Traveler - Tổng Hợp Bài Đọc

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 82

TỔNG HỢP BÀI ĐỌC

UNIT 1 - True colors 2


UNIT 2 - A world without time 11
UNIT 3 - A friendly message 21
UNIT 4 - Hope you like fish 29
UNIT 5 - The Silk road 37
UNIT 6 - SOS 43
UNIT 7 - Clean water for all 49
UNIT 8 - Action stars 58
UNIT 9 - Pinocchia 64
UNIT 10 - Sense superstore 74
UNIT 1 - True colors
UNIT 1 - Màu sắc thật sự

Hello, Emil!” says the owner of the shop, Mrs. Blanche. “Have you run out of
paint again?”
Chủ cửa hàng, bà Blanche nói: “Chào Emil! Cháu lại dùng hết màu vẽ rồi
à?”
“You know me too well!” Emil says from across the store. “I used the last of it
this morning.”
Emil đứng ở đầu kia cửa hàng, nói với sang: “Bà hiểu cháu quá! Sáng nay
cháu đã dùng hết rồi ạ.”
“What’s this?” Emil wonders. “It’s called True Colors …”
Emil thắc mắc: “Gì đây nhỉ? Tuýp màu nên tên là Màu sắc thật sự…”
“Interesting choice, Emil. There are so many colors and you picked this one,”
Mrs. Blanche says. “You should be careful with it. It’s the last one.”
Bà Blanche nói: “Lựa chọn hay đấy, Emil. Ở đây có rất nhiều màu và cháu đã
chọn màu này. Cháu nên cẩn thận với nó. Đây là tuýp cuối cùng đấy.”

“This still life isn’t good enough!” Emil says angrily. “The fruit and vegetables
look real but they’re too boring.”
Emil giận dữ nói: “Bức tranh tĩnh vật này vẫn chưa đủ đẹp. Rau quả nhìn cũng
chân thật nhưng trông nhàm chán quá.”

He decides to start a new painting with his new paint. There are a lot of things
he could paint, but what?
Anh quyết định bắt đầu vẽ một bức tranh mới bằng tuýp màu mới mua. Có rất
nhiều thứ anh có thể vẽ, nhưng vẽ gì bây giờ nhỉ?
My croissant! Emil thinks.
Emil nghĩ: “Bánh sừng bò của mình!”
Emil is almost finished.
Then he sees something odd.
His new painting is … real!
Emil gần hoàn thành bức vẽ rồi.
Sau đó, anh thấy có gì đó kỳ lạ.
Bức tranh mới của anh là... thật!
What is True Colors made of? he wonders
Anh nghĩ: “Tuýp “màu sắc thật sự” này được làm bằng gì nhỉ?”

Emil can’t stop painting with his new paint. He even fixes his bike!
Emil không ngừng tô vẽ bằng tuýp màu vẽ mới. Anh thậm chí còn sửa được
chiếc xe đạp của mình!
“This is amazing!” he exclaims.
Anh kêu lên: “Tuyệt quá đi mất!”
Emil loves painting with True Colors. He paints a bee. Will it come to life, too?
Emil rất thích vẽ bằng tuýp “màu sắc thật sự”.
Anh vẽ một con ong. Bức vẽ cũng sẽ biến thành một chú ong thật sự chứ?
“Oh, no! I didn’t want that to happen!” Emil says. “Wait, I can fix it! I can make
it better.”
Emil nói: “Ôi không! Mình không muốn chuyện này (bóng bay vỡ, ong đốt
người) xảy ra! Đợi đã, mình có thể sửa được! Mình còn có thể tạo ra nhiều thứ
hay hơn.”
“Wow! Thanks!” says the woman.
Người phụ nữ nói: “Ôi! cảm ơn cháu nhé!”

Emil is happy that he can help people with True Colors.Who else can he help?
Emil rất vui vì anh có thể giúp đỡ người khác bằng tuýp màu “màu sắc thật sự”.
Còn ai cần anh giúp nữa không nhỉ?
“You’re so kind!” says the old man.
Ông cụ nói: “Cháu thật tốt bụng!”

“Watch out!” cries Emil.


Emil kêu lên: “Cẩn thận đấy!”
He saves the day with his True Colors.
Nhờ có tuýp “màu sắc thật sự”, anh giúp đỡ được rất nhiều người.
“Helping people is so much fun!” Emil says.
Emil nói: “Mình cảm thấy vui khi giúp đỡ được mọi người.”
He wants to help more, but …
Anh muốn giúp nhiều người hơn, nhưng…
… there’s only enough paint left for something small. Emil starts to walk home
slowly.
... chỉ còn đủ màu để vẽ cái gì đó nhỏ nhỏ thôi. Emil bắt đầu chậm rãi đi bộ về
nhà.
When he gets home, he sees his neighbors. They can’t get in their apartment.
Khi về đến nhà, anh thấy hàng xóm của mình. Họ không thể đi vào căn hộ.
“I told you to take the key!” Mrs. Durand says.
Bà Durand nói: “Em đã bảo anh cầm chìa khóa đi mà!”
“I thought you had it!” her husband replies.
Chồng cô trả lời: “Anh tưởng em đã cầm rồi!”
“Excuse me. Is that your key?” asks Emil quietly.
Emil hỏi khẽ: “Xin lỗi. Đó có phải chìa khoá nhà anh chị không ạ?”
“It is!” Mr. Durand says. “Thank you so much!”
Ông Durand nói: “Ôi nó đó, cảm ơn em nhiều lắm!”

“Why don’t you join us for some delicious onion soup?” Mr. Durand asks.Ông
Durand hỏi: “Em có muốn qua nhà anh chị ăn súp hành tây không?”
Emil can’t say no!
Emil sao có thể từ chối chứ!
“So, you’re a painter,” Mrs. Durand says. “Can you show us a few of your
paintings after dinner?”
Bà Durand nói: “Vậy em là một hoạ sĩ hả? Ăn tối xong, em có thể cho anh chị
xem vài bức tranh được không?”
Emil is worried. What if his neighbors don’t like them?
Emil lo lắng. Nhỡ hàng xóm không thích tranh của anh thì sao?
“OK,” he says nervously.
Anh lo lắng nói: “Được ạ.”

“We think your paintings are wonderful!” says Mrs. Durand. “And so does
Lucy!”
Bà Durand nói: “Anh chị thấy tranh của em thật đẹp! Lucy cũng vậy!”
“Thank you!” Emil says, smiling. “I guess they aren’t so bad after all.”
Emil mỉm cười nói: “Em cảm ơn ạ! Em đoán là tranh cũng không đến nỗi tệ.”
“Can you paint Lucy’s portrait for us?” asks Mr. Durand.
Ông Durand hỏi: “Em có thể vẽ chân dung Lucy cho anh chị không?”
“I’d love to!”
Emil nói: “Được chứ ạ!”
UNIT 2 - A world without time
UNIT 2 - Thế giới không có thời gian

In the town of Undergroundia, a loud noise woke Ooleck the inventor. He


looked out of his bedroom window.In the giant cave outside, workers were
fixing the road with a steamroller.
Tại thị trấn Undergroundia, một tiếng động lớn đã đánh thức nhà phát minh
Ooleck. Ông nhìn ra ngoài cửa sổ phòng ngủ. Trong hang động khổng lồ bên
ngoài, các công nhân đang sửa mặt đường bằng xe lu.
“Working time already?” Ooleck grumbled. He was sure it was still sleeping
time.
Ooleck càu nhàu: “Đã đến giờ làm việc rồi à?”
Ông đinh ninh rằng giờ vẫn đang là giờ ngủ.

But that was the problem. Undergroundians spent their whole lives
underground. There was no sun or moon. There was no way of telling if it was
day or night. Undergroundians didn’t have a way to tell time.
Nhưng đó chính là vấn đề. Người dân ở Undergroundia đã sống dưới lòng đất
suốt cả cuộc đời. Không có mặt trời hay mặt trăng. Không có cách nào để biết
đó là ngày hay đêm. Người dân ở Undergroundia không có cách nào để xem
giờ.

“Time to get up,” Ooleck called to his wife, Zeena. “We’re late.”
Ooleck gọi vợ mình, Zeena.
“Đến giờ dậy rồi. Chúng ta muộn mất.”
“How can you tell?” asked Zeena.
Zeena hỏi: “Sao anh biết?”
“Exactly! Everyone in Undergroundia either gets up early or late, or they never
wake up at all. I need to invent a way of measuring time! Then everyone can do
things properly.”
Ooleck nói: “Chính là thế đấy! Mọi người ở Undergroundia dậy sớm, dậy
muộn, hoặc không bao giờ thức dậy. Anh cần phát minh ra một cách đo thời
gian! Vậy thì mọi người có thể làm mọi việc chuẩn xác.”
“Good idea,” said Zeena.
Zeena nói: “Ý tưởng hay đấy ạ.”
In his workshop, Ooleck sat down at his desk and began brainstorming. He
worked and scribbled, and still couldn’t come up with an answer. Then the
candle on his desk burned down and it went dark
Trong xưởng của mình, Ooleck ngồi xuống bàn và bắt đầu động não. Ông suy
nghĩ, lúi húi vẽ vời, và vẫn chưa thể đưa ra câu trả lời. Sau đó, ngọn nến trên
bàn cháy rụi và trời tối đen.

Ooleck lit another candle.


Ooleck thắp một ngọn nến khác.
“That’s the sixth candle I’ve burned down trying to solve this problem,” he
grumbled to Zeena.
Ông càu nhàu với Zeena: “Đó là ngọn nến thứ sáu anh đốt trong khi cố gắng
giải quyết vấn đề này.”
“When I invented the tooth scraper, that only took one candle.”
Ooleck nói: “Lúc phát minh ra dụng cụ cạo răng, anh chỉ tốn một ngọn nến.”
“But remember when you invented the two-wheeled cycle,it took fifteen,” said
Zeena.
Zeena nói: “Anh nhớ lại lúc phát minh ra xe đạp hai bánh đi, anh phải mất tận
mười lăm ngọn nến đó.”

Six candles … one candle … fifteen candles, thought Ooleck, rubbing his chin.
Ooleck suy nghĩ, xoa cằm.
“Sáu ngọn nến… một ngọn nến… mười lăm ngọn nến,”

Ooleck rubbed his chin some more. The hairs on his chin suddenly gave him an
idea.
Ooleck xoa cằm thêm nữa. Những sợi râu trên cằm đột nhiên đem đến cho ông
một ý tưởng.
“I know! We can measure time by counting how long it takes for a beard to
grow! We can pay a man to stand in the town square and measure the length of
his beard.”
Ông nói: “Anh biết rồi! Chúng ta có thể đo thời gian bằng cách đếm xem mất
bao lâu để râu mọc! Chúng ta có thể trả tiền cho một người đứng ở quảng
trường thành phố và đo độ dài bộ râu của anh ta.”
“Don’t be so silly. What other ideas do you have?” asked Zeena.
Zeena hỏi: “Đừng ngớ ngẩn như vậy chứ. Anh còn ý tưởng nào khác không?”

“We can measure time by how long it takes a cup of tea to cool down. We can
call it tea time.”
Ooleck nói: “Chúng ta có thể đo thời gian bằng thời gian một tách trà nguội đi.
Chúng ta có thể gọi đó là giờ uống trà.”
“Silly.”
Zeena nói: “Thật ngớ ngẩn.”
“How about we get someone to cycle around Undergroundia? Each time he
finishes we call it one cycle. We work for ten cycles and sleep for ten cycles.”
Ooleck nói: “Hay là chúng ta nhờ ai đó đạp xe vòng quanh Undergroundia?
Mỗi lần anh ta hoàn thành một vòng, chúng ta gọi đó là một chu kỳ. Chúng ta
sẽ làm việc trong mười chu kỳ và ngủ trong mười chu kỳ.”
“Silly.”
Zeena nói: “Thật ngớ ngẩn.”

“I still can’t solve it,”


Ooleck nói: “Anh vẫn không nghĩ ra.”
Ooleck sighed, reaching for another candle.
Ooleck thở dài, với lấy một cây nến khác.
“That’s another candle almost burned down. It’s taken seven candles so far.”
Ông nói: “Lại một ngọn nến nữa gần cháy hết. Đến giờ là 7 ngọn nến rồi.”

“You’ll figure it out,” said Zeena. “The answer is probably right under your
nose.”
Zeena nói: “Anh sẽ nghĩ ra thôi.
Đáp án có lẽ ở ngay dưới mũi anh.”
UNIT 3 - A friendly message
UNIT 3 - Lời nhắn thân thiện

This is the true story of Amanda Moore, a 10-year-old student in California,


USA. Amanda wrote a note in Spanish. In English it reads:
“Hello, Rafael. Would you like to sit with me today? Look for me and I will
show you where I sit. We can color or simply tell scary stories. Thank you for
your time.”
Đây là câu chuyện có thật của Amanda Moore, một học sinh 10 tuổi ở
California, Mỹ. Amanda đã viết một tờ ghi chú bằng tiếng Tây Ban Nha. Dịch
sang tiếng Anh có nghĩa là: “Chào Rafael. Hôm nay cậu có muốn ngồi cạnh tớ
không? Hãy tìm tớ nhé, tớ sẽ chỉ cho cậu chỗ tớ ngồi. Chúng ta có thể tô màu
hoặc đơn giản là kể chuyện ma. Cảm ơn cậu đã đọc.”
Amanda wrote this for Rafael Anaya, a new student in her class. He moved
from Mexico to the USA and he didn’t speak much English. He was lonely and
he often got upset when he couldn’t understand the teacher.
Amanda đã viết những dòng này cho Rafael Anaya, một học sinh mới trong lớp.
Cậu bé chuyển từ Mexico đến Mỹ và không nói được nhiều tiếng Anh. Cậu
không có ai chơi cùng và thường buồn bực khi không thể hiểu giáo viên nói gì.
Amanda saw this and decided to make friends with him, but there was one
problem. She didn’t speak any Spanish, so she had to find a different way to
communicate with Rafael.
Amanda nhận ra điều đó và quyết định kết bạn với cậu, nhưng có một vấn đề.
Cô bé không nói được tiếng Tây Ban Nha, vậy nên cô phải tìm cách khác để
giao tiếp với Rafael.

Amanda used her smartphone and an app called Google Translate to write her
message. She typed it into the app in English and clicked on “Translate to
Spanish.” Then she copied the message in Spanish on a piece of paper and gave
it to Rafael.
Amanda đã sử dụng điện thoại thông minh và một ứng dụng tên là Google Dịch
để viết lời nhắn. Cô bé nhập lời nhắn vào ứng dụng bằng tiếng Anh và nhấp vào
"Dịch sang tiếng Tây Ban Nha". Sau đó, cô bé viết lại lời nhắn bằng tiếng Tây
Ban Nha vào một tờ giấy và đưa cho Rafael.
He felt really happy because he had a new friend. “No one has given me a letter
before,” Rafael explained in Spanish. “Amanda will be my friend forever.”
Cậu bé thực sự cảm thấy hạnh phúc vì đã có một người bạn mới. Rafael nói
bằng tiếng Tây Ban Nha: “Trước giờ chưa có ai gửi thư cho tớ,
Amanda sẽ mãi mãi là bạn của tớ.”

Paloma Elementary School, where the children study, gave Amanda an award
for being kind and she was Student of the Month. Rafael’s and Amanda’s
parents were also there when Amanda received her award. They got a chance to
meet.
Trường Tiểu Học Paloma, nơi các em theo học, đã trao thưởng cho Amanda vì
lòng tốt và em trở thành Học Sinh của Tháng. Cha mẹ của Rafael và Amanda
cũng có mặt khi Amanda nhận giải. Họ đã có cơ hội gặp nhau.

“Amanda did a lovely thing. It’s wonderful,” Rafael’s mom said.


Mẹ của Rafael nói: “Amanda đã làm một việc rất dễ thương. Thật tuyệt vời.”
She explained that Rafael used to feel really nervous about going to school, so
she was grateful to Amanda for helping him feel less nervous.
Bà kể rằng Rafael đã từng cảm thấy rất lo lắng khi đến trường, vì vậy bà rất biết
ơn Amanda vì đã giúp cho cậu bé bớt lo lắng hơn.
Amanda’s mom was very proud of her daughter and she talked about all the
messages people sent her.
Mẹ của Amanda rất tự hào về con gái mình, bà kể về tất cả những tin nhắn mà
mọi người đã gửi cho bà.
“I’ve received 1,600 personal Facebook messages from people all across the
world just saying gracias,” she said.
Bà nói: “Tôi đã nhận được 1.600 tin nhắn trên Facebook cá nhân từ mọi người
trên khắp thế giới chỉ để nói “gracias” (cảm ơn).”
She also said she didn’t need a translator to explain what that word means.
Bà cũng cũng nói rằng không cần ai phiên dịch, bà vẫn biết từ đó nghĩa là gì.
The story of Amanda and Rafael shows us that nothing can stop a friendship
from growing. Two people who don’t speak the same language can still
communicate.
Câu chuyện của Amanda và Rafael cho chúng ta thấy rằng không gì có thể ngăn
cản tình bạn nảy nở. Hai người không nói cùng một ngôn ngữ vẫn có thể giao
tiếp với nhau.
So, be nice to new classmates and make friends with them. Amanda didn’t let
anything stop her from making a new friend. Don’t let anything stop you. You’ll
find a way to communicate if you want to!
Vì vậy, hãy đối xử tốt với các bạn học mới và kết bạn với họ. Amanda không để
bất cứ điều gì ngăn cản cô bé kết bạn với những người bạn mới. Đừng để bất cứ
điều gì ngăn cản bạn. Bạn sẽ tìm ra cách để giao tiếp nếu bạn muốn!
UNIT 4 - Hope you like fish
UNIT 4 - Mong là cậu thích ăn cá

Marfusha, Enos, and Ham were names of real animals who went to space during
the 1950s and 60s.
Marfusha, Enos và Ham là tên của những con vật có thật đã bay vào vũ trụ vào
những năm 1950 và 1960.
The launch pad, just before dawn. The rocket stands tall. Steam comes from the
engines. Mission control checks everything. Mars 11 is ready to blast into
space.But there is a problem. Two of the astronauts on board the spaceship are
not happy.
Bệ phóng sẵn sàng, ngay trước bình minh. Tên lửa đứng sừng sững. Hơi nước
phun ra từ các động cơ. Trung tâm điều khiển kiểm tra mọi thứ. Mars 11 đã sẵn
sàng phóng vào vũ trụ.
Nhưng có một vấn đề. Hai trong số các phi hành gia trên tàu vũ trụ đang không
vui.
I can’t believe they’re sending us into space with these guys again.
Marfusha nói: “Không thể tin được họ lại để chúng ta bay vào vũ trụ với mấy
tên này lần nữa.”
Worst day ever.
Katyusha nói: “Ngày tồi tệ chưa từng thấy.”
Hey, what did we do wrong?
Ham: “Này, chúng tôi đã làm gì sai chứ?”
Remember the last time?
Marfusha nói: “Nhớ lần trước không?”
You landed us in totally the wrong place. You were reading the map upside
down.
Katyusha nói: “Các cậu hạ cánh nhầm chỗ. Các cậu đã đọc ngược bản đồ.”
I guess maybe we got distracted.
Enos: “Tôi đoán là có lẽ lúc đó chúng tôi bị phân tâm.”
It could happen to anybody.
Ham: “Điều đó có thể xảy ra với bất cứ ai mà.”
Shhh!
Marfusha: “Suỵt!!”
Get ready for launch. Good luck astronauts! This mission is very important.
“Sẵn sàng phóng. Chúc các phi hành gia may mắn! Nhiệm vụ này rất quan
trọng.”
The countdown begins.
5, 4, 3, 2, 1. Blast off.
Fire blasts from the rocket engines. The rocket shakes and roars. It lifts off
towards the sky. It is loud. It is scary.
Bắt đầu đếm ngược.
5, 4, 3, 2, 1. Phóng!
Lửa phụt ra từ các động cơ tên lửa. Tên lửa rung và gầm lên. Nó cất cánh về
phía bầu trời. Thật ồn ào và đáng sợ.
What’s the mission again?
Enos: “Nhiệm vụ là gì ấy nhỉ?”
To land on Mars and collect rocks, remember?
Marfusha: “Hạ cánh xuống sao Hỏa và thu thập đá, nhớ chưa?”
We’re exploring new worlds for science.
Katyusha: “Chúng ta đang khám phá thế giới mới để phục vụ nghiên cứu khoa
học.”
It’s a two-year mission.
Marfusha: “Đó là một nhiệm vụ kéo dài hai năm.”
Oh yeah, right. Mars. Two years? That’s a long time.
Ham: “Ồ đúng rồi. Sao Hoả. Hai năm á? Lâu thế.”
I’ve changed my mind!
Ham: “Tôi đổi ý rồi!!!”
Sit down!
Katyusha: “Ngồi xuống đi!”
Soon, Mars 11 is up in space. From up there, the Earth looks beautiful.
Chẳng mấy chốc, Mars 11 đã lên vũ trụ. Từ trên cao, Trái Đất trông thật đẹp.

Marfusha turns off the rockets. The astronauts take off their safety belts and
float in zero gravity.
Marfusha tắt tên lửa. Các phi hành gia cởi dây an toàn và lơ lửng trong môi
trường không trọng lực.
Wow, it looks like a long way down.
Enos: “Wow, một chặng đường dài đấy.”
Are you sure Mars is this way?
Ham: “Cậu có chắc hướng này là sao Hỏa không?”
Of course. The rabbits are in charge.
Marfusha: “Tất nhiên rồi. Thỏ chịu trách nhiệm mà.”
The spaceship flies towards the red planet. Marfusha moves the controls.
Con tàu vũ trụ bay về phía hành tinh màu đỏ. Marfusha di chuyển các nút điều
khiển.

Mission control, we’re on course for the planet Mars.


Marfusha: “Trung tâm, chúng tôi đang trên đường tới hành tinh sao Hỏa.”
I’m hungry. Snack time!
Ham: “Tôi đói quá. Đến lúc ăn nhẹ rồi!”
Hey, that’s not fair! Where’s my space snack?
Enos: “Này, thật không công bằng! Bữa ăn nhẹ của tôi đâu?”
I didn’t bring you one.
Ham: “Tôi không mang cho cậu rồi.”
The two chimps chase each other around the tiny spaceship. They only have one
thing on their minds: food.
Hai con tinh tinh rượt đuổi nhau quanh con tàu vũ trụ nhỏ bé. Trong đầu chúng
chỉ có một thứ: đồ ăn.
This isn’t the time for a space snack!
Marfusha: “Đây không phải là lúc ăn nhẹ đâu!”
Give that back!
Ham: “Trả đây!”
You must sit down. You’re going to cause an accident.
Katyusha: “Ngồi xuống ngay. Cậu sẽ gây tai nạn mất.”
Oh, no!
Tất cả: “Ôi không!”
The spaceship drops like a stone. It zooms back towards Earth. It is out of
control.
Con tàu vũ trụ rơi xuống như một hòn đá. Nó càng ngày càng tiến gần về phía
Trái Đất.
Con tàu đã mất kiểm soát.
Not all early space missions were successful.
Không phải tất cả các nhiệm vụ thám hiểm vũ trụ trước đây đều thành công.
Later, back down on Earth … the spaceship floats in the middle of the ocean.
There is nothing else in sight. The astronauts are a long way from home. It
might be a while before mission control finds them. There’s time to catch
something tasty for dinner.
Sau đó, quay trở lại Trái đất… con tàu vũ trụ nổi lên giữa đại dương. Không có
gì xung quanh. Các phi hành gia cách nhà rất xa. Có thể phải mất một thời gian
trung tâm điều khiển mới tìm thấy họ. Đến lúc bắt một cái gì đó ngon ngon để
ăn tối rồi.
You chimps shouldn’t think about food all the time!
Marfusha: “Lũ tinh tinh các cậu không nên lúc nào cũng chỉ nghĩ về đồ ăn!”
Never go up in space with chimps.
Katyusha: “Không bao giờ bay vào vũ trụ với tinh tinh.”
Never, ever.
Marfusha: “Không bao giờ nữa.”
We said we were sorry.
Enos: “Chúng tôi xin lỗi rồi mà.”
We hope you like fish …
Ham: “Chúng tôi hy vọng các cậu thích ăn cá.”
UNIT 5 - The Silk road
UNIT 5 - Con đường tơ lụa

These days, there are big planes and ships to take goods from one side of the
world to the other. But in the past, it wasn’t that easy to trade with people in
faraway places. So how did people do it? They traded on the Silk Road.
In ancient China, soldiers and workers used to get paid in silk.
Ngày nay có máy bay và tàu lớn để vận chuyển hàng hóa từ bên này sang bên
kia thế giới. Nhưng trong quá khứ, việc giao dịch với những người ở nơi xa xôi
không dễ dàng như vậy. Vậy người ta đã làm như thế nào? Họ buôn bán trên
Con đường Tơ lụa.
Ở Trung Quốc cổ đại, binh lính và công nhân thường được trả công bằng lụa.
What was the Silk Road?
The Silk Road wasn’t really a road made of silk. It was a 4,000-mile network of
land and sea routes. These routes connected to create a path from Eastern
Europe to China. Merchants used to travel on the Silk Road to trade goods such
as tea, furs, and pottery. But the most valuable goods were spices and silk from
China. That’s why it’s called the Silk Road. Spices were important because they
preserved food to make it last longer. Silk was light and it used to be as valuable
as gold.
Con đường tơ lụa là gì?
Con đường tơ lụa không thực sự là một con đường làm bằng lụa. Đó là một
mạng lưới đường bộ và đường biển dài 4.000 dặm. Các tuyến đường này kết nối
để tạo ra một con đường từ Đông Âu đến Trung Quốc.
Các thương nhân từng đi trên Con đường tơ lụa để trao đổi các loại hàng hóa
như trà, lông thú và đồ gốm. Nhưng hàng hóa có giá trị nhất là gia vị và lụa từ
Trung Quốc. Đó là lý do tại sao nó được gọi là Con đường tơ lụa. Các loại gia
vị rất quan trọng vì chúng giúp bảo quản thực phẩm lâu hơn. Tơ lụa nhẹ và từng
có giá trị như vàng.
How did people travel on the Silk Road?
Much of the Silk Road was across desert, so many merchants used camels to
carry their goods. They also used horses. It was safer to travel in a big group, or
caravan, because there were a lot of thieves along the Silk Road. Some
merchants even had guards to protect them and their goods. Others took a
different route every time they made the trip.
Mọi người đã di chuyển trên Con đường tơ lụa như thế nào?
Phần lớn Con đường tơ lụa băng qua sa mạc, vì vậy nhiều thương nhân đã sử
dụng lạc đà để vận chuyển hàng hóa. Họ cũng sử dụng ngựa. Sẽ an toàn hơn khi
đi theo nhóm lớn hoặc đoàn lữ hành, vì có rất nhiều kẻ trộm dọc theo Con
đường tơ lụa. Một số thương nhân thậm chí còn có lính canh để bảo vệ họ và
hàng hóa. Những người khác thì mỗi chuyến lại chọn một tuyến đường khác
nhau.
Why was the Silk Road important?
The Silk Road wasn’t just a route for people to buy and sell goods. At a time
when there were no planes, phones, or computers, it helped people from distant
places keep in touch. The traders met new cultures, exchanged ideas, and spread
inventions across the world.Paper is a good example of this. At first, traders
brought the idea west from the Arab world on the Silk Road. Then, Europeans
learned how to make paper, too. The same thing happened with the printing
press, which was invented in China.
Tại sao Con đường tơ lụa lại quan trọng?
Con đường tơ lụa không chỉ là con đường để mọi người mua bán hàng hóa. Vào
thời điểm không có máy bay, điện thoại hay máy tính, con đường này giúp
những người ở xa giữ liên lạc với nhau. Các thương nhân đã gặp gỡ các nền văn
hóa mới, trao đổi ý tưởng và truyền bá các phát minh trên khắp thế giới.
Giấy là một ví dụ. Lúc đầu, thông qua Con đường tơ lụa, các thương nhân đem
ý tưởng từ thế giới Ả Rập về phương tây. Sau đó, người châu Âu cũng học cách
làm giấy. Máy in cũng tương tự như vậy, ban đầu loại máy này cũng được phát
minh ở Trung Quốc.
People traveled on the Silk Road from 200 BCE until the 1400s. Sailing then
became more popular because it was safer and faster. In 2014, the Silk Road
became a UNESCO World Heritage Site because it helped different cultures
build peace and understanding.
People traveling on the Silk Road also spread diseases.
Người ta đi trên Con đường tơ lụa từ năm 200 trước Công nguyên cho đến
những năm 1400. Sau đó thuyền trở nên phổ biến hơn vì an toàn và nhanh hơn.
Vào năm 2014, Con đường tơ lụa đã trở thành Di sản thế giới của UNESCO vì
nó giúp các nền văn hóa khác nhau thấu hiểu lẫn nhau và cùng dựng xây hòa
bình.
Những người đi trên Con đường Tơ lụa cũng gây lây lan bệnh tật.
Marco Polo was an Italian explorer. He traveled to China on the Silk Road and
he lived there for many years. He learned Chinese and worked for the emperor.
There’s a book called The Travels of Marco Polo about his journeys.
Marco Polo là một nhà thám hiểm người Ý. Ông đã đến Trung Quốc bằng Con
đường tơ lụa và sống ở đó nhiều năm. Ông đã học tiếng Trung Quốc và phụng
sự cho hoàng đế. Có một cuốn sách tên là “Những chuyến du hành của Marco
Polo” kể về những chuyến đi của ông.
UNIT 6 - SOS
UNIT 6 - SOS

Mrs. Collins stopped on the trail and searched the wilderness. She looked at her
cell phone and shook her head.
Ở vùng hoang dã, cô Collins dừng lại trên con đường mòn và dò tìm. Cô nhìn
vào điện thoại di động và lắc đầu.
“What’s wrong?” asked Joe.
Joe hỏi: “Có chuyện gì vậy ạ?”
“I’m afraid we’re lost, and my phone isn’t working,” said Mrs. Collins.
Cô Collins nói: “Cô e rằng chúng ta đã bị lạc, điện thoại của cô thì không hoạt
động.”
“Really?” said Micaela.
Micaela nói: “Thật sao ạ?”
“No, not really,” Mrs. Collins laughed. “But let’s pretend we really need to call
for help to survive. I’m giving you ten minutes to each think of an idea, starting
now.”
Cô Collins bật cười: “Không, không hẳn vậy.”
“Nhưng hãy giả sử chúng ta thực sự cần cầu cứu để sống sót. Cô cho các em
mười phút để mỗi người nghĩ ra một ý tưởng, bắt đầu từ bây giờ.”
Micaela’s Idea
Use a whistle. A whistle is a really good way of getting attention. Whistles are
light and easy to carry. You can attach a whistle to a strap on your
backpack.Three loud blasts on the whistle is the call for help that most people
will know.
Ý tưởng của Micaela
Sử dụng còi. Tiếng còi là một cách thực sự tốt để thu hút sự chú ý. Còi là vật
nhẹ và dễ mang theo.
Bạn có thể gắn còi vào dây đeo trên ba lô. Ba tiếng còi to là tiếng kêu cứu mà
hầu hết mọi người đều biết.

Joe’s Idea
Use a mirror. The reflection from a mirror can travel a very long distance. You
can get the attention of planes and boats. Some hiking mirrors have a sight that
helps you aim the mirror at your target or the spot you are pointing at.If the
mirror doesn’t have a sight, start by shining the reflection onto your hand or
finger. Then move your finger to the target. Then take away your finger and
wiggle the mirror back and forth slowly.
Ý tưởng của Joe
Sử dụng một tấm gương. Hình ảnh phản chiếu từ gương có thể truyền đi một
khoảng cách rất xa. Bạn có thể thu hút sự chú ý của máy bay và thuyền. Loại
gương đi bộ đường dài có lỗ ngắm giúp bạn hướng gương vào mục tiêu hoặc
điểm mà bạn đang chỉ.
Nếu gương không có lỗ ngắm, hãy chiếu hình ảnh phản chiếu lên bàn tay hoặc
ngón tay của bạn. Sau đó, di chuyển ngón tay của bạn đến mục tiêu. Sau đó bỏ
ngón tay ra và từ từ lắc chiếc gương qua lại.

Mia’s Idea
The international signal for help is the letters SOS. There are many ways to
send that message.Build a big SOS by putting rocks or branches on the ground.
If you are in snow, stamp the letters in the snow and fill them with something
dark. If you are on a beach, write the letters in the sand.Use Morse code to spell
out SOS. In Morse code, the letters of the alphabet are made with dots and
dashes. SOS is written like this:. . .- - - . . .
Ý tưởng của Mia
Tín hiệu cầu cứu quốc tế là các chữ cái SOS. Có nhiều cách để gửi tín hiệu đó.
Xếp đá hoặc cành cây trên mặt đất để tạo thành chữ SOS lớn. Nếu bạn đang ở
dưới trời tuyết, hãy đánh dấu các chữ cái trên tuyết và lấp đầy mặt chữ bằng thứ
gì đó tối màu. Nếu bạn đang ở trên bãi biển, hãy viết các chữ cái trên cát.
Sử dụng mã Morse để đánh vần SOS. Trong mã Morse, các chữ cái trong bảng
chữ cái được tạo thành từ dấu chấm và dấu gạch ngang. SOS được viết như thế
này: . . .- - - . . .
At night, use a flashlight to make your dots and dashes. Hold the dashes a little
longer than the dots. Then continue repeating that pattern.
Morse code was invented in 1838 by Samuel Morse as a way of sending
messages over wires.
Vào ban đêm, hãy sử dụng đèn pin để tạo dấu chấm và dấu gạch ngang. Để tạo
dấu gạch ngang, ta giữ đèn lâu hơn một chút so với dấu chấm. Sau đó tiếp tục
lặp lại chuỗi hành động đó.
Mã Morse được Samuel Morse phát minh vào năm 1838 như một cách truyền
tải tín hiệu liên lạc được mã hóa qua đường dây.
Yuki’s Idea
When you need help, you want to be seen.Make a bright flag. You can use the
rain cover from a tent. You can use a brightly colored jacket or any other piece
of clothing. Put up the flag somewhere out in the open.You can also use a flag
to spell SOS in Morse code. For a dot, hold your flag on your right side. For a
dash, hold your flag to the left.
Ý tưởng của Yuki
Khi bạn cần giúp đỡ, bạn sẽ muốn người khác nhìn thấy mình.
Làm một lá cờ sáng màu. Bạn có thể sử dụng tấm che mưa lấy từ lều. Bạn có
thể sử dụng áo khoác sáng màu hoặc bất kỳ trang phục nào khác. Cắm cờ ở đâu
đó ngoài trời. Bạn cũng có thể sử dụng cờ để đánh vần SOS bằng mã Morse.
Giữ lá cờ ở phía bên phải để tạo thành dấu chấm. Giữ cờ ở phía bên trái để tạo
thành dấu gạch ngang.
“Good job, those are all good ideas. Hopefully I have some SOS for you,” said
Mrs. Collins.
Cô Collins nói: “Tốt lắm, đó đều là những ý kiến hay. Mong rằng cô có một vài
thứ SOS cho các em.”
“SOS?” asked Joe.
Joe hỏi: “SOS gì ạ?”
Mrs. Collins smiled and handed out snack bars. “Stuff Our Stomachs!”
Cô Collins mỉm cười và chia những thanh kẹo: “Stuff Our Stomach!” (Lấp
đầy bụng)
UNIT 7 - Clean water for all
UNIT 7 - Nước sạch cho mọi người

Having clean water is extremely important to our health. Doctors say we need
to drink about six glasses of water a day. However, in many places clean
drinking water isn’t easy to get.Some really clever inventions can help with this
problem.Here are four of them.
Nước sạch vô cùng quan trọng đối với sức khỏe của chúng ta. Các bác sĩ
khuyến cáo rằng chúng ta cần uống khoảng sáu ly nước mỗi ngày. Tuy nhiên, ở
nhiều nơi, không dễ để có được nước uống sạch.
Một số phát minh thực sự thông minh có thể giúp giải quyết vấn đề này. Đây là
bốn phát minh trong số đó.
Water Billboard
Lima, Peru has very little rain, but it is very humid. Because it’s near the Pacific
Ocean, there’s a lot of water in the air. Engineers at the city’s University of
Engineering and Technology invented the Water Billboard to turn air into clean
water.
Biển quảng cáo tạo nước
Lima, Peru rất ít mưa nhưng lại rất ẩm ướt. Bởi thành phố này nằm gần Thái
Bình Dương, nơi có rất nhiều nước trong không khí. Các kỹ sư tại Đại học Kỹ
thuật và Công nghệ của thành phố đã phát minh ra Bảng quảng cáo nước để
biến không khí thành nước sạch.
It looks like an advertising billboard, but it can produce 96 liters of clean water
a day. Hot, humid air goes through the billboard where five condensers cool it
down. The vapor in the air turns into liquid water, and the water then flows
through a filter into a tank at the base of the billboard. People get the water from
a simple faucet.
Trông giống như một tấm biển quảng cáo, nhưng nó có thể tạo ra 96 lít nước
sạch mỗi ngày. Không khí nóng ẩm đi qua biển quảng cáo có năm thiết bị
ngưng tụ làm mát. Hơi trong không khí biến thành nước, sau đó nước chảy qua
bộ lọc vào bể chứa ở chân biển quảng cáo. Mọi người lấy nước từ một chiếc vòi
đơn giản.
Lifestraw
Drinking water from rivers, lakes, or ponds is safe with Lifestraw. It looks like a
thick straw and it actually works like one. You place it in the water and suck. As
the water flows through the straw, a filter stops the dangerous bacteria. The
water that comes out is clean to drink.
Ống hút lọc nước (Lifestraw)
Với Lifestraw, việc uống nước từ sông, hồ hay ao trở nên an toàn. Công cụ này
trông như một chiếc ống hút dày và hoạt động giống như vậy. Bạn chỉ cần đặt
ống trong nước và hút. Khi nước chảy qua ống hút, một bộ lọc sẽ ngăn chặn vi
khuẩn nguy hiểm. Nước chảy ra là nước sạch uống được.
People like Lifestraw because it’s practical. When they go hiking, they don’t
need to carry heavy bottles of water. One Lifestraw lets you clean up to 1,000
liters of dirty water and it only weighs 57 grams.
Mọi người thích Lifestraw vì tính thiết thực. Khi đi leo núi, họ không cần mang
theo những chai nước nặng. Một chiếc Lifestraw giúp bạn làm sạch tới 1.000 lít
nước bẩn và nó chỉ nặng 57 gram.

Eliodomestico
Italian designer Gabriele Diamanti invented Eliodomestico, a solar-powered
sterilizing system, to make seawater drinkable and take out the salt. In the
morning, seawater is poured into the boiler pot on the top of the device. All day
the sun heats the boiler pot and turns the seawater into steam.
Eliodomestico
Nhà thiết kế người Ý Gabriele Diamanti đã phát minh ra Eliodomestico, một hệ
thống khử trùng bằng năng lượng mặt trời, loại bỏ muối trong nước biển và
chúng ta có thể uống được. Buổi sáng, nước biển được đổ vào nồi đun trên đỉnh
thiết bị. Cả ngày mặt trời đốt nóng nồi hơi và biến nước biển thành hơi nước.

Pressure inside the boiler pot pushes the steam through a pipe to the clay pot.
When the steam meets the metal lid on the clay pot, it condenses, turning the
steam into drinkable water. Eliodomestico can distill up to 10 liters of water a
day for families.
Áp suất bên trong nồi hơi đẩy hơi nước qua một đường ống đến nồi đất sét. Khi
gặp nắp kim loại trên nồi đất sét, hơi nước sẽ ngưng tụ lại, biến hơi nước thành
nước uống được. Eliodomestico có thể chưng cất tới 10 lít nước mỗi ngày cho
các gia đình.
What other inventions to make clean water do you know?CyclocleanCycloclean
is a Japanese invention. You cycle to a river, lake, or pond and put a filter in
thedirty water. You pedal the bike to power a pump. The pump pulls the water
up into the filter. The water flows through the filter and up into a box with more
filters on the back of the bike. It comes out clean and safe to drink.
Cycloclean
Cycloclean là một phát minh của Nhật Bản. Bạn đạp xe đến sông, hồ hoặc ao và
đặt một bộ lọc vào nước bẩn. Bạn sẽ đạp xe đạp để cung cấp năng lượng cho
máy bơm. Máy bơm kéo nước lên bộ lọc. Nước chảy qua bộ lọc và chảy vào
hộp có nhiều bộ lọc hơn ở phía sau xe đạp. Lúc này, nước sạch sẽ và an toàn đủ
để uống.
The inventors of Cycloclean designed it for times of emergency, like droughts
and earthquakes, when people have to travel long distances to get water.
Thanks to hard-working scientists and inventors, more people will have safe,
clean water in the future.
Những người phát minh ra Cycloclean đã thiết kế nó cho những trường hợp
khẩn cấp, chẳng hạn như hạn hán và động đất, khi mọi người phải đi một quãng
đường dài để lấy nước.
Nhờ sự nỗ lực của các nhà khoa học và nhà phát minh, trong tương lai sẽ ngày
càng có nhiều người có nước sạch và an toàn để uống.
UNIT 8 - Action stars
UNIT 8 - Ngôi sao phim hành động

The red sports car speeds through busy city streets, just missing trucks and
buses. People run screaming. Then, all of a sudden, the car flips, rolls over, and
crashes.
People gather around the scene of the crash. The door of the car opens, and the
driver climbs out. She gives everyone a wave. The crowd cheers and claps.
Why isn’t anyone scared? Because this is a movie set. The driver who was in
the car is a stunt performer. The car crash was a carefully planned action scene.
Chiếc xe thể thao màu đỏ tăng tốc qua những con phố đông đúc, bỏ xa xe tải và
xe buýt. Mọi người vừa chạy vừa la hét. Sau đó, đột nhiên, chiếc xe bị lật, xoay
vòng và rơi xuống đất.
Người dân tập trung xung quanh hiện trường vụ tai nạn. Cửa xe mở ra, tài xế
bước xuống. Cô vẫy tay chào mọi người. Đám đông cổ vũ và vỗ tay.
Tại sao không ai sợ hãi? Vì đây là một cảnh phim. Người lái xe là một diễn viên
đóng thế. Vụ đâm xe là một cảnh hành động được tính toán kĩ càng.
When movies have dangerous scenes or parts that need a lot of action, they
often use stunt men and women. Sometimes known as a stunt double, a stunt
performer takes the place of the main actor during the risky scenes.A stunt
might be something like falling from a building, hanging from a helicopter, or
fighting.
Khi phim có những cảnh nguy hiểm hoặc những phân đoạn nhiều pha hành
động, họ thường sử dụng diễn viên đóng thế. Đôi khi được gọi là thế thân,
người thay diễn viên chính đảm nhận các cảnh mạo hiểm.
Cảnh mạo hiểm có thể là hành động như rơi từ tòa nhà xuống, treo người trên
trực thăng hoặc đánh nhau.
To become a professional stunt person requires many years of hard work and
training.Stunt performers learn skills in gymnastics, high diving, falling,
swimming, horseback riding, driving, and martial arts such as karate. They must
also spend a lot of time in movie studios, on movie sets, and in front of cameras
before they can perform their first stunt.
Để trở thành một diễn viên đóng thế chuyên nghiệp, người ta phải trải qua nhiều
năm khổ luyện. Những diễn viên đóng thế phải học các kỹ năng về thể dục dụng
cụ, lặn từ trên cao, ngã, bơi lội, cưỡi ngựa, lái xe và biểu diễn võ thuật như
karate. Họ cũng phải dành nhiều thời gian trong xưởng phim, trên phim trường
và trước máy quay trước khi có thể thực hiện lần đóng thế đầu tiên.
Good stunt performers are always calm under pressure, organized, and well
prepared. The stunt has to be exactly right or the stunt person might get
injured.Stunt performers are also actors. They watch the main actors and learn
how to move like them, and sometimes say their lines. Often they wear wigs
and make-up—even fake scars—to look like the main actors.
Những diễn viên đóng thế giỏi luôn bình tĩnh trước áp lực, tự giác và chuẩn bị
kĩ càng. Cảnh đóng thế phải dàn dựng chính xác tuyệt đối nếu không diễn viên
đóng thế có thể bị thương.
Diễn viên đóng thế cũng là diễn viên. Họ theo dõi các diễn viên chính và học
cách di chuyển giống họ, đôi khi nói lời thoại của họ. Họ thường đội tóc giả và
trang điểm - thậm chí cả những vết sẹo giả - để giống các diễn viên chính.
One of the first stunt performers was Yakima Canutt. Canutt was a world
champion rodeo rider. He won many awards before he started working in
movies.
In a famous scene from an old movie, Canutt jumped from one horse to another.
He fell off the horse, but still hung on while the horses ran. Then he disappeared
between the wheels of the speeding coach!
Yakima Canutt là một trong những diễn viên đóng thế đầu tiên. Canutt là một
tay đua ngựa vô địch thế giới. Ông đã giành được nhiều giải thưởng trước khi
bắt đầu đóng phim.
Trong một cảnh nổi tiếng của một bộ phim cũ, Canutt nhảy từ con ngựa này
sang con ngựa khác. Ông ngã khỏi ngựa nhưng vẫn bám chặt trong khi ngựa
chạy. Sau đó, ông biến mất trong lúc những bánh xe vẫn đang tăng tốc!
Some actors can also perform stunts. Jackie Chan is an actor who is well-known
for doing his own stunts. Before he became an actor, Chan was a stunt
coordinator for many years. He planned stunts and fight scenes. In the movie
Shanghai Noon, he planned and performed many stunts. He ran and jumped
from train car to train car while the train moved. Then he jumped from the top
of the train engine!
While stunt people get to do exciting things like jump motorcycles and hang
from horses, danger is never far away. So, the next time you see an amazing
stunt in a trailer or a movie, stop and think about all the training and hard work
it took the stunt person to make it happen.
Một số diễn viên cũng có thể thực hiện pha mạo hiểm. Thành Long là một diễn
viên nổi tiếng với những pha mạo hiểm mà ông tự thực hiện. Trước khi trở
thành diễn viên, Thành Long từng là điều phối viên đóng thế trong nhiều năm.
Ông lên kế hoạch cho các pha mạo hiểm và cảnh chiến đấu. Trong phim
Shanghai Noon, ông đã chuẩn bị và thực hiện nhiều pha mạo hiểm. Ông chạy
nhảy từ toa tàu này sang toa tàu khác trong khi tàu di chuyển. Sau đó, ông nhảy
từ trên đầu tàu xuống!
Mặc dù diễn viên đóng thế có thể làm những điều thú vị như bốc đầu mô tô và
treo mình trên ngựa nhưng nguy hiểm vẫn luôn rình rập. Vì vậy, lần tới khi bạn
nhìn thấy một diễn viên đóng thế tài giỏi trong một đoạn giới thiệu hoặc một bộ
phim, hãy suy ngẫm về tất cả quá trình luyện tập và làm việc chăm chỉ mà diễn
viên đóng thế đã phải thực hiện.
UNIT 9 - Pinocchia
UNIT 9 - Pinocchia

“Ready for lunch?” Paola asked.


Paola hỏi: “Anh muốn ăn trưa chưa?”
“I’m almost finished with this,” she added.
Cô nói thêm: “Em sắp xong việc rồi.”
“Yes, I’m starving,” Beneto said. “That’s really good, Paola …”
Beneto nói: “Được thôi, anh đói lắm rồi. Tuyệt thật, Paola ạ.”
“Good morning, Beneto. Hello, Paola!” Mrs. Atario said. “I’m here because I’d
like a new robot for my daughter, Cleo. It’s her birthday in two weeks. The
robot must like playing games. It must also do chores—you know, sweep the
floor, do the laundry, wash the dishes.”
Bà Atario nói: “Chào buổi sáng, Beneto. Xin chào, Paola! Tôi tới đây vì muốn
lấy một người máy mới cho con gái Cleo của tôi. Hai tuần nữa là sinh nhật con
bé. Người máy phải thích chơi điện tử. Nó cũng phải biết làm việc nhà nữa -
quét sàn, giặt giũ, rửa bát đĩa.”
Mrs. Atario always paid in advance, giving Beneto the money before they
started work. She was Beneto and Paola’s best client. Two weeks weren’t
enough to make a robot, but they couldn’t let her down.
Bà Atario luôn trả trước, bà đưa tiền cho Beneto trước khi họ bắt đầu làm việc.
Bà ấy là khách hàng tốt nhất của Beneto và Paola. Hai tuần không đủ để tạo ra
một người máy, nhưng họ cũng không thể làm bà thất vọng.

They worked around the clock to finish Mrs. Atario’s robot …


Họ làm việc suốt ngày đêm để hoàn thành người máy theo yêu cầu của bà
Atario…
… and they did!
… và họ đã làm được!
“Ta-da!” Beneto cried.
Beneto đã khóc: “Ta-da!”
“Her name’s Pinocchia!” Paola shouted.
Paola hét lên: “Tên người máy là Pinocchia!”
Before taking Pinocchia to Mrs. Atario, they tested her.
Trước khi đưa Pinocchia cho bà Atario, họ cần kiểm tra lại.
“Hello, Pinocchia. How are you?” asked Beneto.
Beneto hỏi: “Xin chào, Pinocchia. Cháu có khỏe không?”
“Very well, thank you,” answered Pinocchia.
Pinocchia trả lời: “Cháu khoẻ, cảm ơn ạ.”
“What do you like to do?”
Beneto: “Cháu thích làm gì?”
“I like vacuuming the carpet.”
Pinocchia: “Cháu thích hút bụi trên thảm ạ.”
“This is one of the best robots we’ve ever made!” cried Paola.
Paola kêu lên: “Đây là một trong những người máy tốt nhất mà chúng ta từng
tạo ra!”

The next day, Beneto took Pinocchia to Mrs. Atario’s apartment.


Ngày hôm sau, Beneto đưa Pinocchia đến căn hộ của bà Atario.
“Look at this wonderful city, Pinocchia!” Beneto shouted.
Beneto hét lên: “Hãy nhìn thành phố tuyệt vời này đi, Pinocchia!”
They waited to see Mrs. Atario, but no one was there.
Họ đợi gặp bà Atario, nhưng không có ai ở đó.
“Come on, Pinocchia. Let’s go home,” said Beneto.
Beneto nói: “Nào, Pinocchia. Về nhà thôi.”
“Still no news from Mrs. Atario,” Beneto said.
Beneto nói: “Vẫn không có tin tức gì từ bà Atario.”
“I’m sure she’ll be in contact soon,” replied Paola.
Paola trả lời: “Em chắc rằng bà ấy sẽ sớm liên lạc.”
“I love this movie!” Pinocchia said.
Pinocchia nói: “Cháu yêu bộ phim này!”

“What a great story!” Pinocchia cried.


Pinocchia đã khóc: “Quả là một câu chuyện tuyệt vời!”
“It smells delicious!” Pinocchia exclaimed.
Pinocchia kêu lên: “Thơm ngon quá!”
As the months went by, Beneto, Paola, and Pinocchia became a family.
Nhiều tháng trôi qua, Beneto, Paola và Pinocchia trở thành một gia đình.

“Sorry, I’m late!” Mrs. Atario said cheerfully.


Bà Atario vui vẻ nói: “Xin lỗi tôi tới trễ!”
“Late?” said Beneto.
Beneto nói: “Trễ ư?”
“Where have you been, Mrs. Atario?” asked Paola.
Paola hỏi: “Bà đã đi đâu vậy, bà Atario?”
“We went on a trip to Mars. My uncle was sick … nothing serious. Anyway,
I’ve come to collect my robot!” said Mrs. Atario.
Bà Atario nói: “Chúng tôi đã đi một chuyến đến sao Hỏa. Chú tôi bị ốm…
cũng không có gì nghiêm trọng. Dù sao thì, tôi đến để lấy người máy của
mình!”
She grabbed Pinocchia.
It was heartbreaking, but there was nothing Beneto and Paola could do.
Pinocchia had to go.
Bà đến lấy Pinocchia.
Thật đau lòng, nhưng Beneto và Paola không thể làm gì được. Pinocchia buộc
phải đi.
At her new home, Pinocchia was unhappy. Mrs. Atario and Cleo didn’t love her.
Tại ngôi nhà mới, Pinocchia thấy không vui. Bà Atario và Cleo không yêu
thương cô bé.
“Come on, silly robot. Let’s play!” Cleo demanded.
Cleo yêu cầu: “Thôi nào, người máy ngốc nghếch. Cùng chơi nào!”
When Pinocchia was unhappy, she didn’t have any energy. She couldn’t play
with Cleo and she couldn’t do the chores well.
Khi Pinocchia không vui, cô bé chẳng có chút năng lượng nào. Cô bé không thể
chơi với Cleo và cũng không thể làm tốt việc nhà.
“This is ridiculous!” cried Mrs. Atario while Pinocchia’s battery was charging.
“Thật ngớ ngẩn!”
Bà Atario kêu lên trong khi đang sạc pin cho Pinocchia.
“I paid good money for this robot and this is what I get! You’re going back to
the lab, Pinocchia!”
“Tôi đã trả rất nhiều tiền cho người máy này và đây là những gì tôi nhận được!
Ngươi sẽ phải quay trở lại phòng thí nghiệm, Pinocchia!”
“I’ve never been so disappointed, Beneto. This robot of yours doesn’t work.
Something’s wrong with her energy levels,” Mrs. Atario explained.
Bà Atario nói: “Tôi chưa bao giờ thất vọng như vậy, Beneto. Người máy này
của anh không hoạt động. Mức năng lượng của con bé không ổn.”
“Let me see,” said Beneto.
Beneto nói: “Để tôi xem nào.”
He took a closer look.
Ông xem xét kỹ hơn.
“You’re right, Mrs. Atario. Pinocchia’s battery is no good,” Beneto said.
Beneto nói: “Bà nói đúng, bà Atario. Pin của Pinocchia không ổn.”
“Please choose another robot from the shelf,” he added.
Ông nói thêm: “Bà hãy vui lòng chọn một robot khác từ trên kệ nhé.”
“Welcome back, Pinocchia! We missed you!” Paola said.
Paola nói: “Chào mừng trở lại, Pinocchia! Chúng ta nhớ cháu lắm!”
“It feels great to be home!” Pinocchia said.
Pinocchia nói: “Thật tuyệt khi được ở nhà!”
UNIT 10 - Sense superstore
UNIT 10 - Siêu thị giác quan

Welcome to the sense superstore! The best place for amazing senses. Sight,
smell, taste, hearing, and touch, we have it all!This month only—20% off all
sensational animal senses.
Chào mừng đến với siêu thị giác quan! Nơi tốt nhất để mua các giác quan tuyệt
vời. Thị giác, khứu giác, vị giác, thính giác và xúc giác, chúng tôi có tất cả! Chỉ
trong tháng này - giảm giá 20% cho tất cả các giác quan thú vị của động vật.
Nerve endings
The nose of the star-nosed mole has an incredible sense of touch.Around the
nose of this mole are 22 little tentacles. These tentacles are very sensitive and
have more than 100,000 nerve endings—many more than a human hand. They
help the mole sense things in the ground without needing to see.
Đầu dây thần kinh
Mũi của chuột chũi mũi sao có xúc giác phi thường.
Xung quanh mũi của chuột chũi là 22 xúc tu nhỏ. Những xúc tu này rất nhạy
cảm và có hơn 100.000 đầu dây thần kinh - nhiều hơn cả đầu dây thần kinh trên
một bàn tay con người. Chúng giúp chuột chũi cảm nhận được mọi thứ trong
lòng đất mà không cần nhìn.
Electroreception
When living things move, they give off small amounts of electricity.Thanks to
special pores, or small holes, on its head, the shark can feel that electricity as it
travels through the water. It uses this electroreception to find prey it wants to
eat.
Khả năng tiếp điện
Khi các sinh vật sống chuyển động, chúng phát ra một lượng điện nhỏ.
Nhờ những lỗ nhỏ đặc biệt trên đầu, cá mập có thể cảm nhận được dòng điện
khi nó di chuyển trong nước. Nó sử dụng khả năng tiếp điện này để tìm con mồi
mà nó muốn ăn.
Ultraviolet
To find anything that is hard to spot, use amazing reindeer sight.In the Arctic,
the camouflage of a wolf’s white fur doesn’t work on a reindeer. The reindeer’s
eyes can see ultraviolet light—light that is not visible to the human eye. Using
ultraviolet sight, the wolf looks black against the snow.
Tia cực tím
Để tìm bất cứ thứ gì khó phát hiện, hãy sử dụng thị giác tuyệt vời của tuần lộc.
Ở Bắc Cực, việc sói ngụy trang bằng bộ lông trắng không có tác dụng với tuần
lộc. Mắt tuần lộc có thể nhìn thấy tia cực tím - ánh sáng mà mắt người không
nhìn thấy được. Nhìn qua tia cực tím, con sói trông có màu đen trên nền tuyết.
Infrared
The fire-chaser beetle has the ability to find fire. This beetle looks for places
with forest fires, where it can lay its eggs safely in burnt wood.The fire-chaser
beetle has 70 sensors on its body that detect infrared radiation—the invisible
rays of heat from fire. This means the beetle can sense fire from great
distances—scientists believe more than 100 km. away!
Hồng ngoại
Bọ cánh cứng săn lửa có khả năng tìm thấy lửa. Loài bọ cánh cứng này tìm đến
những nơi có cháy rừng, nơi chúng có thể đẻ trứng an toàn trong gỗ cháy.
Bọ cánh cứng săn lửa có 70 cảm biến trên cơ thể phát hiện bức xạ hồng ngoại -
những tia nhiệt vô hình từ lửa. Điều này có nghĩa là bọ cánh cứng có thể cảm
nhận được lửa từ khoảng cách rất xa - các nhà khoa học tin rằng khoảng cách là
hơn 100 km!
Infrasonic
Infrasonic sound is low sound that is lower than humans can hear. But elephants
can hear it.Elephants are well known for their powerful hearing and use
infrasonic sound to communicate with each other. Elephants in the same family
stay in touch through infrasonic sound even when they are far away.
Hạ âm
Âm thanh hạ âm là âm thanh thấp hơn so với âm thanh con người có thể nghe
được. Nhưng loài voi lại nghe thấy.
Voi nổi tiếng với thính giác cực tốt và sử dụng âm thanh hạ âm để giao tiếp với
nhau. Những con voi trong cùng một gia đình giữ liên lạc thông qua âm thanh
hạ âm ngay cả khi chúng ở rất xa.
Echolocation
As they fly, bats make sounds which the human ear cannot hear.These sounds
echo, or bounce off of objects. The bat listens to these echoes and measures how
long it takes for the sound to bounce back. That way, it can hunt and find its
way in the dark.
Định vị bằng tiếng vang
Khi bay, dơi tạo ra âm thanh mà tai người không thể nghe thấy.
Những âm thanh này vang vọng hoặc dội lại từ các vật thể. Con dơi lắng nghe
những tiếng vang này và đo xem mất bao lâu để âm thanh dội lại. Bằng cách đó,
nó có thể săn mồi và tìm đường trong bóng tối.
Jacobson’s Organ
In the roof of a snake’s mouth is the Jacobson’s organ—a super-smelling
tool.When a snake flicks its tongue in and out, it senses chemicals in the air.
The tongue passes this information on to the Jacobson’s organ. The snake can
then tell where the smell is coming from, and what is making the smell.
Cơ quan Jacobson
Trên vòm miệng rắn là cơ quan Jacobson - một cơ quan siêu thính dùng để ngửi.
Khi một con rắn thè lưỡi và rụt lại, nó cảm nhận được các chất hóa học trong
không khí. Lưỡi chuyển thông tin này đến cơ quan Jacobson. Sau đó, con rắn có
thể biết mùi đến từ đâu và thứ gì tạo ra mùi.
Taste buds
A catfish has 100,000 taste buds all over its body (compared with a human’s
10,000).Catfish live in muddy water at the bottom of rivers and lakes. They use
their extraordinary sense of taste to find the tiny particles of food in the water
they need to survive.
Vị giác
Một con cá trê có 100.000 chồi vị giác trên khắp cơ thể (so với 10.000 chồi vị
giác ở con người).
Cá trê sống ở vùng bùn dưới đáy sông, hồ. Chúng sử dụng vị giác phi thường
của mình để tìm những mảnh vụn thức ăn trong nước mà chúng cần để tồn tại.

You might also like