Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠN 2,4,6 GA
ĐỀ CƯƠN 2,4,6 GA
1
(4) “Điều răn mới“ mời gọi người tin yêu theo cách yêu mới: “...như (kathôs)
Thầy đã yêu thương anh em” (13,34c; 15,12c). Nói cách khác, từ “như” (kathôs)
vừa khẳng định tình yêu Đức Giê-su dành cho các môn đệ, vừa là nền tảng, là
nguồn mạch cho các môn đệ trong hành động “yêu thương lẫn nhau”.
Như thế, “điều răn mới” trong Tân Ước đi xa hơn, mở rộng hơn so với điều
răn yêu thương trong Cựu Ước. Đức Giê-su ban điều răn mới cho các môn
đệ và điều răn này chỉ dành cho người tin. Sống và thực hành điều răn mới
là lời chứng tuyệt vời về tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và về tình
yêu của người môn đệ dành cho Đức Giê-su.
2
Ðấng Paráclê là Đấng “ở với các môn đệ”, “ở trong từng môn đệ” và “ở
giữa cộng đoàn các môn đệ” (14,15-17).
Ðấng Paráclê sẽ dạy các môn đệ biết tất cả những gì ĐGS đã mặc khải, và
làm cho các môn đệ nhớ lại tất cả những gì ĐGS đã nói (14,25-26).
Đấng Pa-rác-lê làm chứng về Đức Giê-su “trước” các môn đệ, để họ biết
Đức Giê-su là ai, từ đó vững tin và không vấp ngã vì thử thách và bách hại. Đồng
thời, Đấng Pa-rác-lê làm chứng “trong” các môn đệ khi họ phải đối diện trực tiếp
với thế gian thù ghét, nhờ đó các môn đệ can đảm làm chứng về Đức Giê-su
(15,26-27).
Đấng Paracle sẽ chứng minh cho các môn đệ biết là thế gian sai lầm (16,8) về ba
điều: (1) thế gian có tội (16,9); (2) sự công chính thuộc về Đức Giê-su (16,10); (3)
thủ lãnh thế gian đã bị xét xử rồi (16,11).
Đấng Paráclê sẽ dẫn các môn đệ đi trong sự thật toàn vẹn (16,13a)
Ðấng Paráclê “nói” những gì Người “nghe” và Người sẽ “lấy” từ nơi Đức Giêsu
mà “loan báo” cho các môn đệ (16,13b).
Qua những gì được trình bày ở trên, Tin Mừng mời gọi độc giả nhận ra Đấng
Paráclê đã và đang hiện diện và hoạt động nơi từng người tin. Đấng Paráclê là
quà tặng lớn lao dành cho độc giả qua mọi thời đại. Nhờ đó người tin vượt qua
mọi thử thách và có khả năng trung tín với Đức Giê-su đến cùng.
3
bất cứ vào thời điểm nào và bất kỳ ở đâu có cộng đoàn người tin thì ở đấy là nơi
thánh, nơi thờ phượng Thiên Chúa. Hơn thế nữa, nơi chốn ở đây còn được hiểu
theo nghĩa biểu tượng, không xác định trong không gian và thời gian : “thần khí
và sự thật” là “nơi”để thờ phượng Cha. Điều này có nghĩa là thờ phượng Cha nơi
Đức Giêsu là “sự thật” và là “Cung Thánh” của Đền Thờ, nhờ Đấng Paracle là
Thần Khí Thánh, hiện diện và hoạt động nơi người tin. (191)
Thứ hai là về cách thức thờ phượng. Cấu trúc đồng tâm A, B, B’, A’ của hai
câu 4, 23b-24b làm rõ cách thức thờ phượng trong tương quan với Thiên Chúa là
Cha. Đặc biệt, kiểu nói “thờ phượng trong thần khí và sự thật” xuất hiện 2 lần ở
4,23b và 4,24b với đối tượng thờ phượng là “Cha” (4,23b) và “Thiên Chúa” (4,24b)
làm nổi bật lên được cách thức thờ phượng mới trong Tân Ước. Cách thức thờ
phượng này không phải là một lựa chọn mà điều kiện tất yếu phải có để tương
quan với Thiên Chúa. Thờ phượng Cha “trong thần khí và sự thật” đặt nền tảng
trên giáo huấn của Đức Giêsu và tư cách môn đệ. Điều kiện để bước vào sự thờ
phượng mới là “được sinh ra bởi Thần Khí” và “tin vào Người Con”. Thờ phượng
trong thần khí và sự thật diễn tả tương quan với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần
và với Đức Giêsu qua sự hiệp thông và ở lại trong Người. Đây là cách thờ phượng
của những người tin đích thực, vừa hàm ẩn chiều kích tâm linh và vừa gợi về hai
ngôi vị : là thờ phượng cha trong Thánh Thần (thần khí) và trong chính Người (vì
người là sự thật).
Nói tóm lại, đoạn văn 4,20-24 cho độc giả hiểu rõ đâu là nơi thờ phượng
Thiên Chúa đích thực (where) và chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa cách nào
(how). Như vậy, ở đâu có người tin hiện diện, ở đó là nơi thờ phượng Cha. Đức
Giêsu là Đền Thờ, là nơi để người tin bước vào tương quan với Thiên Chúa qua
việc yêu mến và tuân giữ lời Người. Thờ phượng trong thần khí và sự thật diễn tả
mối tương quan mật thiết giữa người tin với Chúa Cha, vơi Đức Giê-su và với
Thánh Thần.