LY LUAN GIAO DUC - Tai Lieu Tham Khao Cho Hoc Vien 2019

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 35

LÝ LUẬN GIÁO DỤC

1
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
1. Khái niệm và cấu trúc của quá trình giáo dục
1.1. Khái niệm về quá trình giáo dục
Hiện nay có khá nhiều quan niệm khác nhau về qúa trình giáo dục. Tùy theo mục
đích, góc độ và khía cạnh nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra nhiều cách định nghĩa khác
nhau về quá trình giáo dục:
- Quá trình giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, chức năng trội
của nó là tập trung vào việc giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh những nét tính cách, phẩm
chất đạo đức, nhân cách của con người chân chính (Hà Thị Đức).
- Quá trình giáo dục là cả một hệ thống tác động giáo dục có mục đích, có kế hoạch,
có phương pháp khoa học, thông qua các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục tích cực mà
hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất đạo đức, thói quen và hành vi đạo
đức phù hợp với yêu cầu về đạo đức, nhân cách của xã hội. (Nguyễn Sinh Huy).
- Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt thì: Quá trình giáo dục là quá quá trình hoạt
động có mục đích, có tổ chức chung của thầy và trò nhằm hình thành cho học sinh những
quan điểm, niềm tin, định hướng giá trị, lý tưởng, động cơ, thái độ, kỹ năng, kỹ xảo, thói
quen đối xử trong các quan hệ chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ… thuộc các lĩnh vực
của đời sống xã hội…
- Trần Thị Tuyết Oanh và nhóm cộng tác viên cũng đã khẳng định: Quá trình giáo
dục được hiểu theo nghĩa hẹp, là bộ phận của qúa trình giáo dục tổng thể. Qúa trình giáo
dục theo nghĩa hẹp và qúa trình dạy học đều hướng vào hoàn thành nhân cách toàn diện
theo mục tiêu giáo dục đã xác định . Trong đó, quá trình giáo dục với chức năng trội là làm
cho học sinh có nhận thức đúng đắn về các yêu cầu, chuẩn mực của xã hội và có hành vi,
thói quen hành động tương ứng…
Như vậy qúa trình giáo dục là qúa trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của giáo
viên và học sinh, hình thành những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ, thái độ, hành vi,
thói quen phù hợp với những chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ, văn hóa,
làm phát triển nhân cách học sinh theo mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội.
- Tương tự như vậy, tác giả Phan Thanh Long cũng đã đưa ra quan điểm của mình:
Quá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức của nhà giáo dục đến đối
tượng giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển nhân cách riêng của mỗi học sinh và đáp
ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
Tóm lại: Quá trình giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là một bộ phận của
quá trình giáo dục tổng thể. Là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của giáo
viên và học sinh nhằm hình thành cho học sinh những quan điểm, niềm tin, giá trị, động
cơ, thái độ, hành vi, thói quen… phù hợp với các chuẩn mực chính trị, đạo đức, pháp luật,

2
văn hóa, thẩm mỹ của xã hội, đã được xã hội qui định để hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh theo mục đích của nhà trường và xã hội.
Nói cách khác, Quá trình giáo dục là một bộ phận quá trình giáo dục tổng thể, là quá
trình, trong đó, dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người được giáo dục tự giác, tích
cực, chủ động tham gia các hoạt động để hình thành và phát triển nhân cách phù hợp với
qui định của xã hội, đáp ứng mục đích và nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.
Mối quan hệ giữa quá trình giáo dục tổng thể với các trình giáo dục bộ phận có thể
được diễn đạt theo sơ đồ sau:

Từ khái niệm này có thể rút ra một số vấn đề cần lưu ý sau:
- Quá trình giáo dục là tổ hợp của các quá trình giáo dục bộ phận như:
+ Quá trình giáo dục đạo đức (Đức dục)
+ Quá trình giáo dục thẩm mỹ (Mỹ dục)
+ Quá trình giáo dục thể chất (Thể dục)
+ Quá trình giáo dục lao động và hướng nghiệp
Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo, là người hướng dẫn, tổ
chức, điều khiển, định hướng, cổ vũ cho quá trình hình thành, phát triển nhân cách của
người được giáo dục.
Trong quá trình giáo dục, người được giáo dục vừa là đối tượng tác động sư phạm
của nhà giáo dục, vừa là chủ thể tự giáo dục, tự tổ chức, tự điều khiển, điều chỉnh quá trình
hình thành, phát triển nhân cách của bản thân.
Thông qua các hoạt động giáo dục và tự giáo dục, sự trải nghiệm và rèn luyện tự
giác, tích cực của bản thân, mỗi học sinh sẽ tiếp thu các giá trị xã hội, hình thành các phẩm
chất nhân cách, biến các yêu cầu của xã hội về tư tưởng chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, lao
động, thể chất… thành những phẩm chất, năng lực cần thiết của bản thân, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của xã hội.
- Quá trình giáo dục là quá trình tác động qua lại giữa vai trò chủ đạo của nhà giáo
dục và hoạt động tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của học sinh. Hai quá trình này
thống nhất biện chứng với nhau. Vai trò chủ đạo của nhà giáo dục định hướng cho quá
trình tự giáo dục, tự rèn luyện của học sinh được tốt hơn. Hoạt động tự giáo dục của học
3
sinh là sự hưởng ứng tích cực những hướng dẫn, lãnh đạo sư phạm của giáo viên. Nếu
thiếu một trong hai quá trình này, quá trình giáo dục sẽ không còn đúng nghĩa.
- Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn, là một quá trình vận động và phát triển liên
tục, được thực hiện trong sự kết hợp tất cả các hoạt động trong nhà trường (hoạt động dạy
học trên lớp và các hoạt động đa dạng, phong phú ngoài giờ lên lớp), trong các môi trường
giáo dục thích hợp, qua đó học sinh thử nghiệm được các kiến thức, đạo đức, thẩm mỹ, lao
động, thể chất, hình thành hành vi và thói quen hành vi, hình thành tình cảm và niềm tin
đúng đắn, tăng cường vốn kinh nghiệm, vốn sống của chính bản thân học sinh để giúp các
em bước vào cuộc sống một cách thuận lợi.
1.2. Cấu trúc của quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục là một hệ thống toàn vẹn, được cấu thành bởi các nhân tố sau:
a/ Mục đích và nhiệm vụ giáo dục:
- Mục đích và nhiệm vụ giáo dục bao gồm các yêu cầu của xã hội về tư cách của
người công dân, người lao động có đủ năng lực và phẩm chất, có khả năng hòa nhập và
thích ứng, năng động, sáng tạo trước cuộc sống đang không ngừng biến động.
- Để thực hiện mục đích giáo dục, quá trình giáo dục phải thực hiện các nhiệm vụ
giáo dục cụ thể như sau:
+ Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh ý thức cá nhân về các chuẩn mực xã
hội nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật nói riêng đã được quy định. Ý thức cá
nhân là một thể thống nhất giữa sự hiểu biết của cá nhân về các chuẩn mực xã hội và niềm
tin cá nhân về ý nghĩa xã hội, ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực đó.
+ Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh những xúc cảm, tình cảm tích cực có
tác dụng như là một “chất men” đặc biệt, thúc đẩy cá nhân chuyển hóa một cách có ý thức
các chuẩn mực xã hội đã được qui định thành hành vi và thói quen hành vi tương ứng.
+ Tổ chức hình thành và phát triển hệ thống hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã
hội đã được qui định, tổ chức cho học sinh tự lặp đi, lặp lại hệ thống hành vi này để hình
thành và rèn luyện thói quen bền vững, gắn bó mật thiết với nhu cầu tích cực của cá nhân.
- Mục đích và nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho sự vận động và phát triển
của từng nhân tố trong quá trình giáo dục, định hướng cho sự vận động, phát triển của toàn
bộ quá trình giáo dục.
b/ Nội dung giáo dục:
Nội dung giáo dục quy định hệ thống những chuẩn mực xã hội cần giáo dục cho học
sinh. Nó tạo nên nội dung hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục. Nội dung
giáo dục chịu sự qui định, chi phối của mục đích và nhiệm vụ giáo dục, đồng thời là cơ sở
để xác định các phương pháp giáo dục. Mặt khác nó trở thành kinh nghiệm của người học,
phục vụ cho việc thực hiện mục đích, nhiệm vụ giáo dục.
c/ Phương pháp, phương tiện giáo dục:
4
Phương pháp, phương tiện giáo dục bao gồm toàn bộ hệ thống các cách thức, con
đường, phương tiện (kể cả phương tiện kỹ thuật), biện pháp hoạt động thống nhất của nhà
giáo dục và học sinh, nhằm tác động đến nhận thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, thái độ, động
cơ của học sinh, giúp các em chuyển hóa những chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói
quen hành vi tương ứng.
Theo quan điểm giáo dục tích cực, thông qua việc tổ chức các loại hình hoạt động đa
dạng, tổ chức cuộc sống hợp lý cho học sinh, khi tham gia các hoạt động khác nhau, được
trải nghiệm thực tế, các em sẽ hình thành cho mình vốn sống, kinh nghiệm riêng trong các
điều kiện, môi trường học tập, sinh hoạt khác nhau.
Phương pháp, phương tiện giáo dục chịu sự chi phối của nội dung giáo dục và mặt
khác, chúng lại giúp cho nội dung giáo dục chuyển hóa thành vốn kinh nghiệm riêng của
học sinh, phù hợp với mục đích giáo dục.
d/ Nhà giáo dục:
Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục bao gồm đội ngũ giáo viên trong hệ thống
giáo dục của nhà trường, cha mẹ học sinh, các lực lượng giáo dục của xã hội… Họ tồn tại
và hoạt động trong quá trình giáo dục với tư cách là chủ thể tác động, có vai trò chủ đạo:
Tổ chức, điều khiển, định hướng quá trình hình thành nhân cách của học sinh một cách có
mục đích, có chương trình, kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức hợp lý. Qua đó kích
thích và làm phát triển ở học sinh tính tự giác, tính tích cực tự giáo dục.
Vai trò của nhà giáo dục trong qúa trình giáo dục thể hiện ở các mặt sau:
- Định hướng sự phát triển nhân cách của học sinh theo mục đích giáo dục của Đảng,
Nhà nước và mục tiêu giáo dục cụ thể của nhà trường.
- Có nội dung, chương trình, kế hoạch, phương pháp tổ chức hợp lý, khoa học, hệ
thống các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường.
- Phát huy được ý thức tự giáo dục của học sinh.
- Phối hợp giữa tác động sư phạm của giáo viên với tác động giáo dục đồng bộ, thống
nhất của Hội đồng giáo dục trong nhà trường và các lực lượng, tổ chức giáo dục khác.
e/ Người được giáo dục
Người được giáo dục bao gồm học sinh, sinh viên trong các nhà trường, những trẻ vị
thành niên phạm pháp trong các Trường Giáo dưỡng… Người được giáo dục vừa là đối
tượng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục.
Trong quá trình giáo dục, học sinh, sinh viên, tập thể học sinh, sinh viên là đối tượng
giáo dục, nhận được tác động sư phạm của nhà giáo dục.
Tuy nhiên trong quá trình giáo dục, người được giáo dục không chỉ là đối tượng tiếp
nhận sự tác động của nhà giáo dục, mà họ còn tồn tại với tư cách là chủ thể tự giáo dục. Họ
tiếp nhận những tác động giáo dục một cách có chọn lọc, có khả năng tự vận động đi lên,

5
tự chuyển hóa những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội thành nhu cầu, mong muốn phát triển
bản thân.
f/ Kết quả giáo dục:
Kết quả giáo dục vừa là hiệu quả của quá trình vận động và phát triển của hệ thống
giáo dục nói chung, vừa là kết quả trực tiếp của quá trình hình thành nhân cách cho học
sinh. Kết quả giáo dục cũng được xem xét dưới góc độ phát triển của mỗi cá nhân học sinh
trong quá trình vận động đi lên của xã hội. Kết quả này thể hiện ở chỗ, học sinh hình thành
được ý thức về các chuẩn mực xã hội, phát triển được tình cảm, hành vi và thói quen tích
cực tương ứng. Kết quả giáo dục được xem xét, đánh giá theo yêu cầu và mục đích giáo
dục đã đặt ra.
Các nhân tố của quá trình giáo dục liên quan mật thiết với nhau, tồn tại và phát triển
trong mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau. Không những vậy, các
nhân tố này còn tồn tại và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với môi trường kinh tế-
văn hóa- khoa học kỹ thuật và các quan hệ sản xuất. Môi trường kinh tế-xã hội vừa đề ra
yêu cầu vừa tạo điều kiện cho những nhân tố của quá trình giáo dục vận động và phát triển.
Các nhân tố của quá trình giáo dục phát triển lại tác động trở lại đối với sự phát triển của
môi trường kinh tế-xã hội. Vì vậy sản phẩm của quá trình giáo dục phải thỏa mãn được các
tiêu chí cơ bản sau:
- Phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định mang tính bền vững, phổ biến.
- Đáp ứng, phục vụ các yêu cầu tồn tại, phát triển không ngừng của xã hội, tạo ra sự
thích ứng cao giữa cá nhân và sự biến đổi của môi trường kinh tế- xã hội.
Từ sự phân tích mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố của quá trình giáo dục, có
thể thiết lập sơ đồ về mối quan hệ đó như sau:
M: Mục đích giáo dục
C: Chủ thể giáo dục- Giáo viên
H: Cá nhân và tập thể học sinh (người được giáo dục)
N: Nội dung giáo dục
P: Phương pháp giáo dục
Pt: Phương tiện giáo dục
HTTCGD: Hình thức tổ chức giáo dục
Kq: Kết quả giáo dục
2. Bản chất của quá trình giáo dục
2.1. Cơ sở để xác định bản chất của quá trình giáo dục
a/ Quá trình xã hội hình thành và phát triển cá nhân con người (quá trình xã hội hóa
cá nhân con người)
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành nhân cách con người. Sự phát triển của
mỗi cá nhân được qui định bởi tác động qua lại của các nhân tố xã hội và nhân tố sinh học,
6
trong đó sự ưu tiên hang đầu thuộc về các nhân tố xã hội. Quá trình xã hội hóa cá nhân là
quá trình biến cá nhân thành một thành viên của xã hội (ứng với các giai đoạn phát triển
lịch sử cụ thể của xã hội); có đầy đủ các gía trị xã hội để tham gia vào các hoạt động xã
hội. Vì thế, muốn xác định bản chất của quá trình giáo dục phải xuất phát từ cơ chế có tính
xã hội, đó là sự truyền đạt và lĩnh hội các kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ trước
trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các giá
trị văn hóa của loài người, biến thành nhân cách của bản thân.
b/ Quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục (Quan hệ sư phạm)
Quan hệ sư phạm là một loại quan hệ xã hội. Đó là quan hệ giữa nhà giáo dục và
người được giáo dục hoặc tập thể người được giáo dục. Quan hệ này luôn chịu sự chi phối
của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, khoa học – kỹ thuật, đặc biệt
là các quan hệ chính trị - xã hội. Quan hệ sư phạm là cơ sở để xác định bản chất của quá
trình giáo dục là phải có sự thống nhất giữa tác động sư phạm của nhà giáo dục và sự tự
giác, tích cực tiếp nhận, tự điều chỉnh của người được giáo dục trong quá trình giáo dục.
Qúa trình giáo dục phải thiết lập được mối quan hệ sư phạm giữa nhà giáo dục với người
được giáo dục ( giữa người dạy với người học) mới thực hiện được mối quan hệ giữa
người học với thế giới hiện thực, người học mới chiếm lĩnh được các giá trị văn hóa của
nhân loại biến nó thành những giá trị phẩm chất và năng lực của mỗi cá nhân. Vì vậy cần
phải xuất phát từ sự tác động qua lại, biện chứng này để xem xét bản chất của quá trình
giáo dục.
2.2. Bản chất của quá trình giáo dục
+ Quá trình giáo dục về bản chất là quá trình chuyển hóa tự giác, tích cực các yêu
cầu, các chuẩn mực xã hội đã được quy định thành hành vi và thói quen tương ứng của
học sinh, dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục.
+ Quá trình giáo dục là quá trình học sinh tiếp thu hệ thống các tri thức về chuẩn mực
và thái độ đối với tự nhiên, xã hội và con người. Song bộ mặt nhân cách của mỗi người
không thể và không chỉ được đánh giá bởi nhận thức, hiểu biết của họ về các chuẩn mực.
Vấn đề là vốn hiểu biết ấy phải được chuyển hóa thành tình cảm, niềm tin, thói quen hành
vi của mỗi người. Vì vậy, quá trình giáo dục phải chuyển cho được các yêu cầu của xã hội
thành nhu cầu của bản thân, người được giáo dục phải có mong muốn, nguyện vọng và có
khả năng thể hiện bằng hành vi những chuẩn mực do xã hội quy định.
+ Quá trình giáo dục trong nhà trường, về bản chất là quá trình tác động liên tục, lâu
dài, có mục đích, có nội dung và phương pháp xác định nhằm hình thành và phát triển ở
học sinh những phẩm chất, năng lực, những nét tính cách và hành vi, thói quen tốt.
+ Quá trình giáo dục trong nhà trường còn là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các
hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho học sinh. Giáo viên giữ vai trò chủ đạo, tùy
vào năng lực của học sinh, giáo viên có thể tổ chức, định hướng, cố vấn cho học sinh, học
7
sinh là chủ thể hoạt động tích cực, sáng tạo nhằm chuyển hóa các yêu cầu, các nội dung
giáo dục, các chuẩn mực xã hội thành năng lực hoạt động, thành phẩm chất nhân cách của
bản thân.
Sự kết hợp vai trò chủ đạo của giáo viên với vai trò năng động, chủ thể của học sinh
trong quá trình giáo dục đã tạo nên tính thống nhất biện chứng của hoạt động giáo dục. Sự
thống nhất thực chất cũng là quá trình hoạt động và giao lưu của các thành viên trong quá
trình giáo dục, sự tự giáo dục, tự hoàn thiện của học sinh giữ vai trò rất quan trọng.
Sự thống nhất biện chứng giữa tác động sư phạm của nhà giáo dục và sự hoạt động tự
giác, tích cực, chủ động của học sinh nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
của họ, trên cơ sở biến các yêu cầu khách quan của xã hội thành nhu cầu chủ quan của đối
tượng giáo dục, phản ánh bản chất của quá trình giáo dục. Trong quá trình giáo dục, sự
hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với hoạt động xã hội, tổ chức cuộc sống hợp lý
cho học sinh trong các môi trường như nhà trường, gia đình trong cộng đồng và trong xã
hội nói chung với các quan hệ giao lưu, hội nhập, đa dạng và phức hợp.
Như vây, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động và giao
lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực, độc lập chuyển
hóa những yêu cầu, những chuẩn mực của xã hội thành hành vi và thói quen hành vi tương
ứng.
3. Các đặc điểm của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục có những đặc điểm sau:
3.1. Quá trình giáo dục diễn ra với những tác động giáo dục phức hợp và là quá
trình có tính phức tạp.
Trong quá trình giáo dục, học sinh, đối tượng của giáo dục chịu sự ảnh hưởng, tác
động bởi nhiều nhân tố: Các ảnh hưởng của nhà trường, gia đình và xã hội. Ngay trong các
nhân tố này, cũng có nhiều tác động xảy ra theo những hướng khác nhau. Trong nhà
trường có tác động của thầy cô giáo, của bạn bè, nội quy, chương trình, kế hoạch học tập,
các hoạt động tập thể… Trong gia đình, học sinh phải chịu sự tác động của cha, mẹ, anh
chị em, của nếp sống, điều kiện kinh tế, truyền thống và nếp sinh hoạt của gia đình…
Trong xã hội, học sinh bị ảnh hưởng của nhóm bạn bè, các lực lượng xã hội, các phương
tiện thông tin đại chúng, phim ảnh, sách báo…
Tất cả các tác động này đan kết với nhau rất chặt chẽ và cùng tác động lên đối tượng
được giáo dục. Những ảnh hưởng này có thể kết hợp với nhau, tạo thành những ảnh hưởng
tích cực, thống nhất đối với học sinh, làm cho hiệu quả của quá trình giáo dục tăng lên,
song chúng cũng có thể tác động ngược chiều nhau, tạo ra những “lực nhiễu”, gây nhiều
khó khăn cho nhà giáo dục, thậm chí có thể “vô hiệu hóa” các tác động có mục đích của
nhà giáo dục.

8
Thực tế cho thấy, học sinh hoạt động và giao lưu trong môi trường tự nhiên và xã hội
rất đa dạng, phong phú, trong đó có những ảnh hưởng có tính mục đích, có định hướng
nhưng cũng có cả ảnh hưởng tự phát, ngẫu nhiên, vừa trực tiếp vừa gián tiếp, có cả những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực…
Trong tất cả các tác động trên, tác động của nhà trường đóng vai trò chủ đạo vì những
tác động của nhà trường có mục đích xác định, có kế hoạch, nội dung, phương pháp, có sự
hướng dẫn của nhà giáo dục nen đó là những tác động đúng đắn, khoa học.
Như vậy, tính phức tạp của quá trình giáo dục nằm ở chính đối tượng của nó. Đối
tượng của quá trình giáo dục là con người, mà thực chất là tâm hồn con người, cái người
khác không trực tiếp nhìn thấy được (Tri nhân, tri diện, bất tri tâm). Quá trình giáo dục tạo
ra sự chuyển biến trong tâm hồn mỗi người cũng không thể đánh giá ngay được, khó định
tính, định lượng một cách rõ rang. Mỗi cá nhân con người là một thế giới đầy bí ẩn và rất
phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và điều kiện mới có thể nhận thức được.
Mặt khác, kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khách
quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài…. Vì vậy, trong qúa trình tiến hành giáo dục, nhà
giáo dục cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố bên trong, bên ngoài của quá trình
giáo dục. Đó là các điều kiện về kinh tế, chính trị, tôn giáo, các phong tục, tập quán sinh
hoạt văn hóa của địa phương. Nhà giáo dục phải hiểu biết, nắm bắt được đối tượng giáo
dục.
Hơn nữa kết quả giáo dục không thể nhìn thấy, đánh giá ngay được. Đó là sự phát
triển nhân cách của đối tượng giáo dục, là những cái rất khó định tính, định lượng một
cách chính xác. Kết quả giáo dục phải có thời gian, điều kiện, hoàn cảnh mới bộc lộ ra
ngoài. Vì thế việc đánh giá con người, đánh giá kết quả giáo dục phải hết sức thận trọng,
đòi hỏi phải có phương pháp phù hợp, thời gian và hoàn cảnh. Kết quả giáo dục nhiều khi
không tỷ lệ thuận với cường độ lao động, với sự đầu tư…..
Tất cả những điều đó nói lên sự phức tạp, khó khăn của quá trình giáo dục.
Từ đây, vấn đề đặt ra là:
+ Nhà trường cần phải tổ chức và phối hợp thống nhất tất cả các tác động của các lực
lượng giáo dục theo hướng tích cực, có hiệu quả của quá trình giáo dục.
+ Phát huy vai trò chủ thể tự giác, tích cực, chủ động của học sinh, cung cấp cho các
em vốn sống và vốn kinh nghiệm cần thiết để có thể phân tích và đấu tranh chống lại các
tác động tiêu cực.
+ Ngăn chặn, hạn chế đến mức tối đa các ảnh hưởng tiêu cực của môi trường xã hội
và gia đình đến sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
+Thường xuyên quan tâm tới học sinh để có thể giúp các em uốn nắn, sửa chữa và từ
bỏ những thói quen xấu, có hại cho sự phát triển nhân cách.

9
+ Rèn luyện cho học sinh bản lĩnh để chống lại những cám dỗ tiêu cực của bạn bè và
môi trường xã hội .
+Tăng cường tổ chức cho học sinh các hoạt động tập thể thiết thực, bổ ích, có tác
dụng giáo dục tích cực.
3.2. Quá trình giáo dục có tính chất lâu dài và liên tục.
Quá trình giáo dục nhằm hình thành những nét phẩm chất, những nét tính cách của cá
nhân nên nó đòi hỏi phải mất một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính chất lâu dài
và liên tục của quá trình giáo dục được thể hiện ở các điểm sau:
- Trong quá trình giáo dục, kết quả của giáo dục không chỉ được đánh giá ở việc học
sinh nắm vững đến mức độ nào hệ thống các yêu cầu của xã hội về các chuẩn mực, mà nó
còn đòi hỏi học sinh phải biến các yêu cầu, chuẩn mực ấy thành tình cảm, niềm tin, hành
vi và thói quen hành vi đúng đắn. Từ nhận thức đến hành vi và thói quen hành vi là cả một
quá trình lâu dài.
- Quá trình giáo dục được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời con
người, từ lúc mới sinh ra cho đến khi không còn sống nữa – giáo dục suốt đời, thậm chí
ngày nay người ta còn giáo dục trẻ ngay khi còn nằm trong bụng mẹ (thai giáo) nên đó là
một quá trình lâu dài.
- Có thể nói, giáo dục là một quá trình đòi hỏi học sinh phải tiến hành đấu tranh một
cách kiên quyết, liên tục giữa những quan niệm, tình cảm, niềm tin, hành vi, thói quen cũ,
lạc hậu để hình thành các hành vi và thói quen hành vi mới, tiến bộ.
- Kinh nghiệm cho thấy, những nếp nghĩ, những thói quen cũ, lạc hậu thường tồn tại
dai dẳng, việc xóa bỏ cái cũ đòi hỏi phải có thời gian, có ý chí và nghị lực. Vì vậy, nếu nhà
giáo dục không tác động bền bỉ, liên tục, nếu học sinh không kiên trì và quyết tâm tự rèn
luyện thì kết quả sẽ khó đạt được, cái cũ sẽ dễ dàng quay trở lại, lúc đó cần phải tiến hành
giáo dục lại mà giáo dục lại thì rất công phu, mất nhiều thời gian và công sức hơn rất nhiều
so với giáo dục ban đầu.
- Trong quá trình giáo dục, tính lâu dài gắn với tính liên tục. Nếu trong một lúc hay
một giai đoạn nào đó, các nguyên tắc sống, nguyên tắc giáo dục bị buông lỏng, người được
giáo dục thiếu ý chí, nghị lực thì hiệu quả của quá trình giáo dục thu được sẽ có thể mất đi,
thậm chí con người có thể tiêm nhiễm các thói hư, tật xấu, dẫn đến thoái hóa, biến chất.
- Quá trình giáo dục không phải lúc nào cũng đi theo đường thẳng mà có thể đi theo
đường vòng, bị thụt lùi…bởi học sinh đôi khi cũng gặp phải những tác động tự phát, ngẫu
nhiên, không có mục đích của môi trường đến sự phát triển nhân cách.
- Trong quá trình giáo dục có thể có một số phẩm chất, một số học sinh cần được
giáo dục lại. Quá trình giáo dục lại là một quá trình khó khăn vì vừa phải xóa bỏ cái cũ lại
vừa phải hình thành cái mới phù hợp hơn, phải lựa chọn những phương pháp đặc thù, phù
hợp cho quá trình giáo dục lại.
10
Vì vậy, trong quá trình giáo dục nhà giáo dục cần phải:
+ Hết sức kiên thì, nhẫn nại, không nôn nóng, vội vàng, phải tác động thường xuyên,
liên tục lên học sinh, tác động ở mọi nơi, mọi chỗ, mọi lúc bằng những phương thức khác
nhau.
+ Thường xuyên quan tâm, theo dõi học sinh, nếu thấy có những biểu hiện hành vi
không phù hợp cần phải kịp thời uốn nắn, điều chỉnh cho các em.
+ Phát huy cao độ vai trò tự giác, tích cực, độc lập, chủ động của học sinh với tư cách
là chủ thể tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của bản thân.
+ Kiên trì và quyết tâm đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư, tật xấu ở
học sinh để đẩy lùi chúng.
+ Tạo sự thống nhất trong môi trường giáo dục: Nhà trường, gia đình và xã hội. Tạo
điều kiện để học sinh được giáo dục ở mọi nơi, mọi chỗ, mọi lúc, khép kín cả về không
gian và thời gian.
3.3. Quá trình giáo dục có tính cá biệt hóa cao
Trong thực tiễn cuộc sống cũng như trong môi trường giáo dục, mỗi con người, mỗi
học sinh đều có một “thế giới riêng” với những đặc điểm tâm, sinh lý, đặc điểm cá tính,
hoàn cảnh sống, năng lực, sở trường, xu hướng nghề nghiệp… khác nhau. Vì vậy trong
quá trình giáo dục với những tác động sư phạm như nhau, mỗi cá nhân có thể lĩnh hội theo
cách riêng của mình với những mức độ khác nhau. Do đó, nhà giáo dục cần phải hiểu kỹ
học sinh của mình để có thể áp dụng các biện pháp, các cách thức tác động phù hợp với
từng đối tượng cụ thể, thực hiện cá biệt hóa quá trình giáo dục.
Vì vậy, muốn đảm bảo tính cá biệt hóa cao trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục cần
phải:
- Quan tâm, tìm hiểu kỹ học sinh về tất cả các mặt: Đặc điểm cá tính, sở trường, sở
đoản, năng lực, hoàn cảnh gia đình, điều kiện sinh sống, ước mơ, lý tưởng, quan hệ bạn bè.
K.D. Usinxki đã từng nói: “Muốn giáo dục học sinh về mọi mặt, phải hiểu học sinh về mọi
mặt” để có thể sử dụng các biện pháp tác động phù hợp chung cho tất cả học sinh và phù
hợp với từng cá nhân
- Nhà giáo dục cần phải tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng, phù hợp
với nhịp độ phát triển chung của tập thể học sinh, đồng thời phải phù hợp với từng cá nhân
học sinh.
- Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo, là người tổ chức,
hướng dẫn, điều khiển, song học sinh không chỉ là một thực thể thụ động mà học sinh còn
tồn tại với tư cách như là một chủ thể tự giác, tích cực. Vì vậy, cần phải phát huy vai trò tự
giác, chủ động, sáng tạo của người được giáo dục. Bởi vì hoạt động giáo dục của nhà giáo
dục chỉ đạt được hiệu quả cao nếu hoạt động này thống nhất với hoạt động tự giáo dục, tự
rèn luyện của học sinh, kích thích được lòng ham muốn tự hoàn thiện ở các em. Mặt khác,
11
vai trò chủ thể và hoạt động tự giáo dục của học sinh cũng chỉ đạt hiệu quả cao khi học
sinh có sự định hướng, hướng dẫn của giáo viên.
- Quá trình giáo dục bao giờ cũng diễn ra trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Vì vậy, ngoài việc cần phải chú ý đến từng cá nhân học sinh, nhà giáo dục cũng cần phải
chú ý đến từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể trong đó diễn quá trình giáo dục.
- Nhà giáo dục phải thực sự thương yêu, quan tâm, sâu sát từng học sinh để hiểu
tường tận về các em. Muốn vậy, nhà giáo dục có thể sử dụng các biện pháp khác nhau để
tìm hiểu học sinh như: Thông qua hồ sơ; Quan sát học sinh; Nghiên cứu sản phẩm hoạt
động học tập của học sinh….Hiểu học sinh mới có thể cá biệt hóa giáo dục, mới có cách
thức tác động phù hợp với từng đối tượng.
3.4. Quá trình giáo dục phải thống nhất với quá trình dạy học
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đich là hình thành và phát triển
nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. Nhiệm vụ của quá trình dạy học không
những phải trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học về tất cả các lĩnh vực, tổ
chức hướng dẫn cho người học tự chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển
ở người học năng lực hoạt động trí tuệ, khả năng tư duy, mà còn hình thành cho học sinh
thể giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, các phẩm chất đạo đức, các định hướng
giá trị phù hợp của người công dân, người lao động mới như cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã dạy: “ Trí dục phải đi đôi với đức dục và coi đó là cái gốc của nhân cách”.
Trong khi đó, chức năng trội của quá trình giáo dục là hình thành cho học sinh thế
giới quan khoa học, lý tưởng, niềm tin, tình cảm, thái độ tích cực, các phẩm chất đạo đức
cần thiết, các hành vi, thói quen hành vi tốt…
Vì vậy hai quá trình này phải thống nhất với nhau, bổ sung, hỗ trợ, tác động, thúc đẩy
lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau.
- Muốn tạo được sự thống nhất thì trong quá trình dạy học người giáo viên không
những phải giúp học sinh lĩnh hội hệ thống tri thức, rèn luyện hệ thống kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng, trên cơ sở đó còn phải hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, các kỹ
năng sống cần thiết, các phẩm chất xã hội, phẩm chất đạo đức đúng đắn.
- Trong quá trình dạy học không chỉ coi trọng việc tiếp thu tri thức của học sinh mà
còn phải quan tâm cả hành vi, thái độ, hứng thú của họ để có sự uốn nắn, điều chỉnh kịp
thời.
- Trong quá trình học tập, muốn đạt kết quả cao, học sinh phải tự giác, chủ động,
sáng tạo, có thái độ và động cơ học tập đúng đắn.
- Dạy học và giáo dục là hai quá trình cùng có chung mục đích thống nhất là hình
thành và phát triển nhân cách cho người học nhưng chúng không đồng nhất với nhau, vì
vậy quá trình giáo dục phải thường xuyên thống nhất với quá trình dạy học. Hai quá trình
phải có mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhằm đạt mục
12
đích cuối cùng là phát triển phẩm chất và năng lực cho người học đáp ứng các yêu cầu của
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử.
4. Động lực quá trình giáo dục
4.1. Khái niệm động lực của quá trình giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là một quá trình luôn luôn vận động và
phát triển không ngừng, trong đó nhân cách của học sinh ngày càng phát triển và không
ngừng hoàn thiện.
Theo quan điểm triết học biện chứng, các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan nói chung, trong qúa trình giáo dục nói riêng thường xuyên vận động, biến đổi và
phát triển. Nguyên nhân của sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục là việc giải
quyết có hiệu quả các loại mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình giáo dục, tạo nên hệ thống
động lực và các điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình giáo dục đạt được kết quả như mong
muốn.
Như vậy, động lực của quá trình giáo dục là việc kịp thời phát hiện và giải quyết có
hiệu quả các loại mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình giáo dục.
4.2. Các loại mâu thuẫn trong quá trình giáo dục
Trong qúa trình giáo dục thường tồn tại các laoị mâu thuẫn sau:
4.2.1. Mâu thuẫn bên trong của quá trình giáo dục
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các nhân tố của quá trình giáo dục với nhau
hoặc là mâu thuẫn giữa các yếu tố (thành tố) trong từng nhân tố đó.
Như vậy, mâu thuẫn bên trong gồm có hai dạng:
- Dạng thứ nhất là mâu thuẫn giữa các nhân tố của quá trình giáo dục với nhau.
Ví dụ:
+ Mâu thuẫn giữa nhà giáo dục với người được giáo dục.
Trong khi nhà giáo dục phát huy cao độ vai trò chủ đạo của mình thì vẫn còn một bộ
phận không nhỏ người được giáo dục chưa tự giác, tích cực hưởng ứng những tác động sư
phạm đúng đắn của nhà giáo dục, vì vậy hiệu quả giáo dục chưa cao.
+ Mâu thuẫn giữa nội dung giáo dục với phương pháp, phương tiện giáo dục.
Nội dung giáo dục ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng sự biến đổi của xã hội,
trong khi đó các phương pháp giáo dục chưa có sự đổi mới đồng bộ, đặc biệt các phương
tiện giáo dục trong các nhà trường nói chung còn rất thiếu thốn, lạc hậu.
+ Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục mâu thuẫn với trình độ phát triển nhân cách
của người được giáo dục.
Trong khi mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ mà nhà giáo dục đề ra cho người được giáo
dục ngày càng được nâng cao thì trình độ được giáo dục, trình độ phát triển về nhân cách
của người được giáo dục hiện có còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
của nhà giáo dục…
13
- Dạng thứ hai là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong từng nhân tố.
Ví dụ:
1/ Trong nhân tố người được giáo dục có thể tồn tại các mâu thuẫn như:
+ Nhận thức và hành động.
Thực tế cho thấy hiện nay vẫn còn nhiều học sinh, sinh viên có nhận thức đúng về
các yêu cầu, chuẩn mực của xã hội nhưng lại chưa có các hành vi, thái độ phù hợp.
+ Mâu thuẫn giữa uóc mơ, hoài bão với khả năng thực hiện.
Một bộ phận không nhỏ người được giáo dục có những khát vọng, ước mơ, hoài bão
lớn lao nhưng lại chưa có đủ năng lực hoặc chưa thực sự nỗ lực thực hiện các mục tiêu đã
đề ra.
2/ Trong bản thân nhà giáo dục vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn như sau:
+ Năng lực sư phạm với khả năng ứng xử.
Bản thân họ có năng lực sư phạm, có hiểu biết sư phạm cao nhưng đôi khi lại có cách
ứng xử chưa phù hợp với học sinh, làm mất uy tín trước học sinh và đồng nghiệp.
+ Năng lực mâu thuẫn với tư cách đạo đức nhà giáo
Giáo viên có năng lực sư phạm, có khả năng thuyết trình, kích thích hứng thú người
nghe, được học sinh ngưỡng mộ nhưng ở trong gia đình họ lại là người con bất hiếu với
cha mẹ, vô trách nhiệm với người thân hoặc có những hành vi vi phạm pháp luật ngoài xã
hội.
4.2.2. Mâu thuẫn bên ngoài
Là mâu thuẫn giữa các nhân tố của quá trình giáo dục với các nhân tố của môi
trường như: Môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật…
Ví dụ:
- Yêu cầu của xã hội mâu thuẫn với người dược giáo dục.
Trong khi yêu cầu của xã hội đối với học sinh, sinh viên với tư cách là sản phẩm của
quá trình giáo dục ngày càng cao về cả phẩm chất và năng lực thì vẫn còn một bộ phận
không nhỏ học sinh, sinh viên chưa đáp ứng được các yêu cầu đó.
- Môi trường kinh tế xã hội mâu thuẫn với người được giáo dục.
Môi trường kinh tế xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu sản phẩm của quá trình giáo
dục phải là những người năng động, linh hoạt, sáng tạo, có khả năng thích ứng với sự biến
động thường xuyên của kinh tế thị trường thì vẫn còn nhiều học sinh, sinh viên thiếu sự
năng động, không có khả năng thích ứng với kinh tế thị trường …
4.3. Mâu thuẫn cơ bản và động lực chủ yếu của quá trình giáo dục.
Các mâu thuẫn bên trong của quá trình giáo dục nếu được giải quyết sẽ tạo động lực
cho quá trình giáo dục. Việc giải quyết các mâu thuẫn bên ngoài chỉ tạo điều kiện cho sự
phát triển của quá trình giáo dục. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, việc giải
quyết những mâu thuẫn bên ngoài cũng có thể tạo động lực cho quá trình giáo dục, đó là
14
khi bản thân người được giáo dục tự ý thức được các yêu cầu ngày càng cao của xã hội và
có sự nỗ lực tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân mình để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, trong hàng loạt các mâu thuẫn trên chỉ có một mâu thuẫn duy nhất được
xem là mâu thuẫn cơ bản của quá trình giáo dục, đó là mâu thuẫn giữa một bên là những
yêu cầu, nhiệm vụ mà nhà giáo dục đề ra cho người được giáo dục ngày càng cao, trong
khi đó trình độ được giáo dục, sự phát triển về nhân cách của một bộ phận không nhỏ
người được giáo dục còn hạn chế trong giai đoạn hiện nay.
Sở dĩ mâu thuẫn này được xem là mâu thuẫn cơ bản vì mâu thuẫn này thường tồn tại
rất lâu trong quá trình giáo dục, khi mâu thuẫn này được giải quyết tức là học sinh đã phấn
đấu vươn lên đạt kết quả tốt trong rèn luyện, đáp ứng yêu cầu của nhà giáo dục thì lập tức
nhà giáo dục sẽ đề xuất các yêu cầu, nhiệm vụ mới cao hơn, buộc người được giáo dục
phải thường xuyên nỗ lực, tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân mình.
Thực tế cho thấy, trong quá trình giáo dục nếu mâu thuẫn cơ bản được giải quyết sẽ
tạo động lực chủ yếu, kích thích, thúc đẩy người được giáo dục vươn lên, khắc phục khó
khăn để thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Tức là nếu người được giáo dục ý
thức được yêu cầu của xã hội đối với bản thân, họ sẽ có động lực thúc đẩy để tự vươn lên
hoàn thiện mình.
4.4. Các điều kiện để mâu thuẫn trở thành động lực của quá trình giáo dục
Mâu thuẫn muốn trở thành động lực của quá trình giáo dục, cần phải thỏa mãn các
điều kiện sau:
- Bản thân người được giáo dục phải tự ý thức được mâu thuẫn và có nhu cầu giải
quyết mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn phải vừa sức với người được giáo dục.
- Mâu thuẫn phải nảy sinh trong quá trình giáo dục.
5. Lôgic của quá trình giáo dục
5.1. Khái niệm lôgic của quá trình giáo dục
Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự thực hiện hợp lý các khâu trong lôgic của
quá trình giáo dục nhằm hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục đã được quy định để đạt được
mục đích giáo dục đã đề ra.
5.2. Các khâu trong lôgic của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn, vì vậy, để hình thành và phát triển bất kỳ một
phẩm chất nhân cách nào, đều phải tác động vào tất các mặt của đời sống tâm lý cá nhân
như: nhận thức, ý chí, tình cảm… Quá trình giáo dục được diễn ra qua 3 khâu như sau:
Khâu thứ nhất: Tổ chức, điều khiển học sinh nắm vững những tri thức về các yêu cầu,
chuẩn mực của xã hội đã được quy định. Trên cơ sở đó hình thành nhận thức đúng đắn
cho học sinh, làm cơ sở cho hành động.
15
Đây là khâu đầu tiên, giúp học sinh sáng tỏ về các chuẩn mực, các quy định của xã
hội, các quy tắc hành vi.
Các chuẩn mực xã hội với những giá trị của chúng, được coi là các phương tiện có
tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong những điều kiện nhất định.
Ngoài ra, chúng còn là một trong những tiêu chí được xã hội sử dụng để kiểm tra, đánh giá
hành vi của các thành viên trong xã hội, đồng thời mỗi cá nhân có thể sử dụng chúng để tự
kiểm tra hành vi của bản thân. Vì thế, quá trình giáo dục trước hết phải làm cho người
được giáo dục nhận thức đúng, đủ, chính xác nội dung của các chuẩn mực, các giá trị về
đạo đức, văn hóa, thẩm mỹ… các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ, bổn phận của các cá
nhân… Từ nhận thức đúng đắn, người được giáo dục sẽ biết nên hành động như thế nào
trong các tình huống đời sống xã hội khác nhau. Nhận thức là thành phần cơ bản của ý
thức cá nhân, là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cá nhân. Nếu có nhận thức đúng,
người được giáo dục sẽ có thể có hành động đúng. Mối quan hệ giữa nhận thức và hành
động có thể diễn ra như sau:

Nhận thức: Hành động:


+ Đúng - Đúng
+ Đúng - Sai
+ Sai - Sai
+ Chưa - Đúng hoặc sai

Quá trình giáo dục là quá trình giúp học sinh phát triển về mặt nhận thức, từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết những điều đơn giản đến phức tạp hơn, cao
hơn để rồi biết vận dụng vào đời sống xã hội.
Quá trình giáo dục làm cho học sinh từ chỗ nhận thức đúng đắn đến hình thành lý
tưởng, tình cảm, niềm tin, thế giới quan, v.v.
Nhận thức đúng là cơ sở để có hành động đúng. Chính quá trình vận dụng, trải
nghiệm những điều đã thu nhận được trong quá trình giáo dục vào các hoạt động thực tiễn
lại củng cố nhận thức, xây dựng ý thức, niềm tin và tình cảm tích cực cho cá nhân. Vì vậy,
nhận thức là kim chỉ nam cho sự hình thành và điều chỉnh hành vi, thái độ của mỗi cá
nhân.
Khâu thứ hai: Bồi dưỡng cho học sinh có niềm tin và những tình cảm đúng đắn, trong
sáng, lành mạnh phù hợp với các quan niệm, chuẩn mực đạo đức, quan hệ ứng xử xã hội.
Trên cơ sở làm cho cá nhân có nhận thức đúng đắn, quá trình giáo dục sẽ hình thành
cho họ tình cảm tích cực và niềm tin cũng như thái độ đúng đắn. Thái độ, tình cảm là sự
biểu hiện cụ thể của quan điểm sống với những giá trị, chuẩn mực xã hội và của bản thân.
Nó có vai trò quan trọng trong việc biến nhận thức thành hành động. Từ nhận thức đến
16
hành động phải có sự thúc đẩy của tình cảm. Tình cảm là sức mạnh tinh thần to lớn để
chuyển hóa nhận thức thành hành động. Với vai trò là động cơ thúc đẩy hành động, các
nhà giáo dục cần phải bồi dưỡng cho học sinh thái độ và tình cảm tốt đẹp. Thực tiễn cho
thấy: Có nhận thức đúng nhưng do tình cảm sai lệch có thể dẫn đến hành động sai, đúng
như ông cha ta đã nói “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”… Điều đó nói lên sự chi phối ngược lại
của tình cảm đối với nhận thức. Để bồi dưỡng, hình thành cho học sinh những tình cảm tốt
đẹp phải dựa vào cơ chế hình thành tình cảm: Tạo cơ hội nảy sinh các xúc cảm đồng loại
và tổng hợp lại. Muốn vậy, phải tạo được các quan hệ thầy-trò tốt đẹp, tạo được nhiều ấn
tượng tình cảm ở học sinh. Nhà giáo dục cần phải chú ý uốn nắn, sửa chữa những xúc cảm,
tình cảm sai lệch, thiếu trong sáng ở học sinh.
Khâu thứ ba: Hình thành và rèn luyện cho học sinh hành vi và thói quen hành vi tốt.
Quá trình giáo dục không chỉ dừng lại ở chỗ nhận thức như thế nào, vấn đề cơ bản là
con người phải biết thể hiện nhận thức bằng hành động. Hành vi đạo đức được thể hiện lặp
đi, lặp lại trong nhiều trường hợp khác nhau và ổn định, được xem là bộ mặt đạo đức của
cá nhân. Trong thực tiễn, vẫn có những trường hợp không có sự thống nhất giữa nhận thức
và hành vi đạo đức như “nói hay, làm dở”, “nói một đằng, làm một nẻo”. Qua đây ta thấy:
Hình thành hành vi và thói quen hành vi, tức là hành vi của cá nhân đã được thực hiện
vững chắc trong mọi trường hợp, là kết quả của quá trình giáo dục và cũng chính là kết quả
của việc thực hiện tốt hai khâu bồi dưỡng nhận thức và tình cảm trong quá trình giáo dục.
Trong thực tiễn giáo dục, nhà giáo dục cần phải căn cứ vào nội dung và các yêu cầu
giáo dục cụ thể, dựa vào đặc điểm cụ thể của đối tượng giáo dục để vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các khâu trong lôgic của quá trình giáo dục.
Ví dụ: Để hình thành cho học sinh ý thức chấp hành luật an toàn giao thông, trước
hết, nhà giáo dục cần giúp học sinh nắm được các quy định của luật an toàn giao thông,
hình thành cho các em niềm tin và tình cảm đúng đắn đối với các quy định đó. Trên cơ sở
đó, hình thành và rèn luyện cho học sinh thói quen chấp hành nghiêm chỉnh luật an toàn
giao thông…
Tóm lại: Ba khâu (nhận thức, tình cảm, hành vi và thói quen hành vi) trong quá trình
giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Khi vận
dụng, nhà giáo dục cần phải tùy theo đặc điểm tâm-sinh lý, trình độ nhận thức, vốn kinh
nghiệm sống của học sinh, dựa vào các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể để lựa chọn và vận
dụng linh hoạt các khâu nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
6. Tự giáo dục và giáo dục lại
6.1. Tự giáo dục
Tự giáo dục là một bộ phận của quá trình giáo dục. Đó là một hoạt động có ý thức, có
mục đích của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện các phẩm chất nhân cách của bản thân theo
những định hướng giá trị nhất định.
17
Ví dụ: Học sinh thần tượng một nhân vật nào đó trong phim ảnh hoặc trong các tác
phẩm văn học nào đó, các em sẽ tự giáo dục, tự rèn luyện mình để có được các phẩm chất,
nhân cách như thần tượng của mình.
Thực tế cho thấy, nhu cầu tự giáo dục của cá nhân được nảy sinh và phát triển theo
những lứa tuổi khác nhau, các giai đoạn khác nhau và mỗi cá nhân cũng có sự khác biệt.
Ví dụ: Trẻ mẫu giáo thường hay bắt chước vẻ bề ngoài của cô giáo, của mẹ và những
người gần gũi, thân thiết với trẻ.
Đến tuổi trung học cơ sở, nhu cầu tự giáo dục của các em đã phát triển lên một bước
nhảy vọt, trở nên mạnh mẽ, ví dụ khi xem biểu diễn thể hình, do ngưỡng mộ một vận động
viên nào đó, các em có thể kiên trì luyện tập để có được cơ thể cường tráng như nhân vật
mà các em ngưỡng mộ.
Học sinh trung học phổ thông đã có sự tự ý thức về nghề nghiệp của mình trong
tương lai nên các em sẽ phấn đấu nỗ lực hết sức để thực hiện được ước mơ, hoài bão của
mình.
Quá trình tự giáo dục của học sinh thường bao gồm các yếu tố sau:
- Năng lực tự ý thức bản thân: Năng lực này thể hiện ở chỗ học sinh phải có khả năng
nhận thức được về sự phát triển nhân cách của bản thân mình hoặc về một phẩm chất, năng
lực hay thói quen nào đó cần được phát triển hơn hoặc cần phải sửa đổi cho phù với vị trí
xã hội của bản thân hoặc yêu cầu của lớp, trường và xã hội.
Ví dụ: Một học sinh chưa có biểu hiện gì nổi bật nhưng được tập thể lớp bầu vào ban
cán sự lớp. Sau khi được các bạn trong lớp góp ý cũng như tự so sánh, đối chiếu với bản
thân, học sinh đó tự điều chỉnh lại các hành vi, thói quen của mình cho phù hợp với tư cách
của một cán bộ lớp. Như vậy, năng lực tự ý thức này sẽ thôi thúc học sinh đó vươn lên tự
khắc phục những hạn chế của bản thân mình để xứng đáng với lòng tin của thầy, cô và bạn
bè.
- Năng lực tổ chức quá trình tự giáo dục. Năng lực này bao gồm:
+ Lập kế hoạch: Tức là người được giáo dục phải tự đặt ra cho mình các yêu cầu, nội
dung, mục tiêu cần đạt, đồng thời phải biết dự kiến thời gian hoàn thành kế hoạch đặt ra.
Phải tự cam kết phấn đấu, rèn luyện cho được những phẩm chất, hành vi, thói quen cần
thiết.
Không những vậy, họ còn phải lựa chọn các cách, biện pháp, phương tiện để thực
hiện các cam kết do bản thân tự đề ra.
+ Sự nỗ lực của bản thân: Việc đề ra các mục tiêu phấn đấu không khó song làm thế
nào để đạt được các mục tiêu đó, đòi hỏi người được giáo dục phải có ý chí, nghị lực,
quyết tâm cao độ để khắc phục những khó khăn, trở ngại, từ đó có thể hình thành cho mình
các phẩm chất và năng lực cần thiết.

18
Thực tế cho thấy, một bộ phận học sinh, sinh viên thường có mâu thuẫn giữa một bên
là lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn lao, mục tiêu xác định đúng đắn nhưng do không chiến
thắng được bản thân, dễ bị lôi kéo vào các trò chơi, phim ảnh, mạng xã hội nên những mục
tiêu lớn lao đó dù rất lý tưởng nhưng không trở thành hiện thực.
+ Sự tự kiểm tra của bản thân: Sau mỗi quá trình tự giáo dục, người được giáo dục
phải tự đối chiếu, so sánh bản thân mình với các mục tiêu đề ra xem đã đạt được những
yêu cầu nào, còn những gì chưa đạt được, cần phải cố gắng phấn đấu. Chỉ có như vậy họ
mới có thể đạt được những hoài bão của cá nhân.
6.2. Giáo dục lại
Do ảnh hưởng xấu của môi trường xã hội, bạn bè hoặc gia đình, cũng có thể do
những thiếu sót, sai lầm trong phương pháp giáo dục mà một bộ phận thanh, thiếu niên đã
có những hành vi lệch chuẩn. Những hành vi lệch chuẩn này cần phải được giáo dục lại để
uốn nắn, điều chỉnh thành những phẩm chất, hành vi phù hợp với yêu cầu, quy định của xã
hội, trên cơ sở đó giúp các em trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội.
Giáo dục lại là một quá trình được tổ chức một cách khoa học, có chương trình, kế
hoạch, có nội dung, phương pháp, phương tiện trong một môi trường giáo dục đặc biệt, có
sự tổ chức, hướng dẫn tận tình, chu đáo, nghiêm khắc của các nhà giáo dục nhằm giúp
người được giáo dục điều chỉnh các hành vi sai lệch để có thể trở thành những người có
ích cho gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, giáo dục lại là một quá trình khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều so với quá
trình giáo dục bình thường. Vì khi những tật xấu đã trở thành thói quen, những suy nghĩ
sai lầm đã trở thành quan điểm sống của các em thì việc từ bỏ chúng không phải một sớm,
một chiều, mà nó đòi hỏi phải có sự kiên trì, nhẫn nại, sự quyết tâm cao độ, ý chí, nghị lực
của đối tượng cần được giáo dục lại và sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các nhà giáo dục
và phải được tiến hành trong môi trường đặc biệt: vừa giáo dục, vừa cải tạo nhẹ tại trung
tâm giáo dưỡng. Khi tiến hành giáo dục lại các đối tượng này, các nhà giáo dục cần phải
tìm hiểu kỹ các nguyên nhân gây ra những sai lệch trong quá trình phát triển nhân cách, từ
đó áp dụng các biện pháp tác động phù hợp. Các biện pháp này phải được sử dụng một
cách khoa học, hợp lý.
TÓM TẮT NỘI DUNG CHƯƠNG 1
Sinh viên cần nắm vững các nội dung cơ bản như sau:
1. Khái niệm và cấu trúc của quá trình giáo dục
2. Bản chất của quá trình giáo dục
3. Đặc điểm của quá trình giáo dục
4. Động lực của quá trình giáo dục
5. Lôgic của quá trình giáo dục
6. Tự giáo dục và giáo dục lại.
19
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC
1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp giáo dục
1.1. Phương pháp giáo dục là gì?
Như chúng ta đã biết, phương pháp giáo dục là một thành tố quan trọng trong cấu
trúc của quá trình giáo dục, có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của quá trình này,
đặc biệt với mục đích, nội dung, người giáo dục, người được giáo dục và các điều kiện để
thực hiện quá trình này.
Vấn đề về phương pháp giáo dục được nhiều nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Vậy
các nhà giáo dục quan niệm như thế nào về phương pháp giáo dục?
Theo Giáo sư Hà Thế Ngữ và Giáo sư Đặng Vũ Hoạt thì: Phương pháp giáo dục là
phương thức hoạt động gắn bó với nhau của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm
giải quyết những nhiệm vụ hình thành nhân cách XHCN. Đó là những phương thức tác
động của nhà sư phạm và của tập thể trẻ em đến học sinh, đến việc tổ chức một cách hợp
lý về mặt sư phạm hoạt động và giao lưu của học sinh và những phương thức tự tổ chức
hoạt động và giao lưu của học sinh nhằm hình thành ý thức, bồi dưỡng tình cảm, hình
thành kỹ xảo và thói quen hành vi của nhân cách XHCN.
Phó giáo sư Phạm Viết Vượng lại cho rằng: Phương pháp giáo dục là cách thức tác
động của các nhà giáo dục lên đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất
nhân cách cần thiết.
Phó giáo sư Hà Thị Đức cũng đã khẳng định: Phương pháp giáo dục là cách thức tổ
chức, điều khiển và tự tổ chức, tự điều khiển các loại hình hoạt động phong phú và đa
dạng của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục phù hợp với mục
đích, mục tiêu giáo dục.
Tóm lại: Phương pháp giáo dục là một tổ hợp các cách thức hoạt động của nhà giáo
dục và người được giáo dục, được thực hiện trong sự phối hợp thống nhất với nhau, nhằm
thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, hoàn thành mục đích giáo dục đã đề ra.
Ví dụ: Phương pháp nêu gương:
- Chọn những tấm gương điển hình phù hợp với mục tiêu giáo dục.
- Chọn khía cạnh nêu gương.
- Chọn thời điểm thích hợp để nêu gương.
- Theo dõi thái độ, hành vi của học sinh khi được nêu gương.
- Giúp học sinh tiến bộ hơn sau khi được nêu gương.

Như vậy, phương pháp giáo dục phản ánh mối quan hệ phối hợp thống nhất giữa các
cách thức hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục. Nếu không có sự phối hợp
thống nhất này, hiệu quả giáo dục sẽ không đạt được.

20
Ví dụ: Nhà giáo dục nêu gương nhưng học sinh không tiếp thu, không học tập gương
sáng đó….
Trong quá trình sử dụng phương pháp giáo dục, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo.
Họ là người tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục, là người lựa chọn nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục , đồng thời là người kiểm tra, đánh giá
quá trình giáo dục.
Còn học sinh là người tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện các yêu cầu
của nhà giáo dục cũng như để tự giáo dục, tự vận động và phát triển theo các mục tiêu
nhân cách đã được xác định.
Tuy nhiên, vai trò tự giác, tích cực và chủ động của đối tượng giáo dục phải được đặt
dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục. Nếu không, quá trình tự giáo dục của học sinh sẽ
mất phương hướng và không có hiệu quả. Ngược lại, nếu nhà giáo dục áp đặt, không phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của học sinh thì sẽ tạo nên những con người rập khuôn, máy
móc, thụ động.
1.2. Các đặc điểm của phương pháp giáo dục
- Phương pháp giáo dục phụ thuộc vào mục đích giáo dục: Bởi vì mục đích giáo dục
khác nhau sẽ có những phương pháp giáo dục khác nhau. Mỗi mục đích giáo dục sẽ có một
hệ thống các phương pháp giáo dục tương ứng. Khi mục đích giáo dục thay đổi thì phương
pháp giáo dục cũng phải thay đổi theo.
Ví dụ: Trong chế độ Phong kiến ở Việt Nam, mục đích giáo dục của xã hội phong
kiến là đào tạo ra những con người tuyệt đối trung thành với giai cấp thống trị, những
người chỉ biết phục tùng vô điều kiện theo kiểu: “Quân bức thần tử, thần bất tử, bất trung”
hoặc “Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”, nên phương pháp giáo dục trong xã hội
phong kiến chủ yếu là áp đặt, cưỡng bức…
Hiện nay mục đích giáo dục của xã hội ta là đào tạo ra những người sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì phương pháp giáo dục cũng phải khác. Chúng ta
phải thuyết phục, phải tổ chức hoạt động để học sinh được trải nghiệm, qua đó có thể phát
huy hết những tiềm năng sẵn có của bản thân.
Phương pháp giáo dục phụ thuộc vào mục đích giáo dục, vì vậy khi lựa chọn và sử
dụng các phương pháp giáo dục cần phải căn cứ vào mục đích giáo dục của một xã hội cụ
thể. Ngược lại, phương pháp giáo dục là điều kiện, là cách thức để thực hiện mục đích giáo
dục của xã hội đã đề ra.
- Phương pháp giáo dục phụ thuộc vào nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục khác
nhau sẽ phải sử dụng phương pháp giáo dục khác nhau. Mỗi nội dung giáo dục phải có một
hệ thống phương pháp giáo dục chuyển tải riêng mới đạt được hiệu quả cao. Vì vậy các
nhà giáo dục phải căn cứ vào nội dung giáo dục cụ thể để lựa chọn phương pháp giáo dục
cho phù hợp.
21
Ví dụ: Để giáo dục đạo đức cho học sinh, cần phải sử dụng các phương pháp thuyết
phục để hình thành cho học sinh niềm tin và các tình cảm tích cực, trên cơ sở đó phải tổ
chức các hoạt động cho học sinh để hình thành cho các em hành vi và thói quen hành vi.
Phải theo dõi học sinh để có sự động viên, khích lệ hoặc uốn nắn, sửa chữa kịp thời.
Nhưng nếu giáo dục từng mặt riêng của đạo đức, nhà giáo dục lại phải sử dụng các phương
pháp khác nhau, chuyên biệt.
Ví dụ: Muốn hình thành cho học sinh các hành vi, thói quen hành vi thì nhất thiết
phải sử dụng các phương pháp tập thói quen, rèn luyện, giao công việc, thi đua, nêu
gương, khen thưởng, trách phạt…
- Phương pháp giáo dục nhằm tác động vào từng khâu hoặc tất cả các khâu của quá
trình giáo dục. Vì vậy mỗi khâu của quá trình giáo dục cũng đòi hỏi phải có phương pháp
riêng.
Ví dụ: Muốn hình thành nhận thức cho học sinh để các em có nhận thức đúng đắn,
biết phân biệt đúng, sai, phải, trái thì phải sử dụng các phương pháp như: Đàm thoại, giảng
giải, nêu gương,… Còn muốn hình thành cho học sinh hành vi và thói quen hành vi lại
phải sử dụng chủ yếu các phương pháp luyện tập, rèn luyện…
- Phương pháp giáo dục phụ thuộc vào đối tượng giáo dục: Mỗi con người là một thế
giới riêng với những nét độc đáo về đặc điểm tâm, sinh lý, đặc điểm cá tính, điều kiện sinh
sống và học tập, hoàn cảnh gia đình, kinh nghiệm cá nhân, năng lực, sở trường,… Vì vậy
đối với mỗi đối tượng, mỗi loại đối tượng, nhà giáo dục cần phải sử dụng các phương pháp
giáo dục khác nhau. Mỗi đối tượng có một cách giáo dục riêng, không có phương pháp
giáo dục chung hữu hiệu cho mọi đối tượng.
Ví dụ: Những học sinh có lòng tự trọng cao, hay tự ái, cần phải sử dụng các phương
pháp tác động nhẹ nhàng như thuyết phục. Nhưng nếu đối tượng giáo dục ương bướng, lì
lợm thì phải sử dụng những phương pháp tác động mạnh như “Bùng nổ sư phạm” hoặc
“Tác động song song”.
- Phương pháp giáo dục liên quan chặt chẽ với phương tiện, điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của quá trình giáo dục.
Phương pháp giáo dục sử dụng các phương tiện giáo dục để tác động vào nhân cách
học sinh. Vì vậy phương tiện giáo dục càng đa dạng, phong phú, càng thuận lợi cho việc
lựa chọn phương pháp giáo dục và lại càng có điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục.
Ngoài ra, trong những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống khác nhau cũng phải lựa
chọn phương pháp giáo dục khác nhau. Giáo dục ở thành phố, nông thôn, miền núi cũng
phải sử dụng các phương pháp giáo dục khác nhau. Nhà giáo dục phải căn cứ vào phong
tục, tập quán, truyền thống văn hóa, đặc điểm tôn giáo,… của từng vùng, miền khác nhau,
căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để tiến hành giáo dục.
- Phương pháp giáo dục liên quan chặt chẽ với hình thức tổ chức giáo dục.
22
Thực tế cho thấy, phương pháp giáo dục không thể tách rời hình thức tổ chức giáo
dục, nhiều khi chúng hòa quyện vào nhau. Mỗi hình thức giáo dục phải lựa chọn những
phương pháp giáo dục thích hợp.
Ví dụ: Khi tổ chức hình thức giáo dục toàn trường thì không nên sử dụng phương
pháp giảng giải và khuyên răn hay đàm thoại, tranh luận vì mất thời gian mà hiệu quả
không cao. Ngược lại, với hình thức tổ chức giáo dục cá nhân, không nên sử dụng phương
pháp khen thưởng…
- Phương pháp giáo dục còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực, uy tín, kinh nghiệm, vị
thế… của nhà giáo dục. Bởi vì đứng trước đối tượng giáo dục như nhau, trong các điều
kiện, hoàn cảnh như nhau nhưng các nhà giáo dục sẽ phải sử dụng các phương pháp giáo
dục khác nhau. Thậm chí hai nhà giáo dục khác nhau cùng sử dụng một phương pháp
nhưng họ sẽ sử dụng các biện pháp khác nhau, vì vậy kết quả đạt được đôi khi cũng rất
khác nhau.
Ví dụ: Để phạt những học sinh vi phạm kỷ luật của nhà trường, cùng sử dụng phương
pháp trách phạt, nhưng giáo viên A dùng lời lẽ gay gắt,chỉ trích, lên án, xúc phạm học
sinh, học sinh sợ nhưng không phục, học sinh có thể không tái phạm nhưng mối quan hệ
giáo viên - học sinh sẽ bị sứt mẻ. Ngược lại, giáo viên B dùng lời lẽ nhẹ nhàng, phân tích
cho các em thấy tác hại của những việc làm sai trái của mình, nhắc nhở, phê bình nhưng
kèm theo động viên, khích lệ để các em không lặp lại sai lầm. Hiệu quả giáo dục tất yếu sẽ
cao hơn.
Tóm lại: Phương pháp giáo dục rất đa dạng, phong phú, phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau của quá trình giáo dục. Nhà giáo dục cần phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các
phương pháp cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
2. Hệ thống các phương pháp giáo dục
2.1. Phân loại hệ thống các phương pháp giáo dục.
Hiện nay đang tồn tại nhiều cách phân loại khác nhau:
a/ Dựa vào các khâu của quá trình giáo dục, có các nhóm phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp tác động vào nhận thức, thái độ của người được giáo dục.
- Nhóm các phương pháp hình thành hành vi, thói quen.
- Nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh nhằm củng cố kết quả của hai
nhóm trên.
b/ Dựa vào bản chất của quá trình giáo dục, bao gồm các nhóm phương pháp :
- Các phương pháp tổ chức cuộc sống cho học sinh.
- Các phương pháp tổ chức các loại hình hoạt động cho học sinh.
- Các phương pháp tổ chức hoạt động và giao lưu cho học sinh.
c/ Căn cứ vào các quá trình tâm lý của cá nhân, có các nhóm phương pháp như:
- Các phương pháp hình thành tri thức về các chuẩn mực xã hội.
23
- Các phương pháp hình thành tình cảm.
- Các phương pháp rèn luyện ý chí.
Các tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt chia các phương pháp giáo dục thành 3
nhóm:
Nhóm1: Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động xã hội và tích lũy các kinh
nghiệm ứng xử xã hội cho học sinh.
Nhóm 2: Nhóm các phương pháp hình thành ý thức cho các cá nhân học sinh.
Nhóm 3: Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng xử.
PGS. TS Phạm Viết Vượng cũng chia các phương pháp giáo dục thành 3 nhóm với
các tên gọi như sau:
- Nhóm phương pháp giáo dục ý thức
- Nhóm phương pháp giáo dục hành vi, thói quen
- Nhóm phương pháp điều chỉnh thái độ, tình cảm
Nhóm tác giả Phan Thanh Long, Trần Quang cấn và Nguyễn Văn Diện chia hệ thống
các phương pháp giáo dục thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Các phương pháp thuyết phục
- Nhóm 2: Các phương pháp tổ chức hoạt động nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo,
hành vi và thói quen
- Nhóm 3: Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
Mỗi cách phân loại đều có ưu, nhược điểm nhất định. Song hầu hết các tác giả đều
thống nhất cho rằng, hệ thống các phương pháp giáo dục gồm 3 nhóm. Các phương pháp
trong mỗi nhóm đa số đều phù hợp với tên gọi và nội dung. Các phương pháp có sự đa
dạng, việc sắp xếp các phương pháp hợp lý. Tuy nhiên các phương pháp còn có sự trùng
lặp, một số phương pháp tên gọi trùng lặp với phương pháp dạy học nên dễ gây nhầm lẫn.
Dựa vào các cách phân loại trên, chúng tôi xin đưa ra cách phân loại hệ thống các
phương pháp giáo dục như sau:
2.2. Hệ thống các phương pháp giáo dục
Nhóm 1: Nhóm các phương pháp hình thành ý thức và tình cảm cá nhân (các phương
pháp thuyết phục)
Nhóm này bao gồm các phương pháp sau:
1/ Phương pháp đàm thoại
a/ Khái niệm: Phương pháp đàm thoại là phương pháp trò chuyện, trao đổi giữa nhà
giáo dục và người được giáo dục về các chủ đề có liên quan đến các chuẩn mực xã hội
nhằm làm sáng tỏ các khái niệm đạo đức, thẩm mỹ… những biểu hiện sai lầm, có tác dụng
củng cố nhận thức, tình cảm và niềm tin cho học sinh.
b/ Tác dụng của đàm thoại:

24
Thông qua đàm thoại, nhà giáo dục có thể kịp thời nắm bắt tâm tư, tình cảm, vốn
kinh nghiệm của từng học sinh, trên cơ sở đó có những tác động giáo dục thích hợp và cần
thiết đối với các em.
c/ Các hình thức đàm thoại:
- Đàm thoại tự nhiên: Là cuộc đàm thoại được tiến hành một cách tự nhiên, không
tập trung vào một chủ đề nhất định. Trong cuộc đàm thoại, các ý kiến thường được bộc lộ
trong những bối cảnh không được chuẩn bị trước, diễn ra trong các tình huống của cuộc
sống hàng ngày hoặc qua các cuộc tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh trong và ngoài giờ
học.
- Đàm thoại theo chủ đề: Là loại đàm thoại mà những câu hỏi được xoay quanh một
chủ đề nhất định. Những chủ đề này có thể đã được thông báo trước cho người được giáo
dục với mục đích lôi cuốn người được giáo dục tham gia vào các sự kiện, hiện tượng trong
xã hội. Trên cơ sở đó hình thành cho họ ý thức, thái độ đúng đắn đối với hiện thực cuộc
sống.
Đàm thoại có thể tiến hành với một học sinh, một nhóm hoặc cả tập thể học sinh.
d/ Các yêu cầu cần đảm bảo khi tiến hành đàm thoại:
- Chủ đề đàm thoại nên thông báo trước cho học sinh để học sinh có thời gian chuẩn
bị các ý kiến theo quan điểm của mình.
- Chuẩn bị kỹ các câu hỏi, vấn đề, sự kiện, câu chuyện thật sinh động, hấp dẫn, sâu
sắc và có ý nghĩa giáo dục.
- Các đề tài phải mang tính thiết thực, tập trung vào các vấn đề bức xúc trong xã hội
để thu hút hứng thú của học sinh.
- Khi bắt đầu cuộc đàm thoại cần tạo không khí thân mật, cởi mở, tự nhiên giữa
người nói và người nghe, cần cung cấp cho người được giáo dục các tài liệu và đặt ra các
câu hỏi để các em suy nghĩ và tự trả lời.
- Khi đàm thoại cần phải biết khêu gợi, tạo tình huống có vấn đề để lôi cuốn học sinh
tham gia.
- Nhà giáo dục phải biết cách bộc lộ quan điểm, tình cảm của mình, khéo léo gợi ý để
người được giáo dục tự rút ra những quan điểm phù hợp với các giá trị đạo đức, thẩm mỹ.
- Cuối buổi đàm thoại nên đánh giá tổng kết, chốt lại những quan điểm, những giải
pháp đúng đắn để học sinh noi theo.
- Nếu đàm thoại với cá nhân học sinh, nhà giáo dục cần hiểu biết sâu sắc hoàn cảnh,
đặc điểm cá tính của học sinh, những vấn đề cụ thể chưa được giải quyết trong nhận thức,
tư tưởng và tình cảm của các em. Làm cho học sinh tin tưởng nhà giáo dục và mong muốn
được nhà giáo dục chia sẻ, giúp họ tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.

25
- Khi đàm thoại với học sinh cá biệt, nhà giáo dục cần hết sức thận trọng, tế nhị trong
cách nhận định, đánh giá học sinh, thật sự thông cảm, tôn trọng các em, các lời lẽ đưa ra
cần có lý, có tình, tránh rập khuôn, máy móc.
- Nếu tư vấn cho học sinh, nhà giáo dục phải cung cấp cho người được giáo dục
những thông tin khách quan, đầy đủ, giúp họ thay đổi những quan niệm lệch lạc, giúp họ
hiểu biết thêm, giúp họ giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc mà họ đang gặp phải.
- Nếu đàm thoại với tập thể học sinh, nhà giáo dục cần dẫn dắt, gợi ý, định hướng cho
học sinh những vấn đề cần tranh luận và giải quyết nhưng không nên vội vàng phê phán,
tán dương hoặc phủ nhận những quan điểm sai lầm của học sinh, buộc các em phải chấp
nhận quan điểm của mình.
2/ Phương pháp giảng giải và khuyên răn
a/ Khái niệm:
Là phương pháp nhà giáo dục dùng lời nói để thông báo, phân tích, giải thích, chứng
minh tính đúng đắn của các chuẩn mực đã được xã hội quy định, giúp người được giáo dục
nắm vững ý nghĩa, nội dung và cách thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực về văn hóa,
đạo đức và lối sống, hình thành ở học sinh niềm tin và mong muốn thực hiện chúng.
b/ Tác dụng:
Phương pháp này thường được tiến hành trong trường hợp người được giáo dục
không nhận thức được những điều cần phải làm và những việc cần phải tránh, giúp họ
nhận ra điều cần phải thực hiện và ý thức về chúng. Nhờ vậy người được giáo dục có cơ
hội lĩnh hội một cách tích cực những chuẩn mực xã hội, hình thành được tình cảm, niềm
tin để có thể tự giác thực hiện các chuẩn mực này với thái độ và động cơ đúng đắn.
c/ Các yêu cầu khi tiến hành:
- Nhà giáo dục cần phải chuẩn bị tốt nội dung vấn đề cần giảng giải: Nội dung giảng
giải phải là những nội dung chuẩn mực, những giá trị đạo đức, thẩm mỹ cần hình thành
cho học sinh, giúp các em hiểu được ý nghĩa của các chuẩn mực và cách thực hiện chúng.
Nội dung chuẩn mực phải hấp dẫn, lôi cuốn được sự chú ý của người nghe, gắn với thực tế
của đất nước, cuộc sống và hoạt động của học sinh, kinh nghiệm của các em.
Nội dung giảng giải cần làm rõ 3 vấn đề:
+ Chuẩn mực đó là gì?
+ Tại sao phải thực hiện các chuẩn mực ấy?
+ Thực hiện các chuẩn mực ấy như thế nào?
- Căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi và kinh nghiệm của học sinh để xây dựng
các nội dung giảng giải cho phù hợp.
- Khi giảng giải, nhà giáo dục phải dùng lời nói rõ ràng, mạch lạc, khúc triết, không
lan man, dài dòng.
- Lập luận đưa ra phải chính xác, lôgic, dễ hiểu…
26
- Nên minh họa bằng tranh ảnh, hình ảnh hoặc các ví dụ thực tế, những gương điển
hình, gần gũi với học sinh.
- Thái độ của nhà giáo dục phải chân thành, thiện chí, tôn trọng học sinh, đồng cảm
với các em.
- Cần thu hút người được giáo dục tham gia vào quá trình giảng giải.
- Kết thúc giảng giải phải đưa ra những kết luận ngắn gọn, súc tích về các chuẩn mực
để học sinh dễ nhớ, dễ hiểu, dễ hình dung và vận dụng trong thực tiễn cuốc sống.
3/ Phương pháp nêu gương
Khái niệm: Nêu gương là phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục dùng những
tấm gương sáng của cá nhân, tập thể hoặc bằng chính hành động của bản thân trong cuộc
sống thực tiễn, trong sách vở, báo chí, trong các phương tiện thông tin đại chúng để kích
thích tính tích cực hoạt động, tu dưỡng rèn luyện của đối tượng giáo dục, động viên,
khuyến khích họ phấn đấu làm theo những tấm gương đó.
Đặc điểm tâm lý của học sinh là hay bắt chước - bắt chước cả cái tốt lẫn cái xấu,
thậm chí những điều xấu được học sinh học rất nhanh. Các em học sinh, đặc biệt là học
sinh tiểu học và trung học cơ sở thường hay thần tượng những người các em yêu thích. Vì
vậy việc nêu những tấm gương tốt để các em bắt chước và làm theo là một phương pháp
giáo dục rất quan trọng.
Thực tế cho thấy, quá trình bắt chước của trẻ thường diễn ra như sau:
- Từ bắt chước các hình mẫu gần gũi như ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình,
bạn bè… đến những hình mẫu xa như các nhân vật trong truyện, trong phim ảnh, các ca sỹ,
người mẫu, nhà kinh doanh… mà các em ngưỡng mộ.
- Từ chỗ bắt chước một cách vô thức đến bắt chước một cách có chủ định, có ý thức.
- Từ bắt chước một cách nguyên mẫu, máy móc đến bắt chước có sáng tạo.
- Từ bắt chước trong trò chơi đến bắt chước trong cuộc sống.
Vì vậy khi sử dụng phương pháp nêu gương, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nhà giáo dục cần phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung giáo dục mà lựa chọn những
tấm gương điển hình để giáo dục học sinh. Tuy nhiên, không nên chỉ sử dụng những tấm
gương tốt, những tấm gương chính diện mà còn phải biết sử dụng cả những tấm gương
phản diện để cảnh báo, răn đe, ngăn ngừa những hành vi sai trái có thể xảy ra ở học sinh.
- Bản thân mỗi nhà giáo dục cũng phải là tấm gương sáng về đạo đức, tác phong, lối
sống để các em noi theo.
- Nên lựa chọn những tấm gương gần gũi với cuộc sống của các em như bạn bè cùng
lớp, cùng trường, những người cùng quê… Không nên chọn những tấm gương xa vời,
thiếu thực tế, những tấm gương quá lý tưởng, vì điều đó có thể làm nhụt chí phấn đấu của
các em.

27
- Khi nêu gương nên sử dụng kèm theo các phương pháp giáo dục khác như : Đàm
thoại, giải thích về các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và văn hóa xã hội để học sinh dễ tiếp
thu.
- Giúp học sinh biết tiếp thu có phê phán và chọn lọc các tấm gương được nêu cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân.
4/ Phương pháp kể chuyện
a/ Khái niệm: Là phương pháp giáo viên dùng lời nói, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt cũng
có thể sử dụng kèm theo các phương tiện trực quan để kể lại, thuật lại một cách sinh động
một câu chuyện nào đó có ý nghĩa giáo dục để giáo dục học sinh.
b/ Tác dụng: Phương pháp này có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt đối với học sinh
nhỏ bởi vì thông qua nội dung câu chuyện và cách thức kể chuyện của nhà giáo dục có thể
hình thành và phát triển được ở học sinh những xúc cảm tích cực và niềm tin đúng đắn.
Ngoài ra học sinh còn có thể học tập được những gương tốt, tránh được gương xấu với óc
phê phán, nhận xét và đánh giá.
c/ Các vấn đề cần lưu ý khi sử dụng:
- Nhà giáo dục cần phải lựa chọn những câu chuyện có nội dung sinh động, hấp dẫn,
chứa đựng nhiều tình huống giáo dục cần thiết.
- Khối lượng câu chuyện phải phù hợp với thời gian và đặc điểm tâm , sinh lý, trình
độ nhận thức của người được giáo dục.
- Lời nói phải sinh động, diễn cảm, điệu bộ, giọng nói nét mặt phải luôn luôn thay đổi
cho phù hợp với tình tiết của cốt truyện, gây được sự chú ý và những xúc cảm mạnh mẽ,
sâu sắc ở người được giáo dục.
- Khi kể chuyện nên sử dụng kèm theo tranh ảnh, mô hình, băng hình…để minh họa
cho hấp dẫn, gây ấn tượng cho người nghe.
- Trong khi kể chuyện cần phải nêu bật được những chi tiết, những tình huống cơ bản
của nội dung câu chuyện giúp người nghe không bị phân tán tư tưởng vào những chi tiết
vụn vặt.
- Cần phải theo dõi nét mặt, thái độ của người nghe để kịp thời điều chỉnh cách kể
chuyện.
- Sau khi kể chuyện xong có thể yêu cầu học sinh nhận xét về các nhân vật trong câu
chuyện, cũng có thể yêu cầu học sinh tự rút ra những bài học cho bản thân.
Nhóm 2 : Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động để hình thành kinh nghiệm ứng
xử xã hội cho người được giáo dục.
Nhóm này bao gồm các phương pháp sau :
1/ Phươg pháp giao công việc
a/ Khái niệm: Phương pháp giao công việc là phương pháp lôi cuốn người được giáo
dục vào các hoạt động đa dạng với những công việc cụ thể, với những ý nghĩa xã hội nhất
28
định. Qua đó người được giáo dục sẽ có điều kiện để thể hiện những kinh nghiệm ứng xử
trong các mối quan hệ đa dạng và hình thành các hành vi ứng xử phù hợp với các yêu cầu
của công việc được giao.
b/ Tác dụng:
Phương pháp này nếu được sử dụng phù hợp sẽ có các tác dụng như sau:
+ Giúp người được giáo dục có điều kiện bộc lộ năng lực của bản thân, tạo điều kiện
để họ thích ứng với công việc được giao, được thử nghiệm bản thân trong các điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau. Hình thành cho họ kỹ năng thích ứng.
+ Giúp nhà giáo dục phát hiện năng khiếu của người được giáo dục, từ đó có thể phát
triển để hình thành cho họ kỹ năng, kỹ xảo.
+ Giao công việc cho học sinh, tức là nhà giáo dục tỏ ra tin tưởng học sinh của mình,
tin tưởng năng lực, tinh thần trách nhiện,…của người được giáo dục. Học sinh sẽ nỗ lực
hoàn thành nhiệm vụ, xứng đáng với lòng tin của nhà giáo dục.
c/ Các yêu cầu cần đảm bảo:
Muốn sử dụng phương pháp này đạt hiệu quả cao, nhà giáo dục cần phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
+ Những công việc giao cho học sinh phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý, khả
năng, trình độ nhận thức, kinh nghiệm cũng như hứng thú, nguyện vọng của học sinh.
+ Làm cho người được giáo dục hiểu được giá trị xã hội của việc được giao, giải
thích để học sinh hiểu được ý nghĩa của việc được giao đối với tập thể, từ đó có thể nâng
cao tinh thần trách nhiệm của các em đối với công việc được giao.
+ Có thể để tập thể giao việc cho cá nhân với những yêu cầu rõ ràng nhằm tạo cơ hội
cho học sinh phát huy năng lực tự quản và tính tích cực đối với công việc được giao.
+ Giao việc cho học sinh nhưng phải kết hợp với theo dõi, giúp đỡ, khích lệ, động
viên kịp thời.
+ Cần kiểm tra, đánh giá công khai kết quả hoàn thành công việc được giao của cá
nhân hay tập thể và những người được giáo dục.
2/ Phương pháp đòi hỏi sư phạm:
a/ Khái niệm: Đòi hỏi sư phạm là một phương pháp giáo dục trong đó nhà giáo dục
nêu lên những yêu cầu đòi hỏi đối với cá nhân và tập thể học sinh, tổ chức và giám sát việc
thực hiện các yêu cầu đó ở học sinh nhằm đạt được mục đích giáo dục đã đề ra.
b/ Tác dụng: Phương pháp này bao gồm nhiều hoạt động phối hợp giữa nhà giáo dục
và người được giáo dục, trong đó nhà giáo dục nêu lên các yêu cầu về mặt giáo dục, biến
các yêu cầu đó thành những nhu cầu thực hiện của chính bản thân người được giáo dục,
đồng thời phải tổ chức, giám sát, điều chỉnh người được giáo dục thực hiện các yêu cầu đó
một cách tự giác, độc lập, sáng tạo.

29
- Các yêu cầu của nhà giáo dục thực chất là hệ thống các quy định và các chuẩn mực
xã hội đòi hỏi người được giáo dục phải tuân theo trong khi tham gia các hoạt động và các
mối quan hệ hàng ngày. Hệ thống các chuẩn mực đó thường được cụ thể hóa dưới dạng:
+ Các quy tắc, quy định về hoạt động của học sinh trong học tập, lao động, hoạt động
thể dục, thể thao …
+ Các quy tắc ứng xử của học sinh trong quan hệ với những người được tiếp xúc
hàng ngày như ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo…
+ Các quy định về hành vi đối với tập thể, các tổ chức xã hội,… và biến chúng thành
những đòi hỏi của học sinh.
Vì vậy sử dụng phương pháp này có thể hình thành và rèn luyện cho học sinh các
hành vi và thói quen tốt, ý thức nghiêm chỉnh chấp hành các qui định của nhà trường và xã
hội.
c/ Khi sử dụng phương pháp này nhà giáo dục cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Cần phải xác định nội dung của những đòi hỏi sư phạm. Nội dung đòi hỏi cần xuất
phát từ nhiệm vụ giáo dục, từ tình hình thực tiễn của nhà trường, có tính đến đặc điểm và
trình độ phát triển của người được giáo dục. Các quy định đó phải mang tính cụ thể, rõ
ràng, được cụ thể hóa thành các yêu cầu cụ thể để học sinh có thể nhận thức và hành động
phù hợp với các yêu cầu đã đề ra.
+ Các yêu cầu sư phạm phải chỉ ra cho người được giáo dục hiểu rõ những việc cần
phải làm, những việc cần phải tránh. Các yêu cầu đề ra phải vừa sức với học sinh nhưng
yêu cầu họ phải có sự nỗ lực thực sự về ý chí mới có thể thực hiện được.
+ Khi đề ra các yêu cầu nhất thiết phải tổ chức thực hiện nhằm biến các yêu cầu
thành đòi hỏi sư phạm đối với học sinh, giúp học sinh biến các yêu cầu của nhà giáo dục
thành nhu cầu thực hiện của bản thân và có quyết tâm thực hiện chúng.
+ Không nên đề ra quá nhiều yêu cầu hoặc yêu cầu quá cao so với khả năng thực hiện
của học sinh. Nhà trường cần tạo điều kiện về thời gian và cơ sở vật chất để học sinh thực
hiện các đòi hỏi sư phạm. Song đòi hỏi sư phạm sẽ được thực hiện tốt hơn nếu nhà giáo
dục phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo của tập thể và mỗi học sinh trong quá
trình thực hiện các yêu cầu.
+ Nên phát huy vai trò tự quản của học sinh và tập thể học sinh kết hợp với việc tăng
cường các biện pháp kiểm tra, đánh giá để kịp thời phát hiện và uốn nắn các hành vi lệch
lạc có thể xẩy ra ở học sinh.
+ Nhà giáo dục cần phải xây dựng dư luận đúng đắn và lành mạnh cho tập thể học
sinh bởi dư luận tích cực sẽ tạo nên động lực thúc đẩy hoạt động của các thành viên trong
tập thể.
+ Nhà giáo dục phải bàn bạc với tập thể học sinh để đưa ra các tiêu chí đánh giá cụ
thể, đảm bảo sự công bằng cho học sinh.
30
3/ Phương pháp tập thói quen
a/ Khái niệm: Là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục một cách đều đặn và
có kế hoạch các hành động nhất định, nhằm biến các hành động đó thành những thói quen
ứng xử.
b/ Tác dụng: Thói quen ứng xử rất cần thiết đối với con người. Nhờ có thói quen
đúng đắn mà con người luôn suy nghĩ và hành động đúng đắn.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng: Đối với học sinh nói chung và học sinh nhỏ nói
riêng, việc tập thói quen rất quan trọng. Vì trình độ nhận thức của các em còn non nớt, cho
nên nếu ngay từ nhỏ đã dần dần tập cho các em các thói quen tốt thi sau này lớn lên các em
sẽ có những thói quen hành vi đúng đắn.
c/ Các yêu cầu: Để thực hiện phương pháp này đạt kết quả tốt cần lưu ý:
- Cần phải cho người được giáo dục nắm được các quy tắc hành vi, hình dung rõ
những hành vi cần được thực hiện để họ có thể định hướng được.
- Trong những trường hợp cần thiết có thể làm mẫu cho người được giáo dục về
những hành vi cần luyện tập.
- Hình thành cho người được giáo dục nhu cầu được luyện tập và tạo điều kiện cho
họ được luyện tập theo quy tắc hành vi, theo các mẫu hành vi đã được giới thiệu.
- Khuyến khích người được giáo dục luyện tập thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần
để hình thành thói quen hành vi bền vững.
- Luyện tập cần phải có thời gian thích hợp, không nên nôn nóng, vội vàng. Lúc đầu
cần phải tập chính xác, sau đó mới yêu cầu làm nhanh.
- Tập thói quen phải được tiến hành trong nhiều tình huống khác nhau, phù hợp với
lứa tuổi, hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục. Cần phải đưa học sinh vào cuộc sống sinh
động để luyện tập.
- Phải tiến hành kiểm tra, uốn nắn thường xuyên, đồng thời phải khuyến khích học
sinh tự kiểm tra, uốn nắn hành vi của mình.
4/ Phương pháp rèn luyện
a/ Khái niệm :
Đây là phương pháp tổ chức cho người được giáo dục thể nghiệm ý thức, tình cảm
của mình về các chuẩn mực xã hội trong các tình huống đa dạng của cuộc sống. Qua đó
hình thành và củng cố được những hành vi phù hợp với các yêu cầu của xã hội đã được xã
hội qui định và thừa nhận.
Phương pháp rèn luyện và phương pháp tập thói quen giống nhau ở chỗ đều hình
thành thói quen hành vi cho người được giáo dục thông qua hoạt động và bằng hoạt động
nên giữa chúng chỉ có sự khác biệt tương đối. Phương pháp tập thói quen chú ý đến việc
hình thành các thói quen hành vi, còn phương pháp rèn luyện lại quan tâm nhiều đến phẩm
chất nhân cách và ý chí của người được giáo dục, quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh
31
thể hiện ý thức, tình cảm của mình về các chuẩn mực xã hội trong các tình huống đa dạng
của cuộc sống. Vì vậy hình thành ý chí khắc phục khó khăn để hành động là đặc điểm cơ
bản của phương pháp rèn luyện.
b/ Tác dụng của phương pháp.
Sử dụng phương pháp này nhà giáo dục có thể hình thành cho học sinh cách thực
hiện hành vi không phải một cách máy móc mà phải gắn liền với ý chí, tình cảm, nhu cầu
và động cơ hoạt động của cá nhân trong các tình huống khác nhau của đời sống.
c/ Các yêu cầu khi thực hiện :
- Căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi, tùy theo các phẩm chất cần giáo dục, nhà giáo dục
cần phải tạo ra các tình huống, các hoạt động khác nhau để học sinh tham gia giải quyết
chúng một cách tích cực, phù hợp với các chuẩn mực và đạo đức của xã hội.
- Các tình huống phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống, có ý nghĩa giáo dục tích cực
như: An toàn giao thông; Giữ gìn vệ sinh môi trường; Công tác đền ơn đáp nghĩa ; Phòng
tránh các tệ nạn xã hội…
- Phát huy vai trò chủ động, tự giác, tích cực, sáng tạo của học sinh, bởi rèn luyện sẽ
đạt hiệu quả cao khi học sinh ý thức được nhiệm vụ của mình, tự mình đề ra các hoạt động,
lên kế hoạch và quyết tâm thực hiện chúng.
- Tăng cường tổ chức cho học sinh các hoạt động tập thể…
Nhóm 3 : Các phương pháp kích thích tính tích cực hoạt động và điều chỉnh hành vi
ứng xử của người được giáo dục.
1/ Phương pháp thi đua
a/ Khái niệm: Thi đua là phương pháp kích thích khuynh hướng tự khẳng định mình
của người được giáo dục, thúc đẩy họ cố gắng, hăng hái vươn lên và lôi cuốn cả những
người khác cũng vươn lên giành cho được những thành tích xuất sắc cho cá nhân và tập
thể.
b/ Tác dụng: Trong thi đua, học sinh với tư cách là “người tham gia cuộc thi” nên sẽ
có những điều kiện tinh thần rất thuận lợi do “không khí thi đua” tạo nên để phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của mình trong các hoạt động. Vì vậy có thể hình
thành và phát triển một cách nhanh chóng và vững chắc những phẩm chất và năng lực cần
thiết của con người mới. Ngoài ra phương pháp này còn có tác dụng kích thích sự nỗ lực
vươn lên của cá nhân và tập thể, đề cao tinh thần trách nhiệm và hình thành mối quan hệ
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người được giáo dục.
c/ Các yêu cầu cần đảm bảo:
Trong nhà trường phổ thông, thi đua của học sinh được áp dụng trong nhiều lĩnh vực
hoạt động như: Lao động; Học tập; Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể
thao….Tất cả các hoạt động này đều có cơ sở thực tế đáng tin cậy để đánh giá đúng kết
quả của thi đua và có tác dụng kích thích, thúc đẩy phong trào chung.
32
Vì vậy khi sử dụng phương pháp này nhà giáo dục cần phải lưu ý:
- Tổ chức, động viên tất cả học sinh tự giác, tích cực thi đua.
- Thi đua với các mục đích cụ thể, rõ ràng, có tính thuyết phục. Hình thức thi đua
phải sinh động, hấp dẫn.
- Thi đua nhưng phải trung thực.
- Cần có sự uốn nắn, theo dõi, sơ kết và tổng kết, đánh giá kịp thời, công bằng và
đúng mực.
- Phải công bố các tiêu chí đánh giá, thang điểm, cơ cấu giải thưởng một cách công
khai.
2/ Phương pháp khen thưởng
a/ Khái niệm: Là phương pháp kích thích sư phạm bằng cách khẳng định và biểu
dương thành tích, ưu điểm của học sinh sau khi đã nhận xét, đánh giá những ưu điểm và
thành tích đó. Vì vậy gây cho học sinh cảm giác vui sướng, phấn khởi, làm cho họ có tâm
lý tích cực, tin vào sức mình để nỗ lực hoạt động, củng cố và phát huy những thành tích đã
đạt được.
Khen thưởng, còn là phương thức biểu hiên sự đánh giá tích cực của tập thể, xã hội
đối với hành vi ững xử của mỗi cá nhân hoặc tập thể học sinh.
b/ Tác dụng:
- Phương pháp này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giáo dục học sinh.
- Có tác dụng khẳng định những hành vi đã có là đúng đắn, phù hợp với các chuẩn
mực xã hội đã quy định.
- Giúp cho cá nhân và tập thể có thể tự khẳng định những hành vi tốt của mình, củng
cố và phát triển niềm tin về các chuẩn mực xã hội có liên quan đến những hành vi đã thực
hiện.
- Kích thích được việc tiếp tục duy trì và phát triển những hành vi tích cực, đồng thời
tránh được những hành vi tiêu cực, không phù hợp.
c/ Các yêu cầu cần đảm bảo:
- Khen thưởng phải dựa trên cơ sở hành vi thực tế của người được giáo dục.
- Khen thưởng phải khách quan, công bằng.
- Đảm bảo khen thưởng kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ.
- Phải chú ý đến đặc điểm lứa tuổi và tính cách của học sinh sau khi được khen
thưởng.
- Khen thưởng không chỉ đánh giá kết quả hành động mà còn chú ý đến cả động cơ
và phương thức để đạt được kết quả đó.
- Cần tạo cho học sinh tâm thế đúng đắn khi được khen. Việc khen thưởng phải làm
cho học sinh tự đề ra cho mình những yêu cầu ngày càng cao trong học tập, rèn luyện,
tránh dẫn đến tình trạng thỏa mãn, kiêu ngạo khi được khen.
33
- Căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi, nhà giáo dục có thể sử dụng linh hoạt các
hình thức khen thưởng như khen ngơi; biểu dương; tặng quà; khen thưởng bằng giấy khen,
bằng khen kèm theo hiện vật….
3/ Phương pháp trách phạt
a/ Khái niệm: Trách phạt là phương pháp biểu thị sự không đồng tình, sự phản đối,
phê phán những hành vi sai trái của người được giáo dục so với các chuẩn mực xã hội đã
đề ra. Trách phạt còn là phương pháp gây cho người có lỗi cảm giác hối hận, khiến họ từ
bỏ hành vi, thói quen không phù hợp với yêu cầu chung hoặc có hại cho bản thân, cho xã
hội, giúp người được giáo dục biết kết hợp đúng đắn giữa hành vi của mình với yêu cầu
chung của tập thể, của xã hội.
b/ Các hình thức trách phạt: Trách phạt có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như: Nhắc nhở; phê bình; cảnh cáo; đuổi học v.v.
Các hình thức này phản ánh những mức độ khác nhau của trách phạt. Vì vậy khi vận
dụng vào những trường hợp cụ thể thì cần phải căn cứ vào :
- Từng loại hành vi sai lệch: Mức độ nghiêm trọng; vô tình hay cố ý; lần đầu hay tái
hiện…
- Phạm vi và mức độ tác hại do hành vi sai lệch gây ra là nhiều hay ít, rộng hay hẹp…
c/ Các vấn đề cần lưu ý khi sử dụng phương pháp trách phạt:
- Trách phạt phải khách quan, công bằng, đúng mực.
- Phải làm cho người bị trách phạt thấy rõ sai lầm của mình và tự nguyện chấp nhận
hình thức và mức độ trách phạt.
- Trách phạt nhưng phải tranh thủ sự đồng tình của tập thể.
- Không nên trách phạt thường xuyên vì sẽ gây nên sức ép tâm lý, do đó sẽ không có
hiệu quả.
- Phải tôn trọng nhân cách của người bị trách phạt.
- Không nên sử dụng các hình phạt quá nặng đối với những lỗi lầm không nghiêm
trọng.
- Có thể hoãn hoặc bải bỏ trách phạt khi người có lỗi tỏ ra ăn năn , hối hận và quyết
tâm sửa chữa.
- Trách phạt phải nghiêm khắc nhưng với thái độ chân thành, mong muốn giúp đỡ,
giáo dục học sinh. Phải tin tưởng và tạo cơ hội cho học sinh để các em khắc phục và sửa
chữa lỗi lầm.
3. Việc lựa chọn và vận dụng các phương pháp giáo dục
Lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục có hiệu quả vừa là khoa học, vừa là nghệ
thuật của nhà giáo dục. Mỗi quá trình giáo dục cụ thể bao giờ cũng diễn ra trong một tình
huống cụ thể. Tùy theo từng tình huống mà nhà giáo dục có thể lựa chọn và vận dụng phối
kết hợp các phương pháp giáo dục khác nhau. Bởi vì mỗi phương pháp đều có ưu, nhược
34
điểm, không có phương pháp nào là vạn năng. Các phương pháp giáo dục có thể bổ sung,
hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau. Khi lựa chọn phương pháp giáo dục cần căn cứ vào những yếu
tố sau:
- Khi lựa chọn một phương pháp giáo dục cần tính đến các mối quan hệ của nó với
các phương pháp khác được sử dụng trước và sau đó, tính đến những phương tiện và các
điều kiện cụ thể bởi vì các phương pháp giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo
thành một tổng thể thống nhất hướng vào việc hình thành những phẩm chất nhân cách toàn
diện cho học sinh.
- Căn cứ vào mục đích giáo dục cụ thể của cấp học, bậc học.
- Căn cứ vào nội dung giáo dục cụ thể.
- Căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý và đặc điểm cá biệt của người được giáo dục.
- Căn cứ vào môi trường giáo dục và các điều kiện thực tế cụ thể.
- Căn cứ vào trình độ phát triển của tập thể học sinh.
- Căn cứ vào kinh nghiệm, năng lực, mối quan hệ của nhà giáo dục với học sinh…

35

You might also like