Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 7

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ về người mẹ trong mỗi một chúng ta là nguồn sống,
là nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách và là những giá trị nhân văn giúp cho cái chân,
thiện, mỹ trong mỗi con người phát triển. Đó cũng là nguồn cội khơi dậy những tình cảm sâu
lắng đối với con người, gia đình và quê hương. Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn
Duy đã thể hiện được. Với những từ ngữ chân thành và tình cảm chân thành, tác giả đã viết nên
một tác phẩm đặc sắc, để lại dấu ấn trong lòng người đọc.

Nguyễn Duy sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa, ông đã trở thành một gương mặt tiêu
biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước và là một trong những nhà thơ tài năng của
nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, đất nước mở cửa. ông được đánh giá cao trong thể thơ
lục bát - một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Nhiều bài thơ của
ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,... Ông viết
bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” tại Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ
khiến ai đọc lên cũng có cảm giác như Nguyễn Duy đang viết về mẹ của mình và những tình
cảm của mình đối với mẹ.

Bài thơ bắt đầu bằng không gian bảng lảng khói trầm, phảng phất mùi hương huệ
trong đêm khuya thanh vắng rất thành kính, thiêng liêng:
“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”
Hương huệ, khói nhang trong không gian yên tĩnh, trầm mặc ấy đã cho Nguyễn Duy cảm giác
“bần thần” nửa thực nửa mơ. Và, trạng thái nửa thực, nửa mơ ấy đã khơi nguồn cảm xúc về hình
bóng người mẹ rất đỗi yêu thương và mong hồn mẹ được siêu thoát lên cõi niết bàn. Nhìn khói
nhang tỏa, nhìn chân nhang “lấm láp tro tàn”, đứa con cảm thấy người mẹ hiền đang hiển hiện
giữa cõi đời, đang tất tả ngược xuôi:
“Chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”
Các từ láy “bần thần”, “lấm láp“,“xăm xăm” là những nét vẽ tài hoa làm cho vần thơ giàu hình
tượng và gợi cảm. Với biết bao kỷ niệm buồn vui như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua, hôm kia
thôi - trong leo lẻo những vui buồn xa xôi.

Trong mạch nguồn cảm xúc ấy, hình ảnh người mẹ nghèo khó, lam lũ, vất vả, nhọc
nhằn, suốt ngày luôn tay luôn chân với công việc cứ hiện về rõ mồn một:
“Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.”
Khổ thơ thứ hai gợi tả hình ảnh người mẹ hiền ngày xưa. Người mẹ nghèo khổ, vất vả. Thời
con gái chẳng có yếm đào, chẳng có nón quai thao mà chỉ có nón mê; áo quần chỉ một màu nâu
nhuộm bùn Hai tiểu đối: “tay bí - tay bầu”,“váy nhuộm bùn - áo nhuộm nâu” đã nói lên sự thật
cảm động sự tần tảo vất vả và đời sống nghèo khổ của mẹ. Suốt đời mẹ sống mộc mạc, giản dị
như thế. Quanh năm bốn mùa mẹ vẫn sống và ăn mặc như thế!

Cũng như bất kỳ ai của thời lam lũ, Nguyễn Duy lớn lên từ lời ru mượt mà, yêu
thương của mẹ; chứa đựng, gửi gắm nhiều nỗi niềm tâm sự sâu lắng của mẹ:
“Cái cò... sung chát đào chua...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”

Hai câu ca dao đầu đã được nhà thơ vận dụng tài tình sáng tạo gợi lên bao thương nhớ người mẹ
hiền nay đã đi xa. Hai câu thơ tiếp theo hàm chứa chất triết lí sâu sắc rằng lòng mẹ bao la, tình
thương của mẹ mênh mông đào dạt, suốt đời con cũng không thấu hiểu, hiểu hết lời ru của mẹ.
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, Năm canh chầy, thức đủ năm canh”- Ca dao Nam Bộ. Mỗi giấc ngủ
của con được nâng niu bằng lời ru của mẹ vô cùng sâu nặng với biết bao tình đời và tình người.
Mọi đứa con từ bé thơ đến trưởng thành, không bao giờ có thể “đi hết mấy lời mẹ ru". Hai chữ
“đi” trong vần thơ của Nguyễn Duy được chuyển nghĩa một cách tài tình.

Điệp ngữ “bao giờ cho tới” trong khổ thơ thứ tư đã làm sống lại tuổi thơ với bao kỉ
niệm đẹp. Ước mong được sống lại đêm rằm trung thu để phá cỗ. Ước mong được sống lại những
đêm tháng năm đẹp trời để “nằm đếm sao” giữa sân nhà:
“Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”
Hai chữ “đánh đu “ đã nhân hóa trái hồng trái bưởi, món quà trung thu, tạo nên sự ngộ nghĩnh
hồn nhiên. Cái giây phút thần tiên “mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao” là giây phút hạnh phúc
nhất của tuổi thơ. Nguyễn Duy có bao giờ quên được những kỷ niệm đẹp về mẹ qua những đêm
hè trăng sáng, mẹ trải chiếu cùng các con ngắm trăng, đếm sao; vừa chơi các trò chơi dân gian
vừa hát các bài đồng dao; tìm các chòm sao.

Các từ láy: “nghêu ngao ”,“chập chờn ", “leo lẻo”, “xa xôi” trong bốn câu thơ tiếp theo
vừa nêu lên sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa nói lên mơ ước được sống lại trong khung cảnh thần
tiên nơi quê nhà. Đứa con có bao giờ quên những kỉ niệm đẹp, đầy hạnh phúc ấy:
“Ngân Hà chảy ngược lên cao
quai mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”.
Ký ức tuổi thơ nơi “Bờ ao đom đóm chập chờn” đã trôi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn chập chờn
trong tâm hồn yêu thương với “những vui buồn xa xôi”. Đứa con càng thương nhớ mẹ, càng biết
ơn mẹ không thể nào kể xiết!

Tiếp theo là những suy ngẫm về lời ru của mẹ, về công ơn trời bể của mẹ. Mẹ ru con,
ru “cái lẽ đời", ru cái đạo lí làm con, ru cái đạo lý làm người. Con lớn lên từng ngày từng tháng
nhờ dòng sữa ngọt ngào của mẹ, bằng lời ru thiết tha êm đềm của mẹ. Điệp ngữ “nuôi” trong hai
tiểu đối đã nói lên công ơn to lớn của mẹ hiền:
“Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn”
Các thế hệ sẽ nối tiếp sinh ra, rồi lớn lên theo lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Điệu ru của bà, của
mẹ sẽ được những thế hệ mai sau nâng niu, giữ gìn. Điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ trong mỗi
gia đình Việt Nam là dân ca, là tâm hồn dân tộc sẽ sống mãi đến muôn đời mai sau. Câu hỏi tu
từ làm cho vần thơ trở nên thiết tha, lay động hồn người:
"Bà ru mẹ...mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng”.
Tuy nghèo khó vất vả, mưa nắng dãi dầu, lam lũ đến thế nhưng mẹ vẫn là hiện hữu của bà mẹ
Việt Nam có một nhân cách đẹp tuyệt trần; là kho ca dao tục ngữ, là cuốn sách dày về đạo lý để
làm hành trang cho Nguyễn Duy bước vào đời. Sữa mẹ nghèo khó nhưng ngọt ngào cho con
được thể xác, máu thịt, lười ru mẹ êm ái đêm đông ru con vào giấc ngủ, cho con thấm thía linh
hồn của dân tộc và theo con đến hết cuộc đời. Mặc dù một thời thơ ấu bên mẹ tuy còn nhiều
khó khăn vất vả nhưng rất đỗi vô tư, trong sáng cùng với “cái lẽ ở đời” được mẹ bày dạy đã đi
cùng Nguyễn Duy theo năm tháng cuộc đời. Từ trái tim tràn đầy yêu thương ấy mà người mẹ
truyền lại cho con những tình cảm, đạo lý biết yêu thương con người, gia đình, làng xóm và quê
hương với mong muốn con sống đẹp hơn, nên người hơn; con lớn lên, phát triển toàn diện hơn
bởi những lời ru chất chứa yêu thương cùng với những tình cảm và đạo lý ở đời.

Đến cuối bài độc giả càng thấy rõ nỗi nhớ mẹ, hồi tưởng về những vui buồn tuổi thơ
khi còn mẹ mà Nguyễn Duy cảm thấy ngậm ngùi, với nỗi lòng tê tái, buốt giá:
“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...”
Tác giả đã đặc biệt nhớ thương mẹ đến tột cùng; không khỏi rưng rưng, ứa lệ khi nhớ về những
đêm đông mưa rét, con lỡ đái dầm, thương con mẹ dành nằm phần ướt, nhường chỗ khô cho
con. Còn cả việc mẹ “miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”. Ngày xưa, chưa có máy xay
nên để bón cho con nhỏ ăn, mẹ thường phải nhai nhỏ. Nhai làm sao mà không nuốt hết chất
dinh dưỡng vào mình mà vẫn có thể lần lựa được xương ra khỏi cơm cá cho con ăn. Việc đó
trông thật mất vệ sinh nhưng với ngày xưa thiếu thốn, đó lại là cách tốt nhất để giúp các con ăn
no.
Với cảm xúc trào dâng, Nguyễn Duy đã để cho giọng thơ cứ ngậm ngùi, gieo vào
lòng người những nỗi niềm bâng khuâng đến da diết; ý thơ toát lên nỗi niềm suy tư, chiêm
nghiệm, trở trăn, lo toan. Dường như có tiếng thở dài đang bị nén lại, dường như có chút gì đó
ân hận, có chút gì áy náy còn day dứt trong lòng con - những lời mẹ dặn dò, chỉ bảo thì đến
nay, mặc dù con đã “đi trọn kiếp người” nhưng “vẫn không đi hết mấy lời mẹ ru” bởi cái lẽ ở
đời mà mẹ từng ru dài rộng lắm, sâu sắc lắm; bởi bao nhiêu “lẽ đời” là bấy nhiêu tâm sự mà thế
hệ những người bà, người mẹ gửi gắm trong lời ru. Có thể, đó cũng là niềm tâm sự, những lo
toan mà Nguyễn Duy nói hộ tất cả những người đang làm con như chúng ta?

Bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” của Nguyễn Duy là một tác phẩm thơ tuyệt vời
với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, thiết tha là những cảm xúc yêu thương nồng hậu mà cháy
bỏng và cụ thể của người con đối với mẹ. Bài thơ đã đi vào lòng biết bao người yêu thơ vì sự
đẹp như ca dao, sự đậm đà như dân ca, và hòa quyện với lời hát ru truyền thống. Tác phẩm thơ
này đặc trưng bởi sự tươi sáng và hào hùng của tiếng nói dân tộc, nắm bắt cảm xúc và tình cảm
trong nhịp điệu của lời ru. Từng câu thơ của Nguyễn Duy như những hình ảnh sống động và
tình cảm sâu sắc, vẽ nên một bức tranh văn hóa và truyền thống văn hoá của dân tộc và những
kỷ niệm ấy không chỉ riêng của nhà thơ Nguyễn Duy mà còn là kỷ niệm của bao nhiêu người
khác nữa.
Sông Thương tóc dài
Đất nước mến yêu, những dòng sông luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho những áng
văn thơ, nhạc, họa. Không có ai đi hết những con sông. Cũng chẳng có ai dám khẳng định đã
sáng tác hết các đề tài về sông. Kể cả dòng Thương, ai đến thì yêu, ai xa thì nhớ. Sông Thương
đã đi vào thơ của nhiều nhà thơ nổi tiếng. Mỗi người một vẻ, một niềm cảm hứng, nhưng tựu
chung tình yêu sông, yêu quê hương đất nước và dấy lên cảm thức nhân tình thế thái.
Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm sinh năm 1952 ở Hà Nội, ông đã sáng tác thơ từ khá sớm.
Ngoài ra, ông còn là nhà biên kịch và diễn viên. Phong cách thơ của ông có âm điệu ngọt ngào
và giàu chất trữ tình, điều này đã trở thành “thương hiệu” mỗi khi nhắc đến ông. Hoàng Nhuận
Cầm là một nhà thơ nổi tiếng, xuất sắc với những bài thơ tình gắn với học sinh, sinh viên, được
nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích như: Chiếc lá đầu tiên, Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu, Hò
hẹn mãi cuối cùng em cũng đến, Viên xúc xắc mùa thu, Mùi cỏ cháy,...Theo chia sẻ của nhà
thơ, tác phẩm “Sông Thương tóc dài” được ông viết chỉ trong năm phút trên vỏ bao thuốc lá.
Sau này, bài thơ đã được in trong tập “Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến”, NXB Hội Nhà văn,
2007. Bài thơ nói về tình yêu thầm kín mà không dám nói ra để rồi vuột mất.
Trong khổ thơ đầu, chúng ta có thể thấy cảm xúc buồn tiếc, đau khổ của nhân vật trữ
tình khi phải rời xa người con gái mình yêu:
“Mai đành xa sông Thương tóc dài
Vạn Kiếp tình yêu xin gửi lại
Xuân ơi xuân… lẽ nào im lặng mãi
Hạ chưa về nhưng nắng đã Côn Sơn.”
Tác giả chia sẻ nỗi niềm phải rời xa dòng sông Thương, cụm từ “tóc dài” phải chăng đang ẩn
dụ về một người con gái mà tác giả đã thương. Nhuận Cầm xin gửi lại “vạn kiếp tình yêu”, dù
có qua bao nhiêu mùa xuân thì cũng xin im lặng mãi. Ánh nắng Côn Sơn đã nhuộm vàng cả trời
trong khi “hạ chưa về”, cũng như tình cảm của tác giả thật mãnh liệt trong khi còn chưa nói ra.
Tình cảm chân thành ấy nay đành phải chia xa, cho dù “Vạn Kiếp” tình yêu đi chăng nữa, tác
giả cũng xin gửi lại. Biết bao mùa xuân qua đi, anh đã im lặng mãi, chảng thể nói ra lời yêu với
người con gái anh thương.

“Mai đành xa sông Thương thật thương


Mắt nhớ một người, nước in một bóng
Mây trôi một chiều, chim kêu một giọng
Anh một mình náo động một mình anh.”
Đến khổ thơ thứ 2, với biện pháp điệp cấu trúc “mắt nhớ một người, nước in một
bóng/ mây trôi một chiều, chim kêu một giọng” đã nhấn mạnh tình cảm sâu sắc thề nguyện
không thay đổi. Mãi mãi chỉ có mình “em” trong không gian, thời gian này, chỉ “anh một mình
náo động một mình anh”. Thơ ông nồng nàn “thương thật thương” như một bản nhạc trữ tình
dịu dàng mà khi nương nhờ vào đó, mỗi tâm hồn đều trở nên thánh thiện hơn, yêu thương hơn
và rung cảm hơn trước cuộc đời rộng lớn. Dù có xa cách nhưng ánh mắt mãi nhớ về một người.
Bằng thể thơ tự do chữ đặc sắc, hình ảnh thơ trữ tình và trừu tượng, lời thơ chất chứa
nhiều cảm xúc, tác giả đã khắc khoải được nỗi niềm đau xót khi phải xa “Thương”.
Bài thơ “Sông Thương tóc dài” không chỉ là nét phác họa về dòng sông đơn thuần mà
còn chan chứa tình cảm chân thành của Hoàng Nhuận Cầm. Bức tranh thiên nhiên, mây trôi,
chim kêu đều được sử dụng để tô điểm cho hình ảnh một tâm hồn bồi hồi, tràn ngập cảm xúc.
Đặc biệt, câu thơ cuối cùng với “Anh một mình náo động một mình anh” làm tôn lên sức mạnh
của sự tự lập, tình cảm và tâm hồn trong cuộc sống đơn độc. Đọc bài thơ, người đọc, đặc biệt là
các bạn trẻ, có thể như được hòa mình vào không khí của tuổi trẻ, tình yêu và những kỷ niệm
đẹp thuở xuân thì. Bằng giọng thơ trẻ trung, dạt dào, bài thơ của Hoàng Nhuận Cầm đã thành
công trong việc lôi cuốn người đọc và khắc sâu những dấu ấn của tình yêu và cuộc sống. Mong
rằng, bài thơ sẽ sống mãi theo dòng chảy thời gian, đi vào tâm hồn đang yêu của mỗi người.

Xó bếp
Trong cuộc sống thì chúng ta thường không để ý đến những điều nhỏ nhặt, bình dị xung
quanh. Tuy nhiên đối với tác giả Nguyễn Duy thì những điều nhỏ nhặt, bình dị ấy lại lắng sâu và
đọng lại trong tâm hồn của ông. Vì thế nên khi đi kháng chiến ông lại nhớ đến điều nhỏ nhặt ấy
chính là những bữa cơm trong xó bếp hay người thân quen thuộc của mình và tạo ra bài thơ “Xó
bếp”. Qua bài thơ tác giả muốn gửi gắm tình cảm, sự yêu thương và trân trọng của mình
đối với người mẹ và bà.
Nguyễn Duy sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa, ông đã trở thành một gương mặt tiêu
biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước và là một trong những nhà thơ tài năng của
nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, đất nước mở cửa. ông được đánh giá cao trong thể thơ
lục bát - một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Nhiều bài thơ của
ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Xó bếp,... Ông viết bài thơ “Ngồi buồn
nhớ mẹ ta xưa” tại Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ khiến ai đọc lên cũng có
cảm giác như Nguyễn Duy đang viết về mẹ của mình và những tình cảm của mình đối với mẹ.
Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài thơ “Xó bếp”- được viết tại Mặt trận đường 9 -
Nam Lào, năm 1971. Về sau được in trong tập thơ Mẹ và Em, xuất bản năm 1987. “Xó bếp” là
nơi gắn liền với những ngọn lửa yêu thương, những bữa cơm gia đình chan chứa tình cảm thiêng
liêng. Tác phẩm cũng được coi như một lời tri ân khi xó bếp là nơi khởi đầu cho cuộc đời của tác
giả.

Nguyễn Duy đã từng nói “ta đi trọn kiếp con người” cũng chẳng thể nào quên đi
hết “mấy lời mẹ ru”. Bởi đây là tình mẫu tử thiêng liêng, bao la, bất tận.Đó là tình cảm đầu
tiên mà mỗi con người khi sinh ra cảm nhận được sâu sắc. “Vì cuộc sống, mẹ sống đời lam
lũ. Vì con vui, mẹ gánh hết nỗi đau!”
“Nơi ấy
Mẹ ta nhễ nhại mồ hôi
Đàn con lóc nhóc khóc cười
Buổi nhá nhem len lén mò cơm muội
Bảy sắc cầu vồng trong xó xỉnh lọ lem”
Điệp ngữ “nơi ấy” được sử dụng xuyên suốt bài thơ. Nơi ấy là nơi vô cùng thân thuộc đối
với tác giả, đó là một góc xó bếp gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ đáng nhớ. Nơi ấy là
nơi chan chứa tình yêu thương, nơi của những bữa ăn gia đình. Đặc biệt nơi ấy có mẹ, có
tình yêu thương của mẹ, là nơi nuôi con khôn lớn. Mẹ một từ thôi đã cho thấy như cả thế
giới chúng con. Dù khi con gặp khó khăn trắc trở, hay khi cả thế giới quay lưng với con,
thì cha mẹ vẫn luôn ở bên che chở vỗ về. Đại từ mẹ một từ thiêng liêng nhất, Mẹ là người
vĩ đại nhất trên cuộc đời này. Tính từ láy “nhễ nhại” kết hợp với “mồ hôi”. Mẹ lao động
lam lũ cực khổ, mồ hôi chảy nhẹ nhàng ướt lắm máu để nuôi con khôn lớn từng ngày. Một
loạt tính từ “lóc nhóc”, “nhá nhem”, “len lén”, “xó xỉnh” để chỉ bầy con thơ. Niềm vui,
niềm hạnh phúc của một thời ấu thơ trở thành kỷ niệm đẹp, tươi rói trong ký ức hóa những
niềm vui lấp lánh, lam lũ trong “xó bếp” của đám trẻ “lọ lem”.
“Nơi ấy
Ta nướng khoai lùi sắn
Xoa xít hít hà… thơm bùi cháy học
Lấm tấm đầy đầu bụi bồ hóng
Lép bép lửa tàu cau
Râu tôm nấu với ruột bầu
Húp suông”
Góc xó bếp ấy là nơi gắn bó với bao kỷ niệm tuổi thơ, kỷ niệm của một thời gian khó. Hình
ảnh khoai sắn, một loại lương thực gắn bó rất gần gũi với mọi miền quê Việt Nam. Một kí
ức tuổi thơ thật đẹp về quê hương về mẹ yêu dấu chợt ùa về. Các từ láy “xoa sít”, “hít hà”,
“lấm tấm”, “lép bép”. Kỷ niệm vui vẻ bên bếp lửa, niềm vui từ những điều nhỏ nhặt nơi
những đứa trẻ. Đó là những tiếng nổ nhỏ liên tiếp không đều nhau từ bếp lửa. Là lấm tấm
của bụi bồ hóng. Câu ca dao “râu tôm nấu với ruột bầu” gợi bao suy nghĩ. Lời ca dao trên
ý muốn nói về tình cảm vợ chồng thủy chung, yêu thương nhau trong mọi hoàn cảnh. Dù
nghèo khó, nhiều gian nan nhưng vẫn có được niềm vui sự hạnh phúc. Lời ca dao còn như
một lời động viên, hướng đến sự lạc quan dù khó khăn, gian khổ vẫn luôn bên cạnh nhau.
“Nơi ấy
Vùng ta còn đun rạ đun rơm
Cơm nếp cứ thơm canh cua cứ ngọt
Con cá kho dưa quả cà kho tép
Việc vặt giúp bà ta từng quen tay
Gạo chiêm ghế ngô gạo mùa độn khoai
Bà dạy ta chữa khê chữa nhão
Ngọn lửa giữ qua đêm dài trong trấu
Âm ỷ lòng ta đến bao giờ”
Cũng tại nơi xó bếp ấy, nơi vùng quê nghèo còn đun ra đun rơm với bác cơm nếp thơm
canh cua ngọt, hình ảnh thật giản dị chất phác. Cua, cá, quả cà, gạo chiêm, ngô gạo là
những hình ảnh gắn bó quen thuộc với những bữa cơm hằng ngày của người dân vùng quê.
Hình ảnh người bà suất hiện trong những câu thơ trên gợi ta liên tưởng tới hình ảnh bà
trong bài thơ bếp lửa của Bằng Việt:
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
…Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”
Hình ảnh bàn tay bà vuốt ve bếp lửa, chăm cháu học, dậy cháu những điều trên đời. Cũng
giống như bà trong bài thơ “Xó bếp”, bà dạy cháu từ những điều nhỏ nhặt nhất. Bà dạy
cháu chữa khê chữa nhão. Bà và mẹ, hai người phụ nữ thiêng liêng nhất, điển hình cho
người phụ nữ Việt Nam. Động từ “ghế ngô”, “độn khoai” diễn tả cái khó khăn, đói nghèo
trong những tháng ngày gian nan chiến đấu. Bà vẫn giữ được ngọn lửa trong đêm dài, ngọn
lửa thắp sáng lên tia hy vọng, ngọn lửa sưởi ấm cả không gian, ngọn lửa khắc sâu vào tâm
trí cháu đến tận bây giờ.
“Nơi ấy
Nhá nhem giữa quên và nhớ
Đỉnh núi hiện lên bóng bà và mẹ
Mây chiều hôm gánh gạo đưa ta
Tất tưởi đường xa cầu vồng ráng đỏ”
Cũng tại nơi ấy từ láy “nhá nhem” được lặp lại một lần nữa. Đó là một buổi chiều tối, khi
không gian đang dần trở nên mờ ảo. Đó là ranh giới giữa quên và nhớ, hai từ hoàn toàn đối
lập nhau. Nguyễn Duy đã sử dụng thành công khi đưa bóng bà và mẹ xuất hiện một lần
nữa. Cuộc sống nghèo đói khó khăn, đè nặng lên đôi vai những người phụ nữ Việt Nam.
Tính từ “tất tưởi” đã thể hiện rõ điều đó. Họ phải tất bật làm việc mưu sinh cuộc sống, nuôi
đàn con nhỏ. “Cầu vồng ráng đỏ” ý muốn báo dấu hiệu của thời tiết. “Ráng đỏ” có nghĩa
là sẽ có mưa vào trưa hôm sau, chính vì thế người bà người mẹ phải vội vã gánh gạo về
kịp khỏi trời mưa.
“Mặt trận rời vào sâu
Ngày mai ta dừng chân nơi nào
Khoảng trống phía trước vẫn bỏ ngỏ
Đâu biết những gì chờ ta đằng kia
Chỉ biết đời ta khởi đầu từ nơi ấy…”
Nguyễn Duy quên đi hết những khổ đau nơi mặt trận. Câu hỏi không có lời đáp “ngày mai
ta dừng chân nơi nào/ Đâu biết những gì chờ ta đằng kia”. Gợi sự hoang mang lo lắng cho
thấy một tương lai mờ mịt không có điểm dừng chân. Người thanh niên ấy chỉ biết lớn lên
từ nơi ấy, từ xó bếp nhỏ. Chính xó bếp đầy kỷ niệm ấy đã nuôi lớn bao đứa trẻ.
Bài thơ nói đến nơi ấy, nơi xó bếp quen thuộc nuôi dưỡng gắn bó với tuổi thơ của
mỗi con người. Nguyễn Duy đã khéo léo đưa vào bài thơ những hình ảnh mộc mạc chân
thực, những hình ảnh quen thuộc của chốn thôn quê. Tác giả sử dụng hàng loạt từ láy, nghệ
thuật điệp từ “nơi ấy”, tất cả đều góp phần làm lên sức hấp dẫn cho lời thơ, khiến cho bài
thơ chạm đến tìm người đọc.
Bài thơ “Xó bếp” đã mang đến nhiều giá trị trong cuộc sống. Hạnh phúc không
tìm ở đâu xa mà xuất phát từ những điều gần gũi, giản dị nhất xung quanh chúng ta. Qua
bài thơ Nguyễn Duy muốn gửi đến một thông điệp trân quý mà sâu sắc, thi sĩ muốn gửi
gắm đến tất cả những độc giả về sự trân trọng những điều nhỏ bé xung quanh chúng ta.
Nơi đó đơn giản chỉ có bà, có mẹ, có gia đình, có những bữa ăn đạm bạc đó mới chính là
hạnh phúc thật sự.

You might also like