác, viện trợ
quốc tế, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động đối ngoại góp
phần vào việc giữ gìn ổn định chính trị của đất nước Lào, tạo ra thế và lực mới cho
Lào có vai trò, uy tín ngày càng cao trong khu vực và quốc tế.
Trên cơ sở xác định nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm ở giai đoạn đầu của thời kỳ
đổi mới là phá thế bao vây, cấm vận, công tác ngoại giao đã tích cực thúc đẩy việc tìm
kiếm một giải pháp chính trị hợp lý cho vấn đề Lào - Thái. Lào coi đây là khâu đột phá
trong triển khai đường lối đối ngoại đổi mới. Từ đó Lào càng có điều kiện và cơ hội để
triển khai chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, cả về chính trị lẫn
kinh tế, tạo lập khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài với tất cả các nước
láng giềng khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống...
Lào coi trọng đặc biệt sự tăng cường hợp tác về mặt chính trị với các nước bạn
chiến lược bằng nhiều hình thức: tổ chức gặp gỡ, trao đổi, thăm hữu nghị chính thức
giữa lãnh đạo cấp cao của Đảng NDCM Lào với Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng
sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Cu Ba và Đảng Lao động Triều Tiên. Từ đó đã xây
dựng được sự tin cậy lẫn nhau giữa Đảng NDCM Lào với các đảng anh em đưa quan hệ
song phương ngày càng đi vào chiều sâu và trở thành cơ sở vững chắc cho phát triển và
tăng cường hiệp tác mọi mặt giữa nước Lào với nước bạn chiến lược. Đồng thời, Đảng
NDCM Lào còn chú trọng củng cố và tăng cường quan hệ bằng nhiều hình thức với các
đảng cộng sản, đảng công nhân và lực lượng cánh tả ở nhiều nước, thiết lập và mở rộng
quan hệ với nhiều đảng cầm quyền trong các nước tư bản. Đến nay, Lào có quan hệ với
hơn 90 đảng chính trị trên thế giới.
Thành công nói trên đã trở thành nhân tố quan trọng bảo đảm ổn định chính trị
của nước Lào. Đảng NDCM Lào đã nhận được sự đánh giá cao của nhiều Đảng anh em
trên thế giới trong tư cách một Đảng kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và sự nghiệp xây
dựng CNXH mặc dù tình hình thế giới biến đổi dữ dội và khó lường.
Để giữ vững ổn định về mặt chính trị của CHDCND Lào phù hợp với tình hình
mới của thế giới đang diễn biến phức tạp, Đảng NDCM Lào đã kiên quyết thực hiện
phương châm "thêm bạn bớt thù". Theo phương châm đó, Đảng và Nhà nước Lào đã
quan tâm xây dựng quan hệ ngoại giao với 121 nước và thành thành viên của các cơ
quan tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực quan trọng. CHDCND Lào trở thành thành viên
ASEAN ngày 23/7/1997 và đã dự nhiều hoạt động quan trọng như: Hội nghị cấp cao
ASEAN, ASEAN + 3 và ASEAN + 1; Hội nghị Bộ trưởng ASEAN; Diễn đàn an ninh
ASEAN (ARF); liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO) và cơ quan cảnh sát ASEAN
(ASEANAPOL),... Lào tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam á, Hiệp
ước về xây dựng khu vực không có vũ khí hạt nhân v.v..
Mặt khác, Lào còn tích cực tham gia các hoạt động quốc tế quan trọng như:
chống chủ nghĩa khủng bố, chống buôn bán vũ khí, chống buôn bán phụ nữ, ma túy và
các tội phạm xuyên quốc gia... Ngoài ra, Lào rất chú trọng thúc đẩy các cuộc trao đổi ý
kiến về chính trị trên cả phương diện song phương và đa phương nhân dịp dự các hội
nghị quốc tế: Hội nghị của Phong trào không liên kết; Hội nghị cấp cao Pháp ngữ; Hội
nghị Quốc hội quốc tế và khu vực. Uy tín quốc tế của CHDCND Lào ngày càng dc củng
cố và nâng cao. Cộng đồng quốc tế đã tin tưởng đề nghị Lào thành nước chủ trì hoặc
thành chủ tịch nhiều hội nghị quan trọng ở khu vực, tại Liên hiệp quốc và cơ quan tổ
chức quốc tế như: AEMM, ASEAN, AIPOL, ASOD... Tại Liên hiệp quốc, Lào đã đảm
nhận vị trí Chủ tịch của Khối các nước không có đường thông ra biển, đồng thời Lào
còn góp phần đóng vị thế hoà giải quan hệ giữa một số nước bạn bè, vì vậy vai trò của
CHDCND Lào từng bước nâng cao. Nhờ vậy, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng
lên rất nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước Lào tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Hoạt động đối ngoại đã góp phần rất quan trọng tạo dựng môi trường bên ngoài
hoà bình, tin cậy lẫn nhau, cũng như tăng cường mạnh mẽ khả năng quốc phòng, an
ninh của Lào. Quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, khu vực ngày càng
được củng cố, đi vào chiều sâu, tạo dựng môi trường khu vực hết sức thuận lợi cho phát
triển kinh tế - xã hội của Lào, đồng thời tạo ra thế và lực mới trong quan hệ với các đối
tác khác. Quan hệ với các nước bạn bè truyền thống được đổi mới và mở rộng. Đây là
một trong những thành tựu to lớn của đối ngoại Lào thời kỳ đổi mới, hội nhập với khu
vực và thế giới.
Để tạo dựng môi trường bên ngoài hoà bình cho sự kiến quốc của Lào, Đảng
NDCM Lào nhấn mạnh và kiên định thực hiện 5 nguyên tắc cùng nhau chung sống hoà
bình, trong đó nổi bật có chính sách tích cực giải quyết vấn đề giữa nước Lào với các
nước láng giềng. Hiện nay, bằng sự hợp tác chặt chẽ của các địa phương và các ban
ngành Trung ương liên quan, bằng trách nhiệm cao với Tổ quốc và nhân dân, cũng như
tinh thần tận tụy của đội ngũ cán bộ và chiến sĩ, Lào đã kiểm soát và cắm mốc biên giới
giữa Lào với Thái Lan hoàn thành khoảng 80% của biên giới mặt đất, với Cămpuchia
hoàn thành khoảng 40%, đó là hướng tốt đẹp trong việc giải quyết những vấn đề vướng
mắc về lịch sử giữa Lào và Thái Lan.
Trong những năm vừa qua, lực lượng quốc phòng, an ninh đã tích cực tham dự
các hoạt động ngoại giao, góp phần quan trọng vào sự tăng cường mạnh mẽ thực lực
quốc phòng, an ninh của Lào. Sau khi Lào trở thành thành viên Hiệp hội ASEAN, đã
tăng cường mối quan hệ với các nước thành viên ASEAN cả song phương và đa phương
trong những mức độ khác nhau về vấn đề an ninh thông qua sự trao đổi, các chuyến
thăm nhau thường xuyên, tham dự Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) về xây dựng lòng
tin về ngoại giao phòng ngừa, giữ gìn hoà bình và an ninh khu vực. Đoàn đại biểu quốc
phòng, an ninh Lào còn dự các cuộc thảo luận có liên quan tới vấn đề chống khủng bố
xuyên quốc gia được tổ chức ở nước ngoài.
Các quan hệ song phương của CHDCND Lào ngày càng có những bước phát
triển mới.
+ Mối quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam không ngừng được
thúc đẩy và mở rộng cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Lào và
Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ ngày 5/9/1962 và ngày 18/7/1977 hai
nước đã ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia. Năm
2000, hai nước đã ký các hiệp định hợp tác chiến lược về kinh tế, văn hoá, khoa học -
kỹ thuật 10 năm, 5 năm và hàng năm nhằm thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước
trong thời kỳ mới.
Trong những năm qua, lãnh đạo Lào và Việt Nam thường xuyên trao đổi , phối
hợp chặt chẽ trong khuôn khổ quan hệ hợp tác ASEAN, trong khu vực châu á - Thái
Bình Dương và quốc tế.
Hai nước đã hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó nổi bật như: nông, lâm
nghiệp, thủy lợi, giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng. Kim ngạch thương mại giữa hai
nước tăng lên liên tục, năm 2005 đạt 170 triệu USD, hàng hoá Việt Nam chiếm khoảng
25-30% thị trường Lào. Giai đoạn 1996-2000, Việt Nam dành cho Lào khoản viện trợ
không hoàn lại là 346,576 tỷ VND, giai đoạn 2001-2005 là 560 tỷ VND. Việt Nam là
một trong 5 nước đã đầu tư lớn nhất vào Lào với 65 dự án có tổng giá trị 470 triệu USD,
giúp Lào đào tạo chuyên gia, cán bộ, lưu học sinh tại Việt Nam, đầu tư hơn 16,5 tỷ
VND xây dựng Trung tâm thông tin - văn hoá Việt Nam tại Thủ đô Viêng Chăn, xây
dựng Viện bảo tàng Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản, chuyển giao kinh nghiệm y tế, phòng
chống bệnh sốt rét, bướu cổ, v.v..
Hiện có khoảng 17.000 Việt kiều ở Lào, trên 40 người Lào kiều ở Việt Nam và
khoảng 11.500 lao động Việt Nam đang làm việc tại Lào. Hai bên đã tích cực hợp tác
quy tập mộ liệt sỹ 10 năm qua và đã di chuyển về Việt Nam 16.356 hài cốt chiến sĩ tình
nguyện Việt Nam hy sinh tại Lào [86, tr.13].
+ Quan hệ hợp tác với Trung Quốc:
Lãnh tụ hai Đảng đã gặp và trao đổi hàng năm. Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp
cán bộ Lào đi trao đổi kinh nghiệm, dự hội nghị của Trung Quốc năm 2000 và 2001 với
6 lần (200 người).
CHDCND Lào hiểu sâu sắc rằng Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là nước XHCN
có vai trò quan trọng ở Liên hiệp quốc cũng như trên trường quốc tế, hiện đang tiến
hành cải cách và mở cửa với những thành tựu rất to lớn. Vì vậy, tăng cường tình đoàn
kết và hợp tác toàn diện giữa Lào và Trung Quốc, là hai nước có chung lý tưởng và mục
tiêu XHCN, có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chế độ mới
của Lào.
Các ngành của Trung ương và địa phương Lào luôn quán triệt, nắm vững và triển
khai nội dung tinh thần hợp tác giữa hai nước thể hiện trong Tuyên bố chung Lào -
Trung Quốc ngày 12/11/2001. Đảng và Nhà nước Lào coi trọng việc nghiên cứu học tập
kinh nghiệm về cải cách và mở cửa của Trung Quốc.
+ Quan hệ với Campuchia:
Quan hệ được điều chỉnh và đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp
tác kinh tế, phối hợp giải quyết vấn đề cắm mốc biên giới, lãnh thổ theo phương châm
"Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài". Sự tin
cậy lẫn nhau giữa Đảng NDCM Lào với Đảng Nhân dân Campuchia, quan hệ với Đảng
Phunsipếc đã góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước trên cơ sở Tuyên bố
chung Lào - Campuchia năm 1995, làm thất bại âm mưu phá hoại của các lực lượng thù
địch. Hoạt động ngoại giao phối hợp với Campuchia trong ASEAN và Dự án hợp tác
tiểu vùng Mê Công cũng như trên trường quốc tế đang bước vào giai đoạn phát triển
mới.
+ Quan hệ với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên:
Quan hệ hữu nghị và hợp tác với nước bạn vẫn tiếp tục được duy trì và thúc
đẩy, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước Lào. Hai bên thường xuyên trao đổi đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước và
các cơ quan tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang và quốc hội. Từ đó, tăng cường
quan hệ chính trị, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phối hợp với nhau trong hoạt động
trên trường quốc tế và khu vực.
+ Quan hệ với Cộng hoà Cu Ba:
Thủy chung tình nghĩa với nước bạn Cu Ba, Đảng và Nhà nước Lào coi trọng
việc duy trì và củng cố quan hệ giữa hai nước, thường xuyên trao đổi đoàn đại biểu
Đảng và Nhà nước và cơ quan tổ chức quần chúng. Tại các diễn đàn quốc tế, CHDCND
Lào luôn bày tỏ sự ủng hộ với Cu Ba, phản đối và đòi Mỹ xóa bỏ bao vây cấm vận
chống Cu Ba. Đồng thời, trên các diễn đàn của Phong trào không liên kết, nhóm G77 và
ở Liên hợp quốc, hai nước có sự phối hợp hoạt động một cách tích cực, ủng hộ, chia sẻ
quan điểm với nhau về nhiều vấn đề quốc tế hai bên cùng quan tâm.
+Quan hệ với các nước láng giềng:
Ngoài Việt Nam và Trung Quốc, các nước láng giềng của Lào đều có sự khác
biệt về chế độ chính trị, lịch sử và truyền thống cách mạng. Tuy nhiên, trong thời kỳ
đổi mới, Lào đã thành công trong việc tìm ra những hình thức quan hệ thích hợp, thúc
đẩy sự hợp tác hữu nghị với mỗi nước.
Quan hệ giữa Lào với Thái Lan là quan hệ giữa hai nước tuy có chế độ chính trị -
xã hội khác nhau, nhưng có bề dày truyền thống. Hiện tại, Mỹ vẫn tiếp tục câu kết với
các thế lực phản động ở Thái Lan để phá hoại chế độ mới của Lào. Hai nước Lào và
Thái Lan có biên giới chung dài 1835 km, hai nước có quan hệ giống nòi, dân tộc, tiếng
nói và tục lệ tập quán đó là đặc điểm riêng của quan hệ Lào, Thái Lan. Trong quan hệ
với Thái Lan, Đảng và Nhà nước Lào kiên trì thực hiện phương châm "hợp tác và đấu
tranh". Trong khi nhấn mạnh nhu cầu, hợp tác, hữu nghị, song Lào cũng kiên quyét đấu
tranh chống lại việc các thế lực thù địch ở Thái Lan tạo điều kiện cho bọn phản động
lưu vong phá hoại Lào, đấu tranh chống tư tưởng nước lớn của một số thế lực ở Thái
Lan trong quan hệ với Lào.
Lào coi trọng việc thu hút các lực lượng và cá nhân có tình cảm tốt để xây dựng
và giữ quan hệ hữu nghị lâu dài với nước láng giềng Thái Lan, tạo môi trường hòa bình,
ổn định cho Lào xây dựng đất nước. Quan hệ Lào - Thái Lan thúc đẩy nhằm thực hiện
hiệp ước hợp tác theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, thu hút vốn và công nghệ của Thái
Lan. Hai nước quan tâm giải quyết vấn đề biên giới và hợp tác ngăn chặn khủng bố, tội phạm
xuyên quốc gia, ma túy, buôn lậu... hợp tác trong dự án tiểu vùng Mê Kông, dự án hành lanh
Đông - Tây, xây dựng cầu qua sông Mê Kông và hoạt động trong ASEAN.
+Quan hệ với Mianma, Lào luôn giữ gìn và phát triển sự tin cậy lẫn nhau về mặt
chính trị, tăng cường quan hệ hữu nghị và khuyến khích hợp tác các mặt giữa hai nước,
tạo thành thế và lực dựa vào nhau, phối hợp với nhau trong quan hệ với nước ngoài.
Lào đã chủ động và tích cực trong việc thực hiện Hiệp ước hợp tác hai bên đã ký
trên tinh thần bình đẳng và giúp đỡ nhau, ủng hộ Mianma trong hoạt động đối ngoại,
nhất là khi Mianma đứng trước những vấn đề căng thẳng, khó khăn trong quan hệ quốc
tế.
+ Quan hệ với các nước Đông Nam á khác, Lào đã bình thường hoá hoàn toàn
quan hệ, chuyển từ chỗ còn nghi kỵ đến hữu nghị và hợp tác, thúc đẩy các mối quan hệ đi
vào chiều sâu, tăng thêm độ tin cậy và hiểu biết lẫn nhau. Lào đã tạo dựng được khuôn
khổ hợp tác toàn diện lâu dài với Singapo, Philippin, Malaixia và Indônexia, Brunay, mở
rộng quan hệ thu hút đầu tư ,viện trợ kinh tế, công nghệ, phát triển nhân lực và khoa học
công nghệ thông tin.
Đối với các nước Đông Nam á, Lào đã nỗ lực theo hướng tăng cường quan hệ
chính trị, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định trong khu vực, khuyến khích các nước
ASEAN quan tâm đầu tư ở Lào. Sau khi gia nhập ASEAN, Lào đã tham gia tích cực và
có hiệu quả các hoạt động của Hiệp hội, có nhiều đóng góp quan trọng vào việc củng cố
đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác nội khối, đồng thời phối
hợp chặt chẽ với các nước thành viên trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng. Lào đã tổ
chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN - 10 và các hội nghị quan trọng khác, qua đó
góp phần nâng cao vai trò, vị trí của Hiệp hội cũng như uy tín của Lào ở khu vực và
trên trường quốc tế.
+ Quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa.
Xử lý mối quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa là một vấn đề khá nhạy cảm và
phức tạp trong quan hệ quốc tế của CHDCND Lào thời kỳ hội nhập quốc tế. Hiện nay
nói chung các nước tư bản chủ nghĩa đều có quan điểm như nhau về vấn đề nhân quyền,
dân chủ và phát triển lĩnh vực kinh tế tư nhân, coi đây là lực lượng quan trọng, quyết
định sự phát triển kinh tế quốc gia. Trong quan hệ với Lào, các nước tư bản chủ nghĩa
có xu hướng áp đặt các vấn đề này như là một điêù kiện để mở rộng hợp tác. Vì vậy,
Lào đã từng bước xác định rõ chính sách cụ thể cho quan hệ với mỗi nước tư bản đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Lào.
Quan hệ với Nhật Bản: Đây là nước có ngành công nghiệp phát triển, hiện nay
Nhật Bản mong muốn tăng cường vai trò chính trị trên thế giới tương xứng với sức
mạnh kinh tế của mình. Trong những năm qua, Nhật Bản là nước đi đầu trong viện trợ
không hoàn lại cho Lào, nhưng đầu tư còn ít. Hai bên cũng đã tạo dựng được cơ sở tiếp
xúc và đối thoại thường xuyên nhằm thúc đẩy sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Trên cơ
sở sáng kiến của Lào, lãnh đạo hai Đảng cầm quyền đã xác định khuôn khổ quan hệ
"đối tác tin cậy, ổn định lâu dài" cho hai nước trong thế kỷ XXI. Quan hệ Lào - Nhật có
bước phát triển mạnh nhất là trên các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, giao
thông, giáo dục, văn hoá, y tế, đầu tư, viện trợ. Về chính trị, ngoại giao, Lào ủng hộ lập
trường của Nhật Bản về cải cách Liên hợp quốc, trong đó có việc nâng cao vai trò của
Nhật Bản tại Hội đồng Bảo an.
Quan hệ với Hàn Quốc, Ôxtrâylia, NiuDilân, tiếp tục được thúc đẩy trên nhiều
mặt. Các nước này hiện đã trở thành những đối tác quan trọng đối với Lào về đầu tư, du
lịch, phát triển nguồn nhân lực, công nghệ, dự án tiểu vùng Mê Kông, thương mại, văn
hoá kinh tế.
Quan hệ với ấn Độ: Lào đã chủ động duy trì quan hệ hữu nghị truyền thống,
đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại, đầu tư, hợp tác, giáo dục, khoa học - công nghệ
thông tin. Hiện nay, ấn Độ tích cực thực hiện chính sách đối ngoại "hướng Đông", nhằm
phát huy vai trò ảnh hưởng của ấn Độ trong khu vực châu á. Lào và ấn Độ đã mở rộng
hợp tác trong Phong trào không liên kết, khối G.77.
Quan hệ với Pháp : Là một trong 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc và là một nước đóng vai trò trụ cột của Liên minh châu Âu, Pháp đang
chú trọng phát triển quan hệ ở châu á - Thái Bình Dương. Đây là cơ hội tốt để cải thiện
quan hệ giữa Lào và Pháp. Tăng cường hợp tác chính trị và kinh tế với Pháp không chỉ
nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau mà Lào có thể dựa vào vai trò của Pháp để từng
bước mở rộng quan hệ với các nước ở châu Âu. Bên cạnh hợp tác song phương, quan hệ
Lào - Pháp còn được củng cố thông qua hợp tác trong khuôn khổ của khối các nước có
sử dụng tiếng Pháp.
Quan hệ với nước Đức: Đức là một thành viên có vai trò quan trọng ở Liên minh
châu Âu và đang ra sức phát huy ảnh hưởng trên mọi lĩnh vực để nâng cao vai trò trong
việc giải quyết các vấn đề khu vực và thế giới. Lào tăng cường quan hệ hợp tác song
phương với Đức, thu hút đầu tư, thương mại, du lịch, viện trợ phát triển như phát triển
nhân lực và khoa học - kỹ thuật. Lào coi trọng vai trò của Đức trong châu Âu và trên
trường quốc tế, ủng hộ Đức trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp
quốc.
Quan hệ với nước Anh: Anh là đồng minh quan trọng của Mỹ, mọi hoạt động
quốc tế của Anh thường chạy theo Mỹ. Vì vậy, Lào phải hiểu chính sách đối ngoại của
Anh, một nước có vai trò quan trọng ở Liên hiệp quốc và trên trường quốc tế. Trong
những năm qua, Lào quan tâm cải quan hệ kinh tế, thương mại với Anh, tăng cường thu
hút viện trợ phát triển, xúc tiến các dự án chuyên môn như học tiếng Anh.
Quan hệ với các nước Tây Âu khác: Trong những năm qua, Lào đã từng bước cải
thiện và củng cố quan hệ song phương với mỗi nước, trong đó một trong những hướng
quan trọng là vận động thu hút viện trợ phát triển của Thụy Sĩ, Na Uy, Bỉ, Lúcxămbua,
Thụy Điển, Tây Ban Nha. Ngoài ra, Lào còn tích cực tranh thủ đầu tư, khai thác thị
trường và du lịch.
Quan hệ với Mỹ:
Trên tinh thần "gác lại quá khứ, hướng tới tương lai", quan hệ của Lào đối với
Mỹ từng bước được cải thiện tiến tới bình thường hóa. Tuy nhiên, Mỹ luôn lợi dụng vai
trò là một siêu cường duy nhất trên thế giới để tiến hành chính sách đối ngoại cường
quyền. Trong tình hình đó, song song với việc kiên trì nguyên tắc chiến lược vững chắc,
Lào có sách lược đúng đắn xử lý quan hệ với Mỹ để giữ quan hệ bình thường giữa Nhà
nước Lào và Mỹ. Hai nước đã hợp tác tìm kiếm hài cốt lính Mỹ mất tích ở Lào trong
chiến tranh Đông Dương và dự án hợp tác chống buôn bán ma túy, chống khủng bố
quốc tế. Mặt khác, Lào luôn đề cao cảnh giác không cho Mỹ lợi dụng vấn đề tín ngưỡng
tôn giáo, vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của
Lào.
Quan hệ với nước Nga và các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG):
Sau một thời kỳ khó khăn, khủng hoảng nước Nga ngày càng có ổn định về mặt
chính trị và dần dần khôi phục kinh tế, đồng thời cố gắng nâng cao vai trò quốc tế trong
khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Lào tăng cường quan hệ hợp tác
về mặt chính trị và kinh tế với Nga, thúc đẩy thực hiện hiệp ước hợp tác với Nga. Ngoài
ra, Lào nỗ lực khôi phục và phát triển hợp tác với Bêralut, Ucraina và một số nước khác
thuộc SNG, để thúc đẩy đầu tư và trao đổi hàng hoá, phù hợp với tiềm năng và năng lực
thực tế của mỗi bên.
+ Quan hệ với các khối và tổ chức quốc tế:
Trước hết với ASEAN, Lào đánh giá cao vai trò ngày càng quan trọng của tổ
chức này đối với việc bảo đảm hoà bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác ở Đông Nam á,
châu á - Thái Bình Dương. Do vậy, Lào đã tích cực tham gia một cách chủ động các
hoạt động ASEAN, góp phần tăng cường tính thống nhất của hiệp hội, đưa hợp tác
ASEAN đi vào chiều sâu thực chất, đáp ứng lợi ích chính trị và kinh tế của Lào, góp
phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Lào. Sự tham gia ngày càng tích cực và chủ động của
Lào vào các công việc của ASEAN chứng tỏ sự thành công bước đầu của Lào trên con
đường hội nhập với khu vực và quốc tế.
Đối với Liên minh châu Âu (EU), Lào coi đây là một trong những đối tác quan
trọng hàng đầu. Thông qua việc phát triển quan hệ với EU, CHDCND Lào đã từng bước
tiếp cận thị trường rộng lớn ở Tây Âu, tranh thủ thu hút nguồn vốn ODA, FDI và các dự
án hợp tác trên các lĩnh vực khác. Đồng thời, sự phát triển mối quan hệ này góp phần
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, hạn chế đáng kể những nhận thức sai lệch của một số
nước thành viên EU đối với Lào trong các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo,
dân tộc, dân chủ và nhân quyền.
Đối với các nước trong Phong trào không liên kết, Lào tiếp tục củng cố mối quan
hệ truyền thống, tình đoàn kết đã có từ lâu đời, đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng
chính trị và kinh tế của các nước đang phát triển trong quan hệ quốc tế.
Đối với Khối các nước có sử dụng tiếng Pháp, Lào đã tập trung chủ yếu vào việc
thu hút sự giúp đỡ về mặt công nghệ, đẩy mạnh hợp tác văn hoá, giáo dục. Lào cũng
tích cực triển khai công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại nhằm để các nước thành
viên hiểu chính sách và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Lào, ngăn chặn việc các thế lực
thù địch lợi dụng khối này chống phá chế độ chính trị của Lào.
Trong quan hệ với Liên hiệp quốc, Lào phản đối một số nước phương Tây và Mỹ
lợi dụng cơ quan Liên hiệp quốc, phục vụ lợi ích ích kỷ của họ. Đồng thời bày tỏ sự ủng
hộ các hoạt động của Liên hiệp quốc, nhằm duy trì hòa bình, ổn định an ninh ở các khu
vực khác nhau trên thế gới. Trong những năm vừa qua, Lào đã được Liên Hiệp quốc giúp
củng cố hệ thống luật pháp, Toà án, Viện kiểm sát, ngành y tế (các dự án phòng chống
HIV/AIDS, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em), rà phá bom mìn, dự án xoá bỏ cây thuốc
phiện và bảo vệ môi trường. Một trong những dự án quan trọng của Liên Hiệp quốc đối với
Lào là dự án triển khai phát triển kinh tế và xoá bỏ nghèo đói quốc gia (NGPES).
Trong chính sách đối ngoại, CHDCND Lào luôn kiên trì chủ trương tăng cường
hơn nữa vai trò của Liên hợp quốc, cải cách sâu rộng cơ cấu tổ chức của diễn đàn đa
phương lớn nhất này, bảo đảm giữ Hiến chương Liên hiệp quốc, nhất là nguyên tắc tôn
trọng, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước thành viên, nguyên tắc không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
* Cùng với việc thúc đẩy quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và khu
vực (WB, IMF, ADB), Lào chú trọng quan hệ với các nước tổ chức phi chính phủ nước
ngoài. Hợp tác với cơ quan tổ chức phi chính phủ (NGO) đã có nhiều bước tiến nhất
định. Năm 2004-2005, có 130 dự án với số vốn 16,24 triệu USD của 77 cơ quan tổ chức
NGO được thực hiện cùng với các ngành liên quan của Lào. Viện trợ của tổ chức NGO
là phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Lào, các dự án chủ yếu nhằm vào
phát triển ngành giáo dục, y tế, nông - lâm nghiệp, phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, tư pháp, thanh niên, phụ nữ và giúp đỡ chuyên môn...
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, trong thời gian gần đây, không ít các NGO đã bị
lợi dụng thành công cụ để gây rối về mặt chính trị ở nhiều nước cũng như ở Lào. Hiện
nay, tại Lào có khoảng 102 cơ quan NGO đang hoạt động trong đó 50 cơ quan có hoạt
động liên quan đến tôn giáo. Do đó, trong quan hệ với các tổ chức phi chính phủ nước
ngoài, Lào luôn đề cao cảnh giác làm thất bại âm mưu lợi dụng các tổ chức đó để can
thiệp vào công việc nội bộ của Lào.
Trong công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới, một trong những thành tựu đáng ghi
nhận là chính sách đối với người Lào ở nước ngoài. Thực hiện chính sách của Đảng và
Nhà nước Lào về người Lào đang sinh sống ở nước ngoài, Lào gấp rút nghiên cứu ban
hành một số chính sách như: chính sách về quốc tịch, về thu hút đầu tư, về chế độ thăm
thân nhằm tạo điều kiện huy động sự đóng góp của cộng đồng người Lào ở nước ngoài
đối với công cuộc xây dựng quê hương, đất nước.
Tính đến hiện nay, theo số liệu được công bố thì người Lào cư trú, làm ăn ở nước
ngoài bằng nhiều lý do khác nhau có khoảng 500.000 người, trong đó có 20% là người
thuộc thế hệ sinh ra ở nước ngoài. Thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước Lào, các cơ quan đại sứ quán, cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cũng như
các đoàn đại biểu của Lào ra hoạt động ở nước ngoài đã phấn đấu vận động tranh thủ
thu hút người Lào sinh sống ở nước ngoài hướng về Tổ quốc và ngày càng tách xa các
thế lực phản động lưu vong. Đặc biệt sau khi Lào có chính sách cho người Lào ở nước
ngoài quay lại thăm viếng quê hương, Tổ quốc, thì phần lớn trong số họ có sự hiểu đúng
đắn về chế độ mới của Đảng và Nhà nước Lào, có một số người tìm các hình thức thích
hợp để viện trợ phát triển đất nước, cùng góp phần đấu tranh ngăn chặn các hoạt động
chống phá của thế lực thù địch chống phá chế độ mới của Lào.
Trong giai đoạn 20 năm qua, tình hình thế giới và khu vực có biến đổi nhanh
chóng, phức tạp, đan xen, có tác động nhiều mặt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc của Lào cũng như sự nghiệp đổi mới toàn diện của Đảng NDCM Lào. Nhưng
dưới sự lãnh đạo kiên định và đúng đắn trực tiếp của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng
NDCM Lào, lĩnh vực đối ngoại của Lào đã tăng cường khả năng giành thời cơ và điều
kiện thuận lợi bên ngoài góp phần phát triển đất nước trên các lĩnh vực. Đây là một thành
tựu rất đáng khích lệ và không thể phủ nhận của công tác đối ngoại thời kỳ hội nhập quốc
tế.
Đi từ bình thường hoá quan hệ đến từng bước nâng cấp và xác lập khuôn khổ
quan hệ ổn định, lâu dài với tất cả các nước láng giềng khu vực, các nước lớn và các
nước công nghiệp phát triển. Đây được coi là bước phát triển mang tính đột phá trong
triển khai chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Việc lần đầu tiên xác lập được mối quan
hệ hữu nghị và bình đẳng với các nước trên thế giới chính là cơ sở để Lào thúc đẩy hơn
nữa mối quan hệ hợp tác cùng có lợi với các nước này và các trung tâm kinh tế - chính
trị trên thế giới, tạo điều kiện để Lào đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Trong những năm qua, Lào đã tích cực thực hiện chính sách mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức hai bên hoặc nhiều bên. Hiện nay,
Lào ưu tiên cho hợp tác với Việt Nam và Trung Quốc kể cả trong khuôn khổ Chính phủ
và địa phương đưa lại lợi ích thiết thực quan trọng đối với Lào. Các khoản viện trợ bằng
nhiều hình thức của hai nước bạn chiến lược cho Lào không ngừng được tăng lên. Giá
trị thương mại năm 2000 giữa Lào và Việt Nam tăng gần 60% so với năm 1995, với
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trong giai đoạn này cũng tăng lên 40%. Năm 2000, kim
ngạch thương mại giữa Lào với Việt Nam và với Trung Quốc chiếm 27% tổng kim
ngạch thương mại của Lào, so với năm 1995 chỉ mới chiếm 15,7% [87, tr.5].
Bên cạnh đó, hợp tác kinh tế giữa Lào với các nước ASEAN bước vào giai đoạn
phát triển mới. Lào đã tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, khu vực đầu tư, du
lịch và phát triển các lĩnh vực khác trong hợp tác giữa các nước ASEAN. Lào ra sức
tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước thành viên cũ của ASEAN, nhằm thu hút viện
trợ cần thiết để nâng cao sự phát triển kinh tế của Lào ngày càng xích lại gần hơn với
mức độ của các nước thành viên cũ, đồng thời đáp ứng lợi ích của các bên và sự phồn
vinh của khu vực. Hội nghị ở Xiêm Hiệp Campuchia năm 2001 đã nhấn mạnh rằng các
nước thành viên cũ phải giúp đỡ các nước thành viên mới. Đồng thời, Lào còn có hợp
tác nhiều bên với nước láng giềng như: Dự án hợp tác khu vực sông Mê Kông, hợp tác
sông Mê Kông - sông Hồng, hợp tác ASEAN - EU... CHDCND Lào đã giành được sự
ủng hộ để chuẩn bị trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn
hợp tác kinh tế khu vực châu á - Thái Bình Dương (APEC) và Diễn đàn hợp tác giữa
châu á với châu Âu (ASEM)...
Nguồn viện trợ và sự giúp đỡ quốc tế được Lào sử dụng phần lớn vào mục đích
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Đây trở thành phương hướng ưu tiên của
Chính phủ Lào. Hàng năm Lào giành được sự viện trợ tăng lên, riêng năm 2000 - 2001
có giá trị hơn 380 triệu USD, trong đó viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 70%, viện
trợ của cơ quan tổ chức phi chính phủ hàng năm khoảng 15-18 triệu USD.
Thực tế tham gia hợp tác kinh tế hai bên và nhiều bên đã giúp xây dựng đội ngũ
cán bộ Lào nói chung, cán bộ phụ trách hợp tác kinh tế với nước ngoài nói riêng. Mở
rộng quan hệ quốc tế để giành thời cơ và thế mạnh từ bên ngoài vào khai thác và phát
huy tiềm năng của nước Lào, làm cho Lào nhận thức rõ và có điều kiện khắc phục mặt
tiêu cực và thách thức của toàn cầu hoá.
Mặt khác, việc mở rộng quan hệ đối ngoại đã giúp Lào nhận được sự viện trợ về
mặt chuyên môn ngày càng tăng lên.
Để thực hiện chương trình ưu tiên của Chính phủ Lào về phát triển nguồn nhân
lực, các nguồn vốn viện trợ tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục ở trong
nước. Hợp tác chuyên môn hai bên và nhiều bên từ nước ngoài và các cơ quan tổ chức
quốc tế được tăng cường: Việt Nam, Trung Quốc giúp đỡ vốn cho giáo dục, riêng Việt
Nam đào tạo nhân lực cho Lào hàng năm khoảng 1.000 người, ngoài ra các nước
Ôxtrâylia, ấn Độ, Nga... cũng có dự án trên lĩnh vực này.
Chương trình hợp tác chuyên môn của ASEAN đã tạo điều kiện cho các ngành
của Lào nhận được giúp đỡ lớn, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
chuyên môn mà Lào đang cần. Từ năm 1997 đến nay, đã có 1.500 cán bộ cấp cao và cán
bộ chuyên môn của Lào được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình này. Nhờ vậy, số
cán bộ chuyên môn Lào có khả năng tăng thêm khá nhanh, góp phần vào xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước Lào, cũng như để Lào tham gia tích cực hơn trong
hoạt động với ASEAN và hội nhập quốc tế.
Thành tựu đối ngoại của Lào còn thể hiện ở chỗ nguồn vốn đầu tư của nước ngoài
vào Lào không ngừng tăng lên.
Sau khi công bố Luật về việc khuyến khích và quản lý đầu tư của nước ngoài ở
CHDCND Lào, từ năm 1988 đến nay, theo số liệu của Ban quản lý vốn đầu tư, tổng giá
trị đầu tư của nước ngoài vào Lào đạt khoảng 6 tỷ USD. Đây thực sự góp phần xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới, đa dạng hoá các hình thức chuyển giao sự tiến bộ
khoa học - kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý kinh doanh hiện đại cho đất nước
Lào. Đầu tư nước ngoài vừa góp phần tạo công ăn việc làm vừa giúp khai thác khoáng
sản tài nguyên thiên nhiên, một thế mạnh thực tế trong phát triển kinh tế - xã hội và
nâng cao đời sống sinh hoạt của nhân dân, giúp khả năng thương mại quốc tế của Lào
tăng trưởng ổn định.
Về hợp tác và viện trợ để phát triển trong năm 2003-2004: Lào thu hút viện trợ
để phát triển (ODA) đạt 381,50 triệu USD, trong đó viện trợ không hoàn lại có 217,68
triệu USD (thực hiện được 337 dự án) chiếm 57% vốn vay. Hơn 70% vốn trong kế
hoạch đầu tư của nhà nước hàng năm là dựa vào vốn viện trợ phát triển. Nguồn vốn đó
đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của Lào như giao thông 107,53 triệu USD (có
88 dự án, chiếm15%), y tế có 25,40 triệu USD chiếm 11%, công nghiệp có 25,21 triệu
USD, 16 dự án chiếm 7%, các ngành khác có 121,15 triệu USD, với 153 dự án, chiếm
32% [87, tr.8].
Sự hợp tác với các nước bạn, với các tổ chức tài chính quốc tế có bước chuyển
biến tốt hơn, hướng mạnh vào việc thực hiện chính sách của nhà nước để phát triển
nông thôn và xoá đói giảm nghèo của nhân dân, sự chủ động thực hiện dự án của phía
Lào đã tăng lên, cơ chế phối hợp có mặt tốt hơn.
Việc thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới ở Lào đã tích cực góp phần thực
hiện nghĩa vụ quốc tế. CHDCND Lào tham gia một cách tích cực bằng nhiều hình thức
thích hợp trong giải quyết những vấn đề toàn cầu đang được loài người quan tâm như:
sự biến đổi của thời tiết, sự suy giảm của tầng ôzôn, ô nhiễm không khí, vấn đề ma túy,
vấn đề HIV, vấn đề buôn bán phụ nữ và trẻ em... Trong thực tế, Lào đã công bố Luật về
môi trường, đã tăng cường Hiến pháp và luật pháp phòng, chống buôn bán ma tuý, quan
tâm phòng chống đại dịch HIV, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em. Từ sự hợp tác trên,
Lào đã nhận được lợi ích thực tế qua chương trình hợp tác này.
Ngoài ra, Bộ Ngoại giao, Ban đối ngoại của Trung ương Đảng, Quốc hội cùng
các ngành và cơ quan tổ chức quần chúng đẩy mạnh hoạt động theo nhiệm vụ, vai trò
của họ trong quan hệ với nước ngoài. Sự tham gia ngày càng tích cực của Lào trong
quan hệ giữa Đảng, giữa nhà nước, giữa tổ chức quần chúng trong phạm vi Liên hiệp
quốc, trong phong trào không liên kết, khối 77, Tổ chức liên minh Quốc hội quốc tế và
khu vực, các diễn đàn quốc tế để giải trừ vũ khí, xây dựng trật tự quốc tế mới, vì hoà
bình, độc lập dân tộc, vì hữu nghị giữa các nước, vì hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội.
Đặc biệt, Lào chủ động tham gia tích cực các hoạt động của Nhóm nước đang phát triển
không có đường ra biển.
Trong những năm qua Lào đã đạt những thành tựu quan trọng nhiều mặt trong
hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, làm cho đất nước Lào vừa có vai trò ngày
càng cao trong khu vực và quốc tế, vừa nhận được sự giúp đỡ rất to lớn từ bên ngoài để
phát triển xây dựng đất nước Lào. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu đó là do
Đảng NDCM Lào có đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn, tỏ rõ sự kiên định vững
vàng về mặt chiến lược, linh hoạt mềm dẻo về mặt sách lược. Các ngành ở Trung ương
và địa phương nắm vững nhuần nhuyễn đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, tham gia tích cực hoạt động đối ngoại. Mặt khác, điều có ý nghĩa
quan trọng là do nhân dân Lào đã hiểu và ủng hộ đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Lào. Bộ Ngoại giao và Ban đối ngoại của Trung ương Đảng NDCM Lào đã hoạt
động tích cực góp phần của mình vào trong thành tựu chung như nêu trên. Các cơ quan
đó trong cương vị là tham mưu cho Đảng NDCM Lào và Nhà nước Lào về đường lối,
chính sách đối ngoại, đồng thời cũng trở thành trung tâm hợp tác thực hiện và quản lý
hoạt động đối ngoại một cách hiệu quả, thiết thực.
Đổi mới tư duy là một quá trình lâu dài, trong lịch sử cận đại, đây là lần đầu tiên
nước Lào tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng trên nhiều lĩnh vực về tư duy lý luận, về
phát triển kinh tế - xã hội, về bảo vệ an ninh Tổ quốc, về đối ngoại, về mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Đặc điểm này quy định tính chất phức tạp và khó khăncủa công
cuộc đổi mới của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua nhân dân Lào
đã giành được những thắng lợi to lớn, tạo ra thế và lực mới cho đất nước Lào. Về đối
ngoại, Lào đã vận dụng tương đối nhuần nhuyến tư tưởng ngoại giao Cay Xỏn Phôm-
Vi - Hản - nền ngoại giao cách mạng, tư duy độc lập tự chủ, thêm bạn bớt thù, kiên định
về nguyên tắc, mềm dẻo trong sách lược, kịp thời nắm bắt, tận dụng thời cơ, khôn khéo
trong phương cách xử lý các vấn đề nhạy cảm, kết hợp ngoại giao song phương và đa
phương, sự gắn kết giữa các nhân tố bên trong và bên ngoài, giữa xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, giữa an ninh và phát triển, giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa việc
phát huy tối đa nội lực và tận dụng ngoại lực, xác định nhiệm vụ xây dựng và phát triển
kinh tế là trọng tâm hàng đầu. Nhờ đó, Lào đã đạt được những thành tựu to lớn về đối
ngoại, đóng góp vào những thắng lợi chung của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

2.2. Những khó khăn, hạn chế


Song song với thành tựu rất đáng ghi nhận như đã trình bày trên, quá trình thực
hiện chính sách đối ngoại của Lào còn có một số khó khăn và vướng mắc không nhỏ, hạn
chế thành tựu hoạt động đối ngoại của Lào. Quán triệt nguyên tắc xây dựng Đảng: "Đảng
NDCM Lào coi tự phê bình và phê bình là quy luật của sự tồn tại và phát triển của Đảng",
Bộ Chính trị Đảng NDCM Lào đã tổng kết và chỉ ra những khuyết điểm và vướng mắc
chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự quan tâm chưa đúng mức của Lào trong việc xây dựng chương trình
chi tiết để thu hút sự giúp đỡ từ nước ngoài hoặc để nước ngoài đề nghị chương trình
hợp tác với Lào trên cơ sở chưa dựa vào chương trình ưu tiên mà Chính phủ Lào đã
công bố. Những ngành có liên quan của Lào chưa phối hợp với nhau chặt chẽ để nghiên
cứu một cách đầy đủ đối với những đề nghị của phía nước ngoài. Do thiếu tính chủ
động nên nhiều chương trình, dự án không được thực hiện hoặc bị các nước khác thu
hút mất.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN và Hội nghị Thủ tướng các nước ASEAN, nhiều
quyết định quan trọng đã được thông qua nhằm giúp các nước thành viên ASEAN mới
giảm khoảng cách phát triển chênh lệch với các thành viên cũ. Điều đó cho thấy, các
nước có trình độ phát triển cao hơn trong ASEAN khẳng định sẽ giúp đỡ Lào, nhưng
Lào lại chưa có biện pháp cụ thể để hợp tác với họ. Ví dụ, trong thời kỳ Chủ tịch Cay
Sỏn còn sống cũng đã đề nghị Việt Nam giúp Lào có hải cảng để thuận lợi trong vận tải
hàng hoá, Việt Nam đồng ý, nhưng đến ngày nay phía Lào chưa có biện pháp gì để tiến
hành. Singapo và ấn Độ muốn xây dựng các trung tâm thương mại ở Lào, đề nghị phía
Lào làm nhà cho họ thuê, nhưng đến nay hai năm trôi qua nhưng Lào chưa làm được gì.
Tình hình nêu trên một mặt là do Lào còn khó khăn, sự cố gắng của nội bộ Lào
còn yếu, chưa kịp kịp thời quan tâm nghiên cứu và có phương hướng rõ ràng, để chủ
động thu hút sự giúp đỡ và hợp tác với quốc tế, công tác tuyên truyền đối ngoại làm
được ít và phạm vi hẹp, chưa tìm cách để khuyến khích và phát triển hợp tác kinh tế với
các nước bạn chiến lược, triển khai nghị quyết và hiệp ước đã ký với nước ngoài còn
chậm, hơn nữa có tư tưởng dựa dẫm hoặc cho họ làm thay.
Thứ hai, phong cách làm việc còn chưa được cải tiến, chưa tạo khả năng đáp ứng
sự đòi hỏi tăng cường quan hệ hợp tác một cách hiệu quả, chưa giành và sử dụng thế
mạnh để mở rộng hợp tác với nước ngoài phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội
của đất nước. Lào còn thiếu các nhân tố trên nhiều mặt như: thiếu cơ sở hạ tầng, thiếu
phương án bên trong để thực hiện chương trình hợp tác, sự hạn chế lớn của Lào mà
nước ngoài gọi đó là cách làm việc thiếu can đảm, chậm chạp, kéo dài qua nhiều cấp,
nhiều công đoạn hành chính. Sự phối hợp giữa các ngành Trung ương cũng như giữa
Trung ương và địa phương chưa vững chắc, không phối hợp được chặt chẽ, không tác
động cùng chiều nhau... Những điều bất cập này ảnh hưởng không tốt đến việc thu hút
các nguồn lực từ bên ngoài. Mặc dù Đảng và Nhà nước Lào có phương hướng cho thực
hiện cách làm "một cửa", điều này được giới đầu tư nước ngoài hoan nghênh, nhưng
trên thực tế "một cửa" lại có nhiều cấp, nhiều đoạn hơn cái cũ, có trường hợp thời gian
làm một cửa chậm hơn, có hiện tượng tham nhũng làm cho nhân dân mất niềm tin, các
đối tác nước ngoài nản lòng.
Vấn đề chương trình viện trợ thì có nhiều chương trình các bên nước ngoài đề
nghị đến Lào, nhưng các cấp liên quan của Lào lại không tích cực hợp tác làm cho
chương trình hết thời hạn và mất đi. Công tác quản lý cũng là một vấn đề lớn, quản lý
không tốt và không thực hiện theo theo đúng thể thức, các bên nước ngoài sẽ không tích
cực hợp tác đầu tư vào Lào.
Hợp tác giữa ngành, ban của Bộ ngoại giao với các ngành, ban khác ở cấp Trung
ương cũng như với địa phương trong quan hệ hợp tác quốc tế nói chung, trong quản lý
viện trợ của nước ngoài, cơ quan tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ (NGO)
nói riêng chưa làm tốt, nghiên cứu và đề ra cơ chế thích hợp còn chậm.
Thứ ba, sự mở rộng hợp tác, quan hệ với nước ngoài chưa được các cấp các
ngành của Lào quan tâm đầy đủ chưa xác định rõ giữa nghĩa vụ và lợi ích, giữa năng lực
và mặt hạn chế. Trên thế giới ngày nay, các hoạt động hợp tác rộng rãi, có muôn hình,
muôn vẻ. Trong nhiều trường hợp, các hình thức và cơ chế hợp tác có thể không phù
hợp với ưu tiên trong phát triển của Lào hoặc chưa đáp ứng sự đòi hỏi cần thiết của
nhân dân, nhưng do Lào không nghiên cứu thật chu đáo, vội vã đề nghị các phương án
hợp tác chưa thích hợp, khiến cho Lào rơi vào thế thụ động và bất lợi cản trở sự phát
triển của Lào.
Thứ tư, Lào chưa kịp thời sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động ngoại giao với
vấn đề an ninh - quốc phòng.
Trong giai đoạn vừa qua, cán bộ của Lào số không nhỏ chưa có ý thức cảnh giác
cách mạng toàn diện, đặc biệt là chưa hiểu sâu sắc về âm mưu của thế lực thù địch
chống phá nước Lào trong giai đoạn mới. Sự yếu kém còn thể hiện ở chỗ không có trình
độ hiểu biết cần thiết về nguyên tắc quan hệ giữa các nước, ví dụ một số cán bộ của Lào
trong thời gian tranh thủ thu hút các dự án nước ngoài mà không có ý thức đầy đủ về
các dự án ấy sẽ có hậu quả như thế nào. Có sự kiện xảy ra thậm chí không có sự cẩn
thận trong sử dụng biện pháp thích hợp, làm cho có kẽ hở để phía nước ngoài dùng lý do
đó chống phá Lào, xuyên tạc hoặc sử dụng các biện pháp áp đặt đối với Lào. Thực tế cho
thấy phải hiểu tình hình thế giới ngày nay để trong khi mở rộng hợp tác với nước ngoài
cần quy định rõ những nguyên tắc cụ thể để giữ vững an ninh quốc gia.
Thứ năm, bộ máy tổ chức và cán bộ chuyên trách trực tiếp làm công tác đối
ngoại của Lào còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất, còn thiếu cả về số lượng cả về chất
lượng.
Đến nay, các hoạt động đối ngoại đã diễn ra đối với mọi ngành của Trung ương
và địa phương, nhưng bộ máy chuyên trách trực tiếp làmviệc này thậm chí chưa được
củng cố, hoàn thiện kịp thời, vai trò, trách nhiệm, phạm vi quyền và quan hệ theo chiều
ngang, chiều dọc chưa được quy định rõ, điều đó là trở ngại không nhỏ, ảnh hưởng tiêu
cực đến việc quản lý tập trung về mặt chính sách và kỹ năng tác nghiệp.
Đội ngũ cán bộ bổ sung vào làm công tác đối ngoại ở các ngành Trung ương và
địa phương phần lớn không được đào tạo, huấn luyện, về nghiệp vụ đối ngoại, hơn nữa họ
chưa có điều kiện rèn luyện thường xuyên để nâng cao sự hiểu biết cần thiết. Vì vậy, nếu
cán bộ chuyên trách việc đó ở ngành Trung ương và địa phương có vươn lên thực hiện
nhiệm vụ mà tổ chức giao phó, nhưng không có khả năng chuyên môn nên khó tránh khỏi
sự yếu kém, khuyết điểm.
Xây dựng đội ngũ cán bộ còn chưa kịp với sự đòi hỏi của quá trình mở rộng quan
hệ với nước ngoài trên các mặt. Mặt khác, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ có ý thức
giai cấp và lập trường chính trị, phân biệt bạn - thù chưa được quan tâm sâu sắc, đặc
biệt trong điều kiện các thế lực đế quốc đang tiến hành âm mưu tinh vi, xảo quyệt để
chuyển đất nước Lào đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Thứ sáu, hiệu quả sự hoạt động của Bộ Ngoại giao và Ban đối ngoại Trung ương
Đảng chưa cao.
Phần lớn cán bộ chuyên môn của ngành ngoại giao được học tập, huấn luyện, ở
nước ngoài, họ có kiến thức về chuyên môn đối ngoại chung nhưng chưa nhuần nhuyễn sâu
về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào, chưa nắm vững thực tế kinh tế - xã
hội của đất nước, trong khi đó lại chưa chủ động tích cực tìm hiểu, nghiên cứu cần thiết từ
các ngành Trung ương và địa phương.
Mặt khác, bộ máy của ngành ngoại giao chưa đủ năng lực thực hiện vai trò của
mình trở thành tham mưu tổng hợp, trung tâm phối hợp và quản lý các hoạt động ngoại
giao. Cơ quan đại sứ quán của CHDCND Lào thường trực ở nước ngoài nhiều nơi chưa
hoạt động tích cực, vì vậy làm giảm hiệu quả hoạt động đối ngoại. Bên cạnh đó, công
tác nghiên cứu chiến lược và dự báo tình hình chưa theo kịp những chuyển biến rất
nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, đánh giá chưa thật đầy đủ và chính
xác về các đối tác và đối tượng, nhất là vào thời kỳ đầu của đổi mới, chưa thấy hết mối
quan hệ tương tác, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước và nền kinh tế, những cơ hội
cũng như khó khăn, thách thức đối với nước Lào trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong triển khai hoạt động đối ngoại đôi khi còn bị động, lúng túng. Những hạn chế về
thực lực kinh tế, khoa học công nghệ của đất nước cũng đã tác động phần nào đến việc
triển khai một cách hiệu quả các hoạt động đối ngoại.
Trong công tác hội nhập quốc tế, tiến độ của công việc chuẩn bị về pháp lý và
thể chế vẫn chưa theo kịp với những chuyển biến mới của tình hình thế giới và khu vực.
Chưa hình thành được một lộ trình hợp lý về hội nhập. Đội ngũ cán bộ làm công tác
kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế còn thiếu và yếu về nhiều măt. Công tác
thông tin đối ngoại còn bị động, hình thức còn hạn chế, công tác thống nhất quản lý điều
hành hoạt động đối ngoại, tuy đã có bước tiến đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu.
Có thể thấy quan hệ quốc tế của nước Lào tuy đã đạt được chiều rộng đáng kể
nhưng chưa đạt tới độ sâu cần thiết, nhất là về quan hệ kinh tế. Sự hiện diện của hàng
hoá và dịch vụ của Lào trên thị trường thế giới nói chung và ở từng nước nói riêng còn
rất "mỏng" chưa đủ sức tạo dựng nền móng vững chắc cho quan hệ lâu dài, cùng có lợi
với các đối tác. Nhiều hoạt động chưa đem lại hiệu quả cao, nhiều thoả thuận không
được thực hiện tích cực.
Có thể thấy những yếu kém, khuyết điểm, hạn chế trong công tác đối ngoại của
Lào là không nhỏ. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do ý thức, độc lập, tự chủ,
vươn lên, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ của Lào chưa cao, mặt khác là do cơ
chế và cách thức còn chưa đầy đủ, có một số chưa phù hợp, nếu Lào không tích cực giải
quyết vấn đề đó kịp thời, chắc chắn rằng việc thu hút nguồn ngoại lực để tăng cường
cho nội lực của đất nước sẽ là khó khăn lớn trong những năm tới.

2.3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động đối ngoại
trong điều kiện hội nhập quốc tế
Toàn cầu hoá cũng như việc hội nhập với khu vực và quốc tế là xu thế khách
quan. Các nước hoàn toàn cần thiết phải tham gia toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế làm
cho đất nước mình có uy tín, có chỗ đứng thuận lợi trong sự cạnh tranh quốc tế, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, cần thấy rằng toàn cầu hoá do
các nước phát triển tiên tiến có khả năng ưu thế về nhiều mặt, nhất là khoa học - công
nghệ, thị trường, thông tin... nên đang đóng vai trò chi phối chủ yếu. Vì vậy, các nước
tiên tiến cố gắng sắp đặt, khống chế, tạo ra sự phương hại cho lợi ích của các nước đang
phát triển và các nước nghèo. Do đó, vấn đề cấp bách đối với các nước đang phát triển
là chống trả lại âm mưu lợi dụng toàn cầu hoá phục vụ mục đích của các nước phát triển
tiên tiến, áp đặt quan hệ bất bình đẳng và làm cho sự chênh lệch giữa các nước giàu và
nước nghèo ngày càng gia tăng.
Quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế là xu thế phát triển chứa đựng các
hình thức đấu tranh, cạnh tranh giành thời cơ, lợi ích từ xu thế đó bằng cách chủ động
hội nhập kinh tế, tận dụng mặt tích cực của sự hợp tác quốc tế, giành vốn đầu tư và
chuyển giao công nghệ để phát triển kinh tế, tăngcường năng lực cạnh tranh, hạn chế
mạo rủi ro và những biến động khó lường của nền kinh tế thế giới. Vì vậy, mỗi nước
cần bảo đảm giữ gìn và xây dựng đất nước ổn định về mặt chính trị - xã hội, tạo lập môi
trường quốc tế hoà bình. Để tăng cường hiệu quả hoạt động đối ngoại của CHDCND
Lào trong điều kiện hội nhập quốc tế, cần chú trọng một số vấn đề sau:
Thứ nhất, đường lối, chính sách đối ngoại phải xoay quanh và phục vụ sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng đất nước, đồng thời phải có sách lược phù hợp và kịp thời với sự
diễn biến mau lẹ của tình hình thế giới.
Sau khi CHDCND Lào được thành lập (1975), Đảng NDCM Lào vạch ra đường
lối chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như thành quả cách mạng, bước đầu
đất nước tiến lên CNXH. Để phục vụ đường lối nói trên, Đảng NDCM Lào cũng xác
định đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn kiên trì thực hiện nhất quán nó tạo môi
trường hòa bình, thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước. Việc hoạch định và thực
hiện chính sách đối ngoại hòa bình là phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Lào cũng
như của loài người. Đường lối giữ vững độc lập cũng là mục tiêu đấu tranh của cách
mạng Lào từ trước đến nay, nhân dân Lào đã hy sinh xương máu lâu dài mới giành
được. Đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị hướng tới việc xây dựng quan hệ bạn bè
tốt với nhân dân các nước trên thế giới, đường lối đó phù hợp với xu thế phát triển của
thế giới, phản ánh đòi hỏi phải hợp tác với nhau để phát triển. Vì vậy, Đảng NDCM Lào
xác định rõ cần kiên định đường lối đó phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ và
xây dựng đất nước, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính của Lào. Mọi hoạt động đối
ngoại mà không xoay quanh và phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược như vậy, là hoàn toàn
sai lầm. Nhưng đường lối, chính sách đối ngoại chỉ có thể thực hiện được khi Lào có
sách lược phù hợp và kịp thời với sự biến đổi của tình hình thế giới và đáp ứng lợi ích
của dân tộc trong mỗi một thời kỳ nhất định.
Phải nắm vững và kiên trì mục tiêu nhiệm vụ công tác đối ngoại của Lào là xây
dựng môi trường quốc tế hòa bình tạo điều kiện cho sự nghiệp phát triển chế độ mới và
tăng sức mạnh cho đất nước, làm đời sống của nhân dân các bộ tộc Lào tốt lên từng
bước và chống các âm mưu chuyển hóa chế độ và phá hoại của các thế lực thù địch, giữ
và xây dựng chế độ mới của Lào, đời thời để góp phần với các dân tộc trong sự nghiệp
đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mọi hoạt động
đối ngoại phải xoay quanh mục tiêu đó, có nghĩa là đối ngoại phải phục vụ sự nghiệp
cách mạng của Đảng, sự nghiệp phát triển xây dựng Tổ quốc Lào giầu, mạnh theo
hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng NDCM Lào vớibản chất là
đường lối đối ngoại vì hoà bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác, kiên định nhất quán
nguyên tắc chiến lược, nhưng linh hoạt, khéo léo về mặt sách lược. Lào thực hiện chính
sách mở cửa quan hệ hợp tác với cộng đồng quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị -
xã hội khác biệt nhau, nhưng trên cơ sở đảm bảo thực hiện nguyên tắc tôn trọng độc lập
và chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Trong điều kiện hội nhập quốc tế,
nguyên tắc này không chỉ là cơ sở nền tảng mà còn được thể hiện trong nội dung phong
phú của chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa.
Tính độc lập của đường lối đối ngoại phải bắt đầu từ độc lập về mặt chính trị,
trước hết là từ việc vạch ra đường lối, chính sách phù hợp với tình hình và sự đòi hỏi
của đất nước, phù hợp với tình hình bên ngoài. Trong hoạch định chính sách, cần tham
khảo kinh nghiệm của nước ngoài nhưng không sao chụp máy móc đường lối, quan
điểm của nước ngoài cho Lào thực hiện. Từ tự chủ về mặt chính trị tiến tới tự chủ về
mặt kinh tế và các mặt khác, nó đòi hỏi các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa
phương phải tăng cường trách nhiệm, tính tự chủ, phấn đấu làm chủ trong công việc,
khắc phục tư tưởng dựa dẫm bên ngoài hoặc chạy theo quan điểm giá trị của nước ngoài
một cách vô nguyên tắc.
Lào phải đứng trên tinh thần tự lực tự cường, quyết tâm bằng nỗ lực của mình,
khai thác và phát huy cao độ sức mạnh tiềm năng toàn diện nội bộ của mình, coi đó là
cơ sở chủ yếu và chỗ dựa để tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế. Nếu Lào không tự
chủ, vững chắc sẽ làm cho các đối tác nước ngoài không tôn trọng và hợp tác thực sự
sâu rộng với Lào mặc dù quan hệ chính trị, văn hoá, kinh tế, đầu tư. Trong quan hệ quốc
tế nói chung và quan hệ hợp tác với các nước bạn chiến lược nói riêng, Lào phải phát
huy tính độc lập, tự chủ, nếu không làm được như vậy dẫn đến không có hiệu quả, trái
lại có thể dẫn đến những thiệt hại, phức tạp, thậm chí, bị nước ngoài chuyển hóa, can
thiệp không giữ vững được nền độc lập dân tộc.
Về vấn đề chiến lược và sách lược trong đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng NDCM Lào cần phải có sự nhận thức đúng đắn. Nói đến chiến lược là nói đến sự
bền vững, nhất quán, nhưng sách lược phải khéo léo, mềm dẻo, linh hoạt và quan trọng
phải phục vụ và đảm bảo cho tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược với những bước
đi vững chắc. Đương nhiên sự khéo léo, mềm dẻo, linh hoạt không có nghĩa mập mờ,
thiếu rõ ràng và không có nguyên tắc, theo đuôi, không phải xem bên ngoài, thấy mặt
hình thức mà quên nội dung, bỏ qua nguyên tắc. Trái lại tính mềm dẻo, khéo léo, linh
hoạt luôn đi cùng với tính nguyên tắc vững chắc và rõ ràng về mặt lập trường quan
điểm. Kiên định về nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, giữ vững độc lập tự
chủ, mở rộng quan hệ quốc tế một cách chủ động là vấn đề cực kỳ quan trọng trong hoạt
động đối ngoại thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Lào hiện nay.
Thứ hai, hoạt động đối ngoại có hai mặt và phải trở thành nhiệm vụ của toàn
dân.
Sau khi đã xác định đường lối chiến lược và sách lược đối ngoại đúng đắn hợp
lý, cần phải ra sức tuyên truyền, giáo dục rộng rãi cho toàn đảng, toàn quân và toàn dân
thấm nhuần sâu sắc, tạo chuyển biến trong nhận thức thống nhất và hành động, trong đó
phải làm cho mọi người dân nhận thức rằng hoạt động đối ngoại là có hai mặt: mặt
trong nước và mặt ngoài nước. Mặt trong nước là nói đến ổn định chính trị, trật tự an
toàn và an ninh trong xã hội, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và sự phồn vinh, vững
mạnh về kinh tế. Điều đó trở thành cơ sở, chỗ dựa và thành điều kiện cho việc tăng
cường hiệu quả hoạt động đối ngoại. Mặt bên ngoài, mặt ngoài nước, có nghĩa là cần
tuyên truyền đường lối, chính sách, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước Lào cũng như văn hoá dân tộc để cho nước ngoài hiểu, để tranh thủ sự ủng hộ
và giúp đỡ bằng nhiều hình thức, phục vụ mục tiêu xây dựng đất nước theo đường lối
của Đảng NDCM Lào và thực hiện nghĩa vụ quốc tế của Lào.
Thực hiện phương châm thêm bạn bớt thù trong điều kiện hiện nay là Lào phải
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đa phương, đa hình thức, đa mặt, đa độ, nhưng quan
trọng Lào phải đứng trên cơ sở lập trường, quan điểm bạn thù rõ ràng, phải làm có trọng
tâm, trọng điểm, có mục tiêu để phục vụ mỗi mục đích cụ thể cho từng thời kỳ.
Phải thấy rõ trên thế giới ngày nay có mâu thuẫn chủ yếu đối kháng giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Các thế lực đế quốc đang ráo riết dùng thực lực và
khả năng của họ để chống phá đi đến xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Do
vậy, Lào không nên mơ hồ trong quan điểm và nên hiểu sâu sắc những mâu thuẫn cơ
bản của thời đại trong giai đoạn hiện nay, không lơ là mất cảnh giác trước các âm mưu
thủ đoạn "Diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc. Nói thêm bạn bớt thù không có
nghĩa mất cảnh giác, xa rời quan điểm, lập trường nguyên tắc, mà phải hoạt động tích
cực để cho nước ngoài hiểu nước Lào, không thành thù với Lào tăng cường sự hiểu biết
lẫn nhau, có quan hệ ủng hộ hợp tác giúp đỡ Lào, từ đó Lào sẽ có điều kiện tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài để nhân lên nguồn nội lực vốn có, đưa đất nước phát triển phồn
vinh.
Vì vậy, Lào phải phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động trong nước và ngoài nước, hai
mặt đó tạo thành chỗ dựa hỗ trợ cho nhau và thúc đẩy nhau để đạt được mục tiêu thống
nhất. Có làm như vậy, đường lối chiến lược và sách lược đối ngoại của Đảng và Nhà
nước mới trở thành sức mạnh vật chất thực chất để giữ gìn đất nước ổn định vững chắc,
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân theo hướng tiến lên CNXH, làm cho vai trò uy tín
của Lào trong khu vực và quốc tế không ngừng củng cố và nâng cao. Đây là những
nhận thức cần được quán triệt sâu rộng, biến thành hành động thực tế của toàn dân.
Thứ ba, muốn cho hoạt động đối ngoại có hiệu quả phải có nhân tố và điều kiện
bảo đảm cần thiết.
Để thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, tăng cường quan hệ với nước ngoài
một cách có hiệu quả phải có các nhân tố và điều kiện cần thiết đầy đủ, trước hết là
nhân tố nắm vững đường lối, chính sách, nắm vững tình hình thế giới, xây dựng trập tự
môi trường pháp luật, cơ cấu tổ chức và cơ chế hợp tác thông thoáng, thích hợp và các
điều kiện nhân lực, vật lực khác...
Việc nắm vững đường lối, chính sách đối ngoại trở thành nhân tố cần thiết trước
hết tạo chỗ dựa vững chắc cho hoạt động đối ngoại đúng đắn. Muốn làm cho đường lối,
chính sách đối ngoại thể hiện thiết thực thì phải biết vận dụng thích hợp với tình hình
quốc tế đang có biến đổi đan xen, nếu không quan tâm theo dõi tình hình quốc tế sâu sát
sẽ vận dụng đường lối, chính sách không phù hợp, không đưa lại hiệu quả, thậm chí
mắc sai lầm.
Hoạt động đối ngoại là quan hệ giữa nước này với nước kia, hoặc giữa cơ quan tổ
chức nước này với cơ quan tổ chức của nước kia. Vì vậy, phải có sự cần thiết phải xây
dựng nề nếp pháp luật bên trong, bảo đảm chủ quyền dân tộc, coi đây là một nguyên tắc
quan trọng. Trong điều kiện quốc tế hiện nay, Lào cần đặc biệt quan tâm vấn đề trên để
không tạo thành kẽ hở cho các thế lực thù địch nước ngoài lợi dụng tấn công chống phá
Lào.
Mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài phải đi cùng với phát huy mặt tích cực,
làm chủ và phải hiểu biết quan hệ hợp tác quốc tế lúc nào có thể hợp tác và khi nào phải
đấu tranh, đồng thời phải phân biệt tính chất của các mối quan hệ, phải kiên trì quan
điểm đấu tranh nhiều mặt để tồn tại và phát triển hợp tác. Hợp tác và đấu tranh là hai
mặt không thể tách rời nhau trong quá trình mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế
hiện nay.
Trong điều kiện quan hệ giữa các nước ngày càng trở nên đa dạng và sôi động
hiện nay, thì việc sử dụng phương tiện truyền thông hiện đại là điều kiện tối cần thiết.
Do đó, Lào cần phải trang bị các phương tiện truyền thống hiện đại nhằm tăng cường
năng lực tham gia trong hoạt động quốc tế. Mặt khác, hoạt động đối ngoại là có đi có lại
trong quan hệ với nhau, vì vậy, phải có ngân sách để tiến hành công tác quan trọng này
nhằm cạnh tranh giành lấy lợi ích cho đất nước Lào, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hoá,
phẩm giá của dân tộc Lào đối với quốc tế.
Trong những năm tới, tình hình an ninh - chính trị thế giới và khu vực sẽ có
những diễn biến phức tạp. Tuy vậy, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của
thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn ổn định trong khuôn khổ hiện có, đan xen giữa hợp
tác và đấu tranh, căng thẳng và thoả hiệp. Cuộc đấu tranh giữa đơn cực và đa cực, đơn
phương và đa phương giữa dân chủ hoá đời sống chính trị quốc tế với những biểu hiện
của chính trị cường quyền vẫn tiếp diễn với nhiều hình thức mới, nhiều tập hợp lực
lượng mới theo hướng tiến tới đa cực, đa trung tâm. Tuy chiến tranh thế giới ít có khả
năng nổ ra, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp,
lật đổ, ly khai, khủng bố... còn xảy ra với quy mô, mức độ khác nhau. Nhiều "điểm
nóng" chưa được giải quyết và vẫn còn nguy cơ bùng nổ. Khủng bố và chống khủng bố
quốc tế, các vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, thiên tai dịch bệnh, ô nhiễm môi
trường, tội phạm xuyên quốc gia tiếp tục thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và
hoạt động đối ngoại của các quốc gia.
Nền kinh tế thế giới tiếp tục phát triển với những cung bậc khác nhau ở từng khu
vực: toàn cầu hoá, khu vực hoá gắn liền với tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng
mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục là trào lưu
chung trên con đường phát triển của tất cả các nước, đặc biệt là các nước nghèo cuộc
cách mạng khoa học - kỹ thuật sẽ tiếp tục phát triển với ba lĩnh vực đột phá là cách
mạng điện tử, cách mạng thông tin và cách mạng sinh học. Cùng với sự phát triển của
cách mạng khoa học, nền kinh tế trí thức tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, nền
kinh tế thế giới vẫn ẩn chứa những bất trắc xuất phát từ mặt trái của toàn cầu hoá cạnh
tranh gay gắt và thiếu công bằng giữa các quốc gia và các tập đoàn đa quốc gia, thị
trường tài chính bấp bênh và giá nhiên liệu biến động ở mức độ cao.
Nhờ vào những thành tựu qua đổi mới, thế và lực của Lào đã tăng lên đáng kể.
Những thành công trong sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nền chính
trị ổn định, đường lối đối ngoại tích cực, có vị trí địa chiến lược quan trọng và có vai trò
nhất định trong khu vực là những nhân tố hết sức thuận lợi cho Lào khi bước vào giai
đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, bốn nguy cơ đối với nước Lào mà Đảng NDCM Lào đã
chỉ rõ vẫn tồn tại diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ
nguy cơ nào. Nhìn từ góc độ đối ngoại nguy cơ bị tụt hậu có khả năng tác động mạnh
tới diễn biến hoà bình của các nguy cơ khác. Đảng và nhân dân Lào phải cảnh giác đối
phó với âm mưu "diễn biến hoà bình" và các thành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ về kinh tế, vẫn còn khoảng cách trong phát triển của Lào với nhiều nước, kể cả
một số nước phát triển trong khu vực. Tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,
nước Lào đang đứng trước sức ép rất lớn, do đó phải có sự chuẩn bị chu đáo, nâng cao
khả năng cạnh tranh nếu không muốn lâm vào thế bất lợi trong cuộc cạnh tranh gay gắt
trên thị trường quốc tế.
Những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với nước Lào luôn đan xen nhau,
nhưng thời cơ đang thuận. Nhân tố có ý nghĩa quyết định là tiềm lực mọi mặt và vị thế
quốc tế của nước Lào được tăng cường qua gần 20 năm đổi mới đã củng cố thêm niềm
tin vào công cuộc đổi mới do Đảng NDCM Lào khởi xướng và lãnh đạo, nâng cao sự
nhất trí trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Chúng ta có đầy đủ khả năng
giữ vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng XHCN. Đây cũng là nền tảng cơ bản để cho Lào xác định đường lối đối ngoại và
triển khai mạnh mẽ các hoạt động quốc tế trong giai đoạn mới.
Những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Lào cũng như những bài học kinh nghiệm những năm vừa
qua đổi mới tạo cơ sở để cùng suy ngẫm một số vấn đề về kiến nghị giải pháp chính của
hoạt động đối ngoại nói chung và công tác ngoại giao nói riêng thời gian tới. Để tăng
cường hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, đối với CHDCND Lào, có thể
nêu một số giiaỉ pháp cụ thể sau:
Một là, tăng cường việc giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức xã hội
về hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Ngày nay, tình hình thế giới đã diễn biến nhanh chóng, phức tạp và đan xen, các
thế lực thù địch không ngừng tiến hành phá hoại các nước XHCN cũng như can thiệp
vào công việc của nước khác bằng những âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi vừa ngang
ngược công khai để đạt được ý đồ đen tối của họ. Đối với CHDCND Lào, mục tiêu và
lợi ích cao nhất của đất nước, cũng là nhiệm vụ của công tác đối ngoại vẫn là giữ vững
môi trường hoà bình và ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để thúc đẩy phát
triển kinh tế năng động, bền vững. Do vậy, ngoại giao cần tiếp tục kiên trì thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính
sách rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác, tận
dụng các cơ hội để bứt phá, tạo dựng thế và lực mới trên trường quốc tế và khu vực.
Mặt khác nữa, để bảo vệ lợi ích của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã có chính sách
rộng mở quan hệ với nước ngoài, từ đó làm cho sự hoạt động đối ngoại của Lào phát
triển rộng ra, quan hệ hợp tác với quốc tế liên quan đến mọi ngành Trung ương và địa
phương, đến tất cả nhân dân. Vì vậy, Lào phải quan tâm giáo dục toàn đảng, toàn quân
và toàn dân ta nâng cao nhận thức và hiểu thống nhất về quan điểm của Đảng và Nhà
nước Lào về tình hình của thế giới, về chiến lược, sách lược và nhiệm vụ ngoại giao ở
từng giai đoạn. Trên cơ sở đó, làm cho mọi người thấm nhuần tinh thần yêu nước, ý
thức tự lực tự cường phấn đấu xây dựng đất nước vững mạnh, phồn vinh. Phải khơi dậy
sự tin tưởng vững chắc của các tầng lớp nhân dân vào con đường tiến lên của đất nước
Lào và có tinh thần quốc tế đúng đắn, chủ động tăng khả năng thu hút nguồn lực bên
ngoài để bổ sung cho nguồn lực bên trong nhằm giữ và xây dựng đất nước theo đường
lối chung của Lào, theo định hướng XHCN.
Theo tinh thần đó, cần tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức về việc hoàn
thiện và nâng cấp các khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài hiện có với các đối tác chính,
nhất là các nước láng giềng, khu vực và các nước lớn, theo phương châm: Lào sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước, là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế, vì
hoà bình, hợp tác và phát triển bền vững. Nội dung chủ yếu nhất trong chính sách đối
ngoại của Lào trong những năm tới là: láng giềng thân thiện, hợp tác hữu nghị với các
nước, đặc biệt là các nước lớn và hội nhập mạnh mẽ, tiếp tục phấn đấu đưa quan hệ với
các nước đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, từng bước tạo sự đan xen lợi ích, củng cố
an ninh đất nước và duy trì môi trường thuận lợi nhất và tận dụng tối đa những lợi ích
trong hội nhập quốc tế phục vụ ở mức độ cao nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội.
Hai là, Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, nhất là hướng tới gia nhập WTO nhằm sớm
đưa nước Lào ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước Lào
cơ bản phải tích cực thực hiện chương trình chiến lược chuyển công nghiệp hóa, hiện
đại hóa từng bước gắn bó với sự thúc đẩy phát triển vùng và hội nhập với quốc tế. Xây
dựng lộ trình phù hợp với chiến lược phát triển đất nước theo từng giai đoạn về hội
nhập kinh tế quốc tế, làm cơ sở chủ động điều hành và thực hiện có hiệu quả tiến trình
hội nhập, góp phần hạn chế những rủi ro và thua thiệt của hàng hóa và dịch vụ của Lào
ngay tại "sân nhà" hoàn thiện chính sách tranh thủ đầu tư, viện trợ phát triển, xúc tiến
thương mại, du lịch và hợp tác với đối tác.
Ba là, tăng cường củng cố và nâng cao chất lượng của tổ chức đội ngũ làm công
tác đối ngoại có đủ năng lực làm tròn nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Tập trung
nỗ lực tạo chuyển biến cơ bản trong công tác ngoại giao phục vụ kinh tế. Trọng tâm là
triển khai các nhiệm vụ, tập trung vào công tác thông tin và dự báo vĩ mô, góp phần tạo
môi trường và khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy
các mặt hoạt động kinh tế đối ngoại, hỗ trợ có hiệu quả các yêu cầu của doanh nghiệp,
địa phương trong kinh tế đối ngoại.
Xuất phát từ nhu cầu nội tại của nền kinh tế của nước Lào, xu thế quốc tế hoá và
toàn cầu hoá sản xuất thế giới, Lào tích cực kết hợp ngoại giao chính trị với ngoại giao
kinh tế, chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới theo từng bước tuần tự,
vững chắc, từ cấp độ khu vực đến toàn cầu. Các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ Lào đã làm sâu sắc thêm mối quan hệ chính trị
tốt đẹp giữa nước Lào với các nước, góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại trong
quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ kinh tế - thương mại, đầu tư, hợp tác khoa
học, kỹ thuật giữa nước Lào với các nước ngày càng phát triển. Đây là nét mới của
ngoại giao Lào trong thời kỳ đổi mới, góp phần phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ tối đa nguồn ngoại lực, mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào.
Dựa theo sự kêu gọi yêu cầu của sự hoạt động đối ngoại trong giai đoạn mới và
dựa theo các phương châm dùng cho sự hoạt động ngoại giao của CHDCND Lào, Lào
thấy cần thiết phải có hệ thống tổ chức đảm trách công tác ngoại giao từ Trung ương
xuống đến địa phương, ở trong nước và ở nước ngoài, tăng cường quản lý tập trung
thống nhất về mặt chính sách và chuyên môn. Hệ thống tổ chức phụ trách công tác
ngoại giao sẽ có ở mọi ngành và mọi địa phương, có làm như vậy mới có năng lực tập
trung sức lực và nâng cao chất lượng của sự hoạt động đối ngoại phục vụ hai nhiệm vụ
chiến lược và chống lại âm mưu phá hoại của kẻ địch một cách chủ động và kịp thời.
Riêng cơ quan ngoại giao của Lào ở nước ngoài phải nhanh chóng củng cố bộ
máy của mình có chất lượng mới, để có năng lực làm tròn nhiệm vụ, trong đó là có năng
lực thực hiện phương châm "chuyển hoạt động ngoại giao chung chung đi vào ngoại
giao rất quan trọng cho hợp tác kinh tế" để cạnh tranh lấy vốn liếng, kỹ thuật, công nghệ
và kinh nghiệm trong mọi mặt phục vụ phát triển đất nước của Lào.
Bốn là, kiên quyết củng cố uốn nắn nề nếp làm việc trong lĩnh vực đối ngoại cho
phù hợp.
Để bảo đảm cho hoạt động ngoại giao tiến hành đúng đắn theo mục tiêu chung
trong từng giai đoạn có hiệu quả cao, trước hết phải có kế hoạch cụ thể và chính xác.
Hiện nay, hoạt động đối ngoại của Lào đã xen vào gắn bó với mọi lĩnh vực công
tác ở Trung ương và địa phương, vì vậy cần thiết phải có sự phối hợp nhau chặt chẽ và
kịp thời giữa ngành Trung ương với nhau, giữa Trung ương với địa phương, giữa địa
phương với nhau và giữa trong nước và ngoài nước để bảo đảm sự thống nhất và hoạt
động nhịp nhàng, chủ động, có hiệu quả. Muốn phối hợp một cách hiệu quả, nhất thiết
có cơ chế, hệ thống phối hợp rõ ràng và quan trọng là từng bộ phận phải nhận thức và
tôn trọng nghĩa vụ, vai trò, nhiệm vụ và phạm vi quyền hạn của nhau, hiểu biết công
việc của nhau phải cùng nhau nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm được như vậy công
việc mới đạt được mục đích tốt đẹp.
Năm là, tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của ngoại giao Nhà nước
và các hình thức ngoại giao phong phú khác để cùng với đối ngoại của Đảng NDCM
Lào và ngoại giao nhân dân tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại.
Những năm sắp tới, hoạt động đối ngoại của Lào ngày càng được mở rộng và đi
vào chiều sâu với sự tham gia đông đảo của các ngành, các cấp, các tổ chức đảng, các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế Trung ương và địa phương. Tình hình đó đòi
hỏi phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước
đối với sự hoạt động đối ngoại. Đồng thời phải tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa chính
trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, giữa đối ngoại và quốc phòng, an ninh, giữa thông tin
đối ngoại với thông tin trong nước.
Sáu là, cố gắng tạo các điều kiện cần thiết cho hoạt động đối ngoại. Muốn cho
hoạt động đối ngoại cũng như hoạt động khác tiến trình theo kế hoạch quy định là phải
có điều kiện bảo đảm về vật chất cần thiết từ thực tế kinh tế - xã hội của nước Lào.
Trước hết, cần bổ sung phương tiện thông tin và thiết bị máy móc hiện đại phục vụ
chuyên môn, nhanh chóng, kịp thời, chính xác bảo đảm bí mật. Nếu không quan tâm
đến vấn đề này sẽ không có khả năng liên hệ giữa bên trong cũng như với bên ngoài kịp
thời, đồng thời các thế lực thù địch sẽ lợi dụng yếu kém về phương tiện truyền thông
của Lào để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Lào. Thúc đẩy và cải tiến hơn nữa
công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại và văn hóa đối ngoại, làm cho bạn bè quốc tế
hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn về đất nước Lào tươi đẹp, văn hiến lâu đời, cũng như về
những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền
hình ảnh của đất nước Triệu Voi, định hướng dư luận và đấu tranh hiệu quả với các luận
điệu xuyên tạc, vu cáo Lào. Cố gắng có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cơ quan
thông tin và báo chí trong nước.
Bảy là, tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ để đáp ứng sự đòi hỏi của hoạt động
đối ngoại.
Để cho chương trình hoạt động đối ngoại đạt được hiệu quả, song song với đáp
ứng điều kiện bảo đảm cần thiết như nếu trên, phải có đội ngũ cán bộ đầy đủ về chất
lượng và số lượng mà thành nhân tố quyết định. Vì vậy, Lào phải cấp bách có chương
trình xây dựng cán bộ để bổ sung vào hoạt động đối ngoại của các ngành ở Trung ương
và địa phương, các cơ quan đại sứ quán, lãnh sự, các cơ quan đại diện ngoại giao nói
chung, làm cho cán bộ làm công tác đối ngoại của Lào có trình độ nhận thức chính trị
tốt, năng lực về chuyên môn, khả năng tác nghiệp giỏi.
Một vấn đề rất quan trọng khác là cần thiết phải củng cố tổ chức từ đào tạo, bồi
dưỡng, sắp xếp, bố trí cán bộ, điều chỉnh chế độ đến cách làm việc và điều quan trọng
nữa là củng cố, uốn nắn đội ngũ cán bộ vốn có phát huy khả năng sáng tạo, tận tụy với
công việc của họ vì lợi ích của đất nước và bản thân. Công tác cán bộ liên quan trực tiếp
đến vấn đề con người, do đó nhất thiết phải đi trước một bước. Đây là cơ sở quyết định
sự thành công của đối ngoại Lào hiện nay và nhưng năm sắp tới.
Kết luận

Bước vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, hoạt động đối ngoại của Lào bước
sang một trang mới với những thay đổi cơ bản cả về tư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn, được thể hiện cô đọng trong tuyên bố. "Lào sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
Phương châm đối ngoại đó là kim chỉ nam chỉ đạo việc hoạch định và thực thi đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong thời kỳ đổi mới.
Việc đề ra đường lối, chính sách đối nội hay đối ngoại mới bao giờ cũng xuất
phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Đó là những nhân tố khách quan cho
sự ra đời một đường lối, chính sách mới. Tuy nhiên, việc nhận thức những nhân tố
khách quan và xây dựng đường lối, chính sách đối ngoại có phù hợp hay không lại phụ
thuộc vào sự nhận thức và năng lực thực hiện hoá của nhân tố chủ quan, tức chủ thể của
đường lối, chính sách đối ngoại. Đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở song phương
hoặc đa phương của Đảng và Nhà nước Lào là kết quả của sự nhận thức, vận dụng và
phát triển đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng
chỉ đạo của đồng chí Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn, truyền thống ngoại giao của ông cha và
đặc điểm cụ thể của tình hình trong nước, quốc tế sau chiến tranh lạnh. Nó là sự kết hợp
nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn để hình thành một bản sắc ngoại giao của Lào trong
thời kỳ đổi mới.
Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, nhưng với sự mềm dẻo, linh hoạt về sách lược
theo phương châm, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào trong thời kỳ đổi
mới đã thích ứng được với sự biến động của tình hình nhưng luôn xoay quanh trục lợi
ích tối cao đó là "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Nền đối ngoại ấy là nền đối
ngoại chính nghĩa, mang bản chất hoà bình và cách mạng, hoà hiếu, khoan dung, rộng
mở với bạn bè khắp các châu lục, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước vì mục tiêu phát
triển của đất nước cũng như sự phồn vinh chung của dân tộc. Hiện nay, Lào đã hoàn
thiện thời kỳ mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, trong
thời gian tới, cần chuyển sang giai đoạn phát triển những mối quan hệ đã có thể chiều
sâu, nâng cao hiệu quả và tính bền vững, cần xác định ưu tiên cụ thể với các đối tác
trọng điểm, chú trọng việc củng cố và hoàn thiện khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài
hiện đã có với các đối tác hàng đầu, đặc biệt là với Việt Nam, Trung Quốc, các nước
ASEAN, tạo dựng khuôn khổ quan hệ với các nước khác trên thế giới, hoàn thiện cơ sở
pháp lý để phát triển quan hệ lâu dài với các đối tác này.
Trên cơ sở tư duy đối ngoại đúng đắn, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Lào thời kỳ mới đã mở ra quan hệ quốc tế rộng mở, toàn diện nhất từ trước tới
nay. Đến nay, nước Lào đã có quan hệ ngoại giao với 121 nước với hầu hết các tổ chức
quốc tế và khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao cách mạng, Lào có quan hệ
hữu nghị với tất cả các nước láng giềng các nước trong khu vực, có quan hệ tốt với tất
cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, bạn gần xa, kết hợp giữa
đa dạng hoá với xác lập và củng cố quan hệ với các đối tác tin cậy, các thị trường chiến
lược, đã tạo cho Lào thế đối ngoại cân bằng, ổn định và vững chắc, tạo môi trường quốc
tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại nhà nước, đối ngoại của Đảng và đối
ngoại nhân dân, thực hiện có kết quả mục tiêu đối ngoại trong từng thời kỳ. Đẩy mạnh
tuyên truyền đối ngoại, làm cho thế giới hiểu rõ hơn về đất nước, con người và công
cuộc đổi mới của Lào nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ ngày càng rộng rãi của thế
giới. Làm tốt công tác vận động người Lào định cư ở nước ngoài phối hợp với các tầng
lớp dân cư ở trong nước sở tại đấu tranh với các phần tử cực đoan, phản động bảo vệ lẽ
phải, quyền lợi chính đáng của nhân dân Lào trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, dân
chủ, nhân quyền tự do tôn giáo.
Thường xuyên bám sát tình hình trong nước và quốc tế để điều chỉnh đường lối,
chính sách đối ngoại và hợp tác quốc tế cho phù hợp với thực hiện nhằm phục vụ tốt
nhất nhiệm vụ lớn lao trên đây là công việc nặng nề đặt lên vai công tác đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Lào trong những năm tới. Kế thừa những thành tựu đối ngoại trong
thời gian qua, trên cơ sở thế và lực mới của đất nước, chắc chắn rằng ngoại giao Lào sẽ
đạt được những thắng lợi to lớn hơn nữa trong thời gian tới, tiếp tục góp phần đắc lực
vào sự nghiệp phát triển của đất nước Lào theo mục "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh"./.
Danh mục tài liệu tham khảo

1. Ban Kế hoạch và Đầu tư (2005), Dự thảo phát triển kinh tế - xã hội năm 2005-
2006, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
2. Ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), Chương trình phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
lần thứ VI (2006- 2010), Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
3. Ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), Chiến lược chuyển công nghiệp hoá và hiện đại
hoá (2010-2020), Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
4. Báo cáo tổng kết đánh giá kết quả hoạt động đối ngoại của Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào từ 1995 đến nay (2001).
5. Báo cáo tổng kết tình hình nổi bật quốc tế và hoạt động ngoại giao của Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào năm 2003 số 269 ngày 8/7/2003.
6. Nguyễn Lương Bích (2000), Lịch sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, Nxb
Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Bình - Lê Hữu Nghĩa - Trần Hữu Tiến (2003), Góp phần nhận thức
thế giới đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1986), Nghị quyết 32 về tình
hình thế giới và chính sách đối ngoại, Lưu hành nội bộ.
9. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1988), Nghị quyết 13 về tình
hình thế giới và chính sách đối ngoại, Lưu hành nội bộ.
10. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2004), Quy chế quản lý thống
nhất các hoạt động đối ngoại, Lưu hành nội bộ.
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Một số vấn đề hoạch định chiến lược kinh tế đối
ngoại xét trong với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đối tác khác, Đề tài khoa
học cấp Bộ, Hà Nội.
12. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. Bộ Ngoại giao (2000), Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Bộ Ngoại giao (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, xu thế toàn cầu hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Bộ Ngoại giao (2004), Báo cáo tình hình quốc tế nổi bật năm 2003-2004.
16. Bộ Quốc phòng (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ hai khóa II.
17. Bộ Thương nghiệp (2003), Báo cáo tổng kết về tổ chức thực hiện chương trình
phát triển và quản lý thương nghiệp số 0409 năm 2003-2004.
18. Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản (1985), Toàn tập, Tập I, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
19. Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản (1987), Toàn tập, Tập II, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
20. Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản (1997), Toàn tập, Tập II, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
21. Cay Xỏn Phôm - Vi - Hản (1988), Điều chỉnh toàn diện giành thắng lợi mới thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
22. Nguyễn Mạnh Cầm (1993), "Trên đường triển khai chính sách ngoại giao theo
định hướng mới", Cộng sản, (4), tr.11.
23. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Đông Nam á (5/2006), (1).
24. Dự thảo chương trìnnh chiến lược giai đoạn giữa xoá đói giảm nghèo (2001), Tài
liệu đề nghị với Quốc hội Lào.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương (khoá VI), Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ (khoá VII), Lưu hành nội bộ.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng (1996-
1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Các nghị quyết của Trung ương Đảng (2001 -
2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (2006), Quan hệ
Việt Nam - Lào, Thông báo nội bộ.
35. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội IV, Nxb Quốc gia, Viêng
Chăn.
36. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1988), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khoá IV, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
37. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương khoá IV, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
38. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội lần thứ V, Nxb Quốc gia,
Viêng Chăn.
39. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1992), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khoá V, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
40. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1993), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 khoá VI,
Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
41. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội lần thứ VI, Nxb Quốc
gia, Viêng Chăn.
42. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1999), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
43. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2000), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn.
44. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII, Nxb Quốc
gia, Viêng Chăn.
45. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII, Nxb Quốc
gia, Viêng Chăn.
46. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
47. Nguyễn Hoàng Giáp (2000), "Các nước đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu
hoá", Cộng sản, (22), tr.57.
48. Nguyễn Hoàng Giáp (2005), "Phát triển quan hệ với các nước lớn trong chính sách
đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta", Cộng sản, (12), tr.59.
49. Nguyễn Hoàng Giáp (2001), "Nhìn quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào trên lĩnh vực
chính trị, an ninh và kinh tế thời kỳ 1991 - 2001", Nghiên cứu quốc tế, (41).
50. Vũ Văn Hiển - Đinh Xuân Lý (2004), Đổi mới ở Việt Nam - tiến trình, thành tựu
và kinh nghiệm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hiến pháp của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (sửa đổi và bổ sung) (2003), Nxb
Quốc gia, Viêng Chăn.
52. Dương Thị Huệ (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối
đối ngoại trong những năm đổi mới từ 1991 đến 2001, Luận văn thạc sĩ Lịch
sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
53. Khăm Tày Xi - Phăn - Đon (1998), Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb Viêng Chăn.
54. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
55. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
56. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
57. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 43, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
58. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
59. Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Quang Lợi (1997), Cuộc bứt phá toàn cầu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
61. Nguyễn Thế Lực - Nguyễn Hoàng Giáp (2003), "Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam - quá trình và một số kết quả", Nghiên cứu quốc tế, (6), tr.5.
62. Đinh Xuân Lý (2003), "Quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại thời kỳ đổi mới",
Lịch sử Đảng, (12), tr.12.
63. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Maridôn Tuarinô (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, Tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Đỗ Mười (1996), Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Năm bài học của Đảng Nhân dâm cách mạng từ lãnh đạo đổi mới (2000), Nxb
Thanh niên, Viêng Chăn.
75. Nghị định Sắc lệnh của Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào về chính sách
khuyến khích nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (2003).
76. Ngô Chí Nguyện (2005), Quá trình hoạch định và thực thi đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta từ 1991 đến nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
77. Nguyễn Duy Niên (2004), "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh", Thông tin đối
ngoại, (5), tr.9.
78. Vũ Dương Ninh (2000), "Thành tựu và thách thức trong quan hệ đối ngoại thời kỳ
đổi mới", Lịch sử Đảng, (7), tr.21.
79. Lương Ninh (1983), Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Nxb Sự thật, Hà Nội.
80. Lê Khả Phiêu (2000), "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh", Nghiên
cứu quốc tế, (4), tr.3.
81. Quyết đính ố 43 ngày 27/3/2004 của Thủ tướng về trật tự cho phép đầu tư nước
ngoài qua một cửa.
82. Đỗ Tiến Sâm (2003), Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc, Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội.
83. Nguyễn Xuân Sơn - Thái Văn Long (1997), Quan hệ ngoại giao các nước ASEAN,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn Cơ Thạch (1990), "Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của
chúng ta", Quan hệ quốc tế, (1), tr.2.
85. Đoàn Văn Thắng (2001), "Một vài nhận thức về chính sách đối ngoại", Nghiên
cứu quốc tế, (1), tr.41.
86. Thông Tấn xã Việt Nam (2005), Nhìn cục diện thế giới qua quan hệ giữa các nước
lớn, Tài liệu tham khảo thế giới, ngày 19/8.
87. Tổng kết thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
từ 1975-2005, Nxb quốc gia Lào, 2006.
88. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Việt Nam 20 năm đổi mới (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Vi Lay Văn Phôm Khê (2005), "Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đối ngoại",
Alunmay, (2).
91. Vũ Quang Vinh (2000), Đảng Cộng sản lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ
1986 - 1996, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
92. Nguyễn Đình Vỳ - Đinh Ngọc Bảo (1996), Đất nước Lào lịch sử và văn hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Nguyễn Như ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
94. Phun Xỉ Pa Xơt (1991) Cay Xỏn-Phôm-Vi-Hẳn con của nhân dân Lào.

You might also like