Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 15

Văn chương cứu rỗi nhân loại

Văn là người! Văn chương bởi con người, cho con người và vì con người. Song văn
chương không phải là con người bằng xương bằng thịt mà văn chương là ý nghĩa, là hình
ảnh về con người. tuy vậy văn chương không chỉ là hình ảnh giống như chiếc bóng của con
người đổ xuống mặt đường, đổ lên tường vách, lên cuộc đời, mà văn là con người ở mức
cao hơn, một con người đang phóng về phía trước với dự phóng cao cả siêu việt của nó
bằng một ý chí làm người mỗi ngày một người hơn. Bởi vậy mà chữ Văn được xem xét như
là đã vượt qua chặng bán khai mọi rợ để đi vào ánh sáng minh huệ. Và khi con người đã
tiến bộ về tâm thức, tình bác ái và lối sống thì con người được xem như là đang bước vào
con đường nhân văn, nhân bản và nhân đạo. Đó là chữ VĂN, nghề VĂN trên bình diện phổ
quát, còn ở phương diện đặc thù: Văn là con người, nhưng con người của chữ nghĩa và
giáo dục và con người đó hành động vì chữ nghĩa và giáo dục.

Nhà văn là ai? Anh ta thiết yếu là con người của chữ nghĩa, bởi chữ nghĩa và cho chữ
nghĩa. Tất yếu không có nhà văn mù chữ, nhà văn tuyệt đối vô học. Khi nói nhà văn của chữ
nghĩa thì không có nghĩa là nhà văn chỉ làm cái việc:

Nghề xếp chữ ôi nghề con trẻ


Dăm câu vui đắp đổi mấy câu sầu
(Xuân Diệu)

Chữ nghĩa không phải món rêu rao làm hàng suông cho cuộc đời, hoặc đọc véo von để
phỉnh nịnh đôi tai thích nghe vần điệu, âm thanh, hoặc kích động tâm trí thích giật gân kỳ
quái của những tâm hồn nông nổi. Chữ nghĩa tự thân phải hướng đến nhiệm vụ đền trả
những bó lượm ngôn từ, kiến thức mà nó gặt hái trên cánh đồng giáo dục bằng cách gieo
trồng lại chính chữ nghĩa cho cánh đồng đó. Hơn nữa bổn phận của chữ nghĩa phải hướng
đến chân lý, công lý, và đạo lý làm người.

Văn là người. Vậy chúng ta phải hướng đến con người nào? Con người tinh khiết trong suốt
như pho tượng thánh pha lê? Hay con người trầm đục u mê trong lạc thú như động vật?
Không! Chúng ta hướng đến một con người chẳng phải thần thánh cũng chẳng phải động
vật, một con người ở giữa trần gian, một con người ở trên đất đứng giữa thế giới này, một
con người nhân loại cao cả như Kant nói: “Con người vì thuộc về nhân loại, là một cứu cánh
tự thân và không phải bị hạ xuống cấp phương tiện”.

Con người là “một cứu cánh tự thân” nghĩa là con người phải là mục đích nhắm tới chính
mình, con người là cứu cánh tối hậu của mình, là chủ nhân ông tôn vinh mình lên xứng với
nhân phẩm cao cả nhất như hình ảnh và trí tuệ của con người ở bên trên tất cả những tạo
vật khác, và con người sẽ sống với nhau - với bạn đời của mình trong sự tin cậy, bình đẳng
và nhân ái xứng đáng như thể cuộc sống là trọn vẹn cho con người và vì con người. Con
người tận hiến cho chính con người, cho xã hội của con người chứ không phải là vật thí
thân cho bất kể mục đích phi nhân bản - hoặc ngoài mục đích của con người. Lý tưởng cần
đạt đến con người chính là con người, đó là lý tưởng về một nhân loại lương hảo, công
chính, tự do, và bác ái.
Con người là cứu cánh của con người !
Con người là lý tưởng của con người !

Cứu cánh là gì? Lý tưởng là gì? Cùng đích điều đó có phải là tinh thần thăng tiến đưa thân
xác con người vào dự phóng – vào giá trị của một tâm hồn khao khát thăng hoa tuyệt đối.
Hegel đã chẳng từng nói: “Cứu cánh là cứu cánh của tinh thần”. Bởi thế khi nhắm đưa con
người vào cứu cánh, sứ mệnh của văn chương có thoát khỏi bổn phận cứu vãn linh hồn mà
Platon nhắc nhở: “Người ta hết lòng chăm sóc đến sự giầu có, danh vọng mà không để ý
đến tư tưởng, sự cứu vãn linh hồn”(Apologie). Còn ngả đường nào khác hơn nữa? Văn
chương còn định làm gì khác hơn là tham dự vào cuộc hành trình của tư tưởng và khích
khởi linh hồn? Chúng ta hãy bám sát cái sứ mệnh chữ nghĩa của văn chương, thì thấy rằng:
Chữ nghĩa chỉ là hình ảnh, là ý nghĩa cuộc đời, về cuộc đời, chứ không phải chính thực tại
cuộc đời đang phập phồng thở thứ dưỡng khí của trần gian. Đời sống văn chương là đời
sống ảo huyền hoặc của bút mực đang hành trình trên những trang giấy phi thực tại.

Nhưng văn chương là gì? Nó là hình ảnh, là biểu tượng, là quan niệm, vậy nó thiết yếu sát
cánh với đời sống suy tưởng và đời sống tinh thần. Một cuốn sách không ăn được, nhưng
nó là thức ăn để bổ dưỡng tinh thần. Tuy nhiên văn chương không phải là thứ mây ngũ sắc
phiêu lãng bồng bềnh trôi trên tận tầng trời bỏ mặc trần gian lam lũ trong những thân xác
nặng nề. Linh hồn là linh hồn khi nó thiết yếu sát cánh và cấu kết với thân xác, và trong dự
phóng cao cả của mình, nó muốn đưa đưa người anh em thể xác cật ruột của nó về cứu rỗi
nơi ngưỡng cửa mở vào trời. Đó là đời sống toàn diện của con người: linh hồn và thể xác.
Đó cũng là lẽ sống toàn diện của văn chương: cứu rỗi linh hồn và thể xác cùng một trật.
Nhưng trước hết chúng ta hãy cứu rỗi thân xác đã, bởi thân xác luôn bị dè bỉu, hạ thấp và
quên lãng như một công dân thấp cổ bé họng hay ô uế của nước tâm hồn. Trong Kinh Cựu
Ước, sách Cô-rinh-tô, Chúa Trời có phán: “Đối với bộ phận ta cho là ô nhục, ta phải săn sóc
hơn cả. Như bộ phận nhục dục chẳng hạn, ta phải chăm nom như thể vinh hạnh nhất. Còn
đối với bộ phận tự nhiên đã cao quí, thì ta không cần tôn trọng bằng”.

Thân xác phải được tôn trọng như một sáng tạo sáng láng kề cận cùng linh hồn. Vả lại trong
vương quốc cứu cánh siêu việt cao vòi vọi của linh hồn, thân xác là nền móng, nó phải được
coi sóc tận tình như một công dân chịu nhiều thiệt thòi nhất – đó cũng là bổn phận bình
đẳng và biết ơn của linh hồn, thánh Bernard nói: “Cái thiêng liêng không đi trước cái súc vật,
trái lại cái thiêng liêng chỉ đến sau, vì vậy trước khi mang hình ảnh người cõi trời, chúng ta
phải bắt đầu mang hình ảnh người cõi thế.”

Một Đức Chúa Jê-su chịu đóng đanh trên thập giá để chở mang bớt gánh nặng ô nhục của
kiếp người đầy đoạ trần gian, và Ngài hứa trở lại trong ngày tận thế để cứu vớt những công
dân của Ngài. Và nhân danh Đức Chúa Cha, Ngài đã tuyên xưng để an lòng kẻ dưới thế:
“Nước trời không phải ở trần gian này nhưng bắt đầu từ trần gian này”.

Một Đức Phật đã ngộ Niết bàn trở lại cõi phù sinh trầm luân bể khổ để cứu độ chúng sinh
còn mê muội, với một nỗi niềm day dứt rằng: “Còn một chúng sinh nào chưa thành Phật, thì
ta cũng chưa thành Phật”.
Vậy nhà văn làm gì, tham dự vào cuộc đời để cứu rỗi cuộc đời? Văn chương vì mọi người
và cho mọi người. Nhưng trước hết và mãi mãi là vậy, văn chương nhắm đến mọi người
qua từng nhịp cầu tâm hồn, từng trái tim độc giả. Văn chương trước hết là một cuộc đối
thoại với độc giả của một tâm hồn văn sĩ riêng biệt, nó là cuộc đối thoại chữ nghĩa nhân văn
của trái tim phóng rọi và trái tim hấp thụ, và ngược lại là cuộc đối thoại của những tia sáng
phản tỉnh - độc giả với tâm thức tiếp thâu của nhà văn.

Nhưng mà khởi đầu văn học cứu rỗi ai? Berger nói: “Văn chương bao giờ cũng là một nỗ
lực giải phóng cá nhân”.

Đây là nền tảng đầu tiên, và ít nhất nếu bạn muốn phản đối điều đó, thì bạn cũng nên chấp
nhận nó như bước khởi đầu sáng tạo của bản ngã nhà văn.

Nhà văn là ai?

Trước hết anh phải là anh đã, nghĩa là anh phải mang lấy bản ngã của mình như một tác giả
có bản ngã riêng biệt, và từ bản ngã ấy anh mới hình thành lên tác phẩm với những nhân
vật của mình. Cái bản ngã của anh để xác định rằng: tác phẩm là của anh, tư tưởng tác
phẩm là của anh, bút pháp là của anh.

Nhà văn sáng tạo trước hết là bởi mình, qua mình, sau đó mới từ mình phóng rọi đến độc
giả thị kiến của mình. Tác phẩm của nhà văn chỉ là một bức thư nhiều trang đời ấp ủ của tác
giả gửi đến người tình : bạn đọc. Simenon nói: “Viết lách không phải là một nghề nghiệp mà
là một khuynh hướng về bất hạnh.

Tại sao vậy? ... Nếu một người có nhu cầu thúc bách phải trở thành nghệ sĩ bởi vì hắn cần
tìm kiếm mình qua những nhân vật của hắn, qua tất cả các tác phẩm của hắn” (1).

Nhà văn là bản ngã của mình, bởi lẽ nhà văn có bổn phận phải mang lấy danh tác giả của
mình, nhà văn hứng lấy cuộc thăng trầm khốc liệt của thời gian, đón nhận vinh quang của
giới bạn đọc, cũng như búa rìu từ tứ phía của công luận. Nhà văn mang lấy tên mình, anh
không trốn nổi khỏi bản ngã của mình cũng như không thể nào biệt xứ khỏi thân phận văn
chương của mình. Và khi nhà văn muốn cứu rỗi mình như cứu rỗi một bản ngã đầu tiên trên
thế giới cũng là lẽ đương nhiên và chính đáng. Sartre đã trình bày cuộc cứu rỗi bản ngã bế
tắc của mình như: “Về sau tôi đã trình bày vui vẻ rằng con người thật là bế tắc, tôi đây cũng
bế tắc, nhưng tôi khác người ở chỗ tôi có sứ mệnh tuyên bố sự bế tắc ấy ra, nhờ đó sự bế
tắc này được biến hình, trở thành khả thể thâm sâu nhất của tôi, bàn đạp cho vinh dự của
tôi” (2).

Sự giải thoát bế tắc của nhà văn được xem như nỗ lực đầu tiên để biến cải và đào luyện
chính mình trở thành một tiềm năng với khả thể thâm sâu nhất. Nhà văn mang trọng trách
như một ngọn đèn muốn phóng rọi vào tinh thần nhân loại ánh sáng nhân văn tự bản ngã
của mình, bởi thế việc đầu tiên của nhà văn là phải trải nghiệm thử thách và biết tự đào
luyện mình trở thành một bản ngã ưu tú và riêng có, như vậy mới mong toả sáng hay tham
dự vào cuộc dấn thân cứu rỗi con người một cách xứng đáng nhất. Bởi vậy, trước sáng tạo,
trước sự toả rọi của tia chiếu sáng tạo cần đào luyện, cứu rỗi chính bản ngã sáng tạo của
mình. Thích Minh Châu nói: “ Chỉ có một cuộc cách mạng quan trọng và có ý nghĩa, đó là
cuộc cách mạng nội tâm của cá thể sáng tạo. Cách mạng nội tâm là cuộc cách mạng của ý
thức, của tư tưởng toàn diện con người” (3)

Sau cuộc cách mạng nội tâm bùng nổ, cá thể sáng tạo phải lên đường, lên đường thực hiện
sứ mệnh của mình bởi một lẽ vô cùng hiển nhiên là mọi đời sống đều phải thực hiện cứu
cánh của nó, và mọi năng lực đều nhắm tới sự giải thoát toàn diện con người khỏi đời sống
gian truân còn hằn sâu dấu vết đoạ đầy. Con người như một Odyssey dũng lược muốn chủ
động bước vào cuộc hành trình gian nan trắc trở mong tìm về quê hương, chốn hạnh phúc
của mình, chứ không chịu há miệng chờ sung đón đợi ân sủng cứu rỗi từ thiên thai
Ô-lanh-pơ rót xuống, mà trước hết con người muốn tự cứu rỗi lấy mình bằng chính hành
động của mình. Sartre đã nói: “Có Chúa hay không có Chúa, cũng vậy thôi, con người vẫn
phải tự cứu rỗi lấy mình”.

Bạn có nghĩ rằng sẽ có một Thiên Chúa mặc áo cho bạn không? Có một Thiên Chúa bón
mớm cho bạn không? Không! Thiên Chúa cho chúng ta hoa hồng, chúng ta hãy chịu khó
trưng cất lấy nước hoa cho đời sống của mình. Có một châm ngôn là: “Thiên Chúa tạo dựng
vũ trụ, còn con người tạo dựng những quốc gia của mình”. Bạn thử nghĩ xem, nếu như có
một Thiên Chúa toàn năng đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không muốn cất khỏi vai con người
gánh nặng phải tự đào luyện lấy mình, mà ngược lại Thiên Chúa còn đổ thêm xuống đầu
con người những gian nan đầy thử thách, những nẻo đường chông gai, những nạn hồng
thuỷ, những núi lửa, những động đất... để thử sức xem con người có ngã lòng? Không! Dù
thế nào đi nữa, con người luôn phải xây lấy diện mạo của mình, xây lên đất đứng của mình,
và xây nên lịch sử của mình. Đó là sự nghiệp của con người, một sự nghiệp bất khả từ thác
trách nhiệm khi con người phải mang lấy sứ mệnh làm người.

Song con người không chỉ thiết kế thế giới của mình bằng những thành phố, hệ thống dẫn
nước, bến cảng, đường bộ, và đường sắt, mà nhiệm vụ tối cao hơn của con người là phải
xây lên giá trị của tâm hồn sao cho nó xứng danh phẩm giá của con người. Bởi vậy khi xây
dựng thế giới, cùng một trật hãy xây dựng linh hồn, cũng vậy khi khôi phục thế giới hãy khôi
phục linh hồn. Gagnon nói một câu theo tinh thần Kinh Thánh: “Khôi phục cả thiên hạ mà
đánh mất linh hồn nào có ích gì”.

Xây dựng giá trị linh hồn! Tái thiết giá trị linh hồn! Khôi phục giá trị linh hồn! Cứu chuộc linh
hồn! Cứu rỗi linh hồn! Đó phải là cứu cánh cao cả của tất cả các cây bút nhân văn.

Bạn là nhà văn, bạn muốn làm gì hơn nữa? Cây bút của bạn có đào được kênh, có xây
được móng, có lợp được mái hay không?

Không! Sứ mệnh của bạn là tham gia vào việc cứu rỗi và gìn giữ tâm hồn nhân loại. Và
muốn làm được việc đó, trước hết bạn phải trở nên một ngọn đèn sáng láng đã. Tagore nói:
“Không bao giờ một ngọn đèn đã tắt có thể thắp sáng một ngọn đèn khác” ( Jamais une
lampe eteinte n’a pu en allumer une autre).

2. Đào luyện bản ngã - Tự do


Nhà văn trước hết là một cá nhân độc lập, một bản ngã đặc thù. Nghĩa là anh phải là anh
đã: anh là tài năng của anh, là trách nhiệm của anh, là vinh quang của anh, và cả sự thiếu
hụt của anh. Khi anh xây xong bản ngã đích thực phong phú cho mình, thì anh mới mong
nhân danh chính mình để tuyên xưng hay loan báo những thị kiến của mình cho bạn đọc.
Thánh Gandhi nói: “Người nào có khả năng trở thành một cá nhân mới có thể hoà hợp với
nhân loại” ( Ce qui est possible pour un individu est possible pour l’ensemble de l’humanite’ )
(1).

Muốn trở thành một cá nhân, anh phải quay mặt vào tâm hồn mình để nhìn nhận chính mình
như cách mà Socrate đã làm “connais toi- toi même” – Hãy tự hiểu mình! Như vậy anh phải
trở thành ốc đảo cô độc tự xây lấy giá trị cho mình bằng cách phản tỉnh chính tâm hồn mình,
tự đào luyện tri thức cho thông tuệ, nuôi dưỡng tình cảm cho dạt dào bằng ngả đường bản
ngã của mình. Anh hãy xác định: bản ngã của anh là độc lập! Ngòi bút của anh là cô đơn!
Lời tâm sự thổn thức của con tim anh với độc giả là riêng rẽ! Sáng tạo tinh thần của anh là
biệt lập với những lối mòn mà kẻ khác đã vãng lai tam phiên tứ hồi! Và nếu nhà văn không
chịu trở nên cái anh ta là, thì anh chẳng có bất cứ hành trang nào để mong khai sinh sáng
tạo. Anh hãy nghe lời tuyên cáo của chính Karl Marx: “Tư tưởng và hành động nhất loạt,
chẳng qua chỉ là tin tưởng mù quáng và thừa lệnh một cách thụ động như xác chết” (theo
Allians der Sozialisstischen – Die Zeit 9/3/1962).

Nhà văn không có bản ngã chỉ là cái xác chết mấp máy lời hấp hối của chiếc máy ghi âm
sinh học, anh ta sẽ chẳng có lấy một cái tôi để đặt tên mình là tác giả.

Chẳng còn cách nào khác, bạn phải tự xây lên bạn. Và không còn cách nào tốt hơn cho một
ngòi bút là khơi chảy ngọn nguồn chân lý bằng chính cái bản ngã tác giả đang khát khao
chân lý. Hãy trở nên chân lý về mình! Đó là con đường chính đáng mà một Shakespeare ,
một Dostoievski, một Albert Camus, một Jack London... đã từng làm. Muốn trở nên chân lý
về mình bạn hãy bắt đầu bằng cách: “Chỉ có một điều duy nhất quan trọng là mỗi người phải
dám nhìn thẳng vào bộ mặt thực của chính mình, tự hỏi mình có lường gạt mình bằng con
đường tinh vi” (Thích Minh Châu)(2).

Sau khi nhà văn đã trở nên chân lý về mình, khởi từ giá trị đích thực nơi mình, anh bắt đầu
sự nghiệp như một chân tác giả, và anh viết những lời, những trang sách cho tác phẩm
mang lấy chân giá trị, chân thẩm mỹ, những tư tưởng và tình cảm trăn trở đích thực. Và khi
mà anh đã trở thành một ngọn đèn sáng tỏ rồi, nào bây giờ anh hãy thắp sáng cho những
ngọn đèn khác!

Thắp sáng người khác! Còn gì đáng ao ước hơn thế! Còn gì hạnh phúc hơn thế! Bởi thế
anh hãy tham gia vào việc đánh thức kẻ khác. Anh hãy nghe Henry Miller: “Đối với tôi,
những nhà cách mạng đích thực duy nhất là những kẻ đánh thức kẻ khác, những yếu nhân
như Jê-su, Lão Tử, Đức Phật Thích Ca, Ahhanato, Ramakrisna, Krisnamurti. Tiêu chuẩn tôi
dùng là cuộc đời: những người đó đứng thế nào trong tương quan với cuộc đời. Chẳng phải
họ đã thành công trong việc lật đổ một chính phủ, một tôn giáo hay một nguyên tắc luân lý...
Đúng hơn là họ ảnh hưởng đến cuộc đời như thế nào” (3).
Nhà văn thiết yếu là nhà văn của bạn đọc. Không có nhà văn cho riêng mình - thứ nhà văn
khoá cửa trùm chăn trước cuộc đời. Bởi vậy, sau khát vọng hoá giải cứu rỗi chính mình, sự
nghiệp của nhà văn thiết yếu phải hướng đến tha nhân và nhân loại. Dostoievski đã từng nói
một câu đầy da diết: “Nếu tất cả không được cứu rỗi, một mình được cứu rỗi mà làm gì”.

Nhà văn không cứu rỗi cho riêng mình, anh phải mang lấy sứ mệnh tinh thần của văn nhân:
cứu rỗi người khác. Nhà văn không viết văn cho riêng mình đọc, anh phải viết cho độc giả
và vì độc giả của mình. Văn chương chỉ có nổi ý nghĩa và có nổi một chỗ đứng ở đời bởi vì
nó tham dự vào cuộc đời như một nỗ lực cống hiến trái tim, khối óc của nhà văn; bởi nếu
văn chương không làm được gì hơn là phun châu nhả ngọc những ngôn từ phù phiếm véo
von vô bổ, thì văn chương quả là thứ xa xỉ vô ích vì nó chẳng mang lại được hiệu ứng thiết
thực như mỹ phẩm son phấn của các quí bà quí cô. Henry Miller nói: “Đừng băn khoăn về
văn chương ( Don’t worry about literature). Nếu chúng ta có thể làm được việc gì khác thay
vì văn chương thì hãy làm cái việc khác đấy” (4).

Nhưng nhà văn không làm việc gì khác hơn là vun đắp cho sự nghiệp văn chương của mình
mỗi ngày một đồ sộ ý nghĩa tận hiến cho đời sống, bởi văn chương cao cả hơn nhiều việc
hát ru những ngôn từ sáo rỗng. William Faulkner đã nói về sứ mệnh của văn chương như
sau: “Nghệ thuật thông thường là kích thích mãnh liệt cuộc đời, một nỗi say sưa cuộc
đời”(5).

Nhà văn là người thổi sinh khí vào đời sống bằng cách kêu gọi đào luyện một ý chí sống cao
thượng quả cảm. Nhà văn không phải kẻ ru ngủ đời sống trong lạc thú và mê muội. Song
sinh khí mà nhà văn muốn thổi cho đời sống không phải thứ sinh khí cứu chuộc của Đấng
trên cao, mà là thứ sinh khí của trần gian tha thiết còn khổ ải, bầm dập, nhức nhối này – đó
là thứ sinh khí của chính con người đang đi trên mặt đất muốn cứu rỗi và thánh hoá ngay
dưới cõi thế này. Bởi vậy, sứ mệnh của nhà văn là sứ mệnh ở trong đời sống, giữa đời sống
và dưới trần gian - một sứ mệnh gạn đục khơi trong ngay ở giữa cuộc đời còn vẩn đầy bất
công, đau khổ và bệnh họan. Trước hết văn chương hãy “xuống thế” và sống “dưới thế”,
thánh Gioan Climaque nói: “Người nào hướng nhiều về sự dâm dục là người hay thương
xót, trái lại những kẻ hướng nhiều về sự tinh khiết không biết tin yêu”.

3. Cứu rỗi tha nhân, cuộc đời

Văn là người! Văn chương là cuộc đời!

Bởi thế trước hết nhà văn sống như một con người bình dị, anh tham gia vào cuộc sống tại
thế để xây dựng, gạn lọc và cứu rỗi đời sống tại thế bằng chính ngòi bút của mình. Andre’
Gide nói: “Sự sai lầm vĩ đại là tìm cách đặt cuộc đời bên ngoài tác phẩm”(5). Còn Henry
Miller thì khẳng định: “Với tôi sách vở là con người, và cuốn sách của tôi là chính con người
toi, dâm đãng, hiếu động, trầm tư, thận trọng, dối trá và thành thực một cách quỉ quái” (
Song of my life ).

Để cứu rỗi cuộc đời trước hết hãy sống cuộc đời toàn vẹn đã. Để cứu rỗi linh hồn trước hết
hãy cứu rỗi thân xác đã. Để cứu rỗi vũ trụ trước hết hãy cứu rỗi trần gian này đã. Peguy nói:
“Cái thiêng liêng cũng là xác thịt... phúc cho những kẻ chết vì đất thịt này” ( Heureux ceux
qui sont morts pour la terre charnelle). Và một Pascal cũng đặt công cuộc cứu rỗi con người
vào cuộc hành trình tuần tự từ động vật đến thần thánh, ông nói: “ Con người không phải là
thần thánh cũng không phải là súc vật, nhưng sự bất hạnh muốn rằng kẻ nào muốn làm
thần thánh sẽ làm súc vật” (L’ homme n’est ni ange. Ni bete, et le malheur veut que qui veut
faire l’ange fait la bete).

Con người là con người sống giữa cuộc đời, và ở giữa đời sống nhà văn tìm thấy tha nhân
và xã hội, anh sẽ tham dự vào sự nghiệp chung của loài người bằng con người tác giả của
mình, Sartre nói: “Không phải trú ẩn ở một nơi nào đó mà chúng ta khám phá ra chúng ta,
nhưng là trên đường đi, trong thành phố, ở giữa đám đông, là sự vật ở giữa sự vật, làm
người giữa mọi người.”

Khi sống cùng mọi người, nhà văn đối thoại với tha nhân, tìm kiếm tha nhân, kết ước với tha
nhân, và anh bắt tay vào sự nghiệp của mình: “Nâng đỡ con người và khuyến khích con
người trong cuộc chiến đấu để sinh tồn và thường tồn ghê gớm này là thiên chức của nhà
văn.

Nhà văn không được chiều theo yếu đuối và sa đoạ của con người, không thể có một thứ
nghệ thuật hư vô, không thể có một thứ nghệ thuật đòi chết. Không thể có một thứ nghệ
thuật bi quan. Nghệ thuật bao giờ cũng phải khẳng định” (W. Faulkner) (6).

Muốn cứu rỗi cuộc đời, trước hết nghệ thuật phải đòi sống, nghệ thuật phải khẳng định ý chí
sống của mình. Nietzsche: “Không có nghệ thuật bi quan... nghệ thuật tự khẳng định” (Il n’ y
a pas d’art pessimist ... l’art affirme. Volonte’ de puissance).

Nhà văn phải khẳng định sức sống, giá trị đời sống bằng sứ mệnh nghệ thuật của mình
nhưng mà theo chiều hướng cứu rỗi – nâng cao – thánh hoá đời sống, chứ không phải đòi
cho đời sống cái quyền tồn tại ù lỳ sự bất dịch hay vắng bóng một cứu cánh cao viễn hướng
về miền đất hứa.

“Nhà văn không được nói về cô đơn, hắn phải nói về cô đơn và sức mạnh. Nhà văn không
được nói về đau khổ, hắn phải nói về đau khổ cao quí và giải thoát. Nghĩa là hắn phải trình
bày ‘cuộc đời toàn diện’. Và hắn không được nói về trái cật thay vì trái tim, hắn phải nói về
trái cật để bổ túc trái tim. Hắn không được nói về tình dục thay về tình yêu. Hắn phải nói về
tình dục để bổ trợ tình yêu. Hắn không được nói về sa đoạ thay vì thánh thiện. Hắn phải nói
về sa đoạ như một cám dỗ thánh thiện và như một bước đầu trưởng thành. Nghĩa là hắn
phải nói về con người toàn diện vậy” ( W. Faulkner) (7).

Nhà văn như một đại diện cao quí của sứ mệnh xướng ngôn tiếng nói con người về cuộc
đời. Nhà văn phải dùng tiếng nói của mình để hoà sắc cùng tiếng nói con người mỗi ngày
thêm phong phú, dạt dào và sâu sắc. Nhà văn phải viết để trợ giúp con người vượt qua
những khúc mắc gian khó của cuộc đời bước vào con đường thánh thiện. Và cuối cùng nhà
văn hãy ca tụng sự nghiệp vượt thắng bước về thánh thiện của linh hồn con người bất khuất
và cao cả.
W. Faulkner nói: “Con người bất tử, không phải vì giữa muôn sinh vật một mình nó có tiếng
nói không thể dập tắt được mà bởi vì nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng bác ái
và hy sinh chịu đựng. Bổn phận của thi sĩ, của nhà văn là viết về những điều này. Đặc ân
của hắn là giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn con người” (8).

4. Văn chương dấn thân chân lý

Nhà văn phải có được một bản ngã tác giả. Bản ngã đó trước hết là độc lập, đứng riêng rẽ
và tự tồn. Khi có một bản ngã tự tồn thì lập tức ý thức tự do – cái ý thức mẹ đẻ của sáng tạo
mới nảy sinh. Không có tự do, theo Karl Marx thì con người chỉ thừa lệnh một cách thụ
động. Một thụ sinh không bao giờ có thể sản sinh sáng tạo. Sáng tạo buộc phải là tạo phẩm
của một chủ nhân ông có được tự do, tự do đó làm nên và qui định rằng: tác phẩm đã được
hun đúc và thành quả theo đúng dự phóng và lao động của kiến trúc sư – cha đẻ tác phẩm.
Bởi vậy, khi nhà văn xây lên bản ngã tự tại của mình, cùng lúc anh xây lên tự do đầu tiên để
tự nguyện dấn thân vào sự nghiệp sáng tạo. Mounier nói: “Tôi chỉ tạo vận mệnh cho tôi khi
tôi dùng tự do của tôi với những phản kháng”.

Tự do làm nên vận mệnh, bởi lẽ tự do là khởi điểm đưa tác giả vào cuộc lựa chọn trước
cuộc hành trình sáng tạo, một sáng tạo của tác giả chứ không phải thứ bản sao hay dập
khuôn người khác. Kierkegaard nói: “Tồn tại đối với con người đó là hữu tự do và trách
nhiệm, đó là hữu lựa chọn và dấn thân” ( Exister, pour l’homme, c’est etre libre et
responsable, c’est choisir s’engager ) (1).

Khi có tự do con người chân chính lựa chọn thái độ dấn thân chủ động; kẻ bạo ngược lười
nhác lựa chọn thái độ bị động, cơ hội, vui đâu chầu đấy để kiếm chác. Nhà văn chân chính
không lựa chọn thái độ bị động vì anh không muốn là thụ sinh, là phù sinh cho chính tác
phẩm của mình. Nhà văn chân chính muốn trở thành cha đẻ đích thực cho tác phẩm của
mình, muốn vậy anh hãy bắt tay vào. Kinh Gita có câu: “Đừng để cho ý niệm của nhà ngươi
trở thành hậu quả của hành động và cũng đừng đắm mình vào con đường thụ động”.

Nhà văn với sứ mệnh nhân văn của mình, sứ mệnh mong nâng cao tâm hồn con người như
một cứu rỗi thánh thiện không thể có mặt ở đời như một đoá phù du đua sắc hớn hở mong
mời gọi những ánh mắt ham vui nông nổi của cuộc đời; trái lại nhà văn đến như một kẻ trợ
lực tâm hồn nhân loại, và để làm được điều đó anh hãy tận hiến như những con người chân
chính nhất. Nhà văn, nghề văn, viết văn không phải là món nghề mong vừa kiếm được tiền
một cách sạch sẽ vừa ấn loát được tên tuổi mình một cách đại trà để vinh danh trên sách
báo. Nhà văn khi bước vào nghề, cũng như một con người chân chính khi có mặt ở đời thì
phải luôn tâm niệm rằng: “Con người đã không đến để được cung phụng, song để phục vụ
và hiến sinh mạng mình làm giá cứu chuộc nhiều người” ( Tân Ước, Kinh Matheus).

Nhưng nhà văn đến để phụng hiến cuộc đời như thế nào? Anh có viết về những tấm lụa
đang sột soạt triền miên trên da thịt để móc túi những kẻ chỉ quen chìm ngập trong lạc thú
hay không? Anh có viết về những chiêu võ độc hại, những quyền cước, những đầu rơi máu
chảy như là bản năng thích bạo hành của con người hay không? Anh có viết để biến dạng
chân lý vì những đồng tiền bố thí của kẻ giầu có hay không? Anh có viết như thể ngòi bút
mảnh dẻ lông ngỗng của anh phải vào hùa với đao búa của kẻ mạnh để ức hiếp kẻ yếu hèn
? Không! Chắc hẳn đó không phải là cách viết của một nhà văn chân chính. Muốn phụng
hiến cuộc đời, nhà văn trước hết phải “xuống tầu” đã, phải bắt tay vào chính cuộc đời còn
đầy nhọc nhằn cát bụi này. Lacroix nói: “Cần biết hoà vào nhơ bẩn để tẩy rửa nó”.

Đây cũng là một ý tưởng dấn thân hết sức triệt để mà Sartre cũng bày tỏ rốt ráod trong cuốn
“Những bàn tay bẩn” ( Les maines sales). Và cụm từ “bàn tay bẩn” đã trở nên khá quen
thuộc và gây nên một ý niệm định hình về cuộc dấn thân khá phổ quát trong giới văn bút.
Theo đó thì ý tưởng của Sartre là: tôi căm thù những bàn tay sạch bởi chúng vô can lãnh
cảm trước cuộc đời. Và tôi yêu những bàn tay bẩn, những bàn tay bắt vào công cuộc dọn
dẹp cuộc đời.

Quả vậy! Bàn tay sạch là bàn tay của những kẻ ăn trên ngồi trốc , bàn tay của cậu ấm cô
chiêu hay bàn tay của mấy ả đào kép – bán bar lúc nào cũng sửa sang tinh tươm xanh xanh
đỏ đỏ. Còn bàn tay của những người cần lao, những người có trách nhiệm thu dọn tẩy uế
cuộc đời, những người thợ gốm sáng tạo đang nhào đất nung sành sứ thì phải lấm lem. Đó
là thái độ cần lao tích cực trước cuộc đời. Tuy nhiên, thực tế đây đó hoặc nơi nơi vẫn còn
nhan nhản những kẻ bước vào cuộc đời thủng thẳng như đi dạo chốn ăn chơi hưởng lạc
của trần gian. Và cũng không thiếu cây bút sống như vậy, họ sống như những tao nhân mặc
khách đến cưỡi ngựa xem hoa cuộc đời. Văn học thi ca lúc ấy chỉ là thứ uống rượu làm thơ,
là thứ để đọc đọc, ngâm ngâm, thù thù, tạc tạc. Với họ văn chương chỉ là một mảnh đất
sạch sẽ tươi mát để kiếm chác tiền bạc và danh vọng giữa cuộc đời còn khổ luỵ này.

Không! Một nhà văn chân chính không làm như vậy! Không viết như vậy! Nhà văn chân
chính phải là kẻ đi tiên phong trên trường chữ nghĩa – giáo dục và tư tưởng con người. Như
một Dostoievski khắc khoải trăn trở trong luồng gió cải cách tinh thần của một nước Nga to
xác khổng lồ lạc hậu đang trở mình hốt hoảng xung đột và sợ hãi; như một Tagore chia xẻ
lòng mình với sự nghiệp đòi độc lập của dân tộc Ấn Độ khao khát tự do; như một Jack
London lần theo những dấu chân dẫm lên bùn tuyết gian truân của những tay đào vàng đi
tìm kiếm tài nguyên cho nước Mỹ trong những ngày khai quốc; như một Albert Camus chia
xẻ nổi đau đớn của kiếp người trong “Dịch hạch”; như một Geoghiu Virgille gào thảm thiết
khúc bi sầu đẫm máu của súng liên thanh, xe tăng, trọng pháo, hàng rào kẽm gai của Đại
chiến thế giới hai; như một Jean Paul Sartre gào la thống khổ cho sự đổ nát về vật chất và
tinh thần của một thế giới đang tuyệt vọng trong và sau thảm hoạ chiến tranh thế giới hai.

Nhà văn, thi sĩ là những kẻ sáng tạo, vậy anh phải đi vào lãnh địa hoang vu chưa từng ai
biết đến để sáng tạo ra dấu vết của mình. Hơn nữa như một kẻ tiên phong can trường nhất,
sáng tạo của nhà văn phải vượt lên những bước tiên phong của con người xã hội, chứ nhà
văn không phải thợ cày chỉ quen mui sống trên những mảnh đất gieo trồng đã quen thuộc
mong được nhàn nhã an phận khi gặt hái, chẳng cần mệt nhọc. Bởi thế không có nhà văn
thích lui về địa hạt quen hơi bén tiếng đã rào chắn củng cố kỹ càng uy danh của mình như:
tôi là nhà văn viết về mỏ, tôi là nhà văn của những mảnh đất huê lợi phần trăm, tôi là nhà
văn của chiiến sĩ... Không! Con người là con người toàn diện, là con người mang lấy muôn
ngàn diện mạo về con người, thậm chí mang cả diện mạo phi con người, vậy văn chương
không phải nỗ lực mô tả những khuôn mặt nhẵn lỳ sự quen thuộc , càng không phải là cuộc
lui về cố thủ trong khuôn viên đã mòn gót chân sáng tạo.
Sáng tạo đòi luôn luôn mới mẻ, bởi sáng tạo là phép lạ của cái mới. Và nhà văn chỉ cao quí
khi anh vượt lên với tư tưởng tiền phong sáng láng của mình mong hướng đạo tâm hồn
nhân loại. Hãy làm như một Dostoievski, một Jack London đã từng làm. Hãy làm như nền
văn học Pháp đã cố xây lấy diện mạo của mình bằng cuộc cách mạng cắt đi cuống nhau
của nền văn hoá mẹ đẻ Latin đã từng nuôi ẵm mình hàng chục thế kỷ. Hãy làm theo tấm
gương của những nhà văn tiền bối Việt Nam ở thế hệ “khai sáng” mở cửa đầu tiên với thế
giới, họ đã cố gắng thoát thai khỏi đồng quê bùn lầy lạc hậu trong chuỗi thời gian thế kỷ để
lao đến ngoại vi của một ánh sáng thành thị còn đang ngỡ ngàng bật lên những ngọn đèn
đầu tiên.

Đối với nhà văn, sứ mệnh dấn thân hay tiền phong của anh không nằm ở chỗ: anh sẽ tìm
cách nổi danh thế nào? Tác phẩm của anh sẽ in bao nhiêu? Anh sẽ thu được bao nhiêu
tiền? Anh sẽ giữ chức gì? Chúng ta thử ngẫm: những cuốn sách của Aristote chẳng có mấy
người đọc nổi nhưng nó đã truyền vào não trạng loài người trên 2000 năm rồi mà vẫn chẳng
hề suy giảm ánh sáng truyền bá thông thái của nó; nó là cuốn sách “bà mẹ vĩ đại”, và con
người chẳng thể nào thống kê nổi cuốn sách đã đẻ ra bao nhiêu cuốn sách khác? Thuyết
tương đối của Einstein có mấy người hiểu nhưng nó đã trùm một cái bóng lồng lộng lên
cuộc đời như thế nào, ai có thể lượng giá nổi nó? Sứ mệnh cứu rỗi loài người của Đức Phật
Thích Ca cùng đích chỉ là giác ngộ đưa chúng sinh vào con đường viên giác thế giới - một
thế giới như chân lý về nó và cho nó.

Nhà văn cũng vậy, sứ mệnh cao cả nhất của anh là hướng đích chân lý để lôi cuốn tâm hồn
bạn đọc. Chỉ có vậy là cao cả! Và cũng chỉ chừng ấy thôi đã quá đủ rồi. Henry miller nói: “
Thi sĩ có ích lợi gì trừ khi hắn đạt đến viễn tưởng về cuộc đời, trừ khi hắn sẵn sàng hy sinh
cuộc đời để chứng minh chân lý và vẻ rực rỡ của thị kiến hắn”(2).

Nếu nhà văn không viết cho chân lý thì hắn sẽ viết cái gì? Chẳng lẽ hắn muốn viết về một
cuộc đời méo mó, một cuộc đời tô son trát phấn cho thực tại còn đầy ngang trái bệnh hoạn
đang cần cứu rỗi. Không! Sứ mệnh của nhà văn là cứu rỗi cuộc đời, là giúp con người sống
chân lý, chứ văn chương không phải sứ mệnh của một cửa hàng uốn tóc lo sửa móng bôi
son cho cuộc đời. Simenon nói: “Tôi nghĩ tiểu thuyết gia có bổn phận phải trình bày con
người đích thực chứ không phải con người của tuyên truyền” (3).

Nhà văn viết cho chân lý! Bởi vì chẳng có sứ mệnh nào cao cả hơn là sứ mệnh chân lý. Nhà
văn dấn thân cho chân lý, và cuối cùng cây bút của nhà văn là cây bút tận hiến đến tận cùng
con đường chân lý của mình. Và nhà văn hãy lắng nghe niềm hoan hỉ say sưa vô bờ của
mình khi anh bước đi và hướng cùng đích con đường chân lý: “Cuối cùng thì sự thật sẽ
thắng... nhưng sự thật không thể thắng nếu chúng ta không có niềm tin không gì lay chuyển
nổi, một lòng kiên nhẫn tột cùng” ( Gandhi ).

Nhưng nhà văn dấn thân cho đời sống chân lý thế nào? Có phải nhà văn xoay sở làm tất cả
mọi việc để mong nhìn thấy một xã hội tiến bộ? Không! Tốt hơn hết bạn hãy viết văn đi! Và
bạn hãy nghe lời khuyên thành thật của thánh Gandhi: “Lòng tận hiến càng thuần khiết thì
công cuộc tiến bộ càng tiến nhanh”.
Bạn là nhà văn, bạn có định sáng tác một chút nhạc để có tên nhạc sĩ? Bạn có định vẽ một
chút để thành hoạ sĩ không? Bạn có định ngâm nga một vài vần điệu để thành thi sĩ
không?... Hoặc giả bạn có định viết một chuyện cho tháng năm để kiếm ít gạo mùa vừa gặt,
hay một chùm thơ vào tháng chạp để kiếm ít nếp chiêm để giành đến tết? Không ! Chỉ có
một con đường giành riêng cho bạn, con đường văn học! Bạn hãy viết văn như thể mang
lấy sự nghiệp văn duy nhất! Đó là sự nghiệp, là sứ mệnh cầm bút riêng có của bạn.

Khi thánh Gandhi nói phải tận hiến một cách thuần khiết là nhân danh chính những kinh
nghiệm đấu tranh của ông. Chính nhờ kiên gan theo đuổi sự nghiệp bất bạo động của mình,
ông đã đưa dân tộc vào con đường độc lập đầy nhân bản. Khi thánh Gandhi tổ chức một
cuộc biểu tình mới, có một số người vì quá khích đã mang theo vũ khí bằng cách tin tưởng
rằng họ có thể đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi một cách nhanh chóng hơn bằng cả hai thủ
đoạn: bất bạo động và bạo động. Khi biết tin đó thánh Gandhi đã dẹp cuộc biểu tình đi, ông
nói: “Vấn đề chính yếu không phải chỉ giành độc lập cho Ấn Độ, mà đào luyện cho dân tộc
một phẩm giá tự tại để xứng đáng sống trong độc lập”.

Đúng vậy, một dân tộc nếu không mang một phẩm chất kiêu hùng tự trọng, thì dân tộc đó
mãi mãi chỉ là một tâm hồn nô lệ dù đang ở trên mảnh đất đã rào chắn kỹ của mình.

Phấn đấu vì một tinh thần thuần khiết, đó là một kinh nghiệm đã mở màn rất sớm từ buổi
bình minh của lịch sử trí tuệ nhân loại. Đó là cách mà hàng loạt triết gia, học giả chân đi dép
cỏ, vận những tấm vải quây lấy thân mình một cách lượt thượt giản dị, những Thale,
Anximander, Pythagore, Heraclite, Socrate, Platon, Aristote, Lão Tử, Trang Tử... đã làm. Tại
sao những con người ấy có thể thành công trong sự nghiệp thông thái của mình? Có phải vì
họ biết sống trong điều kiện thanh thản để suy tưởng nghiền ngẫm những ý tưởng còn đang
thai nghén, và họ tự do trao đổi, tranh luận để tìm ra chân lý. Chính vì được trải nghiệm một
xã hội khá lý tưởng mà các triết gia cổ đại cho rằng: Một xã hội chỉ tiến bộ khi mọi người
được tạo điều kiện thoải mái để suy tưởng cũng như hành động theo suy tưởng đặc thù tối
ưu của mình.

Các học giả phải suy tư trong tinh thần thuần khiết! Đó là phương châm của những đại học
giả Hy Lạp. Và họ đã tạo dựng những giá trị nào cho thế giới thì bạn cũng đã thấy rồi. Ngày
nay đến lượt thời đại của chúng ta, đến lượt chúng ta, chúng ta có định theo đuổi một sự
nghiệp tinh thần thuần khiết hay không? Hay chúng ta có cách nào khác hơn để đạt đến sự
thông thái bằng cách tổ hợp những ý tưởng còn đang vụn vặt để nhào nặn món thập cẩm
cho trí tuệ của mình? Bạn có tin những dải đất hỗn tạp nửa bùn nửa đá có thể xây lên
những đỉnh non sừng sững hoặc cùng lắm chúng chỉ tụ thành những dải đồi bé mọn lúp xúp
lô nhô? Còn những đỉnh non cao vòi vọi chọc thủng những tầng mây kia, dãy Alpe, dãy
Hymalaya phải chăng chúng không được chất lên từ đá tuyền tinh khiết nhất?

Những phiến đá tinh khiết nhất đã xây lên những đỉnh cao sừng sững nhất! Còn những viên
đá tổ ong làm nên những đỉnh non có bõ bèn gì! Bởi vậy bạn hãy theo đuổi sự thuần khiết,
đó cũng chính là ý chí cháy bỏng mãnh liệt của bạn mà ý chí thì chẳng bao giờ hỗn tạp. Bạn
hãy noi gương con đường của thánh Gandhi: “Sự thuần khiết về phương tiện phải ngang
bằng với sự thuần khiết về cứu cánh” ( La purete’ des moyens doit egaler la purete’ de la fin”
(4).
5. Văn chương tận hiến thì cũng tận thu

Con người tạo dựng nên xã hội và quốc gia của mình. Bởi vậy, khi bạn tự cứu rỗi lấy mình
không phải bạn chỉ mong mình bạn được giải thoát và sung sướng, mà bạn đang tham dự
vào sự nghiệp cứu rỗi con người nói chung - bởi chính bạn là một con người. Tuy vậy sự
cứu rỗi của bạn còn phải hướng đến hay rọi sáng vào xã hội, ở đó bạn mong ước xây lên
một bầu không khí cao cả đẹp đẽ với tha nhân. Vì vậy cùng với việc cứu rỗi mình, như một
công dân chân chính nhà văn phải tham dự vào công cuộc cứu rỗi xã hội bằng sứ mệnh
nhân văn cao cả, bằng ý chí mãnh liệt, bằng tư tưởng siêu việt và bằng ngòi bút không biết
mệt mỏi của mình. Bạn hãy nhớ: sự nghiệp làm người là sự nghiệp thanh lọc đau đớn. Và
bạn hãy tìm cách chia vui với cuộc đời, với xã hội bằng một sự nghiệp dấn thân đau đớn
của mình. Đó là sự nghiệp cao cả mà bạn sẵn sàng tham gia vào quá trình mang thai giá trị
nhân loại. Song trước hết, bạn hãy cùng những công dân khác tham gia vào việc xây dựng
quốc gia của mình. Con người trước hết phải làm bổn phận công dân đã! Thánh Gandhi nói:
“ Không một quốc gia nào từng lớn lên mà không trải qua cuộc thanh lọc bằng ngọn lửa đau
đớn của nó” ( Aucun pays ne’ s’est jamais eleve’ sans s’etre purifie’ au feu de la souffrance )
(1).

Lịch sử con người chỉ là những di chứng của những cuộc đấu tranh vì tự do. Vì tự do cho
con người, đó là mục đích cao cả đầu tiên mà ngòi bút “nhỏ bé” của nhà văn tham dự vào
với một ý chí thôi thúc mãnh liệt. Và cùng với các triết gia, các tư tưởng gia, nhà văn tham
dự vào cuộc đấu tranh vì tự do cho con người như một người đi tiên phong vào lãnh địa tự
do đầu tiên: đó là tư tưởng. Nhà văn phấn đấu vì lý tưởng này. Nguyễn Văn Trung có nói: “
Khi không có tự do chính trị, tất cả đều là chính trị và sự phân biệt giữa nhà văn và người
công dân không còn nữa" (2).

Nhà văn thiết yếu sống trong một thời đại, bởi vậy sau khi phụng hiến quốc gia như một
công dân văn chương, nhà văn phải hướng về thời đại của mình, thực hiện bổn phận thời
đại của mình và cứu rỗi thời đại của mình. Raugh nói: “Luân lý chân chính là luân lý của thời
mình, chỉ có kẻ nào sống dưới thời mình mới thực sự là người... Đề tài suy tư luân lý, ấy là
tờ nhật báo. Là đường phố, là cuộc đời, là trận chiến diễn ra từng ngày”.

Văn chương trước hết và luôn luôn phải viết vì thời đại của mình. Vì cơn đau nhức nhối trăn
trở của thời đại! Viết về bệnh dịch của thời đại! Nhà văn phải bám sát đời sống. Một đời
sống phải là chất liệu thực tại nóng chảy cho nhà văn và là nền móng chân lý của tác phẩm
văn học. Nhà văn phải bám sát nỗi đói khổ rách rưới của dân chúng, nỗi bất công của xã
hội, những biến cố , tai nạn, khủng bố, chiến tranh, bạo hành xảy ra trên đường phố, trong
làng mạc, ở khắp quốc gia hay trên thế giới. Nghĩa là nhà văn phải viết về một con người
thời đại toàn diện: nào hạnh phúc và bất hạnh, nào vinh quang hay điếm nhục, nào tự do
hay nô lệ, nào tình yêu cao thượng hay tình dục khả ố , nào công chính hay bất công, lương
hảo hay tội ác... Nghĩa là tác phẩm của nhà văn phải hít phả từng hơi thở sống còn của thời
đại, bởi chẳng còn lúc nào khác, chẳng còn cơ hội nào khác để nhà văn có thể thực hiện sứ
mệnh thời đại của mình. Sartre: “ Chúng ta không muốn bỏ rơi thời đại chúng ta: chúng ta
chỉ có cuộc sống này để sống, ở giữa cuộc chiến tranh này và cách mạng này”.
Đó là thái độ tận hiến cho thời đại, một thái độ hoà vào thời đại để phục vụ và cứu rỗi thời
đại. Một thái độ hiện sinh tích cực của nhà văn. Mỗi nhà văn có trở nên vĩnh cửu như một
Homer, một Victor Hugo, một Dostoievski thì trước hết anh phải có khả năng tự xây lên đầy
ắp giá trị ở thời đại của mình. Nhưng khởi sự anh hãy dấn thân cho thời đại của mình bằng
một ý chí quả cảm kiên trinh đã, chúng ta hãy nghe Nietzsche xác quyết một ý chí vượt
thắng hùng tráng trong nỗi thống khổ của thời đại: “ Chính trong thời gian đau ốm, chúng ta
không được phép bi quan, cũng vậy chính trong thời đại bi thảm, chúng ta phải chấm dứt
mọi triết lý bi đát” (3).

Người Trung Hoa có câu “Thiên kinh vạn quyển hữu nghĩa vi tiên” : nghìn kinh vạn quyển
lấy nghĩa làm đầu. Nghĩa ở đây là nghĩa làm người, nghĩa đạo lý làm người, nghĩa đối nhân
xử thế, nghĩa sống với mọi người trong tình nhân ái, nghĩa của luân lý đạo đức con người.

Bởi vậy khi nhà văn thực hiện sứ mệnh ngòi bút của mình, anh không thể trốn tránh phải
làm bổn phận giáo dục vốn có của chữ nghĩa. Chữ nghĩa của anh phải hướng tới cuộc đào
luyện một con người càng ngày càng nhân ái và tốt đẹp hơn, và hơn nữa anh phải có sứ
mệnh hướng đạo tâm hồn độc giả về chân lý, về lý tưởng làm người, về vùng đất thánh
thiện con người bằng cách kêu gọi con người lên đường thực hiện những dự phóng cao
viễn của con người: “Giáo dục phải kêu gọi cá thể lên đường , liên tục lên đường và chối bỏ
tất cả những nơi nương tựa yếu đuối” (Thích Minh Châu) (4).

Sau khi kêu gọi con người lên đường, nhà văn phải tiếp tục nuôi dưỡng không mệt mỏi sứ
mệnh khích lệ trong con người hành hương dòng máu nóng luôn hăm hở nhiệt thành hoàn
tất hình ảnh hoàn hảo toàn diện của con người, Donald Butler nói: “Người thầy phải là một
con người đánh thức trong học trò khao khát học hỏi. Người thầy phải là người cộng tác với
Chúa để hoàn hảo con người” ( The teacher should be a person who awaken in the pupil the
desire to learn. The teacher should be a co-worker with God in perfecting man) (5).

Nhà văn không chỉ là một người thầy ở trong bốn bức tường của nhà trường, nhà văn là
một người thầy đã trưởng thành ở giữa cuộc đời, vậy anh hãy làm bổn phận của anh đi, bổn
phận: kích thích mãnh liệt ý chí say sưa cuộc đời và một ý chí lên đường không mệt mỏi để
hoàn hảo con người. Nhưng cùng đích cái mẫu hình con người mà nhà văn hướng tới là ai?
Đó là cái con người đang nhảy vọt khỏi chính mình để lấp đầy khát vọng chân lý, khát vọng
lý tưởng và khát vọng làm người siêu việt của nó. Nghĩa là khao khát của nhà văn phải là
khao khát xây lên một con người dân danh lý tưởng về chính con người. Nietzsche nói: “Ta
yêu thích những con người không tìm kiếm đằng sau những vì tinh tú mà ta yêu những con
người hy sinh cho trần gian để ngày kia trần gian thuộc về siêu nhân”.

Nhà văn phải viết vì một con người hôm nay, vì thế giới hôm nay và vì thời đại của mình.
Song cái lý tưởng mà khao khát của nhà văn hướng đến vẫn là một giá trị nhân loại trong
trọn vẹn thời gian và không gian lịch sử. Nhà văn viết cho hôm nay nhưng nhân danh khát
vọng tinh thần mãi mãi của vĩnh cửu. Nhà văn không thể thoát khỏi việc cắm rễ vào quá khứ
cũng như việc vươn những tán lá dự phóng đến tương lai, bởi lẽ con người là con người
của lịch sử và con người của dòng thời gian miên viễn bất tận. Văn chương cũng vậy. Nhà
văn tham dự vào công cuộc cứu rỗi thời đại của mình với mong ước trọn vẹn rằng anh đang
muốn cứu rỗi con người và nhân loại nói chung. Và chỉ có thế, và phải như thế nhà văn mới
trở thành nhà văn của mọi thời đại, nhà văn của con người phi lằn giới thời gian và địa lý.
Chỉ có thế nhà văn mới trở nên cao quí hơn, bởi lẽ: “ Ai không biết hy sinh cho thế giới này,
người đó chẳng bao giờ thấy được thế giới khác” ( Kinh Gita).

Một Homer dũng khí can trường mã thượng của cây bút khải diễn chiến cuộc thành Troy
độc nhất vô nhị trong thiên trường ca Iliade đã trở nên bất tử trên giấy mực!

Một Victor Hugo chia xẻ nỗi đau của thị dân Paris trong nghịch cảnh xa hoa và đói khát, cao
thượng và hèn mạt trước cuộc cách mạng thảm khốc diễn ra trên đường phố giữa quân
vương và bạo lực quân vương đã trở nên bất tử !

Một Shakespeare than vãn cùng vua Lia bị con cái đẩy khỏi ngai vàng lộng lẫy ra giữa gió
loạn cuộc đời để nếm trải mùi bần hàn cơ cực khốn khổ của dân chúng, đã trở nên bất tử!

Nhà văn như giá trị mà anh uống ở suối nguồn nhân loại, như giá trị dồi dào ngữ văn mà
anh gặt hái trên cánh đồng nhân loại, như những giá trị chân lý mà anh học được của
những tấm gương nhân loại, thì anh phải viết trả ơn cho giá trị nhân loại trọn vẹn và mãi
mãi. Nhà văn không thể vĩ đại nếu anh chỉ chăm chăm viết cho những thời vụ ăn xổi ở thì,
viết cho những lãnh địa rào chắn của quê hương, viết cho cái này hay cái nọ, viết cho bên
hữu hay bên tả của con sông, viết cho đêm hoặc ngày, viết cho vinh quang hay thất bại, viết
cho lạc thú hay đau khổ.

Không ! Con người là toàn diện! Cuộc sống là toàn diện! Chân lý là toàn diện! Nhà văn chỉ vĩ
đại khi anh viết nhân danh cái toàn diện và toàn hảo, khi ngòi bút của anh viết vượt không
gian và thời gian bay đến vĩnh hằng. Sartre nói: “Xác định lập trường từ cái riêng biệt của
thời đại, chúng tôi bắt gặp cái vĩnh cửu, và nhiệm vụ của nhà văn là bày tỏ giá trị vĩnh cửu
bao hàm trong những giao tranh xã hội chính trị.”

Nhà văn phải dấn thân cứu rỗi đời sống! Nếu đó là cách nói vui tai theo kiểu “thơ ngâm phú
đọc” thì chẳng có gì to tát. Nhưng đó là cách nói mong biến thành những dòng chữ, những
trang giấy, những tác phẩm thành dòng chảy hoà vào thực tại cuộc đời thì đó quả là một
đính ước khởi đầu một sự nghiệp cam go, gian truân và thống khổ. Bởi lẽ, nếu văn học viết
cho dân nghèo, viết cho lợi ích của đông đảo công chúng thời đại, viết cho những tâm hồn ,
những tình cảm trong sáng, viết cho chân lý, viết cho công lý thì nền văn học đó luôn đứng
trước nguy cơ trở thành nạn nhân của những kẻ hắc ám; hoặc khi nền văn học muốn bày tỏ
một cuộc cách mạng tinh thần làm đảo lộn các giá trị cổ truyền hướng đến một giá trị tinh
khôi cấp tiến khác thì nền văn học đó lại trở nên một “mặt hàng” bị chính công chúng tẩy
chay, nhà văn trở nên hiệp sĩ bị ruồng bỏ ở chính con tim bạn đọc của mình. Bạn là nhà
văn, bạn lựa chọn lối nào? Lối viết thù tạc cưỡi ngựa xem hoa, vô thưởng vô phạt kiếm
sống chơi? Hay lối viết cho chân lý để hứng chịu những bi kịch không phải đầu cũng phải
tai?

Con người như một giọt nước, nó hoà vào thênh thang dòng chảy để sống cuộc đời vui
hưởng ý nghĩa cộng tồn một cách vô tư của nó. Khi giọt nước quên mình đi, thì nó càng tan
loãng và nhảy nhót trong dòng nước, và lúc đó nó hoà nhập vào cuộc đời toàn diện. Nó
được sống nhiều nhất. Henry de Moutherlant nói: “Đời ta sẽ trở nên thú vị khi nào ta nhất
quyết xem thường nó”. Và Saroyan cũng nói: “Chương trình kế hoạch của tôi là sống vô hạn
định” ( It is my plan to stay alive indefinitely) (6).

Bạn là nhà văn, với con người của nhà văn và nhân danh văn chương, bạn hãy để tâm viết
như thế nào cho cuộc đời, viết được gì cho cuộc đời, đó là điều chính yếu! Bạn đừng quá để
ý sống như thế nào trong cuộc đời để được nhàn nhã, vinh quang và nhiều bổng lộc. Điều
đó không phải là không chính đáng, và có thể nếu bạn thích những thứ đó , bạn hãy chuyển
sang nghề khác. Bởi lẽ bạn là nhà văn, bạn viết về cuộc đời cho mọi người, cùng một lúc
nếu bạn vừa muốn thu hái thành quả của văn chương vừa muốn thu hái lợi ích duy sinh ở
đời, bạn buộc phải chơi lối “đi đêm tháu cáy”, cùng lúc đánh tráo, đánh đổi thu về cả hai giá
trị. Nếu bạn làm như vậy thì bạn đọc sẽ được gì? Có phải bạn đọc chỉ có được một không
khí văn chương uế tạp đã vấy bùn lên hơi thở trong lành của đời sống? Không! Bạn phải tự
hiến mình! Đó là nhiệm vụ cao cả của của con người nói chung và của nhà văn nói riêng.
Kinh Gita có câu: “Thế giới này gắn liền với hành động, hành động phải được hoàn tất vì
danh nghĩa đức hy sinh” ( tr.32).

Nhà văn cứu rỗi cuộc đời bằng cách nào? Có phải anh tham dự vào ánh sáng vinh quang
của cuộc đời để cứu rỗi cuộc đời? Có phải anh viết như thể loan báo tên tuổi còn ẩn giấu
của mình cho công chúng biết Có phải anh viết như thể chia vui với cuộc đời đã tràn đầy
niềm hoan lạc của tinh thần công lý cũng như sự dồi dào của cơm áo? Không! Nhà văn phải
cứu rỗi cuộc đời bằng cách mang lấy thập giá đau khổ của cuộc đời, và sứ mệnh của nhà
văn là biến cải thập giá đau khổ đó thành giá đỡ cứu chuộc, cũng như tôn vinh sự nghiệp tự
thanh lọc đau đớn của con người. Bạn hãy đi theo con đường của Chúa Jê-su như Gagnon
nói: “Sự đau khổ và sự chết, vốn là án phạt tội, đã hoá nên giá chuộc tội” (Thủ lãnh, tr.358).

Sứ mệnh nhân văn là một sứ mệnh cao quí! Bạn hãy theo đuổi nó đến tận cùng, và đừng
nản lòng! Hãy theo đuổi nó và nỗ lực đi tới cùng đích con đường mà bạn đã chọn như một
định mệnh duy nhất cao cả của mình. Henry Miller nói: “Mỗi người có một định mệnh riêng,
mệnh lệnh duy nhất là theo đuổi nó, là chấp nhận nó, bất kể nó dẫn mình đến đâu” .

Khi nhà văn lựa chọn cho mình con đường chân lý, nhà văn hãy bền bỉ theo đuổi cuộc tận
hiến đó đến tận cùng, bất kể hậu quả có diễn ra thế nào đi nữa. Bạn hãy tin rằng, có nguyên
nhân chắc chắn phải có kết quả, bởi lẽ kết quả chỉ là thụ sinh tất yếu của nguyên nhân. Khi
bạn đã lựa chọn cho mình một nguyên nhân phụng sự chân lý, bạn hãy chắc tâm vào sự
lựa chọn dấn thân đó như một nguyên nhân khởi đầu cao quí, và bạn hãy theo đuổi con
đường chân lý đó đến tận cùng.

Khi dấn thân cho con đường chân lý bạn hãy tự chuẩn bị và xác định cho mình một niềm tin
vững chãi rằng: sẽ chẳng có m?

You might also like