Professional Documents
Culture Documents
Luật Dân Sự
Luật Dân Sự
VÀ THỪA KẾ
Bộ luật
Hiến pháp
dân sự
năm 2013
năm 2005
Bộ luật Bộ luật
dân sự dân sự
năm 2015 năm 1995
Vận dụng vào thực tiễn để xác định các loại đối tượng là tài sản
theo pháp luật dân sự.
Hiểu được bản chất của việc chiếm hữu, hiệu lực của chiếm
hữu; sự khác biệt giữa chiếm hữu với QSH.
Phân tích, vận dụng được các quy định về chiếm hữu tài sản để
bảo vệ việc chiếm hữu khi bị xâm phạm.
Tài
sản 2 Các dạng tài sản
Là một bộ phận
của thế giới vật Có giá trị sử
chất; dụng;
Trường hợp thế chấp toàn bộ Ví dụ: Bán một căn nhà có
hoặc một phần BĐS, động sản quạt trần, máy điều hòa,… thì
có vật phụ thì vật phụ cũng phải giao nhà với đầy đủ các
thuộc tài sản thế chấp. Được
nhìn nhận là vật phụ của BĐS do thiết bị đó, nếu hai bên không
bản chất tự nhiên, BĐS do công có thỏa thuận rõ ràng về việc
dụng chịu sự chi phối của quy tháo gỡ những thứ đó mang
định này. đi.
Cả hoa lợi, lợi tức đều được sinh ra từ Sản phẩm: là vật được sinh ra
việc sử dụng tài sản gốc và chỉ được coi từ việc chuyển hóa bản thân
là hoa lợi, lợi tức nếu đã được tách ra từ
tài sản gốc và không ảnh hưởng đến chất liệu của tài sản gốc.
trạng thái ban đầu của tài sản gốc. • Ví dụ: Trái cây chính là hoa lợi của cây.
Gỗ là sản phẩm của cây.
• Bê con là hoa lợi của bò mẹ, còn thịt
bò là sản phẩm.
ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM 6/15/2019
Lợi ích của sự phân biệt tài sản gốc và hoa lợi?
Tài sản cấm lưu thông không thể trở thành đối tượng trong giao dịch dân
sự. Chính vì vậy, nếu các bên vẫn xác lập những giao dịch này thì giao dịch
đó sẽ vô hiệu tuyệt đối do có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật; và
khi đó tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được sẽ bị tịch thu sung quỹ
nhà nước hoặc tiêu hủy.
Tài sản hạn chế lưu thông thì khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ
chặt chẽ về điều kiện giao dịch, nếu pháp luật có quy định phải đăng ký
hoặc xin phép thì các bên phải tuân thủ theo thủ tục đó.
Ví dụ:
Điều khiển Tivi
– Tivi
– Vật chính và vật phụ tuy là các vật tồn tại độc lập nhưng do
chúng có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau nên vật phụ luôn đi
kèm vật chính. Nếu giao vật chính mà không giao vật phụ là vi
phạm hợp đồng.
– Ví dụ: Kính chiếu hậu của xe máy là một bộ phận không thể
tách rời của xe máy, trong khi cần đạp (để khởi động xe) thì lại
là vật phụ đích thực: lấy cần đạp ra khỏi xe, xe vẫn có thể được
khởi động nhờ bộ khởi động độc lập; trong khi đó, nếu bị gỡ
kính chiếu hậu, chiếc xe máy sẽ không hội đủ điều kiện để được
coi là phương tiện vận chuyển trong giao thông công cộng.
Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và
tính năng sử dụng ban đầu. Ví dụ: nông phẩm, thực phẩm...
10 kg đường chia làm 10 gói, mỗi gói 1 kg vẫn được.
Vật không chia được là vật khi bị phân chia thì không giữ
nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu.
Ví dụ: xe ô tô, xe máy...
Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá thành tiền
để chia.
3.2.3. Vật tiêu hao, vật không tiêu hao (Điều 112)
Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không
giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu.
Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản
vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu Ví
dụ: nhà ở, trang thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất, sinh hoạt.
Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho
mượn. Bởi lẽ sử dụng vật tiêu hao cũng đồng nghĩa với định đoạt vật đó. Không
thể thuê 100 lít xăng, mượn 100 tấn gạo Nàng Hương, bởi số xăng ấy sẽ biến mất
sau khi sử dụng, gạo có thể giao cho người nhận hàng thông qua hợp đồng.
3.2.4. Vật cùng loại, vật đặc định (Điều 113)
Ví dụ:
- Chiếc tivi bày bán trong cửa hàng là vật cùng loại trong điều kiện cửa hàng có chục chiếc
tivi cùng loại; tuy nhiên sau đó nó được một người mua mang về nhà, chiếc tivi trở thành
vật đặc định; sau khi được sử dụng một thời gian dài, tivi bị bán cho cửa hàng đồ cũ và
lại trở thành vật cùng loại trong đống tivi cũ của cửa hàng.
- Xe đạp để trong cửa hàng, nếu mua ra một cái lại là vật đặc định. Mặt khác vật cùng loại
nếu qua một thời gian sử dụng thì nó sẽ biến thành vật đặc định do hao mòn, va chạm
khác nhau trong quá trình sử dụng.
A mang chiếc Laptop của mình đến cửa hàng sửa máy tính của
B để sửa chữa. Hai ngày sau A quay lại cửa hàng của B để lấy
máy tính theo yêu cầu của B thì được B thông báo rằng chiếc
máy tính đã bị trộm lấy mất. B đề nghị được trả chiếc máy
tính khác có cấu hình tương đương nhưng A không đồng ý.
Hỏi, B có quyền hoàn trả cho A bằng chiếc máy tính khác có
giá trị tương đương không?
CHIẾM HỮU
z
▪ Ví dụ: Một người đang sử dụng một chiếc điện thoại thì bị cướp và và kẻ
cướp đó bị bắt quả tang. Lúc này, tên cướp đó đã xâm phạm đến trật tự công,
vì y đã dùng hành vi bạo lực bất hợp pháp để tước đoạt tài sản ra khỏi sự
chiếm hữu bình thường, yên ổn của người chiếm hữu. Trường hợp này, một
cách hợp lý, người chiếm hữu chỉ cần chứng minh là người đang thực tế
chiếm hữu chiếc điện thoại đó thì bị cướp, mà không cần phải chứng minh
mình có quyền sở hữu, quyền chiếm hữu (chiếm hữu hợp pháp hay chiếm hữu
có căn cứ pháp luật) đối với chiếc điện thoại (dù có thể anh ta có được chiếc
điện thoại này là do đã lấy trộm của một người khác).
2.2. CHIẾM
z
HỮU CÓ CĂN CỨ PHÁP LUẬT VÀ
CHIẾM HỮU KHÔNG CÓ CĂN CỨ PHÁP LUẬT
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản theo một trong các căn cứ chiếm
hữu mà pháp luật đã quy định theo Điều 165 BLDS 2015:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của
pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh
rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật
này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo
quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản
z
▪ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi
phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội hay
nói cách khác thì họ có tất cả các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản đó. Ví dụ: chủ sở hữu ở trong ngôi nhà của mình, chủ sở hữu cất giấu số
tài sản của mình…
▪ Tuy nhiên cũng có trường hợp chủ sở hữu không kiểm soát tài sản về mặt
thực tế tài sản, nhưng cũng có thể kiểm soát sự tồn tại và việc sử dụng tài
sản. Đây là trường hợp chủ sở hữu giao quyền chiếm hữu thực tế cho người
khác còn mình chỉ thực hiện quyền quản lý tài sản. Ví dụ: Đối với hợp đồng
gửi giữ tài sản thì chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu thực tế cho
người giữ tài sản còn mình chỉ thực hiện việc quản lý tài sản.
z a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản
▪ Chủ sở hữu có toàn quyền tự mình bằng các hành vi cụ thể để thực hiện
quyền chiếm hữu tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tuy nhiên, việc
thực hiện quyền chiếm hữu không được làm ảnh hưởng đến lợi ích Nhà
nước, công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, trái pháp luật,
đạo đức xã hội.
▪ Ví dụ: Chủ sở hữu bất động sản có nghĩa vụ phải cho chủ sở hữu khác
mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản liền kề một
cách hợp lý nhưng phải bảo đảm an toàn và thuận tiện…
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản.
z
▪ Thông qua các giao dịch dân sự thì chủ sở hữu có quyền ủy quyền người khác quản lý tài
sản mà mình là chủ sở hữu. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thì có quyền
chiếm hữu tài sản trên trong thời gian được chuyển giao và có quyền chống lại sự xâm
phạm của người khác đến sự chiếm hữu của mình.
▪ Điều 187 BLDS năm 2015 quy định về quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu ủy
quyền quản lý tài sản
▪ 1. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó
trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
▪ 2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối
với tài sản được giao theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản (tt).
z
▪ Phạm vi ủy quyền:
Người được ủy quyền quản lý tài sản chỉ được chiếm hữu thực tế đối với tài
sản chứ không có quyền chiếm hữu pháp lý, và chỉ có quyền sử dụng, định
đoạt tài sản khi được chủ sở hữu đồng ý. Chính vì vậy, người được ủy quyền
dù có chiếm hữu thực tế đối với tài sản liên tục, công khai trong thời hạn quy
định tại Điều 236 BLDS 2015 (là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với
bất động sản) thì người được ủy quyền quản lý tài sản cũng không thể trở
thành chủ sở hữu tài sản được ủy quyền quản lý.
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản (tt).
z
▪ Cách thức quản lý tài sản: Tùy thuộc vào từng loại tài sản cụ thể thì sẽ
có những cách thức quản lý khác nhau. Người được ủy quyền quản lý tài
sản sẽ có nghĩa vụ phải quản lý, bảo vệ, giữ gìn tài sản được chủ sở hữu
ủy quyền quản lý theo những phương thức tốt nhất đã được thỏa thuận.
▪ Thời hạn quản lý tài sản: Thời hạn quản lý tài sản theo thỏa thuận giữa
chủ sở hữu và người được ủy quyền quản lý tài sản. Hết thời hạn thỏa
thuận trên thì người được ủy quyền quản lý tài sản phải giao lại tài sản
cho chủ sở hữu và sẽ được hưởng thù lao nếu có thỏa thuận.
c) Người
z
được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua
giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật.
▪ Trong thực tế, có rất nhiều những giao dịch dân sự mà người chủ sở hữu đã
chuyển giao quyền chiếm hữu hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu và
quyền sử dụng cho người khác.
▪ Ví dụ: Thông qua hợp đồng ủy quyền quản lý tài sản, hợp đồng gửi giữ tài
sản… thì chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu thực tế cho người
khác; hoặc thông qua hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản… thì
chủ sở hữu đã chuyển giao cho người khác của quyền chiếm hữu và quyền
sử dụng thực tế đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch
dân sựzphù hợp với quy định của pháp luật (tt).
▪ Điều 188. Quyền chiếm hữu của người được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự
1. Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung
không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện
việc chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch.
2. Người được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản được giao, được chuyển quyền
chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý.
3. Người được giao tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo
quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao
z
dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật (tt).
▪ Thông qua các giao dịch dân sự trên, chủ sở hữu chỉ giao quyền chiếm hữu thực tế hoặc
quyền chiếm hữu và sử dụng thực tế đối với tài sản chứ không giao quyền sở hữu đối
với tài sản. Người được giao tài sản phải thực hiện quyền chiếm hữu tài sản đó phù hợp
với mục đích và nội dung của giao dịch dân sự.
▪ Ví dụ: A gửi B trông giữ chiếc xe gắn máy thì B chỉ được chiếm hữu chiếc xe máy với
mục đích trông giữ, B không được phép sử dụng chiếc xe máy; Hay A cho C mượn
chiếc máy tính xách tay thì C chỉ được quyền chiếm hữu, sử dụng chiếc máy tính nhưng
không có quyền định đoạt nó.
▪ Như vậy, quyền định đoạt trong các giao dịch trên vẫn thuộc về chủ sở hữu. Chính vì
vậy nếu người được chủ sở hữu giao chiếm hữu hoặc chiếm hữu và sử dụng tài sản
muốn chuyển giao quyền này cho người khác thì phải có sự đồng ý của chủ sở hữu.
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch
z dân sự phù hợp với quy định của pháp luật (tt).
❖ Lưu ý:
▪ Trong các giao dịch dân sự trên thì mặc dù chủ sở hữu đã giao quyền chiếm
hữu hoặc chiếm hữu và sử dụng cho người khác nhưng chỉ là quyền chiếm
hữu thực tế hoặc quyền chiếm hữu và sử dụng thực tế, còn pháp luật vẫn công
nhận quyền chiếm hữu và sử dụng pháp lý đối với chủ sở hữu. Vì thế, người
được giao tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao
(mặc dùng chiếm hữu liên tục, công khai) theo căn cứ về thời hiệu quy định
tại Điều 236 BLDS 2015 (10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất
động sản).
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai
là chủ sởz hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp,
chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy
định khác của pháp luật có liên quan;
▪ Tuy nhiên, trong trường hợp người phát hiện biết được
tài sản đó là do người khác tẩu tán nhằm che giấu hành vi
vi phạm pháp luật hoặc trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự thì người phát hiện phải thông báo hoặc giao
nộp ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy
định này nhằm giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhanh chóng phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm
pháp luật, bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích xã hội.
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước
bị thất lạc
z phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này,
quy định khác của pháp luật có liên quan;
▪ Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi
dưới nước bị thất lạc có thể trở thành chủ sở hữu của
gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc nếu
sau một thời gian thông báo công khai mà không có
người đến nhận chúng theo quy định tại Điều 231,
232, 233 BLDS 2015.
e) Các trường hợp khác do luật quy định
z
Chiếm hữu tài sản trong Người quản tài sản của
Cơ quan quản lý di sản:
trường hợp tình thế cấp người vắng mặt, người bị
khoản 3 Điều 616 BLDS
thiết: khoản 2 Điều 171 tuyên bố mất tích: Điều
2015
BLDS 2015. 65 BLDS 2015.
▪ Tất cả các hành vi chiếm hữu tài sản mà không phụ thuộc
các trường hợp được coi là chiếm hữu có căn cứ pháp luật
thì đều bị coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
▪ Tuy nhiên, nếu căn cứ vào nhận thức của người chiếm hữu
thì việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật sẽ được xác
định theo hai trạng thái sau:
z
chiếm
• Chiếm hữu không có căn
hữu cứ pháp luật nhưng ngay
không có tình và
căn cứ • chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật không ngay
pháp tình.
luật
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
z
▪ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là việc chiếm hữu tài sản không
có căn cứ pháp luật trong trường hợp người chiếm hữu không biết và không thể biết việc
chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
▪ Như vậy, hành vi chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật chỉ được coi là ngay tình
nếu có đủ cả 2 điều kiện: KHÔNG BIẾT và KHÔNG THỂ BIẾT việc chiếm hữu đó là
không có căn cứ pháp luật.
▪ Ví dụ: C mua của B một chiếc máy vi tính mà không biết chiếc máy đó là B trộm cắp
của A. Trong trường hợp này C chiếm hữu chiếc máy tính đó bị coi là không có căn cứ
pháp luật nhưng được coi là ngay tình vì C không biết tài sản đó là B trộm cắp, đồng
thời vì chiếc máy vi tính là một tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu nên C không
thể biết chiếc máy vi tính đó có phải của B hay không.
CHIẾM HỮU KHÔNG CÓ CĂN CỨ PHÁP LUẬT
z
▪ Có hai dạng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình:
▪ + Dạng thứ nhất: thông qua giao dịch với người thứ ba ngay tình. Đó
là các trường hợp người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã chuyển
giao tài sản cho người thứ ba thông qua một giao dịch dân sự, ví dụ thông
qua hợp đồng tặng cho, mua bán,… và người chuyển giao tài sản đó làm
cho người thứ ba tin rằng người chuyển giao quyền sở hữu cho mình có
quyền chuyển giao.
▪ Ví dụ: A lấy trộm xe máy và bằng cách nào đó A đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu xe, sau đó A đã tặng cho B. B đinh ninh chiếc
xe là tài sản của A nên đã nhận.
CHIẾM HỮU KHÔNG CÓ CĂN CỨ PHÁP LUẬT
z
NHƯNG NGAY TÌNH
▪ Ví dụ:
▪ Mua nhầm của gian là động sản không đăng ký quyền quyền sở hữu mà không
biết người bán tài sản không là chủ sở hữu thì người chiếm hữu được coi là ngay
tình vì pháp luật không buộc họ phải biết việc chiếm hữu của mình là không có
căn cứ pháp luật.
▪ Nhưng nếu mua chiếc xe máy (có đầy đủ giấy chứng nhận quyền sở hữu) mà vì
lý do nào đó người mua không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên
không biết được chiếc xe máy là tài sản của một vụ trộm cắp thì trường hợp này
người chiếm hữu chiếc xe máy không được coi là ngay tình do pháp luật buộc
người chiếm hữu phải biết việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật.
▪ + Dạng thứ hai: việc chiếm hữu ngay tình thông qua hành vi, như thấy
một ngôi znhà, thửa đất bỏ hoang lâu ngày không ai quản lý, sử dụng hoặc
người chiếm hữu có hành vi sử dụng một phần đất của người khác, nhưng
có căn cứ cho rằng họ không biết là mình đã lấn chiếm đất của người
khác,… người này đã vào khai thác, sử dụng công khai, liên tục làm các
thủ tục kê khai theo quy định, sau ba mươi năm chủ tài sản mới về kiện đòi,
thì Tòa án có thể bác yêu cầu của người đi kiện.
▪ Giải thích như trên có vẻ phù hợp với thực tế nhưng về mặt pháp luật thì
có trường hợp bị vướng, bởi lẽ nếu coi nhà đất bỏ hoang là vật vô chủ hoặc
là vật không xác định ai là chủ sở hữu, thì bất động sản đó thuộc Nhà nước.
Người phát hiện chỉ được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của
pháp luật.
CHIẾM HỮU KHÔNG CÓ CĂN CỨ PHÁP LUẬT KHÔNG NGAY TÌNH
z
▪ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình là việc chiếm hữu tài
sản của một người không theo những căn cứ quy định tại Điều 165 BLDS
2015, nhưng người chiếm hữu mà biết hoặc tuy không biết nhưng luật buộc
phải biết được rằng việc chiếm hữu tài sản đó của mình là không có căn cứ
pháp luật. Nói cách khác, việc chiếm hữu nếu thiếu một trong hai điều kiện
để được coi là chiếm hữu ngay tình thì sẽ bị coi là không ngay tình.
▪ Ví dụ: Biết tài sản là do người khác trộm cắp được mà có nhưng ham giá rẻ
nên vẫn mua; mua tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nhưng người bán không
phải là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu…
CHIẾM
z
HỮU KHÔNG CÓ CĂN CỨ PHÁP LUẬT
KHÔNG NGAY TÌNH
▪ VÍ DỤ: C mua của B một chiếc xe máy mà không biết chiếc xe đó là B trộm
cắp của A. Do B lừa dối C là xe của B nhưng đã bị mất giấy tờ nên bán rẻ.
Trong trường hợp này C chiếm hữu chiếc xe máy đó bị coi là không có căn
cứ pháp luật và không ngay tình vì dù C không biết tài sản đó là B trộm cắp
nhưng xe máy là một tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nên C buộc phải biết
chiếc xe đó có phải là của B hay không thông qua việc kiểm tra giấy tờ đăng
ký xe máy hoặc các hình thức khác.
z
CHIẾM HỮU KHÔNG CÓ CĂN CỨ PHÁP
LUẬT KHÔNG NGAY TÌNH
▪ Một người chiếm hữu tài sản dù không rơi vào trường hợp buộc phải biết
nhưng họ đã biết việc chiếm hữu đó là không có căn cứ pháp luật thì vẫn bị
coi là chiếm hữu không ngay tình.
▪ Ví dụ: C mua của B một chiếc máy vi tính dù đã biết chiếc máy đó là B mượn
của A. Trong trường hợp này dù C không buộc phải biết chiếc máy đó có phải
của B hay không do máy vi tính là loại tài sản không phải đăng ký quyền sở
hữu nhưng C vẫn bị coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không
ngay tình vì đã biết.
2.3. CÁC TRẠNG THÁI CHIẾM HỮU
z
CHIẾM
CHIẾM
HỮU
HỮU
KHÔNG
NGAY
NGAY
TÌNH
TÌNH
CHIẾM
CHIẾM
HỮU
HỮU LIÊN
CÔNG
TỤC
KHAI
z
CHIẾM HỮU NGAY TÌNH
Điều 189 BLDS 2005: “người chiếm hữu Điều 180 BLDS 2015 theo hướng “chiếm
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà
ngay tình là người chiếm hữu mà không người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng
biết và không thể biết việc chiếm hữu tài mình có quyền đối với tài sản đang chiếm
sản đó là không có căn cứ pháp luật”. hữu”.
z CHIẾM HỮU NGAY TÌNH
▪ So với Điều 189 BLDS 2005 thì Điều 180 BLDS 2015 đã mở rộng hơn
phạm vi của người chiếm hữu ngay tình, thay vì người chiếm hữu phải
chứng minh mình "không biết và không thể biết" việc chiếm hữu của minh
là không có căn cứ pháp luật mới là chiếm hữu ngay tình theo Điều 189
BLDS 2005 thì Điều 180 BLDS 2015 chỉ yêu cầu người chiếm hữu chứng
minh mình "có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang
chiếm hữu".
CHIẾM HỮU NGAY TÌNH
z
▪ Theo quy định tại Điều 189 BLDS 2005 thì căn cứ để xác định sự ngay tình là khách quan.
▪ Ví dụ: A mua của B một chiếc xe máy mà B trộm được bao gồm cả giấy tờ xe. Trong trường hợp này, A được
xác định là không ngay tình trong mọi trường hợp bởi lẽ theo quy định của pháp luật A có thể biết về hành vi
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật của mình.
▪ Điều 180 BLDS 2015 lại sửa đổi theo hướng xác định sự ngay tình dựa vào đánh giá chủ quan, sự đánh giá
này ngoài việc chứng minh của người chiếm hữu còn là sự đánh giá của người áp dụng pháp luật.
▪ Ví dụ: Cũng tình huống trên, nhưng nếu A chứng minh được bất kỳ ai khi rơi vào tình huống thực tế cụ thể của
A cũng đều cho rằng việc mua bán của mình là hợp pháp thì việc chiếm hữu của A được coi là ngay tình và A
sẽ được hưởng những quyền lợi từ việc chiếm hữu ngay tình. việc sửa đổi này là hợp lý, bởi lẽ trong nhiều
trường hợp hiện nay người chiếm hữu mặc dù có khả năng biết được việc chiếm hữu của mình là không có căn
cứ pháp luật, nhưng để biết được thông tin đó người chiếm hữu tài sản phải thực hiện những hành vi luật định
mà khả năng và điều kiện thực tế không cho phép họ thực hiện hoặc bất kỳ ai rơi vào tình huống thực tế đó
đều cho rằng việc chiếm hữu tài sản của mình là hợp pháp thì pháp luật cần bảo vệ họ dưới góc độ là người
chiếm hữu ngay tình.
CHIẾM HỮU NGAY TÌNH
z
▪ Khi xảy ra tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được ưu tiên suy đoán là người có quyền
đó. Việc chứng minh người chiếm hữu không có quyền thuộc về người có tranh chấp với người chiếm hữu.
Trong trường hợp chủ sở hữu của tài sản phủ nhận quyền của người chiếm hữu thì cũng không có ngoại lệ,
đòi hỏi chủ sở hữu phải đưa ra các căn cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản của mình cũng như chứng minh
người chiếm hữu không có quyền đối với tài sản.
▪ Ví dụ: A là chủ sở hữu một chiếc xe máy, A cho B mượn, sau đó B bán chiếc xe máy đó cho C. A muốn phủ
nhận việc chiếm hữu xe máy của C thì A phải chứng minh quyền sở hữu của mình, có thể thông qua dấu
hiệu đặc trưng của tài sản, qua giấy đăng ký quyền sở hữu xe máy,…
CHIẾM HỮU KHÔNG NGAY TÌNH
z
▪ BLDS 2005 có quy định về khái niệm chiếm hữu ngay tình nhưng
không có quy định cho biết khái niệm chiếm hữu không ngay tình.
▪ Tuy nhiên, BLDS 2015 ở Điều 181 quy định "chiếm hữu không
ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải
biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”.
z CHIẾM HỮU KHÔNG NGAY TÌNH
▪ “Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm
hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản
đang chiếm hữu” (Điều 181 BLDS năm 2015).
Ý nghĩa của việc phân biệt chiếm hữu không có căn cứ pháp
z
luật ngay tình và không ngay tình?
▪ Việc phân biệt chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình hay không rất quan
trọng. Như chúng ta biết diện những người chiếm hữu bất hợp pháp rất rộng. Từ những
người cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác như trộm cắp, tham ô… đến những người
hoàn toàn không có lỗi gì trong việc chiếm hữu tài sản ấy. Vì vậy luật pháp không thể đối
xử như nhau đối với tất cả những người nói trên.
▪ Trong số những người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật có những người mà luật pháp
không thể trách cứ họ vào đâu được (người chiếm hữu ngay tình). Họ hành động không có
ý định xâm phạm đến lợi ích của người khác. Trật tự pháp luật XHCN đòi hỏi trong những
điều kiện nhất định, pháp luật phải bảo vệ lợi ích của họ, vì vậy việc phân biệt này có ý
nghĩa lớn trong việc giải quyết các án kiện đòi lại vật đồng thời nó cũng là một trong
những điều kiện để làm căn cứ xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, do sát nhập, chế
biến…
z
CHIẾM HỮU LIÊN TỤC
▪ Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong
một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối
với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải
quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả
khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu. (khoản 1
Điều 182 BLDS năm 2015)
z
CHIẾM HỮU LIÊN TỤC
▪ Chiếm hữu liên tục được quy định tại Điều 182 BLDS 2015 được
hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và về mặt pháp lý của một
chủ thể đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở
hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình nắm giữ tài sản.
▪ Ví dụ: gọi là chiếm hữu liên tục đối với một căn nhà là việc một
người thường xuyên ra vào căn nhà đó, thường xuyên thực hiện
các hành vi tác động lên tài sản như chăm sóc, sửa chữa, khai
thác,… và thực hiện tất cả các việc đó trong tư thế của người có
quyền đối với tài sản.
CHIẾM HỮU LIÊN TỤC
z
Tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao
gồm hai điều kiện:
và điều kiện thứ hai là không có tranh chấp về quyền đối với
tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng
một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật tại Tòa án hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
Chiếm hữu liên tục (tt)
▪ Có ý kiến cho
z rằng, nếu trong thời gian chiếm hữu mà xảy ra tranh chấp, bất kể quan hệ tranh
chấp đó là quan hệ gì thì đều không được tính vào thời gian chiếm hữu liên tục.
▪ Khái niệm chiếm hữu phải hiểu theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm việc nắm giữ tài sản mà cả
việc quản lý tài sản. Vì thế, nếu trong thời gian chiếm hữu, người chiếm hữu cho người khác
thuê, mượn,… tài sản đó thì thời gian người chiếm hữu cho người khác thuê, mượn tài sản vẫn
được tính vào thời gian chiếm hữu liên tục của người chiếm hữu. Do đó, nếu có việc giữa người
chiếm hữu và người đang mượn, thuê tài sản xảy ra tranh chấp về quan hệ cho thuê, cho mượn
tài sản (như đòi lại tài sản cho mượn, cho thuê, đòi tiền cho thuê,… khi hết hạn mà người thuê,
người mượn không trả) thì thì tranh chấp này không ảnh hưởng đến tính liên tục của việc chiếm
hữu, và nó là một phần thể hiện quyền năng của người có quyền nắm giữ, quản lý tài sản.
▪ Tuy nhiên, nếu tranh chấp đó là tranh chấp có tính chất về sở hữu, tức là có một chủ thể nào đó
cho rằng tài sản đó thuộc quyền sở hữu của mình hoặc là được chủ sở hữu ủy quyền chiếm hữu,
quản lý tài sản nên dẫn đến tranh chấp quyền sở hữu, quyền sở hữu thì quan hệ tranh chấp này
sẽ làm mất tính liên tục của quyền chiếm hữu.
z CHIẾM HỮU CÔNG KHAI
▪ “Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện
một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm
hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người
chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”
(khoản 1 Điều 183 BLDS năm 2015).
CHIẾM HỮU CÔNG KHAI
z
▪ Chiếm hữu công khai được thể hiện chính là ở việc người chiếm hữu thực
hiện các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu
giếm. Người chiếm hữu có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách rõ ràng,
không che giấu vì một ý đồ gì. Cần phân biệt việc chiếm hữu giấu giếm với
trường hợp chiếm hữu với loại tài sản đặc thù không thể hiện ra bên ngoài.
▪ Ví dụ: mua vàng để cất giữ trong két sắt, dù không thể hiện ra bên ngoài cho
các chủ thể khác biết về việc để dành tài sản là vàng này nhưng người chiếm
hữu này không hướng đến việc giấu giếm nhằm một ý đồ gì. Ngoài ra, chiếm
hữu công khai còn thể hiện qua việc chủ thể chiếm hữu có đầy đủ căn cứ
chứng minh tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản, thể hiện tính minh
bạch trong việc chiếm hữu tài sản.
PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, QUYỀN
SỞ HỮU VÀ THỪA KẾ
6/15/2019
CHƯƠNG 3
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
6/15/2019
MỤC TIÊU BÀI HỌC
(1) Nắm và hiểu được những quy định của BLDS về sở hữu, quyền
sở hữu; nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu; các nội dung
của quyền sở hữu và giới hạn của quyền sở hữu
(2) Biết được các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu; thời điểm
xác lập quyền sở hữu và vấn đề chịu rủi ro về tài sản
(3) Biết được các hình thức sở hữu và nội dung của các hình thức
này
(4) Vận dụng được các quy định trên vào thực tiễn để giải quyết các
tình huống có liên quan.
6/15/2019
NỘI DUNG BÀI HỌC
6/15/2019
1. Khái niệm quyền sở hữu
Hiểu theo nghĩa rộng: Quyền sở hữu là chế định pháp
luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản được pháp luật quy định.
6/15/2019
1. Khái niệm quyền sở hữu
6/15/2019
1. Khái niệm quyền sở hữu
6/15/2019
1. Khái niệm quyền sở hữu
6/15/2019
1. Khái niệm quyền sở hữu
6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Theo quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2015 thời
điểm xác lập quyền sở hữu tài sản có thể là một trong các
thời điểm sau đây:
6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
❖ Thời điểm luật định:
Trường hợp BLDS năm 2015 hoặc luật liên quan có quy định cụ thể về thời
điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, thì thời điểm xác lập quyền sở
hữu được xác định theo thời điểm đã được xác định.
Trước hết là đối với các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo các căn cứ
chung do BLDS năm 2015 quy định.
Ví dụ: đối với tài sản được tạo ra từ lao động, sản xuất, kinh doanh, thì quyền
sở hữu đối với tài sản được xác lập “từ thời điểm có được tài sản”. Đối với tài sản trí
tuệ thì thời điểm này được xác lập theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 222
BLDS năm 2015). Các trường hợp cụ thể khác như xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản bị đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm thất lạc; vật nuôi dưới nước di chuyển tự
nhiên… đều được xác lập theo quy định chung về căn cứ xác lập quyền sở hữu (từ
Điều 221 – 236 BLDS năm 2015). Ngoài ra, BLDS năm 2015 cũng có những quy
định cụ thể cho các trường hợp tặng cho tài sản (Điều 458, Điều 459), để lại thừa kế
đối với tài sản (Điều 611, Điều 614)… 6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Các luật liên quan đều có những quy định khá cụ thể
về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản.
Ví dụ: thời điểm xác lập quyền sở hữu nhà ở theo Điều
12 Luật Nhà ở năm 2014; thời điểm xác lập quyền sở hữu
đối với bất động sản trong kinh doanh được quy định tại
khoản 5 Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014;
thời điểm xác lập hiệu lực của quyền sử dụng đất được quy
định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013…
6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
❖ Thời điểm do các bên thỏa thuận.
Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 161, thì “…trường hợp luật không có quy
định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên”. Trong một số trường hợp, tuy pháp
luật có quy định, nhưng cho phép các bên có thỏa thuận khác, thì thời điểm xác lập
quyền sở hữu của chủ thể đối với tài sản là thời điểm các bên thỏa thuận (nếu thỏa
thuận này không vi phạm điều cấm của pháp luật và không đi ngược lại với bản chất
của giao dịch).
Chẳng hạn, theo Điều 12 Luật Nhà ở năm 2014, luật quy định cho phép các bên
có thể thỏa thuận khác: “Trường hợp mua bán nhà ở mà không thuộc diện quy định
tại khoản 3 Điều này và trường hợp thuê mua nhà ở thì thời điểm chuyển quyền sở
hữu nhà ở là kể từ thời điểm bên mua, bên thuê mua đã thanh toán đủ tiền mua, tiền
thuê mua và đã nhận bàn giao nhà ở, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”
(khoản 1 Điều 12). Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 cũng có quy định tương
tự (khoản 1 Điều 19).
6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Thời điểm tài sản được chuyển giao là “thời điểm bên có quyền hoặc
người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản” (đoạn 2, khoản 1 Điều 161
BLDS năm 2015). Cần phân biệt giữa “thời điểm tài sản được chuyển giao”
với “thời điểm bên có nghĩa vụ chuyển giao tài sản”, và cũng khác với “thời
điểm bên có quyền nhận tài sản”. Có nhiều trường hợp việc giao nhận không
diễn ra trực tiếp, hoặc tuy việc giao nhận có diễn ra trực tiếp, nhưng việc giao
– nhận có khoảng cách không gian rộng lớn, thời gian kéo dài, thì 03 thời
điểm nói trên có thể là 03 thời điểm khác nhau.
Ví dụ: trong Tập quán thương mại quốc tế, khi bên bán giao hàng cho
bên mua tại cảng đến, thì cần phải xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu
tài sản tại một thời điểm cụ thể của tiến trình giao - nhận, như khi hàng được
cẩu bốc dỡ hàng qua khỏi lan can tàu của bên giao, hay qua khỏi mí nước bờ
cảng của quốc gia bên nhận, thì tập quán đều phải nêu rõ ràng, cụ thể về vị
trí/thời điểm chuyển giao tài sản là chỗ nào, lúc nào. 6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Ý nghĩa của thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản
Khi quyền sở hữu được xác lập, thì tài sản chính thức thuộc về chủ sở hữu tài sản. Kể từ
thời điểm đó, người được xác định là chủ sở hữu có mọi quyền năng trên tài sản với tư
cách là chủ sở hữu tài sản.
Tại thời điểm xác lập quyền sở hữu của người chủ tài sản, thì người này có thể phải gánh
chịu các nghĩa vụ của mình bằng chính tài sản đó, cơ quan thi hành án có thể kê biên chính
tài sản đã được xác lập quyền sở hữu để thi hành các nghĩa vụ phát sinh từ các bản án,
quyết định có hiệu lực chưa được thực hiện xong.
Kể từ thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản, chủ sở hữu phải gánh chịu mọi trách
nhiệm phát sinh từ việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản; phải thực hiện mọi nghĩa vụ
của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Theo đó, nếu tài sản gây thiệt hại cho người
xung quanh, thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình
gây ra.
6/15/2019
2. THỜI ĐIỂM XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Ý nghĩa của thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản
Khoản 2 Điều 161 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp tài sản chưa
được chuyển giao mà phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về
bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, nếu
tài sản chưa được chuyển giao mà sinh ra hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức
thuộc về bên có tài sản; nếu tài sản đã được chuyển giao, thì hoa lợi, lợi tức
thuộc về bên được nhận tài sản. Ví dụ: nếu A bán cho B vườn cây ăn trái, hẹn
sẽ giao vườn sau 06 tháng kể từ ngày thỏa thuận và thanh toán đợt 1. Quá
trình quản lý,vườn cây có ra hoa và kết trái. Theo quy định này, có thể thấy,
hoa trái sinh ra (hoa lợi) từ vườn cây sẽ thuộc về bên chủ vườn cây (A), cho
đến khi vườn cây được giao cho bên mua (B). Quy định này có ngoại lệ là trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 6/15/2019
3. Nội dung của quyền sở hữu
6/15/2019
3.1. Quyền chiếm hữu – Điều 186 – Điều 188 BLDS 2015
6/15/2019
3.1.2. Nội dung quyền chiếm hữu
6/15/2019
3.1.2. Nội dung quyền chiếm hữu
Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở có thể ủy quyền quản lý nhà ở cho người Việt
Nam ở trong nước hoặc pháp nhân có chức năng kinh doanh bất động sản
theo quy định của pháp luật nhà ở và pháp luật kinh doanh bất động sản.
Khi được ủy quyền quản lý, bên được ủy quyền có quyền chiếm hữu đối
với tài sản, giống như chủ sở hữu của tài sản, nhưng giới hạn nội dung cụ
thể theo ý chí của chủ sở hữu. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý
không thể trở thành chủ sở hữu tài sản theo thời hiệu được quy định tại
Điều 236 BLDS năm 2015.
6/15/2019
3.1.2. Nội dung quyền chiếm hữu
Người được chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua
giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật.
Giao dịch này không có nội dung chuyển quyền sở hữu tài
sản (mua bán, tặng cho, trao đổi, góp vốn…), mà chỉ là các
giao dịch có nội dung giao tài sản cho người chiếm hữu để
người này thực hiện việc quản lý, sửa chữa, sử dụng, khai
thác tài sản. Đó là trường hợp chiếm hữu thông qua các hợp
đồng gửi giữ, vận chuyển, cho thuê, cho mượn, cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký cược tài sản, giao nguyên vật liệu để gia
công… 6/15/2019
3.1.2. Nội dung quyền chiếm hữu
Quyền chiếm hữu của người được giao tài sản thông qua giao
dịch dân sự – Điều 188 BLDS (không chuyển quyền sở hữu)
+ chiếm hữu phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch
6/15/2019
3.1.2. Nội dung quyền chiếm hữu
Như vậy, có nhiều trường hợp người không phải là chủ sở hữu có quyền chiếm hữu đối
với tài sản. Việc thực hiện quyền chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu có sự
khác biệt cơ bản so với quyền chiếm hữu của chủ sở hữu tài sản.
❖ Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu đương nhiên, tự mình thực hiện quyền chiếm hữu
theo ý chí của mình và không bị hạn chế về thời gian và mang tính ổn định. Chủ sở hữu
có thể chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cho người khác.
❖ Còn quyền chiếm hữu của người khác thì có hạn chế về thời gian, phạm vi, cách thức
theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo các điều kiện luật định. Quyền chiếm hữu của
người không phải là chủ sở hữu thường không ổn định do phải lệ thuộc vào ý chí của
người chủ sở hữu hoặc sự hạn chế của pháp luật. Người chiếm hữu không phải là chủ
sở hữu không được chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản cho người khác, trừ trường
hợp có sự đồng ý của người chủ sở hữu hoặc pháp luật quy định trong một số trường
hợp hạn chế. Ví dụ: khi thay thế người giám hộ mới theo yêu cầu của người giám hộ,
thì việc chiếm hữu, quản lý tài sản của người được giám hộ sẽ chuyển giao cho người
giám hộ mới… 6/15/2019
3.2. Quyền sử dụng
3.2.1. Khái niệm – Điều 189 BLDS 2015
việc sử dụng
tài sản
6/15/2019
Khai thác công dụng của tài sản tức là đưa ra sử dụng trực
tiếp các tính năng, công dụng, những lợi ích vật chất của tài sản
để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của chủ thể. Sự sử dụng
trong trường hợp này đồng nghĩa với việc tiêu dùng, chứ không
phải là sản xuất. Khi tài sản được khai thác công năng của nó
không vì mục đích sản xuất, thì tài sản đó dần dần sẽ hao mòn
cho đến khi không còn giá trị. Ví dụ: các đồ gia dụng (tivi, tủ
lạnh, máy ảnh, giầy-dép, xe máy…) được sử dụng lâu ngày sẽ
giảm sút giá trị và khấu hao đến khi giá trị bằng không. 6/15/2019
Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Đó là trường hợp tài sản được đưa
vào sản xuất kinh doanh để phát sinh hoa lợi, lợi nhuận. Ví dụ: xây nhà
không phải để ở mà cho thuê phòng trọ, làm nhà nghỉ; đem tiền đầu tư,
cho ngân hàng vay hay mua cổ phiếu để nhận tiền cổ tức; nuôi bò lấy
sữa, nuôi gà công nghiệp lấy trứng hay lấy thịt… là các trường hợp
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản sinh ra. Dĩ nhiên có những trường hợp
một tài sản có công năng hỗn hợp, vừa để tiêu dùng, vừa để sản xuất
kinh doanh. Ví dụ: nhà vừa để ở, vừa cho thuê.
6/15/2019
3.2. Quyền sử dụng
3.2.2. Nội dung – Điều 190 BLDS
- Quyền sử dụng của chủ sở hữu: Sử dụng tài sản theo ý chí của
mình – không gây thiệt hại, làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân
tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu – sử dụng
tài sản theo thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định pháp luật.
6/15/2019
- Chủ sở hữu tự mình sử dụng tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tự mình trực tiếp sử dụng tài sản
thuộc quyền sở hữu, thì được tự do thực hiện mọi hành vi để sử dụng tài sản đó theo ý chí của mình, nhưng
không gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác. Chủ sở hữu có thể chuyển quyền sử dụng tài sản của mình cho người khác, tạm thời
hay vĩnh viễn.
Về nguyên tắc, quyền sử dụng tài sản của chủ sở hữu không bị hạn chế. Chủ sở hữu có toàn quyền, tự do,
và được thực hiện mọi hành vi để sử dụng tài sản miễn sao không vi phạm điều cấm của pháp luật và không
xâm phạm trật tự công. Như vậy, việc sử dụng tài sản của chủ sở hữu là một quyền tự do, chỉ bị pháp luật hạn
chế theo nguyên tắc chung của pháp luật. Sự hạn chế quyền sử dụng có thể tồn tại vì lý do đặc thù của pháp
luật chuyên ngành, do trật tự xã hội hay vì lý do bảo tồn, bảo tàng. Ví dụ: không sửa chữa nhà được xếp loại
di tích quốc gia, chỉ được sử dụng cho mục đích để ở, phục vụ thưởng lãm văn hoá, không được dùng để cho
thuê nhà trọ hay các mục đích khác. Hoặc đất đai được cấp bị giới hạn mục đích sử dụng, không được tự ý
thay đổi mục đích sử dụng đất, có thể trồng tỉa các loại cây, nhưng cấm trồng cây thuốc phiện.v.v.
6/15/2019
Người được chủ sở hữu chuyển quyền sử dụng tài sản thông qua các
hợp đồng, như cho thuê, cho mượn, uỷ quyền quản lý và sử dụng, cấm cố
và có thoả thuận cho sử dụng tài sản dùng làm vật cầm cố. Người không
phải là chủ sở hữu sử dụng tài sản đúng mục đích, tính năng, công dụng,
đúng phương thức như đã thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc quy định của
pháp luật.
- Người chiếm hữu không có căn cứ nhưng ngay tình, thì có quyền sử
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời gian chiếm hữu cho đến
khi bị chủ sở hữu đòi lại tài sản hoặc cho đến khi biết đó làchiếm hữu
không có căn cứ.
6/15/2019
- Người khác được sử dụng tài sản trong một số trường hợp do pháp luật quy
định trong một giới hạn cụ thể. Ví dụ: người vợ hay chồng được sử dụng tài sản
chung của vợ, chồng đến khi chết hoặc đến khi tái hôn phần di sản do vợ hay chồng
quá cố để lại hoặc trường hợp người giám hộ sử dụng tài sản hoàn toàn vì lợi ích của
người được giám hộ. Quyền sử dụng một tài sản có thể bị trưng dụng trong trường
hợp vì lý do an ninh, quốc phòng hay vì những yêu cầu bức bách đang được đặt ra
của xã hội như cứu đói, cứu nạn bão, lụt, động đất…
Người không phải chủ sở hữu có quyền sử dụng tài sản phù hợp với nội dung,
yêu cầu đã thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc do pháp luật. Việc sử dụng tài sản của
người không phải là chủ sở hữu phải dựa trên căn cứ luật định. Người sử dụng trái
pháp luật tài sản của người khác phải chịu chế tài của pháp luật, trừ trường hợp sử
dụng tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. 6/15/2019
Lưu ý:
Thông thường, khi chủ sở hữu muốn chuyển quyền sử
dụng cho người khác thì phải chuyển luôn quyền chiếm hữu
tài sản. Bởi lẽ, muốn khai thác công dụng của tài sản, trước
hết người sử dụng phải thực hiện hành vi chiếm hữu. Tuy
nhiên, trên thực tế cũng có trường hợp chủ sở hữu cho sử
dụng tài sản mà không chuyển quyền chiếm hữu.
Ví dụ: cho thuê ô tô mà người lái xe là người làm công
việc của chủ sở hữu. Người sử dụng máy vi tính ngay tại
nhà của chủ sở hữu… Theo nghĩa hẹp nhất thì quyền chiếm
hữu thường được coi là tiền đề của quyền sử dụng. 6/15/2019
3.3. Quyền định đoạt
6/15/2019
Quyền định đoạt là quyền quyết định “số phận” thực tế
và “số phận” pháp lý của tài sản.
Định đoạt thực tế là việc chủ thể bằng hành vi của mình quyết định về sự tồn tại
thực tế của tài sản. Việc định đoạt thực tế thường được hiện bằng hành vi vật chất
tác động tới bản thể của tài sản, làm cho tài sản không còn tồn tại trên thực tế hoặc
không còn nằm trong tay của chủ thể. Ví dụ: từ bỏ, huỷ bỏ, tiêu huỷ, tiêu dùng hết
tài sản…
Định đoạt pháp lý là việc chủ thể có quyền chuyển giao tài sản và quyền sở hữu
tài sản của mình cho người khác thông qua các giao dịch có nội dung chuyển
quyền sở hữu tài sản, như thông qua các hợp đồng mua bán (chuyển nhượng),
trao đổi (chuyển đổi), tặng cho, hiến tặng, quyên góp thiện nguyện, cho vay,
góp vốn bằng tài sản, hoặc để lại thừa kế (thông qua lập di chúc)…
6/15/2019
❖ Để thực hiện việc định đoạt số phận thực tế đối với tài
sản, chủ sở hữu có thể chỉ cần tác động trực tiếp đến tài
sản thông qua hành vi của mình.
❖ Việc định đoạt về số phận pháp lý, chủ sở hữu phải
thiết lập với các chủ thể khác thông qua một quan hệ
pháp luật dân sự
6/15/2019
❖ Hệ quả pháp lý của việc thực hiện quyền định
đoạt là làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản.
❖ Nếu định đoạt pháp lý đối với tài sản, thì ngoài
việc làm chấm dứt quyền sở hữu của bên chuyển
giao, đồng thời cũng có thể làm phát sinh quyền
sở hữu của bên được nhận chuyển giao đối với tài
sản.
6/15/2019
3.3. Quyền định đoạt
6/15/2019
(i) Điều kiện về năng lực chủ thể.
❖ Để có thể tự mình định đoạt tài sản thì người đó phải
có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
❖ Thông thường, đối với tổ chức, pháp luật không đòi hỏi
điều kiện về năng lực hành vi dân sự.
❖ Nhưng với cá nhân, thì người định đoạt tài sản, nhất là
định đoạt pháp lý, phải là người có năng lực hành vi
dân sự.
❖ Mức độ năng lực hành vi dân sự để cá nhân có thể định
đoạt tài sản tuỳ thuộc vào chế độ pháp lý của từng loại
tài sản cụ thể và giá trị của tài sản.
6/15/2019
Ví dụ: đối với tài sản là nhà ở, xe ôtô, xe máy, quyền sử dụng
đất… thì người định đoạt phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Người chưa thành niên đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể định
đoạt những tài sản có giá trị nhất định để thoả mãn nhu cầu phù hợp
với lứa tuổi; nếu định đoạt tài sản là động sản có đăng ký hoặc bất
động sản thì phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý…
6/15/2019
❖Các pháp nhân định đoạt tài sản thông qua người đại diện
hợp pháp.
❖Cá nhân không đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình
định đoạt tài sản thì có thể xác lập, thực hiện giao dịch
thông qua người đại diện hợp pháp, theo quy định của
pháp luật về đại diện.
❖Người đại diện hợp pháp chỉ được xác lập giao dịch phù
hợp với phạm vi đại diện, hoàn toàn vì lợi ích của người
được đại diện và theo những yêu cầu, điều kiện do pháp
luật quy định.
6/15/2019
(ii) Điều kiện về trình tự, thủ tục định đoạt tài sản.
- Đoạn 2 Điều 193 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp pháp
luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân
theo trình tự, thủ tục đó”.
- Đối với các tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở
hữu, đăng ký quyền sử dụng hoặc các loại tài sản mà pháp luật quy
định việc định đoạt phải tuân thủ những trình tự, thủ tục nhất định,
thì việc định đoạt được thực hiện thông qua các giao dịch có hình
thức, thủ tục phù hợp với quy định của BLDS và các luật liên quan.
- Ví dụ: nhà ở, xe máy, quyền sử dụng đất, tàu biển, tàu bay, cổ
phiếu… là những tài sản khi chuyển nhượng, trao đổi phải theo
hình thức, thủ tục luật định.
6/15/2019
Chủ thể có quyền định đoạt
Người, cơ quan
nhà nước có
Người được chủ thẩm quyền được
chủ sở hữu sở hữu ủy quyền pháp luật quy
định đoạt tài sản định có quyền
định đoạt tài sản
của người khác
6/15/2019
3.3. Quyền định đoạt
6/15/2019
❖ Người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt tài sản.
❑ Chủ sở hữu có đủ điều kiện về năng lực chủ thể, nếu không tự mình trực tiếp
định đoạt tài sản, thì có thể ủy quyền cho người khác xác lập các giao dịch
nhằm định đoạt tài sản.
❑ Người được chủ sở hữu uỷ quyền định đoạt tài sản là người được chủ sở hữu
chuyển giao quyền định đoạt tài sản thông qua việc uỷ quyền, trong đó có nội
dung nói rõ người được uỷ quyền, đối tượng công việc ủy quyền, giới hạn về
thời hạn uỷ quyền…
❑ Người được chủ sở hữu uỷ quyền phải thực hiện định đoạt tài sản phù hợp với
ý chí và lợi ích của chủ sở hữu. Tuy vậy, không phải mọi trường hợp định đoạt
đều có thể ủy quyền. Do bản chất của hành vi pháp lý để định đoạt tài sản,
hoặc do pháp luật có quy định, có những hành vi định đoạt tài sản chỉ do chủ
sở hữu tự mình thực hiện, chứ không thể ủy quyền cho người khác.
❑ Ví dụ: chủ sở hữu phải tự mình lập di chúc để định đoạt di sản cho người thừa
kế mà không thể nhờ bất kỳ ai lập di chúc thay. 6/15/2019
❖ Người, cơ quan nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định có
quyền định đoạt tài sản của người khác.
❑ Đó là những người có quyền định đoạt tài sản của người khác theo phán
quyết của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định.
❑ Ví dụ: chấp hành viên, cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định bán
tài sản của người phải thi hành án; hay người nhận thế chấp, cầm cố tài sản
đã được chủ sở hữu giao quyền bán, xử lý tài sản khi vi phạm nghĩa vụ được
bảo đảm; hoặc trong trường hợp quản lý tài sản bảo đảm, hay trong hợp đồng
gửi giữ mà tài sản là vật cùng loại có nguy cơ bị hư hỏng, tiêu hủy nếu không
được bán kịp thời… thì pháp luật có quy định cho người khác có một số
quyền cụ thể như bán, xử lý tài sản, chứ không phải là có đầy đủ các quyền
định đoạt tài sản.
❑ Điều này có nghĩa, nếu pháp luật quy định cho người khác có những quyền
cụ thể gì, thì người có quyền chỉ được thực hiện các hành vi cụ thể đó phù
hợp với nội dung, phạm vi đã được xác định. 6/15/2019
3.3. Quyền định đoạt
6/15/2019
❖ Quyền ưu tiên mua của người khác.
❑ Theo đoạn 2, khoản 2 Điều 196 BLDS năm 2015 thì “trường hợp cá nhân, pháp nhân có
quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản,
chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó”. Đó là các trường hợp định
đoạt phần quyền của đồng sở hữu chủ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều
người.
❑ Chẳng hạn, theo quy định tại khoản 3 Điều 218 BLDS năm 2015: “Trường hợp một chủ sở
hữu chung theo phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được
quyền ưu tiên mua”.
❑ Thời hạn ưu tiên là “03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài
sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc
bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được
quyền bán cho người khác…”. Quy định này cũng có ngoại lệ, đó là quyền ưu tiên mua của
đồng sở hữu chủ nhà ở nếu có đồng sở hữu chủ nhà ở đem bán phần quyền của mình. Thời
hạn ưu tiên này ngắn hơn quy định của BLDS năm 2015, chỉ 30 ngày kể từ ngày gửi thông
báo bán nhà. Người thuê nhà cũng có quyền ưu tiên mua nhà trong 30 ngày từ ngày người
cho thuê thông báo bán nhà khi đủ các điều kiện do pháp luật nhà ở quy định. 6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.1. Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong trường hợp xảy ra
tình thế cấp thiết – Đ 171 BLDS
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy
cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích
hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào
khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần
ngăn chặn.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
-Trong tình thế cấp thiết, chủ sở hữu không được cản trở người khác
dùng tài sản của mình hoặc cản trở người khác gây thiệt hại đối với
tài sản đó để ngăn chặn, làm giảm mối nguy hiểm hoặc thiệt hại lớn
hơn có nguy cơ xảy ra.
- Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là hành vi xâm
phạm quyền sở hữu. Chủ sở hữu bị thiệt hại trong tình thế cấp thiết
được người đã gây ra tình thế cấp thiết bồi thường. (Đ 595 BLDS)
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.2. Nghĩa vụ bảo vệ môi trường – Đ 172
Khi thực hiện quyền sở hữu thì chủ thể phải tuân theo
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô
nhiễm môi trường thì phải chấm dứt hành vi gây ô
nhiễm, thực hiện các biện pháp để khắc phục hậu quả và
bồi thường thiệt hại.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.3. Nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm trật tự an toàn công cộng – Đ
173
Khi thực hiện quyền sở hữu thì chủ thể phải tôn trọng, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, không được lạm dụng quyền để gây mất trật
tự, an toàn xã hội, làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích
công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.4. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng – Đ 174
Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu phải tuân theo pháp luật
về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao,
khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có
quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.5. Nghĩa vụ đối với ranh giới giữa các bất động sản – Đ 175
- Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thoả
thuận, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo tập
quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có
tranh chấp.
- Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường
hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng.
- Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung. 6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
- Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều
thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp
luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
- Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong
khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã
được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ,
cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.6. Nghĩa vụ đối với mốc giới ngăn cách các bất động sản – Đ 176
- Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng
cây, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.
- Dựng mốc giới chung – theo thỏa thuận – thuộc sở hữu chung.
- Cây là mốc giới chung – hoa lợi phát sinh – chia đều, trừ thỏa
thuận khác.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.7. Nghĩa vụ bảo đảm an toàn khi cây cối, công trình có nguy cơ
gây hại – Đ 177
- Khi cây cối, công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ xuống bất
động sản liền kề và xung quanh thì chủ sở hữu tài sản thực hiện ngay
các biện pháp khắc phục, chặt cây, sửa chữa hoặc dỡ bỏ công trình
xây dựng đó theo yêu cầu của chủ sở hữu bất động sản liền kề và
xung quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.7. Nghĩa vụ bảo đảm an toàn khi cây cối, công trình có nguy cơ
gây hại (tt)
- Nếu chủ sở hữu không tự nguyện thực hiện thì chủ sở hữu bất động
sản liền kề và xung quanh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ.
- Chi phí chặt cây, phá dỡ do chủ sở hữu cây cối, công trình xây
dựng chịu.
6/15/2019
4. Giới hạn quyền sở hữu
4.8. Nghĩa vụ khi trổ cửa nhìn sang bất động sản liền kề - Đ 178
- Chủ sở hữu nhà chỉ được trổ cửa ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên
cạnh, nhà đối diện và đường đi chung theo quy định của pháp luật về
xây dựng.
- Mặt dưới mái che trên cửa ra vào, mặt dưới mái che cửa sổ quay ra
đường đi chung phải cách mặt đất từ 2,5 mét trở lên.
6/15/2019
Tình huống áp dụng
Ông A trồng cây bưởi trên phần đất thuộc quyền sử dụng đất hợp
pháp của mình. Tuy nhiên, cành cây bưởi (trên cành có trái) vươn
sang phần đất nhà ông B. Điều này dẫn đến tranh chấp giữa hai ông.
Ông A cho rằng cây của ông thì trái đó thuộc sở hữu của ông A, còn
ông B cho rằng cành bưởi, trái bưởi nằm bên phần đất nhà ông thì
ông có quyền chặt cành, hái những trái bưởi đó. Anh/ chị hãy giải
quyết tranh chấp trên? Giải thích?
6/15/2019
Giải quyết tình huống
- Căn cứ Điều 175 BLDS 2015 thì: Người sử dụng đất chỉ được trồng cây
và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình
và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới
thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
→ Về cành cây ?
6/15/2019
Giải quyết tình huống
6/15/2019
PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, QUYỀN SỞ HỮU
VÀ THỪA KẾ
+ Về mặt thời hạn: Việc chủ thể thực hiện quyền khác đối với tài sản bị giới hạn trong một thời hạn
nhất định, bởi vì bản chất của quyền khác là những quyền được thực hiện trên tài sản của người
khác nên thời hạn được hưởng quyền cũng có giới hạn nhất định theo quy định của luật hay theo
thỏa thuận giữa các bên liên quan.
Chẳng hạn như quy định về thời hạn của quyền hưởng dụng tại khoản 1 Điều 260 BLDS năm 2015.
Theo đó, thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy định nhưng tối đa
đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng là cá nhân và đến khi pháp
nhân chấm dứt tồn tại, nhưng tối đa 30 năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân. Như vậy,
có thể thấy rằng, so với quyền sở hữu thì thời hạn quyền hưởng dụng của chủ thể khác ngắn hơn rất
nhiều.
Đặc điểm quyền khác đối với tài sản
• + Về mặt phạm vi: chủ thể có quyền khác đối với tài sản chỉ có một số quyền nhất định đối
với tài sản mà mình có quyền, phụ thuộc vào quy định của luật hay thỏa thuận giữa chủ sở hữu
tài sản và người có quyền khác. Nói cách khác, phạm vi các quyền năng của các chủ thể khác
hẹp hơn so với chủ sở hữu.
• Việc thực hiện quyền của chủ thể có quyền khác có thể là trực tiếp, hoặc gián tiếp, chẳng
hạn như tại Điều 261 BLDS năm 2015 quy định về quyền của người hưởng dụng bao gồm: (i)
Tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của
quyền hưởng dụng; (ii) Yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản;
trường hợp thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ sở hữu tài sản thì có quyền yêu cầu chủ sở hữu tài
sản hoàn trả chi phí; và (iii) Cho thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản. Như vậy, so với quyền
của chủ sở hữu thì quyền của người hưởng dụng được BLDS năm 2015 quy định hạn chế hơn rất
nhiều.
1. Khái niệm quyền khác đối với tài sản
• Tình huống nghiên cứu số 1: 11 hộ dân muốn lưu thông được
với đường công cộng đã phải qua đất của anh Long (chiều ngang
1,2 m). Năm 2015, anh Long chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho chị Nhỏ và nay chị Nhỏ rào chắn lại chỉ chừa lại lối đi nhỏ
nhưng không được các hộ dân đồng ý.
• Cho biết hướng xử lý bất đồng nêu trên?
2. NỘI DUNG QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
QUYỀN ĐỐI
VỚI BẤT
QUYỀN BỀ ĐỘNG SẢN
MẶT LIỀN KỀ
QUYỀN
HƯỞNG DỤNG
TÀI SẢN
2.1. Quyền đối với bất động sản liền kề
2.1.1. Khái niệm:
Quyền về lối đi
qua (Điều 254
BLDS);
Quyền mắc
đường dây tải
điện, thông
tin liên lạc
(Điều 255
BLDS).
2.1.3. Căn cứ xác lập đối với bất động sản liền kề
• Chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải lắp đặt đường dẫn nước sao cho nước
mưa từ mái nhà, công trình xây dựng của mình không được chảy xuống bất động sản của chủ
sở hữu bất động sản liền kề. Và chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải làm cống
ngầm hoặc rãnh thoát nước để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy
tràn sang bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi
sinh hoạt công cộng.
• Ví dụ: khi xây nhà, bà H làm mái tôn che mưa nhưng không làm đường
ống thoát nước mưa. Mỗi khi trời mưa, nước mưa từ mái nhà bà H chảy
sang mái nhà ông T hàng xóm gây ứ đọng, lâu ngày trần nhà ông T bị nước
mưa thấm gây mốc. Như vậy, việc bà H không làm ống thoát nước dẫn đến
việc nước tràn sang mái nhà ông Th là trái quy định của BLDS năm 2015.
Ông T có quyền đề nghị bà H làm ống thoát nước. Ngoài ra, nếu ông T
chứng minh được trước khi bà H làm nhà, trần nhà ông T không bị thấm nên
nguyên nhân việc nhà ông T bị thấm khi trời mưa hoàn toàn là do nước mưa
chảy từ mái tôn nhà bà H sang thì bà H còn phải có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho ông T.
2.1.5. Nội dung của quyền đối với bất động sản liền kề
(i) Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề (Điều 252 BLDS năm 2015).
• Ví dụ: bên cạnh trang trại của ông M có một hồ nước rất sâu, đây là hồ tự nhiên và hồ có
tác dụng tích chứa nước của cả vùng. Ông M có ý định cải tạo trang trại của mình nên đã
đổ đất để tôn nền của trang trại và lấp luôn dòng suối thoát nước chảy ngang khuôn viên
trang trại của ông M. Điều này khiến cho dòng chảy của nước bị thay đổi. Trước kia nước
theo dòng suối đổ dồn vào hồ chứa nước nay không có chỗ thoát nên gây ngập lụt cục bộ
cho các trang trại bên cạnh. Các chủ trang trại bên cạnh đã yêu cầu ông M khôi phục dòng
suối như trước. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 252 BLDS năm 2015 nêu
trên thì ông M (chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua) phải dành một lối cấp, thoát
nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy. Đồng thời, nếu các
chủ trang trại kế bên của ông M chứng minh được do dòng chảy bị thay đổi dẫn đến ngập
lụt cục bộ và gây ra thiệt hại cho hoa màu của họ, thì họ có quyền yêu cầu ông M bồi
thường thiệt hại do việc làm thay đổi dòng chảy gây ra.
(ii) Quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác (Điều 253 BLDS năm 2015)
- Việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn làm phát sinh nhu cầu hưởng quyền. Trong
một số trường hợp, do việc sử dụng, khai thác bất động sản thay đổi, làm cho nhu cầu hưởng quyền
mất đi. Ví dụ, A và B có quyền sử dụng đất và đất họ canh tác liền kề nhau. Trong quá trình canh
tác, do thửa ruộng của A xa với nguồn nước trong khi đó thửa ruộng của B lại gần nguồn nước nên
A có quyền dẫn nước phục vụ cho việc canh tác theo quy định tại Điều 253 BLDS 2015. Tuy nhiên,
do A không còn nhu cầu sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp và thực hiện việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất ở. Khi đất đã được chuyển đổi mục đích sử dụng sẽ dẫn
đến việc chấm dứt nhu cầu đối với quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác của A đối với B
như trước đây.
2.1.6. Chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề
- Theo thỏa thuận của các bên. Khi các bên có thỏa thuận chấm dứt quyền đối với bất
động sản liền kề, thì quyền đó chấm dứt. Ví dụ, A là chủ sở hữu của bất động sản bị vây
bọc, A yêu cầu B dành cho A một lối đi qua hợp lý. Tuy nhiên, sau đó, A nhận thấy rằng,
lối đi qua mà B dành cho A không thuận tiện, do đó A thỏa thuận với B để chấm dứt việc
sử dụng quyền về lối đi qua hợp lý, mà thay vào đó A thỏa thuận với C để C dành cho A
một lối qua phù hợp với thực tế.
- Trường hợp khác theo quy định của luật. Quy định này nhằm đảm bảo các quy định
khác có tương tự như vậy có khả năng xảy ra. Để tránh trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền từ chối, quy định này được tạo ra để hạn chế đến mức thấp nhất các lỗ hổng
pháp luật trong việc chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề.
2.1. Quyền đối với bất động sản liền kề
• Tình huống nghiên cứu số 2: Nhà nước thu hồi phần lớn diện tích đất của vợ chồng ông
Đỉnh giao cho Công ty Japa thuê trong thời hạn 30 năm. Phần còn lại khoảng 550m2 ở
phía trong là đất trồng lúa, có nhà ở do ông Đỉnh xây dựng trong khi chưa chuyển đổi
mục đích sử dụng (từ đất trồng lúa sang đất ở).
• Do không có lối đi ra đường công cộng cho phần đất còn lại, vợ chồng ông Đỉnh đề nghị
Công ty Japa mở lối đi. Yêu cầu này không được Toà án chấp nhận với lý do đó là đất
trồng lúa, nhà xây khi chưa chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
• Cho biết suy nghĩ về hướng giải quyết trên của Toà án?
2.2. Quyền hưởng dụng tài sản
• Khái niệm
- Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được “Khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác” (Điều 257 BLDS 2015).
- Nếu so sánh với quyền sở hữu có thể thấy rằng, quyền sở hữu cho phép chủ sở hữu được khai thác
công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức thuộc quyền sở hữu của mình trong suốt thời gian sở hữu tài sản.
Trong khi đó, quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của người
khác. Và do đó, quyền hưởng dụng sẽ bị hạn chế về mặt thời gian. Bên cạnh đó, quyền hưởng dụng
là quyền xuất phát từ quyền sở hữu, theo đó quyền hưởng dụng được xem là một phân nhánh của
quyền sở hữu, vì vậy phạm vi các quyền người hưởng dụng được thực hiện đối với tài sản hưởng
dụng sẽ hẹp hơn so với phạm vi các quyền chủ sở hữu được quyền thực hiện (chỉ có hai thành phần
quyền, là quyền sử dụng và quyền hưởng lợi).
2.2.1. Khái niệm Quyền hưởng dụng tài sản
• Trong quan hệ hưởng dụng đối với một tài sản, có hai chủ thể là chủ sở hữu và
người có quyền hưởng dụng. Người có quyền hưởng dụng tuy không phải là
chủ sở hữu nhưng vẫn được hưởng dụng tài sản của người khác.
• Ví dụ: việc ông A để lại di chúc trong đó cho anh B (con) thừa kế căn nhà
thuộc quyền sở hữu của A. Nhưng trong di chúc, ông A ghi rõ sẽ cho C (vợ)
quyền hưởng dụng căn nhà đó. Như vậy, trong mối quan hệ này C là người có
quyền hưởng dụng tài sản là căn nhà do B là chủ sở hữu theo di chúc của A để
lại. Khi C còn sống thì C có quyền hưởng dụng căn nhà do A để lại, chỉ khi
nào C chết đi thì căn nhà ấy sẽ thuộc về B.
2.2.1. Khái niệm Quyền hưởng dụng tài sản
• Phân biệt quyền hưởng dụng với trường hợp quyền sử dụng (một nội dung của quyền sở hữu)
của người không phải chủ sở hữu (như thuê hay mượn tài sản).
❖ Quyền hưởng dụng cho phép người có quyền khai thác, sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản nên biểu hiện bên ngoài khá tương đồng với quyền sử dụng của người không phải chủ sở hữu, như
B thuê nhà của A cũng có quyền sử dụng tài sản của A. Tuy nhiên, đây là hai quyền hoàn toàn khác
nhau xuất phát từ lý luận về quyền.
❖ Quyền hưởng dụng bản chất là quyền đối vật, tức là quyền này được thực hiện trực tiếp trên tài sản
của người khác, không phụ thuộc vào chủ sở hữu là ai, nếu tài sản chuyển giao cho người khác thì
quyền vẫn được tiếp tục duy trì khi thời hạn còn. Nhưng quyền sử dụng của người không phải chủ sở
hữu bản chất là quyền đối nhân, tức là quyền được thục hiện phụ thuộc vào việc chuyển giao tài sản
(phổ biến là hợp đồng thuê, mượn) và được đảm bảo dựa vào hành vi của chủ sở hữu tài sản, không
phụ thuộc vào tài sản.
2.2.1. Khái niệm Quyền hưởng dụng tài sản
❖Ví dụ, A là chủ sở hữu căn nhà. Nếu A lập di chúc cho B có quyền hưởng dụng căn nhà này hết đời,
thì kể từ khi quyền hưởng dụng được xác lập B có quyền chiếm hữu, sử dụng căn nhà, hưởng hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ căn nhà, thậm chí là cho phép người khác sử dụng căn nhà cũng không cần được
A cho phép. Còn A trong suốt thời hạn quyền hưởng dụng có hiệu lực phải đảm bảo quyền cho B, dù
A có định đoạt tài sản thế nào cũng không được ảnh hưởng đến quyền hưởng dụng, và nhất là A
không được lấy lại căn nhà trước khi quyền hưởng dụng kết thúc.
❖Nhưng nếu A cho B thuê nhà, tức là B có quyền sử dụng căn nhà do chủ sở hữu chuyển giao, thì
ngoài việc B được chiếm hữu, sử dụng căn nhà theo đúng thỏa thuận giữa hai bên thì B muốn thực
hiện quyền nào khác phải được A đồng ý, như cho người khác thuê lại hay hưởng hoa lợi, lợi tức phát
sinh trong thời gian thuê. Còn A, mặc dù theo thỏa thuận cho B thuê 6 năm nhưng nếu mới được 3
năm A muốn lấy lại nhà vẫn được, xem như hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng và A chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho B.
2.2.2. Căn cứ xác lập (Điều 258 BLDS 2015)
Di • Căn cứ
xác lập
chúc
Thoả
thuận
Do luật
định
2.2.2. Căn cứ xác lập (Điều 258 BLDS 2015)
- Do các bên có thỏa thuận. Trong quan hệ pháp luật dân sự, các bên có quyền thỏa thuận nhằm xác lập thực
hiện các giao dịch dân sự phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình. Các thỏa thuận hợp pháp được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ. Do đó, nếu các bên có thỏa thuận về việc hưởng dụng tài sản của một bên và thỏa
thuận này không trái pháp luật, đạo đức xã hội thì thỏa thuận này có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ: ông A sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh được thừa kế quyền sử dụng đất là mảnh đất vườn
ở Vĩnh Long. Do điều kiện công tác thực tế nên ông A không thể tự mình trực tiếp canh tác được mảnh vườn
được, nhưng ông A lại không muốn bán hoặc cho thuê mảnh vườn đó. Ông A đã thỏa thuận trao cho anh B
quyền hưởng dụng mảnh vườn để anh B có thể canh tác trên mảnh vườn cũng như hưởng hoa lợi lợi tức thu
được từ mảnh vườn đó trong thời gian ông A ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, trong trường hợp này quyền hưởng dụng phát sinh theo sự thỏa thuận của các bên. Trong
trường hợp chủ sở hữu tài sản có thỏa thuận cho phép người khác hưởngdụng tài sản của mình trong một thời
hạn, thông qua một hợp đồng có hoặc không có đền bù. Và thời hạn của quyền hưởng dụng trong trường hợp
này phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
2.2.2. Căn cứ xác lập (Điều 258 BLDS 2015)
• Theo di chúc. Đây cũng là một trong các căn cứ khá phổ biến trong giao lưu
dân sự. Thông qua di chúc của mình, một người có thể định đoạt tài sản cho ai sử
dụng, cho ai hưởng lợi trong thời hạn bao lâu. Nếu di chúc đáp ứng các điều kiện
luật định về nội dung, hình thức cũng như điều kiện về mặt chủ thể, thì di chúc đó
có hiệu lực pháp luật.
• Ví dụ: ông A lập di chúc, theo đó, ông A để lại căn nhà của mình cho C là con
trai. Tuy nhiên, ông A cũng cho phép quỹ từ thiện B được sử dụng căn nhà của
mình làm trụ sở giao dịch. Như vậy, trong trường hợp này quỹ từ thiện B là người
hưởng dụng đối với căn nhà do ông A để lại. Quyền hưởng dụng của quỹ từ thiện B
phát sinh trên cơ sở di chúc của ông A.
2.2.3. Hiệu lực của quyền hưởng dụng (Điều 259 BLDS 2015)
quyền hưởng dụng cũng có hiệu lực nếu được xác lập hợp pháp. Việc xác định thời điểm có
hiệu lực của quyền hưởng dụng có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ của các bên (nghĩa vụ
giao vật, nghĩa vụ bảo quản, nghĩa vụ sửa chữa tài sản…), xác định thời điểm chịu rủi ro đối
với tài sản là đối tượng hưởng dụng. Đồng thời việc xác định thời điểm có hiệu lực còn có ý
nghĩa trong việc xác định được thời hạn hưởng dụng.
Về mặt nguyên tắc, quyền hưởng dụng được xác lập từ thời điểm nhận chuyển giao tài sản, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác, chỉ khi chủ sở
hữu chuyển giao tài sản và bên hưởng dụng nhận được tài sản thì hiệu lực của quyền hưởng
dụng mới phát sinh và ràng buộc pháp lý đối với hai bên.
Có thể nói, quyền hưởng dụng phát sinh từ quyền sở hữu, người hưởng dụng là người sử dụng
và hưởng lợi từ tài sản hưởng dụng trên cơ sở có sự đồng ý của chủ sở hữu. Do đó, quyền
hưởng dụng đã được xác lập có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân, trừ trường hợp luật
liên quan có quy định khác.
2.2.4. Thời hạn của quyền hưởng dụng
Ví dụ: cá nhân M lập hợp đồng cho công ty N quyền hưởng dụng
căn hộ chung cư của mình và hai bên thỏa thuận thời hạn hưởng dụng là
đến khi nào công ty N chấm dứt tồn tại; như vậy nếu được 20 năm mà
công ty N bị phá sản và chấm dứt thì quyền hưởng dụng cũng chấm dứt,
ngược lại nếu công ty N tồn tại được hơn 30 năm thì đến năm thứ 30
quyền hưởng dụng vẫn chấm dứt theo quy định của Bộ luật.
2.2.5. Quyền và nghĩa vụ của người hưởng dụng
- Một là, tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi
tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng. Trong thời gian hưởng dụng, phần lớn các
trường hợp người hưởng dụng tự mình khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
đối tượng hưởng dụng. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh, vì một vài lý do nào đó,
người hưởng dụng không tự mình khai thác công dụng hoặc hưởng hoa lợi, lợi tức từ
đối tượng hưởng dụng mà cho phép người khác thực hiện quyền này. Tuy nhiên cần
lưu ý rằng việc người thứ ba khai thác quyền hưởng dụng cũng chỉ được thực hiện
trong thời hạn hưởng dụng và đặc biệt là không trái với thỏa thuận ban đầu giữa chủ
sở hữu tài sản và người hưởng dụng.
- Hai là, yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản theo quy
định tại khoản 4 Điều 263 của Bộ luật này; trường hợp thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ sở
hữu tài sản thì có quyền yêu cầu chủ sở hữu tài sản hoàn trả chi phí. Trong quá trình sử
dụng tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng, người hưởng dụng có nghĩa vụ phải thực hiện
một số hành vi bảo dưỡng sửa chữa nhất định đối với tài sản hưởng dụng. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, chủ sở hữu tài sản phải thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản khi được
người hưởng dụng yêu cầu. Trong trường hợp mặc dù đã yêu cầu chủ sở hữu thực hiện nghĩa vụ
sửa chữa nhưng vì lý do nào đó chủ sở hữu không thực hiện nghĩa vụ này, thì người hưởng dụng
sẽ thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản. Lúc này, giữa người hưởng dụng và chủ sở hữu
sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn lại. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu phải hoàn trả cho người hưởng
dụng chi phí mà người hưởng dụng đã bỏ ra để sửa chữa tài sản là đối tượng của quyền hưởng
dụng.
• Trong thời hạn hưởng dụng, nếu tài sản hưởng dụng
gây ra thiệt hại cho các chủ thể khác thì người hưởng
dụng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại.
Ngược lại, nếu chủ thể khác gây thiệt hại cho tài sản
hưởng dụng thì người hưởng dụng nếu đã bỏ ra chi
phí sửa chữa, bảo dưỡng tài sản sẽ là người được
nhận khoản tiền bồi thường thiệt hại đó.
• Ba là, cho thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản. Theo quy định tại khoản 2 Điều 260
thì người hưởng dụng có quyền cho thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản trong thời hạn của
quyền hưởng dụng. Điều này là phù hợp với thực tế, bởi lẽ trong một số trường hợp người có
quyền hưởng dụng không có khả năng tự mình khai thác tính năng công dụng của tài sản hưởng
dụng một cách tốt nhất. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp người hưởng dụng có thể thông
qua việc cho thuê tài sản hưởng dụng để khai thác một cách tốt nhất tài sản đó.
• Ví dụ như trường hợp ông A chết và để lại tài sản là một chiếc xe tải đầu kéo. Chiếc xe tải
đầu kéo này là phương tiện sinh sống duy nhất của cả gia đình, nếu bán chiếc xe tải này để phân
chia di sản thừa kế sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vợ và các con của A. Vợ của A là C đã
yêu cầu hạn chế phân chia di sản theo quy định tại Điều 661 BDLS năm 2015 trong trường hợp
này. Tuy nhiên, chị C không thể tự mình lái chiếc xe tải đầu kéo nên chị C đã cho D thuê chiếc
xe này trong thời gian hạn chế phân chia di sản.
• Bên cạnh các quyền nêu trên thì người hưởng dụng còn có quyền hưởng hoa
lợi, lợi tức tại Điều 264 BLDS năm 2015. Ngoài việc sử dụng tài sản là đối tượng
hưởng dụng thì quyền hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản hưởng dụng là vấn đề chính
yếu ở quyền hưởng dụng. Do đó, có hai nội dung cần phải làm rõ đối với quyền
hưởng hoa lợi, lợi tức, đó là:
• Người hưởng dụng có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản
là đối tượng của quyền hưởng dụng trong thời gian quyền này có hiệu lực. Bản chất
của việc thừa nhận quyền hưởng dụng đó chính là việc thừa nhận quyền hưởng hoa
lợi, lợi tức từ việc khai thác đối tượng là tài sản hưởng dụng. Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ đối tượng hưởng dụng thuộc về người hưởng dụng trong thời gian hưởng
dụng.
• Trường hợp quyền hưởng dụng chấm dứt mà chưa đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi
tức thì khi đến kỳ hạn thu hoa lợi, lợi tức, người hưởng dụng được hưởng giá trị của
hoa lợi, lợi tức thu được tương ứng với thời gian người đó được quyền hưởng dụng.
Đây là một quy định mềm dẻo và linh hoạt, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của người hưởng dụng. Trên thực tế, để có thể làm cho đối tượng hưởng dụng phát
sinh hoa lợi, lợi tức thì người hưởng dụng phải đầu tư thời gian, công sức hoặc cả
tiền bạc. Do đó, nếu trong trường hợp quyền hưởng dụng chấm dứt mà chưa đến kỳ
hạn thu hoa lợi, lợi tức thì để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng
dụng, pháp luật đã cho phép người hưởng dụng được quyền hưởng giá trị của hoa
lợi, lợi tức thu được tương ứng với thời gian người đó được quyền hưởng dụng.
2.2.5.2. Nghĩa vụ của người hưởng dụng
Điều 262 BLDS năm 2015 quy định về nghĩa vụ của người hưởng dụng. Theo đó, người
hưởng dụng được quyền khai thác đối tượng hưởng dụng trong suốt thời hạn hưởng
dụng nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích của mình. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác
đối tượng hưởng dụng người hưởng dụng có những nghĩa vụ sau:
- Tiếp nhận tài sản theo hiện trạng và thực hiện đăng ký nếu luật có quy định. Quy
định về đăng ký được đặt ra trong trường hợp đối tượng hưởng dụng là bất động sản,
hoặc động sản theo quy định pháp luật phải được đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Quy định này là hết sức cần thiết vì có ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước,
cũng như để đảm bảo quyền lợi ích các bên khi tham gia các giao dịch dân sự có liên
quan đến đối tượng hưởng dụng.
- Khai thác tài sản phù hợp với công dụng, mục đích sử dụng của tài sản. Để
đảm bảo việc khai thác đối tượng hưởng dụng một cách tối đa, việc khai thác tài
sản phải phù hợp với công dụng, mục đích sử dụng của tài sản. Nếu không đảm
bảo việc khai thác tài sản phù hợp với công dụng, mục đích sử dụng tài sản sẽ có
nguy cơ dẫn đến trình trạng tài sản bị hư hỏng, hoặc giảm sút giá trị.
- Giữ gìn, bảo quản tài sản như tài sản của mình. Đây là một quy định mang
tính chất định tính để đảm bảo người hưởng dụng khi sử dụng đối tượng hưởng
dụng có những chăm sóc, bảo dưỡng nhất định đối với tài sản để đảm bảo cho
việc khai thác đối tượng hưởng dụng được lâu dài cũng như đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản.
- Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi
phục tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực
hiện tốt nghĩa vụ của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo quản tài
sản. Trong quá trình khai thác đối tượng hưởng dụng, theo thời gian, theo tác động của môi
trường, tác động của quá trình sử dụng mà tài sản hưởng dụng bị giảm sút giá trị hoặc bị hư
hỏng. Do đó, tài sản hưởng dụng phải được bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ để đảm bảo cho việc sử
dụng tài sản bình thường. Nếu trong quá trình khai thác đối tượng hưởng dụng mà không thực
hiện tốt nghĩa vụ của mình làm cho tài sản bị hư hại thì người hưởng dụng có nghĩa vụ khôi phục
tình trạng tài sản và khắc phục các hậu quả xấu đã gây ra. Việc thực hiện tốt nghĩa vụ bảo dưỡng
đối tượng hưởng dụng phải phù hợp với yêu cầu kỹ thuật đặt ra đối với đối tượng hưởng dụng,
hoặc phù hợp với tập quán về bảo quản tài sản.
2.2.6. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản
Điều 263 BLDS năm 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
tài sản Chủ sở hữu tài sản là người được pháp luật quy định có các quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Khi chủ sở hữu cho phép
người khác hưởng dụng tài sản thì trong thời gian người hưởng dụng khai
thác đối tượng hưởng dụng, chủ sở hữu tài sản phải tôn trọng quyền hưởng
dụng đó. Trong mối liên hệ với quyền hưởng dụng tài sản, chủ sở hữu tài
sản có những quyền và nghĩa vụ nhất định sau:
- Định đoạt tài sản nhưng không được làm thay đổi quyền
hưởng dụng đã được xác lập.
Cần lưu ý rằng, khi quyền hưởng dụng chấm dứt thì phát sinh nghĩa vụ hoàn
trả tài sản hưởng dụng. Việc hoàn trả tài sản khi chấm dứt quyền hưởng dụng
được thực hiện theo quy định tại Điều 266 BLDS. Theo đó, tài sản là đối
tượng của quyền hưởng dụng phải được hoàn trả cho chủ sở hữu khi chấm
dứt quyền hưởng dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.
2.3. Quyền bề mặt
- Thứ nhất, người có quyền bề mặt là người xác lập quyền đối với người có quyền sử dụng
đất đó. Khác với trường hợp chủ thể thuê đất, thuê mặt nước từ Nhà nước theo quy định của
pháp luật về đất đai. Điều giống nhau ở cả hai chủ thể này là họ đều phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính đối với Nhà nước trong thời gian sử dụng đất, bề mặt đó. Tuy nhiên, nếu giữa chủ thể có
quyền bề mặt có thỏa thuận với chủ thể có quyền sử dụng đất thì chủ thể có quyền sử dụng đất
là người thực hiện nghĩa vụ tài chính. Thời hạn trong hai trường hợp này cũng khác nhau. Trong
trường hợp chủ thể thuê đất, thuê mặt nước từ Nhà nước, thời hạn thuê được xác định trên cơ sở
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đơn giá, khung giá do pháp luật quy định.
Trong khi đó, thời hạn đối với quyền bề mặt được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa chủ thể
có quyền sử dụng đất và người có quyền bề mặt.
2.3.1. Khái niệm
- Thứ hai, chủ thể có quyền bề mặt với chủ thể được người có quyền sử dụng
đất cho thuê lại hay cho mượn là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau,
chẳng hạn như A có quyền sử dụng đất và A cho B quyền bề mặt sử dụng đối
với đất này, khác với trường hợp A có quyền sử dụng đất và A lập hợp đồng
cho B thuê lại đất này. Bởi vì biểu hiện bên ngoài của hai trường hợp này là B
đều có quyền khai thác, sử dụng không gian trên mặt đất hay lòng đất đối với
đất thuộc quyền của A. Nhưng bản chất của hai quyền này là khác nhau, và
việc phân biệt hoàn toàn tương tự như trường hợp phân biệt quyền hưởng dụng
với quyền sử dụng của người không phải chủ sở hữu đã được trình bày ở trên.
2.3.2. Căn cứ xác lập Quyền bề mặt (Điều 268 BLDS 2015)
thoả thuận
di chúc
- Căn cứ luật định cho phép chủ thể phát sinh quyền
bề mặt đối với quyền sử dụng đất của người khác trong
hoàn cảnh do luật quy định. Tuy nhiên, hiện nay trong
BLDS năm 2015 không có quy định nào để xác lập
quyền bề mặt, ngoài các quy định trong chính phần
này. Do vậy căn cứ này có lẽ sẽ được quy định trong
văn bản luật khác.
• Căn cứ thứ hai theo thỏa thuận cho phép các chủ thể được thỏa thuận với
nhau về các nội dung liên quan đến việc bên có quyền sử dụng đất cho phép cá
nhân, pháp nhân được sử dụng, khai thác mặt đất, lòng đất, không gian trên đất
theo những điều kiện, điều khoản cụ thể. Chẳng hạn như trường hợp A thỏa thuận
cho công ty quảng cáo B sử dụng phần không gian trên mặt đất của mình để
trưng bày các bảng quảng cáo sản phẩm ngoài trời với thời hạn ba năm. Trong
trường hợp này công ty quảng cáo B có quyền bề mặt xuất phát từ sự thỏa thuận
của các bên trong thời hạn ba năm. Thời hạn này có thể được gia hạn hay không
tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
• Căn cứ vào di chúc của cá nhân người có quyền sử dụng đất. Di chúc là
sự thể hiện ý chí của một người nhằm định đoạt tài sản của người đó sau khi
chết.
• Ví dụ: A để lại di chúc cho B và C mảnh đất. Đồng thời trong di chúc A để
lại cho D quyền bề mặt đối với mảnh đất đó. Như vậy D có quyền bề mặt đối
với diện tích bề mặt của mảnh đất. D có thể tự mình khai thác sử dụng bề mặt
(như trồng cây, xây nhà để cho thuê hay ở…) hoặc có quyền cho thuê, hoặc
chuyển nhượng lại cho cá nhân, tổ chức khác khai thác sử dụng quyền bề mặt
đó.
• 2.3.3. Thời hạn của quyền bề mặt
• Thời hạn của quyền bề mặt được quy định tại Điều 270 BLDS năm 2015. Theo đó, thời hạn
của quyền bề mặt được xác định theo quy định của pháp luật (đất đai), theo thoả thuận hoặc di
chúc nhưng không vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất do luật định. Do quyền bề mặt là
quyền phát sinh từ quyền sử dụng đất. Chính vì vậy mà thời hạn của quyền bề mặt không thể vượt
quá thời hạn của quyền sử dụng đất. Thời hạn của quyền sử dụng đất phải tuân theo các quy định
của pháp luật về đất đai, phù hợp với từng loại đất nhất định. Do đó thời hạn của quyền bề mặt
cũng có thể dài ngắn khác nhau tùy vào từng loại đất.
• Trong trường hợp thoả thuận của các bên hoặc di chúc không xác định thời hạn của quyền
bề mặt thì mỗi bên có quyền chấm dứt quyền này bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo bằng văn
bản cho bên kia biết trước ít nhất là 06 tháng. Thời gian 06 tháng là thời gian tương đối phù hợp
để các bên có thể sắp xếp, thực hiện các phương án thay thế.
2.3.4. Nội dung quyền bề mặt
• Nội dung của quyền bề mặt gồm quyền khai thác, sử dụng mặt
đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và
lòng đất thuộc quyền sử dụng đất của người khác để xây dựng
công trình, trồng cây, canh tác nhưng không được trái với quy
định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai, xây dựng, quy
hoạch, tài nguyên, khoáng sản và quy định khác của pháp luật
có liên quan (Điều 271 BLDS năm 2015).
• Nội dung của quyền bề mặt có sự khác biệt so với quyền đối với bất động
sản liền kề và quyền hưởng dụng:
❑ Trong quyền đối với bất động sản liền kề và quyền hưởng dụng, bên được
hưởng quyền không được xây dựng tài sản mới trên đất mà chỉ được sử
dụng, hưởng lợi trên tài sản đã có của chủ sở hữu (tài sản này là đối tượng
của quyền).
❑Còn đối với quyền bề mặt, bên có quyền được xây dựng tài sản mới (như
công trình xây dựng, cây cối…) trên đất của chủ sở hữu và có quyền sở hữu
đối với những tài sản mới này nếu không có thỏa thuận khác.
Quyền bề mặt là quyền phát sinh từ quyền sử dụng đất. Do vậy, việc sử dụng bề
mặt phải phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai. Bên cạnh đó, trong quá
trình khai thác, sử dụng mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt
nước để thực hiện các hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp, kinh doanh, chủ thể quyền
bề mặt phải tuân thủ các quy định khác.
• Chẳng hạn như A cho công ty B thuê không gian trên phần đất thuộc quyền
sử dụng của mình để xây dựng các bảng quảng cáo phục vụ cho việc quảng cáo
cho sản phẩm của các công ty khác. Thì việc xây dựng, quảng cáo đó phải phù
hợp với các quy định của pháp luật về xây dựng, quy hoạch, quảng cáo… Hoặc
trong quá trình đào móng xây dựng các cột, trụ cho các công trình quảng cáo
ngoài trời, công ty B phát hiện được một số tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa
thì công ty B phải tuân thủ các quy định của BLDS năm 2015 và các quy định của
Luật di sản văn hóa.
2.3.4. Chấm dứt quyền bề mặt
• Tình huống: Ông A lập di chúc cho ông B hưởng dụng một
bất động sản. Sau khi ông A và ông B chết, những người
thừa kế của ông A và ông B tranh chấp với nhau về bất động
sản nêu trên. Toà án đã giải quyết theo hướng người thừa kế
của ông B được hưởng quyền sở hữu bất động sản.
• Câu hỏi: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của
Toà án.
Câu hỏi ôn tập
• Cho biết các loại quyền khác đối với tài sản?
• Quyền khác đối với tài sản có những đặc điểm
nào?
• Cho biết điểm khác biệt giữa quyền hưởng dụng
và quyền sử dụng trong hợp đồng thuê, mượn tài
sản?
• Người có quyền khác có được đòi tài sản từ người
thứ ba ngay tình không?
PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN, QUYỀN SỞ HỮU
VÀ THỪA KẾ
• Điều 225 BLDS 2015 đã không có khoản nào quy định riêng trường hợp này, vì vậy, phải áp dụng nguyên tắc vật
chính – vật phụ tại điều 225 khoản 1 để giải quyết, theo đó, chủ bất động sản sẽ trở thành chủ sở hữu của tài sản mới và
phải thanh toán cho chủ sở hữu động sản giá trị của phần tài sản bị sáp nhập. Và nếu như áp dụng điều luật này thì chủ
sở hữu bất động sản liệu có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi người này không hề muốn có công trình xây dựng
hay cây cối trồng trọt trên đất anh ta? Có lẽ, các quy định chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ được áp
dụng ở đây. Về vấn đề này, luật của Pháp quy định nếu một người xây dựng hay trồng trọt trên đất người khác một cách
không ngay tình thì chủ sỡ hữu đất có hai lựa chọn, hoặc yêu cầu người này phải tháo dỡ công trình xây dựng hoặc cây
cối bằng chi phí của mình hoặc giữ lại công trình xây dựng hay cây trồng đó và bồi hoàn cho người kia giá trị nguyên
vật liệu và các chi phí khác đã bỏ ra
1.3. Các căn cứ cụ thể xác lập QSH
• Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp trộn lẫn (Điều 226
BLDS 2015)
• Trộn lẫn được hiểu là việc pha trộn các vật với nhau tạo thành một
vật mới. Khác với sáp nhập, vật được trộn lẫn chỉ có thể là động
sản. Về nguyên tắc, khi các tài sản được trộn lẫn tạo thành một vật
mới không thể chia được thì vật mới là tài sản chung của các chủ
sở hữu. Nếu một người đã trộn lẫn tài sản của người khác vào tài
sản của mình một cách không ngay tình thì chủ sở hữu tài sản bị
trộn lẫn cũng có hai lựa chọn, hoặc yêu cầu người đã trộn lẫn tài
sản của mình phải giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho
người kia giá trị phần tài sản của họ, hoặc yêu cầu người này
thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.
Tình huống
Tôi muốn hỏi, khi một người trộn lẫn tài sản của tôi vào tài sản của người đó mà không
được sự đồng ý của tôi thì tôi có được yêu cầu người đó trả lại tài sản của mình không?
Trả lời:
Theo Điều 226 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu trong trường hợp
trộn lẫn thì khi một người đã trộn lẫn tài sản của người khác vào tài sản của mình, mặc dù đã
biết hoặc phải biết tài sản đó không phải của mình và không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài
sản bị trộn lẫn thì chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn có một trong các quyền sau đây:
- Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người đã trộn
lẫn phần giá trị tài sản của người đó;
- Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt
hại nếu không nhận tài sản mới.
Như vậy, trong trường hợp này, bạn có thể yêu cầu người đó giao tài sản mới cho mình và thanh
toán cho người đã trộn lẫn phần giá trị tài sản của người đó hoặc yêu cầu người đã trộn lẫn
thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại nếu không nhận tài sản mới.
1.3. Các căn cứ cụ thể xác lập QSH
• Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp chế biến
(Điều 227 BLDS 2015)
• Chế biến là việc sử dụng nguyên, vật liệu (tài sản gốc)
và bảng kết quả lao động tạo thành một tài sản mới (sản
phẩm). Đối tượng của việc chế biến là động sản.
• Ví dụ như việc một nhà điêu khắc sử dụng một phiến
đá hoa cương để tạc một bức tượng. Việc chế biến có
thể được thực hiện thông qua hợp đồng gia công và chủ
sở hữu nguyên vật liệu trở thành chủ sở hữu tài sản
mới.
1.3. Các căn cứ cụ thể xác lập QSH
• Nếu người chế biến sản phẩm không phải là chủ sở hữu của nguyên vật
liệu và đã sử dụng các nguyên vật liệu này một cách ngay tình thì trở thành
chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu và
bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.
• Nếu người chế biến sản phẩm là người không ngay tình thì tài sản tạo
thành thuộc sở hữu của chủ hoặc các chủ sở hữu nguyên vật liệu, những
người này lại còn có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại nếu
có. Như vậy, công sức lao động của người chế biến không được thanh toán,
ngay cả khi nhờ vào việc chế tác, tài sản mới đã được tăng giá trị lên rất
nhiều.
1.3. Các căn cứ cụ thể xác lập QSH
• Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ (khoản 1 Điều 228
BLDS 2015)
• Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối
với tài sản đó. Chỉ được coi là tài sản vô chủ khi biết chắc chắn rằng
chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Sự từ bỏ quyền
sở hữu được chủ sở hữu thực hiện bằng tuyên bố (bằng văn bản hay
bằng miệng) hoặc bằng một hành vi cụ thể.
• Tài sản vô chủ có thể được xác lập quyền sở hữu đối với người khác
theo trình tự thủ tục luật định tại Khoản 1 Điều 228 BLDS 2015,
Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản
thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định
khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.
Tình huống
Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc (Điều 231
BLDS 2015)
Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc (Điều 232
BLDS 2015)
Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước (Điều 233
BLDS 2015)
Tình huống
•Ông B bắt được một con bò lạc. Sau một thời
gian nuôi con bò đã đẻ một con bê con. Sau 01
năm kể từ ngày bắt được gia súc thất lạc,
người chủ của con bò đến nhận lại tài sản của
mình. Vậy trong trường hợp này, con bò và
con bê sẽ thuộc sở hữu của ai?
• Trả lời:
Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người bắt được gia súc bị thất lạc
phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để
thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06 tháng, kể từ ngày
thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông theo tập quán thì
quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ
thuộc về người bắt được gia súc.
Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán tiền
công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia súc. Trong thời gian
nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc
được hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh ra và phải
bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc.
Như vậy, trong trường hợp trên, sau 01 năm kể từ ngày bắt được con bò bị thất lạc
và trong thời gian ông B nuôi dưỡng con bò đã đẻ ra con bê thì quyền sở hữu đối
với con bò và con bê thuộc về ông B.
Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán tiền
công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được gia súc (ông B). Đồng thời,
nếu được nhận lại con bê thì ông B sẽ được hưởng 50% giá trị của con bê.
• Tình huống:
Do bão lụt nên tất cả cá trong ao của ông D đã sang ao
của ông Q. Ông Q cho rằng cá vào ao của ông thì sẽ thuộc
sở hữu của ông. Nhưng ông D cho rằng cá của ông Q mới
thả còn nhỏ, còn cá của ông là cá đã lớn vì vậy ông Q phải
trả lại số cá lớn cho ông. Vậy theo quy định của pháp luật
hiện hành, ông Q có phải trả lại cá cho ông D hay không?
Trả lời:
Điều 233 Bộ luật dân sự 2015 quy định khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển
tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó.
Trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không
thuộc sở hữu của mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở
hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người
đến nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.
Căn cứ vào quy định nêu trên, khi tất cả cá trong ao của ông D đã sang ao của ông Q do
lụt bão thì số cá đó sẽ thuộc sở hữu của ông Q. Chỉ khi cá của ông D có dấu hiệu riêng
biệt thì mới được quyền đòi lại, như: loại cá của ông Q là chép trắng, còn cá mà ông D là
chép vàng; hoặc ông Q chỉ nuôi cá chép, còn ông D chỉ nuôi cá mè... Trong trường hợp
nêu trên, việc ông D cho rằng cá của ông Q mới thả còn nhỏ, còn cá của ông là cá đã lớn
sẽ không được coi là dấu hiệu riêng biệt để có thể phân biệt cá của ông D với cá của ông
Q. Vì vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, ông Q sẽ không phải trả số cá lớn có
trong ao của mình cho ông D.
Tình huống
• Ông A có ý định xây lại ngôi nhà nên đã thuê
người đến đào móng. Trong quá trình đào, người
làm thuê đã đào được 1 hũ vàng. Ông A lấy hũ vàng
và cho họ mỗi người một ít tiền nhưng họ không
chịu vì họ cho rằng họ là người đào được thì phải là
của họ. Hỏi trong trường hợp này hũ vàng đó sẽ
thuộc quyền sở hữu của ai?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 229 Bộ luật dân sự năm 2015 về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu,
bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy thì người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông
báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp này, khi đào được hũ vàng mà không xác định được ai là chủ sở hữu thì ông A
và người làm thuê có trách nhiệm thông báo cho UBND cấp xã hoặc cơ quan có thẩm quyền; trong thời
gian thông báo, ông A hoặc người làm thuê có thể tạm thời chiếm giữ hũ vàng đó. Sau khi trừ chi phí tìm
kiếm, bảo quản thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định:
- Nếu tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa
thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của
pháp luật;
- Nếu tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di
sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở
hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50%
giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về
Nhà nước.
Tình huống
Ông Minh phát hiện có con trâu lạc vào đàn
trâu nhà mình, ông đã báo cho cán bộ xã biết
để thông báo trên loa truyền thanh của xã, rồi
đưa trâu về nhà nuôi. Đến nay, đã 3 tháng kể từ
ngày thấy trâu nhưng chưa có ai đến xin lại.
Ông Minh muốn hỏi, khi nào thì ông có thể xác
lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc
này?
Trả lời:
Theo Điều 231 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc xác lập
quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc người bắt được gia súc bị thất
lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau
06 tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia
súc thả rông theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia
súc được sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia
súc.
Như vậy, nếu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày thông báo công khai
với chính quyền về việc phát hiện thấy trâu lạc mà chủ sở hữu không
đến xin lại thì quyền sở hữu đối với con trâu đó thuộc về ông Minh.
Tình huống
Nhà anh H nuôi một đàn vịt có 30 con. Một hôm lùa
đàn vịt về, anh đếm vịt thấy tăng lên 10 con. Anh H
biết có vịt lạ lạc vào đàn vịt của mình, nhưng không
thông báo cho các gia đình gần đó cũng như báo với
chính quyền biết, mà anh mặc nhiên cho đó là vịt
nhà mình.
Xin hỏi, trong trường hợp trên, anh H có thể tự xác
lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc như vậy
không?
Trả lời:
Căn cứ Điều 232 Bộ luật Dân sự năm 2015 về xác lập quyền sở hữu
đối với gia cầm bị thất lạc, trường hợp anh H bắt được gia cầm của
người khác bị thất lạc thì anh H phải thông báo công khai đến các hộ
dân lân cận và chính quyền cơ sở để thông báo trên các phương tiện
đại chúng nhằm giúp chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01
tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận
thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong
thời gian nuôi giữ mới thuộc về anh H. Do vậy, việc anh H ngay khi
bắt được 10 con vịt bị lạc đã tự cho là thuộc quyền sở hữu của mình là
không đúng pháp luật.
Tình huống
Gia đình bà An là gia đình thuần nông, ngoài việc canh tác 3 sào ruộng
lúa, gia đình bà còn nuôi một đàn vịt để tăng thêm thu nhập. Một hôm, sau
khi lùa đàn vịt chăn ở ngoài đồng về nhà, bà An đếm lại và phát hiện có
thêm 15 con vịt khác lạc vào đàn vịt nhà bà. Ngay lúc đó, bà An đã đi hỏi
các gia đình nuôi vịt gần đó và báo với Ủy ban nhân dân xã nhưng không
thấy gia đình nào báo mất vịt. Theo lời cán bộ Ủy ban nhân dân xã, bà An
đã nuôi ghép số vịt đó cùng đàn vịt của nhà mình trong thời gian chờ
người mất đến nhận vịt. 20 ngày sau, ông Bê nhà ở cuối thôn đến tìm bà
An và muốn nhận lại số vịt bị thất lạc và toàn bộ số lượng trứng mà 15
con vịt đã đẻ ra trong quá trình bà nuôi giữ. Bà An không đồng ý trả lại vịt
cho ông Bê vì bà cho rằng mình đã tốn công chăm sóc trong 20 ngày vừa
qua nên số vịt nói trên phải là của gia đình bà. Không ai chịu nhường ai
nên hai bên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã và nặng lời với nhau. Sau đó ông Bê
đã đến nhờ luật sư để giải quyết.
Gợi ý trả lời:
1. Xác định mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn: Đây là mâu thuẫn giữa ông Bê và bà An trong việc trả lại 15 con vịt
bị thất lạc. Ông Bê muốn nhận lại vịt và toàn bộ số lượng trứng mà 15 con vịt đã đẻ ra trong quá trình bà An nuôi giữ.
Bà A không đồng ý trả lại vịt.
- Căn cứ pháp luật: Điều 232 Bộ luật Dân sự năm 2015 về xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc quy định:
"Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để
chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì
quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm.
Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia cầm bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho
người bắt được gia cầm. Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất lạc, người bắt được gia cầm được hưởng hoa lợi do
gia cầm sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia cầm".
3. Hướng giải quyết
- Bà An phát hiện 15 con vịt lạc vào đàn vịt nhà mình và đã báo cho Ủy ban nhân dân xã để thông báo cho người mất, đồng thời
nuôi giữ số vịt nói trên chờ người đến nhận là đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Theo quy định thì phải sau một tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì số vịt nói trên mới thuộc
sở hữu của bà An. Tuy nhiên bà An mới chỉ nuôi giữ số vịt này được 20 ngày nên bà An phải trả lại toàn bộ số vịt này cho ông Bê
và bà An chỉ được hưởng số trứng mà 15 con vịt đã đẻ trong thời gian nuôi giữ.
Ông Bê chỉ được nhận lại số vịt bị lạc, không được nhận lại số lượng trứng vịt đẻ ra trong thời gian bà An nuôi giữ, đồng thời
phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho bà An.
- Khuyên ông B và bà A không nên cãi vã, to tiếng với nhau sẽ làm mất tình đoàn kết giữa hai gia đình và ảnh hưởng đến thôn.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa nhà ông Minh và ông
Huân là do tôm từ đầm nhà ông Minh nhảy tràn sang đầm nhà ông Huân sau trận
mưa rào, nước lụt. Ô Huân không thông báo lại còn bắt tôm đem bán. Ông Minh
yêu cầu ông Huân trả lại số tôm đã bắt nhưng ông Huân không đồng ý.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017
quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước: “Khi vật nuôi dưới
nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì
thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới nước có
dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình thì
người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận
lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận
thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.”
• Hướng giải quyết
- trên cơ sở quy định của Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về
xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước để các bên hiểu rõ về
quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận
việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa
thuận đó.
- cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và thuyết phục hai
bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị ông Huân
phải trả lại số tôm đã bắt do số tôm từ đầm của nhà ông Minh nhảy tràn
sang đầm nhà ông Huân vì đầm nhà ông Huân chuyên nuôi cá, đầm nhà
ông Minh chuyên nuôi tôm, hai người và mọi người trong làng đều biết
điều này.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các
bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Tình huống:
• Một tối đi đường, ông Hòa nhặt được chiếc túi, trong đó có 01 máy
tính xách tay, 05 triệu đồng và một số giấy tờ tùy thân của ông Bình
nhưng không rõ địa chỉ. Ông Hòa đã liên hệ với cán bộ xã để thông báo
cho người bị mất biết đến nhận, đồng thời mang tiền, máy tính về nhà;
giao máy tính cho con trai sử dụng, con trai ông đã làm đổ chai nước
dẫn đến chập điện và hỏng máy tính. Ba ngày sau, ông Bình đến nhà
ông Hòa xin nhận lại tài sản vì hôm đó do say rượu nên đánh rơi mà
không biết. Ông Hòa đồng ý trả lại 5 triệu và giấy tờ tùy thân cho ông
Bình, riêng máy tính do đã chập điện và hỏng nên ông Hòa xin ông Bình
thứ lỗi và chấp nhận đền bù 03 triệu đồng. Ông Bình không đồng ý vì
máy tính đó ông mới mua giá 12 triệu đồng, ít nhất ông Hòa phải bồi
thường 8 triệu, do không thống nhất được mức bồi thường nên hai bên
đã lời qua tiếng lại gây mâu thuẫn, tranh chấp. Nếu được giao hòa giải
vụ việc, ông/bà làm thế nào ?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông Hòa và
ông Bình là do con trai ông Hòa đã vô tình làm chập điện và hỏng
chiếc máy tính của ông Bình, hai ông không thống nhất được mức bồi
thường.
2. Căn cứ pháp lý
Điều 230 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người
khác đánh rơi, bỏ quên:
3. Hướng giải quyết
- khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Điều 230 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên để các
bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- cần nêu truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và thuyết phục hai bên không để xảy ra
tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Phân tích để ông Bình hiểu rõ việc ông Hòa đã liên hệ với
cán bộ xã thông báo cho người bị mất biết và đến nhận là việc làm phù hợp theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2015. Đề nghị ông Bình chấp nhận về việc bồi thường chiếc máy đã
chập điện và hỏng do ông Hòa nhặt được mặc dù ông đã giao máy tính cho con trai sử dụng
là không đúng và ông Hòa đã xin ông Bình thứ lỗi, việc máy tính bị hỏng là do con trai ông
vô tình làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và máy tính bị hỏng chứ không phải do ông cố
ý thực hiện.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
2. Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu
Chấm dứt quyền sở hữu theo quy định của pháp luật
6/15/2019
NỘI DUNG BÀI HỌC
6.1. Khái niệm hình thức sở hữu
6.2. Sở hữu toàn dân
6.2.1. Khái niệm
6.2.2. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
6.3. Sở hữu riêng
6.3.1. Khái niệm
6.3.2. Nội dung
6.4. Sở hữu chung
6/15/2019
HÌNH THỨC SỞ HỮU THEO BLDS 2005
•Theo BLDS năm 2005, có 6 hình thức sở hữu (Điều
200 – Điều 232) bao gồm:
•(1) sở hữu nhà nước;
• (2) sở hữu tập thể;
•(3) sở hữu tư nhân;
•(4) sở hữu chung;
•(5) sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội;
• (6) sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
6/15/2019
• Việc phân chia hình thức sở hữu dựa vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ
của các chủ thể như vậy là không hợp lý:
✓Thứ nhất, việc liệt kê chủ thể chưa khoa học vì sự liệt kê có thể chưa
đầy đủ vì còn có thể có nhiều loại hình tổ chức, các nhóm người phát
sinh. Nếu như có một thành phần kinh tế mới xuất hiện trong xã hội thì
BLDS lại phải sửa, như vậy tính ổn định của BLDS không cao;
✓ Thứ hai, khi xác định một hình thức sở hữu nào đó thì phải xuất phát
từ sự khác biệt về nội dung quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt), về phương thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với
tài sản.
✓ Thứ ba, theo quy định BLDS năm 2005 thì sở hữu tập thể là một hình
thức sở hữu độc lập nhưng, về cơ bản, đây chỉ là sở hữu của pháp nhân
là hợp tác xã.
6/15/2019
BLDS •sở hữu riêng
năm •sở hữu chung
2015 •sở hữu toàn dân
6/15/2019
6.1. Khái niệm hình thức sở hữu
• Là nhóm quan hệ sở hữu có cùng tính chất, xác định sở
hữu của một loại chủ thể nhất định đối với tư liệu sản
xuất và các của cải vật chất khác.
• Sở hữu của một chủ thể nhất định đối với tư liệu sản
xuất và các của cải vật chất khác (gọi là tài sản) được
pháp luật xác định, trong đó ghi nhận các quyền năng
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của chủ
thể đó nên chủ thể đó còn được gọi là chủ sở hữu và các
hình thức sở hữu còn được gọi là quyền sở hữu.
6/15/2019
6.2. SỞ HỮU TOÀN DÂN
6/15/2019
6.2. SỞ HỮU TOÀN DÂN
6/15/2019
6.2. SỞ HỮU TOÀN DÂN
6/15/2019
❖ Quốc hữu hóa
❑Là việc cưỡng chế chuyển những tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của tư
nhân thành sở hữu XHCN nhằm xóa bỏ sở hữu của giai cấp bóc lột.
❑Ở nước ta quốc hữu hóa thực hiện trong giai đoạn 1945 – 1954; 1954 –
1960 – 1975. Việc quốc hữu hóa thông thường không có đền bù. Cá biệt
có đền bù tùy thuộc vào điều kiện của từng nước. Hiện nay, Điều 23
Hiến pháp 1992 quy định: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức
không bị quốc hữu hoá”.
6/15/2019
Quốc hữu hóa Xã hội chủ nghĩa tài sản mang một số đặc điểm sau:
✓ Thứ nhất, quốc hữu hóa mang tính cưỡng chế không phụ thuộc vào ý chí của sở
hữu chủ. Việc quốc hữu hóa thông thường được thực hiện khi có những biến động
rất lớn về điều kiện kinh tế, chính trị hoặc chính sách của nhà nước. Quốc hữu hóa
sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích kinh tế rất lớn đối với chủ thể có tài sản bị quốc
hữu hóa. Vì vậy, việc quốc hữu hóa tài sản được thực hiện bằng việc cưỡng chế và
chủ thể có tài sản bị quốc hữu hóa phải thực hiện và tuân thủ không điều kiện.
✓ Thứ hai, quốc hữu hóa nhằm vào tài sản. Việc quốc hữu hóa chỉ hướng đến tài sản
của chủ thể bị quốc hữu hóa. Đối với những lợi ích chỉ thuộc về tinh thần hoặc gắn
liền với nhân thân thì không thể thực hiện việc quốc hữu hóa. 6/15/2019
✓ Thứ ba, việc quốc hữu hóa thông thường không có
đền bù. Khi một quốc gia mà việc quốc hữu hóa có thể
xảy ra với bất kỳ chủ thể nào thì sẽ ảnh hưởng tới sự
phát triển kinh tế của quốc gia, khi mà các nhà đầu tư,
kinh tế không biết được tài sản mà mình tạo lập hợp
pháp liệu có bị quốc hữu hóa thì sẽ không thể yên tâm
đầu tư lượng tài sản lớn vào quốc gia đó.
6/15/2019
❖ Trưng thu
✓ Trưng mua là biện pháp cưỡng chế hành chính buộc cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể
khác bán cho Nhà nước tài sản thuộc sở hữu của mình theo khung giá mà pháp luật quy
định.
✓ Pháp luật dân sự đặt lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia ở vị trí cao nhất. Vì vậy, khi lợi
ích quốc phòng, lợi ích quốc gia bị xâm phạm thì nhà nước có thể trưng mua tài sản của
chủ sở hữu mà không cần đến sự đồng ý của chủ sở hữu.
✓ Đối với các loại tài sản bị trưng thu, sung quỹ Nhà nước nói ở trên, thì quyền sở hữu tài
sản sẽ chuyển giao cho Nhà nước kể từ thời điểm quyết định trưng thu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật.
6/15/2019
❖ Thu thuế
✓ Thuế hay thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài
chính quốc gia hình thành quỹ Ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước.
✓ Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao dịch, tài sản) nhằm huy động tài chính
cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội. Đóng thuế
vừa là quyền lợi được thực thi trách nhiệm công dân đóng góp cho sự phát triển phồn vinh của đất nước, vừa là
nghĩa vụ phải thực hiện của mỗi công dân.
✓ Khi nhà nước ra đời, để có tiền chi tiêu cho sự tồn tại và hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra chế độ thuế
khoán do dân cư đóng góp để hình thành quỹ tiền tệ của mình. Tất các các khoản thuế thu được về nguyên tắc
đều sung vào công quỹ của Nhà nước, được Nhà nước quản lý và sử dụng để đảm bảo cho việc vận hành bộ
máy Nhà nước, cung cấp các dịch vụ công công… và thuộc sở hữu toàn dân.
6/15/2019
http://vi.wikipedia.org/
6.2. SỞ HỮU TOÀN DÂN
6/15/2019
2- Tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ
quên, tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy, tài sản không có
người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước theo quy định của Bộ luật dân sự; hàng hóa
tồn đọng thuộc địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan.
Nhóm tài sản này bao gồm:
• Bất động sản vô chủ hoặc không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị đánh rơi,
bỏ quên không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận;
• Tài sản bị chôn, giấu, vùi lấp, chìm đắm mà tại thời điểm phát hiện hoặc tìm thấy
không có hoặc không xác định được chủ sở hữu theo quy định của pháp luật;
• Tài sản là di sản không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có
người thừa kế nhưng không được hưởng di sản, từ chối nhận di sản hoặc hết thời
hiệu yêu cầu chia di sản kể từ thời điểm mở thừa kế mà không có người chiếm
hữu theo quy định của pháp luật về dân sự;
• Tài sản là hàng hóa tồn đọng được lưu giữ tại khu vực cảng, kho, bãi thuộc địa
bản hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan.
6/15/2019
3- Tài sản của quỹ xã hội, tài sản của quỹ từ thiện bị giải
thể nhưng không có quỹ khác có cùng mục đích hoạt
động nhận tài sản chuyển giao hoặc bị giải thể do hoạt
động vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
thuộc về Nhà nước theo quy định của Bộ luật dân sự (tài
sản của quỹ bị giải thể).
6/15/2019
4- Tài sản do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hiến, biếu,
tặng cho, đóng góp, viện trợ, tài trợ nhưng chưa hạch toán ngân sách
nhà nước và hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác cho Nhà nước
Việt Nam (tài sản do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu
cho Nhà nước).
5- Tài sản do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao
không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam theo cam kết sau khi kết thúc
thời hạn hoạt động.
6- Tài sản được đầu tư theo hình thức đối tác công tư được chuyển
giao cho Nhà nước Việt Nam theo hợp đồng dự án.
6/15/2019
6.2. SỞ HỮU TOÀN DÂN
Các tổ chức, công dân thực hiện quyền chiếm hữu bằng cách chiếm giữ
trực tiếp hoặc chiếm giữ pháp lý, còn Nhà nước lại thực hiện quyền chiếm
hữu tài sản của mình bằng cách ban hành các văn bản pháp quy, quy định
việc bảo quản, quy định thể lệ kiểm kê tài sản của mình để kiểm tra tài
sản mà Nhà nước đã giao cho các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, Các
cơ quan, doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định này.
6/15/2019
Với tư cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước thực hiện các quyền
năng sau:
– Quyền định đoạt đối với đất đai, gồm có: Quyết định mục đích sử dụng đất (thông qua
việc quyết định, xét duyệt quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất); Quy định về hạn mức giao
đất và thời hạn sử dụng đất; Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất; Định giá đất.
– Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách
tài chính về đất đai, như: Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; Thu thuế sử dụng đất, thuế thu
nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu
tư của người sử dụng đất mang lại.
– Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và quy định quyền, nghĩa vụ
của người sử dụng đất. Các cá nhân, tổ chức không có quyền sở hữu đất mà chỉ có quyền sử
dụng đất. Quyền sử dụng đất của các chủ thể này được xác lập do được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng. Người có quyền sử dụng đất, tuy không có
quyền sở hữu đối với đất nhưng trong những trường hợp nhất định cũng có các quyền năng
như: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử
dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất;6/15/2019 quyền được bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất.
Với tư cách thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, Nhà nước thực hiện các quyền năng:
– Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn
bản đó;
– Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính;
– Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và
bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
– Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
– Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất;
– Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất;
– Thống kê, kiểm kê đất đai;
– Quản lý tài chính về đất đai;
– Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản;
– Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất;
– Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật
về đất đai;
– Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử
dụng đất đai; 6/15/2019
– Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất
quản lý nhà nước về đất đai thông qua việc thực hiện của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Cụ thể như sau:
– Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của cả nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất
đai trong phạm vi cả nước;
– Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an
ninh; thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước. Bộ Tài nguyên
và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về đất
đai.
– Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp luật về
đất đai tại địa phương;
– Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản
lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo phân cấp về thẩm quyền. 6/15/2019
❖Quyền sử dụng
Với tư cách là chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất quan trọng, Nhà nước có
quyền khai thác công dụng những tài sản đó như bất kỳ một chủ thể nào đối với
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tuy nhiên việc khai thác những lợi ích tài
sản trong quyền sở hữu Nhà nước cũng khác với quyền sử dụng các chủ thể
khác. Nhà nước khai thác lợi ích tài sản theo quy định của pháp luật và theo một
kế hoạch nhất định. Nhà nước thành lập những cơ quan quản lý tài sản như:
Quản lý hành chính kinh tế hoặc quản lý sản xuất, kinh doanh. Tùy từng loại
tính chất của doanh nghiệp nhà nước và tùy loại tài nguyên thiên nhiên mà Nhà
6/15/2019
6/15/2019
Tóm lại, quyền sử dụng tài sản được Nhà nước chuyển giao cho các cơ quan,
doanh nghiệp của Nhà nước để quản lý và khai thác công dụng; hoặc được Nhà
nước chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thông qua hợp đồng dân sự hay thủ
tục hành chính nhất định. Nhà nước khuyến khích và tạo thuận lợi cho các cơ
quan, doanh nghiệp Nhà nước, cá nhân và các chủ thể khác sử dụng tài sản thuộc
sở hữu nhà nước một cách tiết kiệm, đúng mục đích và đem lại hiệu quả kinh tế
cao. Đồng thời nghiêm trị những hành vi gây thiệt hại đối với tài sản đó, hoặc
làm suy kiệt, hủy hoại môi trường.
6/15/2019
❖Quyền định đoạt
Cũng như các chủ thể khác đây là quyền định đoạt tài sản về mặt
pháp lý và là quyền năng cơ bản của sở hữu toàn dân. Nhà nước có thể
chuyển giao tài sản cho các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức, cá
nhân… những chủ thể này được quyền sử dụng tài sản để thực hiện
nhiệm vụ được giao. Nhà nước thành lập những cơ quan quản lý nhà
nước ở trung ương và địa phương để trực tiếp quyết định việc chuyển
giao tài sản trong phạm vi chức năng, quyền hạn do pháp luật quy
định. 6/15/2019
Để thực hiện quyền định đoạt, Nhà nước trao cho các cơ
quan quản lý nhà nước ở địa phương có quyền được định đoạt
một phần trong phạm vi quyền sở hữu đất đại của mình.
Những cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất cũng đồng
thời có thẩm quyền thu hồi đất, nếu người sử dụng đất không
thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước về mục
đích sử dụng của từng loại đất, bảo vệ đất…
6/15/2019
Ngoài việc các cơ quan quản lý Nhà nước ở trung ương và địa phường thực hiện quyền định đoạt
tài sản thuộc sở hữu nhà nước, các cơ quan nhà nước còn trực tiếp quyết định việc chuyển giao tài
sản cho tổ chức, cá nhân trong phạm vi quyền hạn của mình, Nhà nước còn cho phép các doanh
nghiệp Nhà nước thành lập thực hiện một phần quyền định đoạt đó. Chẳng hạn các doanh nghiệp có
quyền mua bán phương tiện, nguyên liệu, máy móc, vật tư, hàng hóa… để phục vụ quá trình sản xuất
kinh doanh, phục vụ hoạt động công ích và để thực hiện các nhiệm vụ mà Nhà nước đã giao.
Ngoài các quyền trên, các tổ chức này (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích) còn có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế
chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp, trừ những thiệt bị nhà xưởng quan trọng
theo quy định của Chính phủ phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép trên
nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn; đối với đất đai, tài nguyên thuộc quyền quản lý của doanh
nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật. 6/15/2019
6.3. SỞ HỮU RIÊNG
6/15/2019
6.3. SỞ HỮU RIÊNG
✓ Bao gồm những món tiền hoặc hiện vật có được do kết quả lao động hợp pháp. Lao động là cơ sở
tạo ra của cải vật chất. Hay nói một cách khác nguồn gốc ban đầu của tài sản là do lao động sáng
tạo của con người. Con người bỏ lao động của mình ra để tạo ra của cải vật chất thì con người có
quyền được hưởng những sản phẩm làm ra đó bởi vì lao động vừa là nguồn gốc tạo ra của cải vật
chất trong xã hội vừa là căn cứ xác lập quyền sở hữu của người lao động đối với sản phẩm làm
ra.
✓ Ngoài ra thu nhập hợp pháp còn bao gồm những món tiền hoặc hiện vật cá nhân có được do thừa
kế do việc thi hành những hợp đồng hợp pháp. Những món tiền thưởng về xổ số và tiền gửi tiết
kiệm. Các khoản tiền nhuận bút về các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật hoặc tiền
thưởng về sáng chế, giải pháp hữu ích … và tiền hưu trí, tiền phụ cấp mà cá nhân được hưởng
cũng là những tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân. 6/15/2019
• Của cải để dành:
6/15/2019
• Nhà ở:
✓ Là tư liệu sinh hoạt nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu về chỗ ở của cá nhân
hoặc gia đình họ. Nhà ở là một trong những nhu cầu cơ bản, là tài sản quan
trọng của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.
✓ Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp
(Điều 22), “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở…” (Điều 32) và Nhà nước phải “có chính sách phát triển nhà
ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở” (Điều 59).
6/15/2019
• Tư liệu sinh hoạt khác:
Là những tài sản phục vụ cho nhu cầu giải trí, vui chơi, nghỉ ngơi… thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh
thần của cá nhân. Ví dụ: Vô tuyến truyền hình, các loại nhạc cụ (đàn guitar, piano…), máy điều hòa nhiệt
độ…
Là những tài sản tham gia vào quá trình sản xuất nhằm mục đích sinh lợi. Bao gồm các loại tài sản như nhà
kho, nhà xưởng, máy móc, thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh.
Việc thừa nhận sự tồn tại cảu sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và đảm bảo cho nó phát triển sẽ có tác
dụng giải phóng một năng lực sản xuất rất lớn. Khi công nhận chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và đó là
điều kiện để thu về toàn bộ lợi ích kinh tế của mình sản xuất một cách độc lập sẽ thúc đẩy năng lực lao động,
tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội.
6/15/2019
6.3. SỞ HỮU RIÊNG
✓ Cá nhân cũng có quyền dùng vốn và tư liệu sản xuất thuộc quyền sở
hữu của mình để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
6/15/2019
- Giới hạn: Không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi
ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác.
- Luật pháp cũng không thể liệt kê một cách đầy đủ những hành vi
nào của chủ sở hữu khi họ thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng của họ là không hợp pháp và do đó không
được pháp luật bảo hộ và thậm chí còn phải chịu những chế tài
6/15/2019
6.4. SỞ HỮU CHUNG
❖ Đặc điểm
❑ Thứ nhất, quyền sở hữu chung bao giờ cũng là quyền sở hữu của hai hay nhiều
chủ thể. Ở đây chúng ta nói quyền sở hữu chung là quyền sở hữu của hai hay nhiều
chủ thể chứ không nói là của hai hay nhiều người. Tính nhiều chủ thể của quyền sở
hữu chung khiến cho quyền sở hữu chung khác quyền sở hữu tập thể ở chỗ tuy
nhiều người nhưng chỉ một chủ thể duy nhất là từng hợp tác xã riêng biệt hoặc từng
loại hình kinh tế tập thể riêng biệt. Đây cũng được xem là hình thức duy nhất trong
các hình thức sở hữu được quy định trong Hiến pháp và BLDS mà quyền sở hữu là
của hai chủ thể trở lên. 6/15/2019
❑ Thứ hai, mỗi chủ sở hữu chung đều có tư cách độc lập.
Mỗi chủ thể trong quyền sở hữu chung có một vị trí độc lập
và tham gia với tư cách là sở hữu chủ riêng. (Các chủ thể
có quyền sở hữu chung đối với một tài sản gọi là đồng sở
hữu chủ).
6/15/2019
❑ Thứ ba, khách thể trong quyền sở hữu chung bao giờ cũng là
quyền sở hữu đối với một khách thể thống nhất. Mặc dù các chủ
sở hữu chung thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu
chung với tư cách là chủ sở hữu, nhưng đối với tài sản thuộc chung
là tài sản chung. Do vậy, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
thuộc sở hữu chung của mỗi chủ sở hữu chung lại thống nhất đối
với toàn bộ tài sản chung chứ không phải chỉ riêng đối với phần giá
trị tài sản mà họ có.
6/15/2019
Ví dụ: A và B mua chung nhau một vô tuyến, A bỏ ra 4.000.000đ và B
bỏ ra 8.000.000đ nhưng A và B đều có quyền sở hữu đối với toàn bộ
cái vô tuyến chứ không phải A ít tiền thì được dàn ăng ten và cái vỏ còn
B thì được cái ruột.
Hoặc A và B chung nhau mua một cái nhà gồm 2 phòng, mỗi người ở
một phòng nhưng họ có toàn quyền sở hữu đối với cả 2 phòng đó nếu
một trong hai phòng bị hỏng thì người đó vẫn có quyền ở phòng còn lại
cùng với người kia.
6/15/2019
6.4. SỞ HỮU CHUNG
• Do cùng lao động, cùng bỏ vốn ra để xây dựng hoặc cùng mua sắm được tài sản.
• Do cùng tham gia vào những giao dịch dân sự, cùng thu nhận được tài sản.
• Do kết hôn (làm phát sinh quyền sở hữu chung hợp nhất giữa vợ và chồng đối với
những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập
hợp pháp khác của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được cho chung).
• Theo tập quán như sở hữu chung cộng đồng (Ví dụ: Sở hữu nhà thờ, đình, đền,
6/15/2019
chùa…).
6.4. SỞ HỮU CHUNG
6/15/2019
Quyền sở hữu chung theo phần có hai đặc điểm chính sau
đây:
- Cách thức thực hiện quyền năng của chủ sở hữu chung theo phần
+ Mỗi chủ sở hữu có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản chung tương ứng
với phần quyền sở hữu của mình, trừ t.h có thỏa thuận khác. – K2 Đ 209
+ Quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác – Đ 216.
6/15/2019
Ví dụ:
A, B, C cùng góp vốn để mua sắm một tài sản
trị giá là 10 tỷ đồng. Trong đó, A góp 4 tỷ, B
góp 3 tỷ,C góp 3 tỷ thì phần quyền sở hữu của
A là 4/10 hay 40%, của B là 3/10 hay 30%, của
C là 3/10 hay 30% đối với giá trị của tài sản
chung là 10 tỷ.
6/15/2019
+ Mỗi chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác – K1 Đ 217.
Tùy theo tính chất của tài sản, mục đích sử dụng tài sản và điều kiện
thực tế sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung theo phần có thể theo một
trong ba phương thức:
✓ Thứ nhất, cùng sử dụng
✓ Thứ hai, thay phiên nhau sử dụng
✓ Thứ ba, mỗi người sử dụng một phần 6/15/2019
❖ Thứ nhất, cùng sử dụng: theo phương thức này, các chủ sở
hữu chung cùng nhau khai thác công dụng của tài sản để thu lợi.
Phương thức này thường được áp dụng nếu tài sản là phương tiện
kinh doanh, sản xuất, dịch vụ.
Ví dụ: ba người góp vốn mua xe khách để cùng nhau hoạt
động dịch vụ vận chuyển hành khách. Thu nhập có được trong hoạt
động dịch vụ vận chuyển hành khách sẽ được chia cho các đồng chủ
sở hữu theo tỷ lệ vốn góp sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính và
6/15/2019
6/15/2019
6.4. SỞ HỮU CHUNG
6/15/2019
6.4. SỞ HỮU CHUNG
- Sở hữu chung của cộng đồng – Điều 211 BLDS 2015: là sở hữu
của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo
và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập
quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp,
quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với
quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp
của cộng đồng.
6/15/2019
• Sở hữu chung của cộng đồng do đặc điểm lịch sử được tạo dựng qua nhiều thế
hệ nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của tất cả các thành viên trong cộng
đồng. Do vậy, tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không
thể phân chia. Mỗi thành viên trong cộng đồng đều có quyền quản lý, sử
dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận, hoặc theo tập quán.
• Ví dụ: lối đi chung, giếng nước công cộng có thể được quản lý, sử dụng theo
sự thỏa thuận của cộng đồng dân cư, nhà thờ họ được quản lý, sử dụng theo
tập quán… Tuy nhiên, việc quản lý sử dụng, định đoạt tài sản công cộng còn
phải tuân thủ theo quy định của pháp luật và không được trái với đạo đức xã
hội.
6/15/2019
Người dân
chung cư
250 Minh
Khai (Hai
Bà Trưng)
phản đối
CÐT chiếm
dụng diện
tích chung
để kinh
doanh.
Câu chuyện liên quan đến việc tranh chấp sở hữu chung riêng, như: hầm để xe, hành lang, nhà sinh hoạt
cộng đồng… tại các dự án nhà chung cư đang chiếm tỷ lệ lớn trong mâu thuẫn ở các chung
6/15/2019cư hiện nay.
Tuy nhiên, các cấp chính quyền vẫn đang chậm trễ trong việc giải quyết vướng mắc cho cư dân.
6.4. SỞ HỮU CHUNG
6/15/2019
6.4. SỞ HỮU CHUNG – Lưu ý
+ Tài sản chung là bất động sản: một trong các chủ sở hữu từ bỏ phần quyền sở
hữu của mình hoặc chết mà không có người thừa kế - thuộc Nhà nước (Sở hữu chung
của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của chủ sở hữu chung còn lại)
+ Tài sản chung là động sản: một trong các chủ sở hữu từ bỏ phần quyền sở hữu
của mình hoặc chết mà không có người thừa kế - thuộc sở hữu chung của chủ sở hữu
chung còn lại.
+ Tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản chung – xác lập quyền sở hữu
theo Đ 228 (tài sản vô chủ, không xác định được chủ sở hữu)
6/15/2019
6.4.2.3. Sở hữu chung hỗn hợp
- Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.
Chẳng hạn, một HTX (thuộc thành phần kinh tế tập thể) góp vốn với một
công ty 100% vốn nhà nước (thuộc thành phần kinh tế nhà nước).
- Tài sản được hình thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận
hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn khác phù
hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp.
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải
tuân theo quy định tại Điều 209 của Bộ luật này và quy định của pháp luật có
liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý,
điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.
6/15/2019
6.4. SỞ HỮU CHUNG
6/15/2019
❑Nếu các chủ sở hữu chung thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định một chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung
thì đây cũng là một căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu chung
của các chủ sở hữu chung khác đồng thời cũng xác lập quyền
sở hữu đối chủ sở hữu được hưởng toàn bộ tài sản đó.
6/15/2019
❑Tài sản là khách thể của quyền sở hữu chung, vì thế khi tài
sản chung không còn tồn tại thì đương nhiên quyền sở hữu
chung đối với tài sản đó cũng chấm dứt.
❑Một số trường hợp pháp luật quy định về căn cứ chấm dứt
quyền sở hữu, thì quyền sở hữu chung cũng chấm dứt nếu thỏa
mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Ví dụ: Tài sản được
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu theo quy định tại Điều
236 BLDS 2015,... 6/15/2019
Phân biệt sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần
Sở hữu chung theo phần, sở hữu chung hợp nhất giống nhau đều là hình thức sở hữu chung có sự tham gia của
nhiều chủ sở hữu. Tuy nhiên sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần có những điểm khác nhau sau
đây:
6/15/2019
2.Về đặc điểm pháp lý
Trong sở hữu chung theo phần, mỗi đồng chủ sở hữu biết trước được tỷ lệ phần
quyền của mình đối với khối tài sản chung. Phần quyền đó có thể bằng nhau
hoặc không bằng nhau.
Tuy nhiên thì đặc điểm pháp lý chủ yếu của quan hệ sở hữu chung hợp nhất lại
là không có sự phân chia thành phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung
theo tỷ lệ tài sản. Chừng nào còn tồn tại sở hữu chung hợp nhất, các chủ sở hữu
chung còn có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung của họ. Quan
hệ sở hữu chung hợp nhất sẽ chấm dứt khi một trong các chủ sở hữu chung chia
tài sản chung hợp nhất thành những phần tài sản thực tế.
6/15/2019
3. Về chủ thể trong sở hữu chung
Trong sở hữu chung theo phần, mỗi chủ sở hữu chung có thể bán phần quyền của mình cho người thứ
ba , có nghĩa là có thể thay đổi chủ thể trong sở hữu chung.
Tuy nhiên, trong quan hệ sở hữu chung hợp nhất thì không thể thay đổi chủ thể trong sở hữu chung .
Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất hoặc là các chủ sở hữu chung cùng giữ, hoặc giao cho một người
trong số họ, hoặc giao cho người thứ ba giữ tài sản chung mà không thể chuyển giao phần quyền của
mình đối với tài sản.
Theo anh/chị:
- Căn nhà trên thuộc sở hữu chung theo phần hay sở hữu
chung hợp nhất của A, B, C, D? Giải thích?
- Tranh chấp trên giải quyết như thế nào? Vì sao?
6/15/2019
Giải quyết tình huống
Căn cứ:
- K2 Đ 209 BLDS 2015
- K1, K3 Đ 218 BLDS 2015
6/15/2019
Nhà thờ tổ của dòng họ Hoàng được xây dựng trên mảnh đất thuộc sở
hữu chung của các thành viên trong dòng họ bao đời nay. Anh Hoàng
Văn A là cháu trưởng của dòng họ, là người có trách nhiệm hương khói
và dọn dẹp, trông coi nhà thờ tổ. Do nhà thờ tổ được xây dựng lâu đời
nên phần mái và cột nhà có dấu hiệu hư hỏng, xuống cấp. Dòng họ
Hoàng tổ chức họp lấy ý kiến của cả dòng họ về việc tu sửa nhà thờ tổ
thì được tất cả mọi người đồng thuận, nhất trí. Anh A cùng cả họ đã ký
vào biên bản đồng thuận tu sửa nhà thờ tổ. Tuy nhiên, khi công trình thi
công được khoảng 01 tháng thì anh A không cho thi công nữa vì đất đấy
là của cá nhân gia đình và đề nghị cả họ phải công nhận. Xin hỏi, theo
quy định của pháp luật, cháu trưởng họ có được phép làm như vậy
không?
6/15/2019
Theo quy định của Điều 211 Bộ luật dân sự năm 2015, thì sở hữu chung của cộng
đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn
giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản
do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho
chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích
thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.
Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo
thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.
Như vậy, mảnh đất và nhà thờ tổ được xây dựng trên mảnh đất đó là thuộc sở hữu
chung của các thành viên trong dòng họ Hoàng, tức là mỗi người trong dòng họ là
một chủ sở hữu và mỗi người này đều có quyền sử dụng, định đoạt đối với tài sản
chung đó. Người cháu trưởng cũng chỉ là một trong những chủ sở hữu chung của tài
sản, không thể tự ý quyết định mảnh đất thờ đó thuộc về riêng một cá nhân nào.
6/15/2019
Gia đình bà Q gồm 3 người con của bà và vợ chồng
cô chú bên chồng cùng góp tiền mua một mảnh đất
rộng 200 ha để bán sinh lời khi giá đất tăng lên. Một
thời gian sau, vợ chồng người cô muốn thỏa thuận với
bà Q về việc mua phần sở hữu của các thành viên còn
lại trong gia đình để sử dụng mảnh đất cho việc xây
dựng trang trại riêng. Xin hỏi, việc đó có thể thực hiện
được không?
6/15/2019
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 212 Bộ luật dân sự năm 2015 về sở hữu chung của
các thành viên gia đình thì “việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của
các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp
định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập
chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là
người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định
khác”.
Do đó, việc vợ chồng người cô muốn mua lại phần sở hữu của các thành viên
còn lại trong gia đình đối với mảnh đất thuộc sở hữu chung đó thì phải thỏa thuận với
bà Q và 3 người con của bà Q. Nếu các thành viên trong gia đình đều đồng ý thì việc
đó hoàn toàn có thể thực hiện được.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo
phần được quy định tại Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy
định về sở hữu chung của vợ chồng. 6/15/2019
Anh A và chị B là vợ chồng. Trong quá trình chung sống,
anh chị để dành được một số vốn. Anh chị quyết định mua xe
ô tô và để chồng đứng tên. Một thời gian sau, do muốn góp
vốn làm ăn chung với một người bạn mà chị B không đồng ý,
anh A tự ý bán xe. Anh A cho rằng, anh là người đứng tên sở
hữu xe nên có mọi quyền quyết định. Vậy xin hỏi, pháp luật
quy định như thế nào về sở hữu chung của vợ chồng?
6/15/2019
Trả lời:
Điều 213 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung của vợ chồng
như sau:
- Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
- Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
- Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung.
- Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của Tòa án.
Trong trường hợp này, mặc dù anh A, chị B thỏa thuận cho anh A đứng tên
sở hữu chiếc xe ô tô, nhưng đây vẫn được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung của
anh chị, do hai vợ chồng cùng nhau tạo dựng lên. Vì vậy, việc quyết định bán chiếc
xe để lấy tiền góp vốn kinh doanh, anh A cần phải hỏi ý kiến, hay thỏa thuận với chị
B trước thì mới đúng pháp luật. 6/15/2019
Ông H đã kết hôn hai lần. Lần thứ nhất, ông H lấy bà T và
sinh được hai người con. Sau khi bà T mất, ông H kết hôn với
bà L và sinh được một người con gái. Bà T mất không để lại di
chúc, nhà đất ông H hiện tại đang ở là tài sản chung của hai
người và do ông H đứng tên. Hai người con đầu của ông H và
bà T đã có cuộc sống ổn định nên họ đã đồng ý ký tên vào văn
bản với nội dung nhường quyền định đoạt tài sản chung của
bố mẹ họ cho ông H và cam kết không tranh chấp hay khiếu
nại gì. Văn bản được Phòng công chứng thành phố chứng
nhận. Nếu ông H muốn tặng cho người con gái út một nửa nhà
đất đứng tên bố thì có hợp pháp không? 6/15/2019
Trả lời:
Nhà đất hiện tại do ông H đứng tên có được trong thời gian ông sống cùng bà
T, như vậy đây là tài sản thuộc sở hữu chung của ông H và bà T. Khi bà T qua đời
không để lại di chúc thì theo pháp luật, hai người con đầu của ông H và ông H sẽ
được thừa kế phần di sản của bà T, trong đó có một phần tài sản là nhà đất. Như vậy,
sau khi bà T mất thì nhà đất đó thuộc quyền sở hữu chung của ông H và hai người
con đầu. Tuy nhiên, hai người con đầu của ông H đã ký tên vào văn bản được phòng
công chứng thành phố chứng nhận với nội dung nhường quyền định đoạt tài sản cho
ông H.
Theo khoản 2 Điều 218 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Việc định đoạt
tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung
hoặc theo quy định của pháp luật.”. Từ đây, có thể thấy, quyền định đoạt tài sản
chung thuộc về ông H. Do vậy, ông H có thể quyết định việc tặng cho một phần nhà
đất đó cho con gái út của ông với bà L. 6/15/2019
Năm 2008, anh T. và chị A. tổ chức đám cưới (chưa đăng ký kết hôn) và họ sống bằng
nghề bán vé số dạo. Có tật hay ngủ quên nên anh T. thường “ôm” vé số ế. Có lần vợ anh phải cầm
cả đôi bông tai ngày cưới lấy tiền trả nợ cho đại lý. Nghèo nhưng gia đình nhỏ của họ vẫn ấm cúng.
Ngày 25-3-2009, anh T. nhận của đại lý 200 tờ vé số (loại 5.000 đồng/tờ) đi bán nhưng đến chiều
vẫn còn 40 tờ vé số ế. Thất thểu về nhà với 40 tờ vé số ế thì anh T. hay tin mình trúng số. Trong đó
có 20 tờ trúng đặc biệt và 20 tờ trúng an ủi. Tổng giá trị giải thưởng anh T. nhận là hơn 2,5 tỉ đồng.
Sau đó mâu thuẫn vợ chồng phát sinh nhưng hai người vẫn sống chung. Sau khi xây mới căn nhà,
còn lại 1,4 tỉ đồng anh T. mang gửi ngân hàng…
Ngày 27-8, TAND huyện Thoại Sơn không công nhận hai người là vợ chồng vì không
đăng ký kết hôn. Số tiền 1,4 tỉ đồng do trúng số mà có là tài sản tồn tại trong thời gian chung sống
với nhau. Tuy lý luận như vậy nhưng khi chia tài sản này thì tòa quyết: anh T. nhận 80% trên tổng
giá trị giải thưởng (tương đương 1 tỉ 120 triệu đồng), còn chị A. chỉ được 280 triệu đồng. Lý do là
anh T. trực tiếp đi bán vé số, bị ế nên trúng thưởng, còn chị A. ít có công sức đóng góp. Cho rằng
mình bị tòa xử ép, chị A. kháng cáo.
Theo luật sư bảo vệ cho chị A., số tiền trúng số trên có được trong thời gian vợ chồng
chung sống với nhau nên phải xem là tài sản chung và phải được chia đều. Tòa nói công sức đóng
góp kẻ nhiều người ít cũng chưa thuyết phục. Nếu nói chị A. không có hoặc có ít công sức đóng góp
lại càng bất hợp lý… 6/15/2019
Trong vụ án này có hai vấn đề pháp lý đáng chú ý:
1. Thứ nhất, sống chung nhưng không đăng ký kết
hôn có phải là quan hệ vợ chồng hay không?
2. Thứ hai, nếu không phải là quan hệ vợ chồng thì
tài sản phát sinh trong thời gian sống chung sẽ
được phân chia như thế nào?
6/15/2019
Theo Nghị quyết 35 ngày 9-6-2000 của Quốc hội, những quan hệ hôn nhân thực tế trước thời điểm
ngày 3-1-1987 tuy không đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật Hôn
nhân và Gia đình (về sự tự nguyện, độ tuổi, huyết thống…) thì nhà nước khuyến khích họ đi đăng
ký kết hôn. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì các tranh chấp sẽ được giải quyết như đối với
những người có đăng ký kết hôn.
Với quan hệ sống chung được xác lập từ sau ngày 3-1-1987 đến trước ngày 1-1-2001, các bên phải
đi đăng ký kết hôn, thời hạn dành cho những trường hợp này là hai năm tính từ ngày 1-1-2001 đến
ngày 1-1-2003. Nếu như các bên thực hiện đăng ký kết hôn đúng thời hạn thì nhà nước công nhận
thời gian xác lập quan hệ vợ chồng từ thời điểm họ sống chung với nhau. Nếu như họ đăng ký kết
hôn sau ngày 1-1-2003 thì quan hệ vợ chồng được nhà nước công nhận tại thời điểm họ đăng ký
kết hôn.
Như vậy, trường hợp sống chung từ sau ngày 1-1-2001 (thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình
2000 có hiệu lực) mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Đối
với những trường hợp này, khi có tranh chấp về tài sản được hình thành trong thời gian sống
chung, tòa sẽ xác định, phân chia theo công sức, mức đóng góp của từng người.
6/15/2019
Ở đây, anh T. và chị A. tổ chức đám cưới năm 2008 nhưng
không đăng ký kết hôn nên nhà nước không công nhận quan
hệ vợ chồng đối với họ. Do vậy, một khi tòa xác định tài sản
họ đang tranh chấp là tài sản chung của hai người, được hình
thành trong thời gian họ sống chung thì đó là tài sản chung
theo phần và được chia theo công sức đóng góp của mỗi
người. Còn nếu tòa xác định là tài sản riêng thì của ai người
đó hưởng.
6/15/2019
Chương 7:
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản & quyền
khác đối với tài sản
• Về mặt kỹ năng, sau khi nghiên cứu bài học đòi hỏi sinh viên phải biết:
– Vận dụng kiến thức đã học vào các bài học khác, chương trình khác và các môn học khác.
– Bình luận, đánh giá các bản án về bảo vệ quyền sở hữu tài sản và các quyền khác đối với tài
sản.
– Vận dụng, áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khái niệm và đặc điểm biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản
2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
2.1. Tự bảo vệ
2.2. Yêu cầu người khác trả lại tài sản
2.3. Yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ quyền sở
hữu khi tài sản của mình bị xâm phạm.
TÌNH HUỐNG 1
• Theo một bản án, A là người giúp việc nhà cho B đã lấy trộm chiếc nhẫn kim
cương của B rồi đem bán cho chủ tiệm vàng C để lấy tiền tiêu xài. Gía trị chiếc
nhẫn là 300 triệu đồng nhưng C “ép giá” chỉ mua với giá 15 triệu đồng. Phát hiện
bị mất chiếc nhẫn, B đã báo công an. Tại cơ quan công an, A đã thừa nhận hành
vi phạm tội của mình và đưa cán bộ điều tra đến gặp C để đối chất. C thừa nhận
đã mua chiếc nhẫn trên, nhưng không đồng ý giao trả nhẫn vì cho rằng mình mua
nhẫn này là hợp pháp. Công an lập biên bản và tạm giao chiếc nhẫn đó cho C giữ.
Đến khi A bị truy tố trước Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, C được yêu cầu
trả lại nhẫn cho B thì C đã thông báo rằng mình không biết đó là nhẫn đính kim
cương, nên nhẫn vàng đã phân kim không còn, còn “hạt” thì nghĩ là “hạt nhựa”
nên đã bỏ vào sọt rác và rác trong sọt đó bị đổ bỏ từ lâu. Hỏi:
• Việc C chiếm hữu chiếc nhẫn này có hợp pháp không? Ngay tình hay không ngay
tình? Giải thích?
• Trường hợp này giải quyết như thế nào? Vì sao?
TÌNH HUỐNG 2
• Ông A là chủ sở hữu chiếc xe Dream mang biển số 59K1-111.31. Ngày 16/04/2018
ông A cho ông B là em ruột mượn xe. Lấy lý do phải đi xa nên khi mượn xe ông B
đã yêu cầu ông A đưa luôn giấy tờ xe. Ông A đồng ý. Sau đó B đã đem xe bán cho
chị C (là người quen biết của cả A và B) đúng giá thị trường. Vì giấy tờ xe không
phải tên mình nên B đã giải thích: không có hộ khẩu thường trú tại TP. HCM nên đã
nhờ A là anh ruột đứng tên. Chị C đã tin lời giải thích đó. Theo thỏa thuận giữa B và
C thì B giao xe cho C, C đã trả ½ số tiền, ½ còn lại thanh toán sau khi nhận được
giấy tờ xe đứng tên C. Bán xong, B báo cho A là do bất cẩn nên xe bị mất trộm. A
báo công an nhưng việc tìm kiếm không có kết quả. Một tuần sau, tình cờ A phát
hiện chị C đang sử dụng chiếc xe của mình. A đòi xe nhưng chị C không đồng ý trả.
Chị C cho rằng việc mình mua xe là công khai, không giấu giếm, hợp pháp và ngay
tình nên A không thể buộc chị trả lại xe. Theo anh chị:
• Dựa vào quy định của pháp luật hiện hành thì lập luận của chị C cho rằng việc mình
chiếm hữu là hợp pháp, ngay tình có phù hợp với quy định của pháp luật không? Vì
sao?
• Nêu hướng giải quyết tranh chấp trên, giải thích?
TÌNH HUỐNG 3
• Do phải đi vắng trong thời gian dài nên ông Thiện ký hợp đồng nhờ bà Lan
quản lý căn nhà của mình. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, do không có
tiền trả nợ nên bà Lan đã tự ý lấy một xe máy, một tivi và một máy tính của
ông Thiện đem bán cho ông Công với giá sát với giá thị trường. Khi ông Công
hỏi về giấy tờ xe, bà Lan bảo là mình để quên giấy tờ xe ở nhà, bà sẽ giao giấy
tờ sau nên ông Công chỉ cần thanh toán trước ½ số tiền, số tiền còn lại ông
Công sẽ trả nốt khi bà Lan giao giấy tờ xe cho ông Công. Do là bạn bè thân
quen nên ông Công đã tin tưởng vào lời giải thích của bà Lan.
• Một tuần sau khi xảy ra sự việc, ông Thiện trở về nhà và yêu cầu ông Công
phải trả lại tài sản cho mình. Ông Công không đồng ý. Dựa vào kiến thức đã
học về phương thức bảo vệ quyền sở hữu, anh chị hãy giải quyết tranh chấp
trên? Giải thích?
TÌNH HUỐNG 4
• Anh B thuê xe ô tô của A biển số 59L-148.29 để đi du lịch. Sau đó B đã
làm giấy tờ giả cho chiếc xe đứng tên của B rồi đem bán xe đó cho C.
Việc mua bán này hai bên có lập văn bản và thỏa thuận rằng khi nào C
sang tên hoặc bán cho người khác mà họ có nhu cầu sang tên thì B phải
có nghĩa vụ hỗ trợ việc giao kết hợp đồng giữa C và người mua theo
đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Một thời gian sau, C lại bán
chiếc xe nói trên cho D. Khi đến thời hạn trả xe nhưng B không trả xe, A
đã liên lạc qua điện thoại nhiều lần với B nhưng B không nhận cuộc gọi.
Ngày 12/12/2018, phát hiện D đang sử dụng xe của mình nên A kiện đòi
D trả lại xe. Hỏi: D có phải trả lại xe cho A hay không? Giải thích?
Quyền lợi của các chủ thể liên quan được giải quyết như thế nào theo
quy định của pháp luật? Giải thích vì sao?
Trộm Bán
A B C
CSH Laptop
Giải
A Cho
B
Trộm
C
Bán
D quyết
mượn
như
thế
Cho Bán nào?
A mượn B C
Cho Tặng
A mượn B cho C
1.1. Khái niệm biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản bằng Luật dân sự
Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bằng Luật
dân sự là việc chủ thể tự mình hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp, phương thức luật định
nhằm buộc người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt việc xâm
phạm, hoàn trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại phát sinh, qua đó
nhằm làm cho quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được tôn
trọng và bảo đảm thực hiện.
1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản bằng Luật dân sự
Thứ nhất, các biện pháp, phương thức bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
bằng Luật dân sự rất phong phú, đa dạng.
Với quy định bằng hai biện pháp, ba phương thức khác nhau trong việc bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản, Luật dân sự cho phép chủ thể có quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản bị xâm phạm dễ dàng lựa chọn và áp dụng những biện pháp thích hợp để bảo
đảm quyền và lợi ích chính đáng của mình. Sự lựa chọn dễ dàng này không chỉ vì có nhiều
biện pháp phong phú để chọn, mà còn vì biện pháp dân sự không đòi hỏi theo những trình tự,
thủ tục phức tạp, khó tiếp cận. Thay vào đó, chủ thể có quyền lợi ích bị xâm phạm được tự do
lựa chọn giải pháp thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể và có thể giải quyết bằng nhiều cách
khác nhau, miễn sao không trái pháp luật.
1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản bằng Luật dân sự
Thứ hai, cơ chế bảo vệ và cách thức giải quyết hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản bằng Luật dân sự rất đa dạng, linh hoạt, rộng mở.
Theo đó, việc xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể có quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản có thể được giải quyết trên cơ sở hòa giải, hoặc thậm chí thực hiện các hành vi đơn phương trong
khuôn khổ pháp luật hay khởi kiện, khiếu nại ra trước cơ quan nhà nước có thể quyền để yêu cầu được bảo
vệ. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bằng luật dân sự đề cao quyền tự định
đoạt của chủ thể. Việc xử lý hành vi xâm phạm không phải do cơ quan có thẩm quyền đề xuất, khởi tố, mà
do chính chủ thể bị xâm phạm yêu cầu, và cũng chính họ tự xác định nội dung và phạm vi được bảo vệ trong
yêu cầu của mỉnh để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Điều này đã tạo sự chủ động cao cho
người có quyền lợi sở hữu bị xâm phạm trong việc tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ
quyền sở hữu của mình.
1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản bằng Luật dân sự
Thứ ba, nội dung và các phương thức giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản bằng Luật dân sự cũng đa dạng và chủ yếu hướng đến việc bảo vệ cho bên có
quyền, lợi ích bị xâm phạm.
Tùy thuộc vào thực tế xâm phạm và mục tiêu bảo vệ, pháp luật dân sự quy định cho phép chủ
thể có quyền, lợi ích bị xâm phạm được tự mình chọn lựa các phương thức và nội dung thích hợp để
bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Nếu các biện pháp bảo vệ bằng các luật khác chủ
yếu hướng đến việc “xử lý”, “trừng phạt” bên vi phạm bằng các chế tài nghiêm khắc, thì Luật dân
sự chủ yếu hướng đến việc bảo quyền lợi của bên bị xâm phạm. Chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản có thể đòi hoàn trả tài sản, hoặc chấm dứt hành vi xâm phạm, đồng thời
có thể đòi bồi thường mọi thường mọi tổn thất thực tế do bên vi phạm gây ra. Điều này giúp cho
việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản khá thuận tiện và triệt để hơn so với biện pháp
bảo vệ bằng các ngành luật khác.
1.2. Đặc điểm của biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản bằng Luật dân sự
Thứ tư, pháp luật dân sự quy định chủ thể có quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản bị xâm phạm được áp dụng mọi biện pháp tự bảo vệ để ngăn
cản và loại trừ sự xâm phạm, hoặc có thể giải quyết sự tranh chấp, xung
đột bằng con đường thương lượng. Bởi vậy, biện pháp bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản là cách thức giúp chủ thể có quyền bị xâm phạm
khôi phục nhanh chóng và có hiệu quả quyền lợi bị xâm phạm một cách ôn
hòa.
2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
2.1. BIỆN PHÁP TỰ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN KHÁC
ĐỐI VỚI TÀI SẢN
2.1.1. Khái niệm biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản
2.1.2. Chủ thể, điều kiện và phạm vi (giới hạn) của biện pháp tự bảo vệ
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
2.1.3. Các phương thức tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản
2.1.1. Khái niệm biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản
Theo nghĩa rộng, tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là
việc chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản tự mình tiến hành
các biện pháp cần thiết, hợp pháp nhằm bảo quản, giữ gìn tài sản, bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp gắn liền với tài sản, loại trừ các hành vi xâm
phạm của người khác đối với tài sản và quyền sở hữu tài sản mà không
dựa trên các thủ tục tư pháp hay sự trợ giúp của công quyền.
2.1.1. Khái niệm biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản có những đặc
trưng sau đây:
- Thứ nhất, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là
biện pháp dân sự, mang tính tự vệ, là phản ứng tự thân của từng cá nhân,
pháp nhân nhằm bảo toàn sản nghiệp của mình, loại bỏ sự xâm phạm của
người khác. Đây là biện pháp mang tính dân sự thuần túy, được bên có quyền tự
mình thực hiện một cách hòa bình, mà không dùng bạo lực và cũng không cần có
sự can thiệp của công quyền. Việc này khác với việc bảo vệ quyền thông qua việc
khởi kiện, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý, theo đó, chủ thể có
quyền bị xâm phạm phải đưa ra yêu cầu cụ thể và quyền lợi hợp pháp chỉ có thể
được thực hiện gián tiếp thông qua phán quyết của cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ: chủ sở hữu có súc vật bị đi lạc xin được nhận lại súc vật của mình bị lạc,
mà không cần phải kiện tụng người phát hiện và giữ hộ súc vật.
2.1.1. Khái niệm biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản
- Thứ hai, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản do chủ thể có quyền tự
tổ chức, tự thực hiện theo cách thức riêng của mình.
Trong biện pháp này, chủ thể có quyền có thể thực hiện việc tự bảo vệ khi thấy cần thiết, theo ý chí
và nguyện vọng của mình. Việc tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác với tài sản như là nhu cầu tự thân,
theo hoàn cảnh, khả năng của mình một cách bình thản, tự nhiên, hòa bình trong cuộc sống hàng ngày,
mà không phải bó buộc theo quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thời hạn hay tiến trình tố tụng
nào. Khác với biện pháp khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải được thực hiện
với đơn khởi kiện, yêu cầu hợp lệ, theo trình tự và thủ tục luật định.
Ví dụ: chủ vườn cây xây hàng rào để phòng chống người ngoài quấy phá, trộm cắp. Việc có làm
hàng rào hay không, làm như thế nào, vật liệu gì… là do chủ vườn tự thực hiện, mà không cần phải
yêu cầu, kiện cáo theo thủ tục, trình tự của luật.
2.1.1. Khái niệm biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Thứ ba, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản cho phép chủ thể chủ động áp dụng
để bảo vệ quyền của mình ngay cả khi quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản chưa bị người khác xâm phạm.
Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng của biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu. Theo đó chủ thể có quyền được tự
mình thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản một cách tự chủ và ôn hòa để ngăn cản và loại trừ bất kỳ
ai có hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản, quyền khác đối với tài sản. Việc bảo vệ quyền sở hữu và quyền khác
đối với tài sản được đặt ra từ trước, một cách chủ động, mà không chờ đến khi có sự xâm phạm đã xảy ra trên thực
tế. Ngay cả khi việc xâm phạm quyền thực tế đã xảy ra thì biện pháp này cũng cho phép chủ thể có quyền được tự
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của một cách ôn hòa, trên tinh thần thương lượng và hòa giải mà không nhất
thiết phải dùng tới bạo lực và sức mạnh cưỡng chế.
Ví dụ: khi nhà cửa có nguy cơ bị cây cối của hàng xóm có nguy cơ bị gẫy đổ, thì chủ nhà có thể tự gặp chủ cây
ở hàng xóm đề nghị chặt cành, tỉa nhánh nhằm bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của mình trong mùa mưa, qua đó
dễ dàng hóa giải “xung đột” giữa hai bên và không cần kiện tụng hàng xóm trước cơ quan công quyền; cũng không
phải chờ đến khi hậu quả xảy ra mới đi kiện tụng, khiếu nại, gây mất tình chòm xóm.
2.1.1. Khái niệm biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản
- Thứ tư, việc tự bảo vệ quyền sở hữu có thể được thực hiện trước khi, trong khi hoặc sau khi xảy ra hành
vi xâm phạm.
Khác với quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ được đặt ra khi tài sản, quyền sở hữu
tài sản bị xâm phạm (hoặc có giả định là bị xâm phạm). Còn quyền tự bảo vệ có thể được sử dụng ngay cả
khi việc xâm phạm chưa xảy ra. Điều này cho phép chủ thể sẽ thực hiện quyền sở hữu để chống lại hành vi
xâm phạm của người khác bằng cách thực hiện những hành vi chủ động, tích cực như yêu cầu người có vi
xâm phạm quyền sở hữu phải chấm dứt hành vi xâm phạm, hoàn trả tài sản, bồi thường các tổn thất thực tế.
Việc tự bảo vệ quyền sở hữu trong trường hợp này đã xác định được chủ thể bị “đối kháng” là người có hành
vi xâm phạm tới tài sản, quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Theo đó quyền tự bảo vệ của chủ thể có
quyền sẽ được xác định tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể có hành vi xâm phạm tài sản, quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản.
2.1.2. Chủ thể, điều kiện và phạm vi (giới hạn) của biện pháp tự bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản
2.1.2.1. Chủ thể của quyền tự bảo vệ quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản
- Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ tài sản và quyền sở hữu của mình đối
với tài sản trong điều kiện bồi thường cũng như khi tài sản, quyền sở hữu
tài sản bị người khác xâm phạm. Trong trường hợp tài sản vẫn thuộc sự
kiểm soát, quản lý của chủ sở hữu, thì chính chủ sở hữu hoặc người thay
mặt chủ sở hữu thực hiện việc trông coi, quản lý tài sản tự mình áp dụng
những biện pháp hợp lý để bảo vệ tài sản.
2.1.2.1. Chủ thể của quyền tự bảo vệ quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản
- Người có quyền khác đối với tài sản được tự bảo vệ quyền khác của mình đối với tài sản trong
phạm vi luật định để bảo đảm cho các quyền này được thực hiện cũng như khi các quyền này bị xâm
phạm. Quyền khác ở đây là quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề.
Theo đó, chủ thể có quyền khác đối với tài sản cũng được áp dụng biện pháp tự bảo vệ để bảo vệ
quyền của họ đối với tài sản. Đó là trường hợp tự bảo vệ về tài sản, quyền đối với bất động sản liền kề,
quyền bề mặt, quyền hưởng dụng đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác. Quyền tự bảo vệ
của những người này có hiệu lực đối kháng lại bất kỳ ai, kể cả với chính chủ sở hữu của tài sản.
Ví dụ: khi người có bất động sản bị vây bọc có quyền mở lối đi qua bất động sản hàng xóm, thì
không ai, kể cả chủ bất động sản bị mở lối đi, được phép xâm phạm quyền này, như lấn chiếm, cản trở,
rào bít lối đi. Người có lối đi thực hiện mọi biện pháp hợp lý để bảo vệ lối đi, quyền đi qua trong phạm
vi lối đi ấy.
2.2.2. Điều kiện thực hiện việc tự bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản
Theo đó, các biện pháp tự vệ được áp dụng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không gây nguy hiểm cho
con người và môi trường xung quanh. Điều này tưởng chừng đơn giản, nhưng khi chủ thể thực hiện các biện pháp tự
bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thì lại dễ xảy ra sai phạm, bởi lẽ, khi đó chủ thể phải tự mình xác
định tính chất hợp pháp hay bất hợp pháp, hợp lý hay bất hợp lý của biện pháp ấy. Sự nhận định, đánh giá thường
mang tính chất chủ quan. Có những biện pháp tự vệ được áp dụng một cách ôn hòa, không ảnh hưởng đến người
khác, như làm chuồng nuôi nhốt súc vật, làm hàng rào khuôn bao để bảo vệ vườn cây ăn trái… Tuy nhiên, cũng có
nhiều trường hợp chủ thể dùng những biện tự vệ để ngăn chặn “từ xa” hành vi xâm phạm của người bằng biện pháp
nguy hiểm, vi phạm điều cấm của pháp luật, ví dụ: làm hàng rào điện… không an toàn xung quanh nhà để chống
trộm. Biện pháp này không phù hợp với yêu cầu tự vệ và thậm chí là vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, người
thực hiện quyền tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản cần cân nhắc kỹ lưỡng tính hợp pháp của các biện
pháp mà họ lựa chọn và áp dụng trong trường hợp này. Đó là yêu cầu quan trọng phải được đáp ứng.
2.2.2. Điều kiện thực hiện việc tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản
Biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản phải hợp lý.
Khi chủ thể tự mình lựa chọn các biện pháp tự vệ, thì đó có thể là một lợi thế, giúp
chủ thể chủ động và khả năng hành xử linh hoạt. Biện pháp được chọn và áp dụng ở đây
cần phù hợp với tiêu chuẩn pháp luật và đảm bảo sự cân bằng, tương xứng với quyền lợi
của mình, mà không được xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Đôi
khi có sự xung đột giữa quyền lợi của các bên trong việc một bên thực hiện quyền tự bảo
vệ đối quyền sở hữu, quyền khác đối tài sản. Khi ấy, việc chọn lựa và hành xử quyền tự
vệ của chủ thể phải giới hạn trong mức độ hợp lý. Được coi là hành xử quyền tự bảo vệ
một cách hợp lý, nếu chủ thể tuân thủ những yêu cầu của pháp luật khi thực hiện quyền
tự bảo vệ và biện pháp tự bảo vệ phải phù hợp với tính chất, mức độ của sự xâm phạm.
2.2.2. Điều kiện thực hiện việc tự bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản
Việc sử dụng các phương thức tự bảo vệ phải cần thiết và hợp lý, trong giới hạn của
quyền lợi cần được bảo vệ.
Chẳng hạn, để bảo vệ ruộng lúa của mình khỏi sâu bệnh, chủ ruộng đã sử loại thuốc
độc bị cấm do có thể gây ngộ độc cho người và môi trường xung quanh (do cào cào, châu
chấu, côn trùng từ ruộng, bị nhiễm độc sau phun thuốc, đã bay ra xung quanh, làm gia cầm
ăn phải, bị ngộ độc và chết hàng loạt), gây ngộ độc cho người tiêu dùng khi mua và sử
dụng nông sản làm ra từ ruộng nói trên (do chất độc đó có thời gian tồn lưu rất lâu trên
nông sản).
2.2.2. Điều kiện thực hiện việc tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản
Khi tài sản, quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bị xâm phạm, chủ thể thực hiện quyền tự bảo vệ để đòi
lại tài sản bị chiếm đoạt, thì cũng không được phép sử dụng bạo lực quá đáng, vượt quá mức độ phòng vệ cho
phép. Luật cho phép người có quyền sở hữu, quyền khác có quyền tự vệ hợp lý khi các quyền này bị xâm phạm,
nhưng “phải phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền dân sự đó”. Thực tế, có nhiều trường hợp chủ
thể có suy nghĩ chủ quan và có thái độ tâm lý tự cho mình có quyền đòi lại tài sản của mình bằng những cách
thức mà mình có thể thực hiện được trong thực tế, nên đã không cân nhắc đến tính chất hợp lý, cân bằng lợi.
Chẳng hạn, người chủ xe ô tô đã dùng xe ô tô của mình đuổi theo kẻ trộm và húc kẻ trộm té xuống đường và bị
thương nặng, chỉ nhằm để giật lại chiếc kính chiếu hậu mà tên trộm vừa lấy đi khi xe đang chạy trên đường; hay
trường hợp người chủ chó và dân trong thôn khi bắt được kẻ trộm chó đã đánh chết kẻ trộm chó và đốt xe của kẻ
trộm ngay tại hiện trường. Có thể nói rằng đây là những trường hợp chủ thể đã áp dụng những biện pháp “tự bảo
vệ” quyền sở hữu một cách quá mức cần thiết và không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm.
2.2.3. Phạm vi giới hạn của biện pháp tự bảo vệ quyền sở
hữu, quyển khác đối với tài sản
- Về nguyên tắc, việc thực hiện các quyền dân sự nói chung,
quyền tự bảo vệ đối với tài sản, quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản nói riêng, phải trong khuôn khổ, giới hạn nhất định,
đó là “không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi
ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”
(khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015).
2.2.3. Phạm vi giới hạn của biện pháp tự bảo vệ quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản
- Cá nhân, pháp nhân được tự do thực hiện quyền dân sự theo ý chỉ của mình, nhưng phải bảo đảm
những yêu cầu của pháp luật (khoản 1 Điều 9 BLDS năm 2015), nhất là không được lạm dụng quyền
của mình để gây ra thiệt hại cho người khác. Theo đó, “Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng
quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục
đích khác trái pháp luật” (khoản 1 Điều 10 BLDS năm 2015).
Chẳng hạn, chủ trang trại không thể thả chó bẹc-giê cắn chết người mót cà phê rơi dưới đất chỉ vì
người này vào trang trại mà không xin phép. Đây là một hành vi có tính chất lạm quyền, trái pháp luật
rất nghiêm trọng. Chế tài của việc lạm quyền này sẽ dẫn đến hệ quả bất lợi cho chủ thể: “…Tòa án hoặc
cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ
một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác
do luật quy định” (khoản 2 Điều 10 BLDS năm 2015). Trong ví dụ trên, người thả chó cắn chết người
có thể phải gánh chịu trách nhiệm hình sự và còn phải bồi thường mọi thiệt hại cho gia đình nạn nhân.
- Pháp luật cũng quy định, chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản có
quyền tự do thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình trong phạm vi quyền sở
hữu quyền khác của mình đối với tài sản, nhưng chủ sở hữu phải thực hiện hành vi
“không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi
ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác” (khoản 2 điều 160 BLDS năm 2015); còn người có quyền khác đối với tài
sản trong phạm vi quy định của pháp luật dân sự và luật khác có liên quan, “nhưng
không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người
khác” (khoản 3 Điều 160 BLDS năm 2015).
Các hành vi như: giăng dây điện quanh ao cá, vườn
cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn
quả … dẫn đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ
trộm), đều bị coi là hành vi trái pháp luật, phải bồi
thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
2.3. Các phương thức tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Theo quy định của BLDS năm 2015: việc đòi lại tài sản chỉ đặt ra
khi tài sản thực tế đã bị người khác chiếm đoạt, cầm giữ trái pháp luật.
Chủ thể có quyền không được đòi lại tài sản trong thời gian người khác
chiếm hữu, cầm giữ hợp pháp (Điều 166).
Điều kiện áp dụng biện pháp tự đòi lại tài sản: bên truy đòi là
người có quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; người bị truy đòi
đang thực tế chiếm giữ, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật; tài sản bị người khác chiếm giữ phải hiện còn.
Phương thức thực hiện biện pháp tự đòi lại tài sản: bên có tài sản bị xâm phạm chỉ được sử những phương thức
yêu cầu hoàn trả tài sản một cách ôn hòa, trên cơ sở ưng thuận, chấp nhận hòa nhã của bên kia.
Ví dụ: con chó của A đi lạc, bị B bắt được. A có thể đến gặp B để xin lại con chó, kèm theo việc hoàn trả các
chi phí liên quan, nếu có và B đã vui vẻ trả lại con chó cho A mà không nhận chi phí đã bỏ ra để chăm sóc chó.
Bên có quyền không được hông được dùng những biện pháp cưỡng bức, bạo lực, đe dọa để bên kia giao trả tài
sản vì bị sợ hãi, tê liệt ý chí kháng cự (trong ví trên, A không được dùng sức mạnh hay dùng hung khí đe dọa B để
giành lại con chó) hoặc dùng những biện pháp trái pháp luật khác để “đoạt lại” tài sản, trừ khi dùng sự tấn công
hợp lý để lấy lại tài sản bị người khác chiếm đoạt quả tang, nhưng cũng tuyệt đối không được dùng bạo lực trái
pháp luật, một cách quá mức để chiếm đoạt lại tài sản.
Ví dụ: tài xế xe ô tô không thể dùng xe ô tô đuổi theo để húc chết kẻ trộm, lấy lại tài sản hoặc chủ chó không
thể giết chết người bắt trộm chó chỉ vì không muốn mất chó, trừ trường hợp hành vi đó là hành vi có tính chất
phòng vệ chính đáng hoặc trong phạm vi yêu cầu của tình thế cấp thiết. Bởi vì giết người thì phải đền tội, lấy trộm
tài sản thì bị xử phạt, nhưng tài sản không thể được bảo vệ ngang với tính mạng con người.
2.3.2. Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối tài sản
Biện pháp này được áp dụng khi tài sản không bị chiếm đoạt và cũng không bị làm hư hỏng,
nhưng bị hành vi trái pháp luật của người khác cản trở làm cho chủ thể có quyền không thể thực hiện
quyền của mình một cách bình thường.
Tự yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản là việc bên có quyền quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bị người khác cản trở việc
thực hiện các quyền này thì được tự mình yêu cầu người cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi
cản trở đó để đảm bảo cho quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được thực hiện bình thường.
Điều kiện để đòi chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật là khi tài sản không bị chiếm đoạt, nhưng
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản không được thực hiện; nguyên nhân của việc này là do có
người có hành vi trái pháp luật gây cản trở (chặn cửa, rào đường, bít lối đi, trồng cây che khuất tầm
nhìn của bất động sản…).
Bên có quyền tự mình yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi trái pháp luật
bằng những biện pháp ôn hòa, để đảm bảo cho quyền sở hữu, khác đối với tài sản
được thực hiện bồi thường.
Ví dụ: ông Phương đã dùng vật liệu để xây dựng lấn chiếm không gian giếng
trời trong chung cư, làm bít cả giếng trời thuộc quyền sử dụng chung của nhiều hộ.
Do đó, ông Đức đã yêu cầu ông Phương chấm dứt hành vi trên và tháo dỡ hết các
vật liệu che chắn phía trên không gian giếng trời thuộc quyền sử dụng của ông Đức,
trả lại không gian chung cho ông Đức và các hộ khác. Đây là yêu cầu hợp lý, được
chính quyền địa phương và các hộ khác ủng hộ. Ông Phương bị buộc phải tháo dỡ
vật liệu xây dựng lấn chiếm và trả lại không gian giếng trời chung cho các hộ.
Ví dụ 1: A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong khi đào móng làm nhà, đã đào sát
tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà A.
Ví dụ 2: C là chủ sở hữu một căn nhà. D là hàng xóm của C đã để ống thoát nước mưa của nhà mình chảy
dội sang nhà C, làm ngấm tường của nhà C. Trong một lần mưa to, lượng nước mưa chảy xuống nhiều đã làm
hư hỏng bức tranh quý của nhà C treo trên tường.
Các ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong các trường hợp trên, A và C với tư cách là chủ sở
hữu có quyền gì đối với B và C không? Theo các quy định của BLDS Việt Nam, thì A và C, với tư cách là chủ
sở hữu có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B và C – những người có hành vi cản trở
việc thực hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là A có quyền yêu cầu B phải
ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm biện pháp khác; C có quyền yêu cầu D phải dẫn nước
thoát theo đường ống khác để nước không chảy và ngấm sang tường nhà mình.
Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, bức tranh quý của nhà C đã bị hư hỏng. A và C có quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do hai bên thoả thuận.
Tình huống
Nhà ông M liền kề với nhà ông C. Tại phần đất giáp ranh giữa
hai nhà, ông M có trồng 02 cây nhãn. Một cây có nhiều cành ngả
sang mái nhà và đất nhà ông C, có nguy cơ làm hư hỏng mái ngói.
Một cây bị nghiêng, gần bật gốc, có nguy cơ đe dọa đổ vào nhà ông
C. Ông C đã đề nghị ông M chặt cây nhãn bị nghiêng và các cành
ngả vào mái nhà, phần đất nhà ông đi nhưng ông M không đồng ý.
Trong trường hợp này, ông C có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm
quyền cho chặt cây không?
Gợi ý
Theo Điều 177 Bộ luật dân sự năm 2015, có quy định trong trường hợp cây cối,
công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ xuống bất động sản liền kề và xung
quanh thì chủ sở hữu tài sản thực hiện ngay các biện pháp khắc phục, chặt cây,
sửa chữa hoặc dỡ bỏ công trình xây dựng đó theo yêu cầu của chủ sở hữu bất
động sản liền kề và xung quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; nếu không tự nguyện thực hiện thì chủ sở hữu bất động sản liền kề
và xung quanh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây,
phá dỡ. Chi phí chặt cây, phá dỡ do chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng
chịu.
Do đó, trong trường hợp này, nếu ông C đã có đề nghị ông M thực hiện ngay
việc chặt cây để bảo vệ công trình nhà mình mà ông M không thực hiện thì ông
C có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền cho chặt cây và mọi chi phí chặt
cây sẽ do ông M là chủ sở hữu cây cối chịu.
2.3.3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi tài sản bị gây thiệt hại trái pháp luật
Khi tài sản bị người khác gây thiệt hại một cách trái pháp luật thì chủ thể có quyền có quyền tự mình yêu
cầu người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
Việc đòi bồi thường thiệt hại được áp dụng khi tài sản bị tổn thất trên thực tế (như làm cho tài sản bị tiêu
hủy, mất mát, giảm sút giá trị, mất thu nhập…) có hành vi trái pháp luật của người khác xâm phạm tới tài sản
của chủ thể, dẫn đến những thiệt hại thực tế…
Phương thức tự yêu cầu bồi thường thiệt hại cho phép bên bị thiệt hại có điều kiện khôi phục lại tình
trạng ban đầu của quyền, lợi ích hợp khác khi tài sản của mình bị người khác xâm phạm trái pháp luật. Đây
vừa là phương thức độc lập trong việc bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, hoặc cũng có thể kết
hợp với các phương thức tự bảo vệ khác, nếu các hành vi xâm phạm đó cũng gây ra thiệt hại thực tế cho bên
có quyền bị xâm phạm.
Tình huống
Gia đình anh A đang xây dựng căn nhà 6 tầng ngay
cạnh nhà tôi, nhưng do xây quá số tầng trong bản vẽ
thiết kế xây dựng (vượt 02 tầng) nên đã gây nứt
tường nhà tôi. Xin hỏi tôi có thể yêu cầu anh A bồi
thường, khắc phục thiệt hại hay không?
Gợi ý
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi xây dựng công trình, chủ
sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng,
bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây
dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu,
người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh.
Đồng thời, cũng theo Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về bồi thường thiệt
hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra thì chủ sở hữu, người chiếm hữu,
người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường
thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây thiệt hại cho người khác.
Như vậy, trong trường hợp này, gia đình anh A đã không tuân thủ quy định pháp luật
về xây dựng (xây nhà vượt quá số tầng trong bản vẽ thiết kế), làm ảnh hưởng đến căn
nhà của gia đình bạn (gây nứt tường) do đó, đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quy tắc
xây dựng được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015. Gia đình anh A phải bồi thường
thiệt hại cho gia đình bạn theo quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự năm 2015.
BIỆN PHÁP YÊU CẦU TÒA ÁN, CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ THẨM
QUYỀN BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU, QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN
3.1. Đòi lại tài sản
3.1.1. Khái niệm đòi lại tài sản
3.1.2. Các điều kiện để đòi lại tài sản
3.1.3. Các trường hợp cụ thể
3.1.4. Hậu quả pháp lý của việc đòi lại tài sản
3.2. Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
3.2.1. Khái niệm yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản
3.2.2. Điều kiện áp dụng
3.2.3. Hậu quả pháp lý
3.3. Đòi bồi thường thiệt hại
3.3.1. Khái niệm đòi bồi thường thiệt hại
3.3.2. Điều kiện áp dụng
3.3.3. Hậu quả pháp lý
2.1. Kiện đòi tài sản
❖ Khái niệm:
Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp yêu cầu người đang thực tế chiếm hữu
bất hợp pháp tài sản phải trả lại tài sản đó cho chủ sở
hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp
Điều kiện để kiện đòi tài sản
• Nếu tài sản là vật thì vật đó phải là vật đặc định: chỉ áp dụng phương thức kiện đòi
tài sản nếu vật đó là vật đặc định vì bản chất của vật đặc định là không thể thay
thế được cho nhau. Ví dụ: tài sản đòi lại là xe máy đã qua sử dụng thì phải xác
định xe đó là loại xe gì, mang nhãn hiệu nào, hình dáng, màu sắc, số khung, số
máy… Nếu đó là những loại tài sản khác thì cũng phải xác định được, ví dụ: tài
sản đòi lại là quyền sử dụng đất (quyền tài sản) thì phải xác định được mảnh đất đó
ở đâu, có diện tích bao nhiêu, loại đất gì, tứ cận tiếp giáp.v.v.
• Vật phải còn tồn tại: nếu đối tượng kiện đòi không còn tồn tại do bị tiêu hủy hoặc
bị mất thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không thể trả lại chính tài
sản đó cho bên kiện đòi. Vì thế, trong trường hợp này phải áp dụng phương thức
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
• Nguyên đơn phải là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp;
• Bị đơn là người đang thực tế chiếm hữu vật nhưng việc chiếm hữu là bất hợp pháp.
Ví dụ: A trộm điện thoại di động của B rồi đem bán cho C, C lại bán điện thoại trên
cho D. Trong trường hợp này, B có quyền đòi D (người đang thực tế chiếm hữu tài
sản không có căn cứ pháp luật) phải trả lại điện thoại di dộng đó khi đủ các điều
kiện luật định.
Điều kiện để kiện đòi tài sản
• Người khởi kiện phải xác định được địa chỉ tồn tại của vật: chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp chỉ có thể đòi lại vật khi biết được vật đó đang do ai chiếm
hữu. Vì vậy, khi tài sản đã rời khỏi sự chiếm hữu của bị đơn thì người khởi kiện
phải xác định được người đang thực tế chiếm hữu vật đó là ai và khởi kiện người
đó để đòi lại vật. Trong trường hợp không xác định được người đang thực tế
chiếm hữu vật là ai thì phải áp dụng phương thức khởi kiện yêu cầu BTTH.
✓ Trong trường hợp này bị đơn có thể chính là người được CSH chuyển giao quyền
chiếm hữu tài sản (người chiếm hữu hợp pháp). Ví dụ: A cho B thuê tài sản, sau
đó B bán cho C nhưng C đã bị mất tài sản đó thì A kiện yêu cầu B BTTH.
✓ Có thể bị đơn là người đã chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật. Ví dụ: A
cho B thuê tài sản, B bị C trộm tài sản đó và một kẻ khác lại trộm tài sản đó từ C
mà không xác định được kẻ trộm tài sản là ai thì A hoặc B khởi kiện yêu cầu C
BTTH.
Vật cùng loại, vật đặc định (Điều 113 BLDS 2015)
• Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất,
tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo
lường.
• Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng
những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc,
chất liệu, đặc tính, vị trí.
Các trường hợp cụ thể kiện đòi lại tài sản
Điều 166 BLDS Động sản không Động sản phải đăng
đăng ký quyền sở ký quyền sở hữu và
hữu bất động sản
A B
mượn laptop
chủ sở hữu của A và tặng C
laptop cho C
A kiện C, C phải trả lại tài sản cho A theo Điều 167 BLDS 2015.
Trường hợp 4:
Quy định tại Điều 167 BLDS năm 2015 cũng đã cho thấy chủ sở hữu sẽ không đòi lại được động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp: khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu
theo ý chí của họ (như cho thuê, cho mượn, cầm cố,...) và người không có quyền định đoạt tài sản (là bên
cho thuê, cho mượn, nhận cầm cố,...) đã chuyển giao tài sản đó thông qua hợp đồng có đền bù (như mua
bán, trao đổi, cho thuê,...) cho người chiếm hữu ngay tình thì quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình sẽ
được pháp luật bảo vệ, tức là người chiếm hữu ngay tình sẽ không phải trả lại tài sản đó khi chủ sở hữu đòi
lại. Khi đó, quyền lợi của chủ sở hữu sẽ được đảm bảo bằng cách yêu cầu bên vi phạm hợp đồng với mình
phải bồi thường thiệt hại.
A Cho
chủ sở hữu
mượn
B C
laptop bán laptop này mua laptop
A kiện B, B phải bồi thường cho A.
❖ Đòi lại tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình
• Điều 168 BLDS năm 2015 quy định: Chủ sở hữu được đòi lại động
sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm
hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ
luật này.
• Với quy định trên, về nguyên tắc, đối với tài sản là bất động sản và
động sản phải đăng ký quyền sở hữu thì dù người chiếm hữu ngay
tình, chủ sở hữu vẫn được đòi lại tài sản đó. Tuy nhiên, ngoại lệ của
nguyên tắc trên là chủ sở hữu sẽ không được đòi lại tài sản trong hai
trường hợp được nêu tại khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015.
❖ Đòi lại tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình
• Trường hợp 1: tuy giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng
ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng
một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn
cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó
không bị vô hiệu.
• Ví dụ: A thỏa thuận bằng văn bản bán cho B một căn nhà. Sau khi hoàn
thành thủ tục công chứng và đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở, B bán căn nhà trên cho C (C ngay tình). Sau đó, hợp đồng
mua bán nhà giữa A và B bị tòa án tuyên vô hiệu thì hợp đồng mua bán
nhà giữa B và C không bị vô hiệu. Khi đó, nếu A kiện đòi C trả lại căn
nhà trên thì C không phải trả lại.
❖ Đòi lại tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình
• Trường hợp 2: nếu tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ
trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu
giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
• Ví dụ: Khi A chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình cho B nhưng tài sản
chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (quyền sử dụng đất là
tài sản phải đăng ký) và B đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên sang cho
C (C ngay tình) thì hợp đồng giữa B và C bị vô hiệu. Khi đó, nếu chủ sở hữu
là A đòi lại tài sản thì C phải trả lại tài sản.
Lưu ý:
• Tuy nhiên, có 2 ngoại lệ mà người thứ ba ngay tình không phải trả lại tài
sản là:
• (i) Khi người thứ ba ngay tình mua tài sản thông qua bán đấu giá tại tổ
chức có thẩm quyền; hoặc
• (ii) Khi người thứ ba ngay tình giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án,
quyết định bị huỷ, sửa.
Tóm lại
Khi đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không
có căn cứ pháp luật không ngay tình thì không
cần phân biệt tài sản đó là động sản hay bất
động sản, hoặc tài sản có bắt buộc phải đăng
ký hay không, người chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật không ngay tình thì phải trả lại
tài sản đó.
- Nguyên đơn: A
- Bị đơn: B hay C?
- Nguyên đơn: A
- Bị đơn: C
Xem xét quy định tại Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015
Xem xét quy định tại Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015
Đã được đăng ký + cấp giấy chứng nhận + bán cho người khác => ?
2.2 Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
❖Khái niệm: (Điều 169 BLDS 2015 )
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ thể có
quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi
đó hoặc có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
Như vậy, việc yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản được yêu cầu người có hành vi
cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản phải chấm dứt hành vi đó hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
❖ Điều kiện áp dụng
Để áp dụng phương thức yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, cần phải đáp ứng các điều kiện
sau:
Thứ nhất, tài sản vẫn do chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản
trực tiếp nắm giữ, chi phối;
Nếu việc đòi lại tài sản đặt ra khi tài sản đó bị người khác chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật (không còn được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản trực
tiếp nắm giữ, chi phối) thì phương thức này áp dụng khi chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản vẫn đang trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản. Ví dụ: chủ sở hữu nhà
đang sử dụng nhà đó để ở hay đang cho người khác thuê ở.
• Thứ hai, có hành vi vi phạm của người khác mà nội dung vi phạm ở đây là gây cản trở chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thực hiện quyền của mình. Trong trường hợp này, chủ sở
hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đang nắm giữ tài sản và có quyền thực hiện quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản nhưng không thực hiện được các quyền này một cách bình thường xuất phát
từ hành vi cản trở trái pháp luật của chủ thể khác.
• Ví dụ: hàng xóm xây nhà để nguyên vật liệu lấn chiếm lối đi của nhà mình; hàng xóm trồng cây để
cành, nhánh vươn qua nhà mình gây ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày của mình. Khi đó, chủ sở hữu
nhà bị ảnh hưởng bởi hành vi trên có quyền tự bảo vệ bằng cách yêu cầu người vi phạm phải chấm dứt
hành vi. Nếu họ vẫn không thực hiện thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm. Chẳng hạn: với các trường hợp trên thì chủ thể vi phạm
phải di dời nguyên vật liệu lấn chiếm ra nơi khác; chặt cành, nhánh cây vươn sang nhà người khác… để
đảm bảo việc khai thác bình thường tài sản của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản. Đồng
thời, bên bị vi phạm có thể áp dụng thêm các biện pháp khác như buộc khôi phục tình trạng ban đầu của
tài sản hoặc buộc bồi thường thiệt hại (nếu có) để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của mình.
❖Hậu quả pháp lý
Khi chủ thể có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản thì chủ thể bị vi phạm có quyền yêu cầu
chủ thể đó chấm dứt hành vi vi phạm. Nếu họ không thực hiện thì chủ
thể bị vi phạm có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm, khi đó, chủ thể có
hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi đó.
• Ví dụ: Quyết định Giám đốc thẩm số 617/2011/DS – GĐT ngày 18/08/2019 về vụ án tranh chấp ranh đất.
Ông A và bà B có quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số 53 liền kề với thửa đất số 76 của ông C, đều thuộc tờ bản đồ
địa chính số 5, Phường 6, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Khi ông C sửa chữa lại nhà của mình trên thửa đất trên thì
đã làm 04 ô văng cửa sổ, 1 máng bê tông và chôn dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà của mình,
lấn chiếm sang phần đất của ông A, bà B. Ông A và bà B đã yêu cầu ông C tháo dỡ nhưng ông C không thực hiện.
Sau đó, ông A và bà B khởi kiện ra Tòa án yêu cầu ông C phải tháo dỡ các công trình xây dựng lấn chiếm.
Qua quá trình xét xử, Tòa án đã quyết định buộc ông C phải tháo dỡ 4 ô văng cửa sổ, 01 máng bê tông và ống thoát
nước lấn chiếm trên. Trong trường hợp này, hành vi của ông C là hành vi trái pháp luật, vi phạm quy định tại khoản
2 Điều 175 BLDS năm 2015 (Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ
ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của
người khác; Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng
của mình và theo ranh giới đã được xác định….). Hành vi của ông C đã cản trở việc thực hiện quyền sử dụng đất
một cách bình thường của ông A, bà B và hành vi này là trái pháp luật nên chủ thể xâm phạm phải chấm dứt hành vi
đó. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, ông A, bà B có thể yêu cầu ông C khôi phục lại tình trạng
ban đầu của tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có).
Nội dung
- Buộc chấm dứt hành vi cản trở bất hợp pháp (Ví dụ)
• Thứ nhất, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải
có thiệt hại thực tế xảy ra. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực
tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút;….
• Thứ hai, phải có hành vi trái pháp luật của người gây ra thiệt hại.
Hành vi là xử sự có ý thức của con người được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động. Việc bồi thường thiệt hại chỉ áp dụng nếu
hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật tức là hành vi được thực
hiện trái với các quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản phải là hành vi trái
pháp luật.
• Tuy nhiên, trường hợp chủ thể gây thiệt hại cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối
với tài sản do phòng vệ chính đáng hay trong tình thế cấp thiết thì không phải bồi
thường cho người bị thiệt hại. Bởi vì hành vi gây ra thiệt hại trong tình thế cấp thiết và
phòng vệ chính đáng sẽ không bị coi là trái pháp luật. Tình thế cấp thiết là “tình thế của
người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là
phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.”. Phòng vệ chính
đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người
đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Nếu hành vi gây ra thiệt hại trong trường
hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
thì bị coi là hành vi trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường.
• Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra. Quan hệ nhân quả là mối quan hệ nội tại tất yếu giữa các sự
kiện, hiện tượng nối tiếp nhau trong một không gian và trong một khoảng thời
gian xác định. BLDS quy định cần phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra nghĩa là thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu
của hành vi trái pháp luật và ngược lại, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân
gây ra thiệt hại. Cụ thể là hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản là hành vi trái pháp luật và phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đã xảy
ra cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản.
• Cuối cùng, trong những trường hợp do luật định thì phải có lỗi của
người xâm phạm. Theo BLDS năm 2015, lỗi được chia làm 2 loại là lỗi
cố ý và lỗi vô ý (Điều 364 BLDS năm 2015). Trong một số trường hợp,
căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa vào lỗi, nếu
BLDS hoặc luật liên quan có quy định. Ví dụ: Khi một người cố ý dùng
rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng
mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường cho người bị thiệt hại
❖ Hậu quả pháp lý
• Khi người chiếm hữu, người sử dụng tài sản không
có căn cứ pháp luật đã giao tài sản cho người thứ
ba và theo quy định của luật, người thứ ba phải
hoàn trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản thì người thứ ba có
quyền yêu cầu người đã giao tài sản cho mình bồi
thường thiệt hại nếu tài sản đó đã được trả bằng
tiền hoặc có đền bù.
2.4 Kiện yêu cầu hoàn trả tài sản do được lợi không có căn
cứ pháp luật
• Khái niệm:
Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đươc hiểu là sự gia
tăng tài sản hoặc phát sinh việc chiếm hữu, sử dụng của một chủ thể
đối với tài sản nhưng không dựa trên căn cứ do luật định. Hoặc cũng
có thể là việc mà chủ sở hữu tránh được những khoản chi phí để bảo
quản, giữ nguyên tài sản mà lẽ ra tài sản đã giảm sút (thông thường,
theo trường hợp này tài sản được tăng lên nhờ sự nhầm lẫn của
người khác)
Điều kiện
• Sự được lợi về tài sản của một người đã gây ra thiệt hại về tài sản
cho chủ sở hữu, hay nói một cách khác sự gia tăng hay giữ nguyên
được tình trạng tài sản như cũ (được lợi) của một người là nguyên
nhân làm cho tài sản của chủ sở hữu bị giảm sút hoặc bị mất.
• Sự được lợi về tài sản đó không dựa trên căn cứ do pháp luật dân sự
quy định.
• Người được lợi về tài sản không có lỗi.
Nội dung (Điều 581, 583)
• Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có
căn cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ
thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.
• Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ
thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của
Bộ luật này.
• Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản, người bị thiệt hại được
hoàn trả tài sản thì phải thanh toán chi phí cần thiết mà người chiếm hữu,
người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình đã bỏ ra để bảo quản, làm tăng giá trị của tài sản.
3. Bảo vệ các quyền khác đối với tài sản theo
pháp luật dân sự
BLDS 2015 quy định chủ sở hữu còn tồn tại một số quyền khác đối với tài
sản sau đây:
- Quyền đối với BĐS liền kề
- Quyền hưởng dụng
- Quyền bề mặt
Quyền đối với bất động sản liền kề
Quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một
bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho
việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác
(gọi là bất động sản hưởng quyền). (Điều 245 BLDS 2015)
Quyền hưởng dụng
Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và
hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể
khác trong một thời hạn nhất định. (Điều 257 BLDS 2015)
Quyền bề mặt
Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước,
khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng
đất đó thuộc về chủ thể khác. (Điều 267 BLDS 2015)
Câu hỏi ôn tập
1. Phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng Luật dân sự có những đặc điểm
nổi bật nào? Có mấy phương thức kiện theo luật dân sự để bảo vệ
quyền sở hữu?
2. Phân biệt chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật không ngay tình?
Câu hỏi ôn tập
3. Cho biết những điểm giống nhau và khác nhau của việc kiện yêu cầu chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật và kiện đòi tài sản?
4. B lấy trộm xe đạp của bạn là A rồi đem bán cho C. C mua xe với giá 300.000
đồng. Khi A đến đòi B trả thì A nói xe đã bị mất. 1 tuần sau, A tình cờ thấy C
đang chạy chiếc xe trên. Hỏi, A có được quyền đòi chiếc xe từ C không?
5. A cho bạn là B mượn điện thoại di động của mình để sử dụng nhưng B đem điện
thoại trên tặng cho C. Nếu A phát hiện C đang sử dụng điện thoại trên và chứng
minh được điện thoại là của mình thì có đòi C trả lại điện thoại cho mình được
không? Vì sao?
6. A cho B thuê trâu của mình để sử dụng trong 3 ngày. Vì cần tiền trả nợ gấp, B
đem con trâu trên đi bán cho C (C không biết là trâu của A và tin lời B, nghĩ đây
là trâu của B nên C mua). Sau đó, A phát hiện C đang sử dụng trâu của mình nên
đòi C trả lại nhưng C không chịu trả. Trong trường hợp này, quyền lợi của A sẽ
được giải quyết như thế nào? Giải thích theo quy định của pháp luật?
Câu hỏi ôn tập
7. A trộm xe máy của B rồi đem xe trên cùng giấy tờ xe (giấy tờ B để trong
cốp xe trên khi bị mất) đến bán cho C. C thấy xe giá rẻ và có đủ giấy tờ nên
đồng ý mua (không biết xe do A trộm). Hai bên lập “giấy tay” và C trả
trước ½ tổng số tiền mua bán xe và chờ ngày cùng A và chủ sở hữu xe đi
công chứng hợp đồng, đăng ký xe (theo lời hứa của A) rồi sẽ thanh toán
hết. Sau đó, hành vi của A bị phát hiện và B đòi C trả lại xe máy cho mình
nhưng C cho rằng mình chiếm hữu ngay tình nên không chịu trả. Giải
quyết tình huống này như thế nào? Giải thích?
8. Thành đi du lịch ở nước ngoài về, có mượn của Nam một máy ảnh hiệu
Canon để chụp ảnh lưu niệm. Hôm Thành về đến sân bay thì có Hoa ra
đón. Nhìn thấy chiếc máy ảnh, Hoa khen đẹp và tỏ ý rất thích. Thấy vậy,
Thành đã tặng chiếc máy ảnh nói trên cho Hoa và nói là quà từ nước ngoài
đem về. Sau đó, Nam nhìn thấy Hoa sử dụng máy ảnh của mình thì đòi lại.
Hoa không đồng ý. Hỏi: Nam có quyền đòi lại máy ảnh từ Hoa không? Hay
chỉ có quyền đòi Thành bồi thường thôi? Chỉ rõ căn cứ pháp lý để trả lời
cho câu hỏi trên.
9. A mua xe đạp Nhật của B trị giá 1.000.000 đồng mà không biết
đây là xe B ăn trộm của C. Sau 1 năm, C phát hiện chiếc xe đạp A
đang sử dụng là của mình nên đòi lại. A yêu cầu B trả cho C
1.000.000 đồng nhưng C không đồng ý mà chỉ muốn lấy lại xe. A
không đồng ý trả lại. Theo quy định của BLDS 2015, quyền lợi
của các bên được giải quyết như thế nào ?
10. Ông A nhặt được một đồng hồ đeo tay tại bể bơi công cộng nhưng
không thông báo cũng không nộp cho cơ quan có thẩm quyền mà cứ sử
dụng nó. 13 tháng sau, chủ nhân là anh B phát hiện ông A đeo đồng hồ của
mình thì đòi lại nhưng ông A không trả với lý do là nhặt được chứ không ăn
trộm. Anh B kiện ông A ra toà dân sự nhờ toà xử ông A trả đồng hồ. Đơn
kiện của anh B có được thoả mãn không? Vì sao?
ThS. NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 1
- Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật
Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
- Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội.
- Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự (Tập 1,2).
▪ Ví dụ: Di chúc không có hiệu lực một phần hoặc toàn bộ trong trường hợp
người được chỉ định trong di chúc chết trước hoặc chết cùng với người lập di
chúc.
▪ “Quan điểm này chỉ có thể phù hợp khi mà tài sản của người chết và tài sản
của gia đình không tách bạch được, cũng như nợ của gia đình và nợ của người
chết không phân biệt được bởi các khoản nợ phát sinh từ việc tham gia của gia
đình chứ không phải chỉ cho cá nhân. Điều này có nghĩa là các khoản tài sản có
của người chết cũng là nợ của những người thừa kế, bất kể tài sản của người chết
có đủ để thanh toán hay không”. Quan điểm này có lẽ không phù hợp khi chúng ta
đang hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền, đề cao trách nhiệm của cá
nhân đối với xã hội, mỗi người phải chịu trách nhiệm bởi hành vi của chính mình.
Quan điểm này vô hình dung lại bảo vệ tàn tích của chế độ phong kiến “Nợ truyền
đời Quy
truyền kiếp”
định chung về thừacha
kế không trả hết nợ thì con trả, con trả không hết thì cháu trả.
3/31/2019 43
▪ Quan điểm thứ hai thì di sản thừa kế bao gồm tài sản của người chết và
nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi di sản thừa kế. Người thừa kế chỉ thực
hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà họ được nhận.
▪ Quan điểm này tiến bộ hơn quan điểm trước ở chỗ là xoá bỏ được tàn tích
của chế độ phong kiến là “Nợ truyền đời truyền kiếp” nhưng vẫn xác định di
sản bao gồm cả các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại. Tuy nhiên, quan
điểm này không được đa số các nhà khoa học pháp lý ủng hộ, bởi lẽ, di sản
được hiểu là tài sản của người chết để lại, người còn sống được thừa hưởng di
sản của người chết, và lẽ thường không ai muốn thừa hưởng nghĩa vụ, thừa
hưởng công việc của người khác dù là người thân thích.
Di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của cá nhân lúc còn sống
về việc định đoạt tài sản của mình sau khi chết một cách tự
nguyện, theo một hình thức, thể thức luật định, có thể bị sửa đổi,
bổ sung, thay thế, hủy bỏ bất cứ lúc nào bởi người lập di chúc khi
người đó còn sống, và di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di
chúc chết.
- Di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết.
- Trong lúc còn sống, bất kỳ lúc nào, người lập di chúc cũng có
quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hay huỷ bỏ di chúc.
Thừa kế theo di chúc có thể hiểu là phương thức dịch chuyển di sản do người chết để
lại, theo ý nguyện của người đó lúc còn sống được thể hiện trong di chúc, cho người thừa
kế được chỉ định trong di chúc đó.
Thừa kế theo di
Thừa kế theo di
chúc là hình thức Người thừa kế
chúc là hình thức
thừa kế phát sinh theo di chúc và di
thừa kế được
dựa trên cơ sở di sản chia theo di
thực hiện theo ý
chúc hợp pháp chúc do người
chí cá nhân của
của cá nhân lập di chúc tự do
người để lại di
người để lại di quyết định.
sản.
sản.
kỳ ai, bao gồm cá nhân, pháp nhân, người thừa kế khác không phải là cá
nhân, kể cả Nhà nước CHXHCN Việt Nam hoặc một cơ quan nhà nước
xác định hưởng di sản thừa kế theo di chúc. Người được hưởng thừa kế
theo di chúc cũng có thể đồng thời là những người thừa kế theo pháp
luật. Người được thừa kế theo di chúc phải thỏa mãn các điều kiện chung
của người thừa kế.
Cũng có ý kiến cho rằng, việc truất quyền nói rõ trong di chúc là truất quyền minh thị. Trường
hợp người để lại di sản tuy không nói rõ việc truất quyền hưởng di sản của một người thừa kế theo
pháp luật nhưng trong di chúc lại định đoạt toàn bộ di sản cho những người khác mà không phân
định di sản cho người đó thì gọi là truất quyền mặc nhiên (hay còn gọi là truất quyền không được nói
rõ trong di chúc). Tuy vậy, không nên xem đây là trường hợp truất quyền thừa kế. Vì chỉ những
người bị truất quyền thừa kế “minh thị” (nói rõ trong di chúc) mới bị mất quyền hưởng di sản. Đối
với những người không được di chúc chỉ định hưởng di sản thì vẫn có thể được hưởng thừa kế theo
pháp luật phần di sản liên quan tới di chúc bị “thất hiệu” và các phần di sản khác không được định
đoạt trong di chúc.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 9
Những điểm
Truất quyền hưởng DS Không có quyền hưởng DS
khác
Chỉ áp dụng đối với người thừa kế theo pháp Cả người thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo
Đối tượng áp dụng
luật. di chúc.
Di chúc hợp pháp nói rõ không cho hưởng di Pháp luật quy định không cho hưởng di sản (do ý
Căn cứ áp dụng sản (do ý chí của người để lại di sản quyết định). chí của nhà làm luật quyết định).
Khi truất quyền, người lập di chúc không cần Do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS
Lý do áp dụng
nêu lý do. năm 2015.
Không có quyền hưởng di sản trừ trường hợp Không có quyền hưởng di sản trừ trường hợp
Hậu quả pháp lý người thừa kế đó thuộc diện thừa kế không phụ người đó được người để lại di sản cho hưởng thừa
và trường hợp thuộc nội dung di chúc theo Điều 644 BLDS năm kế theo di chúc, sau khi đã biết về hành vi trái
ngoại lệ 2015 thì họ có thể được hưởng thừa kế không pháp luật của họ.
phụ thuộc nội dung di chúc.
Vẫn là một nhân suất thừa kế để tính 01 suất Không coi là một nhân suất khi tính 01 suất
Tư cách thừa kế TKTPL khi chia thừa không phụ thuộc nội dung TKTPL để chia thừa kế không phụ thuộc nội dung
3/31/2019 di chúc. di chúc. TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 10
2. QUYỀN CỦA NGƯỜI LẬP DI CHÚC
Phân định phần di sản cho từng người thừa kế: Người lập di
chúc có thể phân định phần di sản cụ thể cho từng người thừa kế,
nhưng không nhất thiết phải chia cho họ những phần đều nhau.
Người để lại di sản cũng có thể phân chia cho mỗi người thừa kế
bằng các tài sản cụ thể (bằng hiện vật, hay bằng một số tiền), có thể
phân tổng quát theo một tỷ lệ phần trăm xác định tính trên giá trị
khối di sản, như một nửa (1/2), hoặc hai phần ba (2/3)...
Người lập di chúc chỉ có thể là cá nhân. Nhưng không phải mọi cá nhân đều có thể tự
mình lập di chúc để định đoạt tài sản nếu không có năng lực để lập di chúc. Pháp luật hiện
hành quy định năng lực lập di chúc của cá nhân dựa vào hai yếu tố: trí tuệ minh mẫn và có
năng lực hành vi dân sự cần thiết để có thể định đoạt di sản bằng di chúc. Có hai mức độ về
năng lực hành vi dân sự lập di chúc sau đây:
- Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự mình lập di chúc. Khoản 1 Điều
625 BLDS năm 2015 quy định: “Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình”.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 625 BLDS năm 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc”. Khoản 2 Điều 630 BLDS năm 2015 còn quy định di chúc của người này
phải lập bằng văn bản, và phải được cha, mẹ, người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
(ii) phải có sự đồng ý của người đại diện hợp pháp của họ, gồm cha, mẹ hoặc người
giám hộ.
➢ Để bảo đảm quyền tự do di chúc của cá nhân được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc,
pháp luật cần quy định cụ thể điều kiện và thủ tục để người bị hạn chế năng lực hành
vi có thể lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Các điều kiện đó có thể là: phải có
giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền về việc đã điều trị xong cơn nghiện và có
trí tuệ bình thường; hình thức di chúc phải bằng văn bản; phải có sự đồng ý của người
đại diện hợp pháp và/hoặc phải được lập theo thủ tục công chứng, chứng thực.
Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra
bên ngoài thì người khác không thể biết được. Có ý kiến cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt
của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có sự thống nhất giữa
“ý chí” với sự “bày tỏ ý chí”. Không có tự do “ý chí” và sự “bày tỏ ý chí” hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa
hai yếu tố này thì sẽ không có sự tự nguyện.
Những trường hợp không có sự tự nguyện là những trường hợp di chúc được lập không đúng ý chí đích
thực của lập di chúc hoặc không có sự thống nhất giữa ý chí của người lập di chúc với sự bày tỏ ý chí của
chính người đó ra bên ngoài. Các di chúc được lập do bị ép buộc, đe dọa, lừa dối hoặc trong lúc không thể
nhận thức, điều khiển hành vi của mình đều bị coi là di chúc được lập không tự nguyện. Di chúc do cá nhân
lập ra nhưng không đảm bảo yếu tố tự nguyện ý chí thì có thể bị vô hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu.
Theo đó, chỉ khi có bằng chứng hợp lệ xác nhận người lập di chúc đủ sức khỏe và sự minh
mẫn, sáng suốt thì công chứng viên mới xác nhận về việc lập di chúc của người đó. Tuy vậy,
quy định cũng có ngoại lệ là “trong trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe doạ thì người
yêu cầu công chứng không phải xuất trình đầy đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật
này nhưng phải ghi rõ trong văn bản công chứng”.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 21
2.3. NỘI DUNG CỦA DI CHÚC KHÔNG VI PHẠM ĐIỀU CẤM CỦA
LUẬT VÀ KHÔNG TRÁI ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
❖Nội dung của di chúc là tổng hợp các vấn đề mà người để lại di chúc đã thể
hiện trong di chúc đó. Vì vậy, một di chúc hợp pháp nếu sự thể hiện trên
không vi phạm những điều luật cấm và không trái với chuẩn mực ứng xử đang
được cộng đồng thừa nhận.
❖Di chúc được lập bằng văn bản hay bằng miệng cũng đều phải có một nội
dung rõ ràng, xác định nhằm làm cơ sở pháp lý cho việc phân chia di sản sau
này và cũng để tránh những sự tranh chấp không đáng có. Theo quy định tại
Điều 631 BLDS năm 2015, di chúc có thể bao gồm nhiều nội dung khác nhau.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 22
CĂN CỨ TÍNH CHẤT CẦN THIẾT CỦA TỪNG NỘI
DUNG DI CHÚC, CÓ THỂ PHÂN CHIA THÀNH
Các nội
Các nội dung khác
dung cơ có thể
bản của di được đưa
chúc vào di
chúc
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 23
CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DI CHÚC
(i) Ngày, tháng, năm lập di chúc.
(ii) Họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc.
(iii) Họ, tên người hoặc tên của tổ chức được di chúc chỉ
định cho hưởng di sản
(iv) Di sản để lại và nơi có di sản.
▪Theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử, di chúc (và các văn bản thừa kế)
không được lập dưới hình thức chứng thư điện tử. Do vậy, di chúc viết chỉ được thể
hiện bằng văn bản truyền thống, với hai thể thức: di chúc tư chứng thư và di chúc
công chính chứng thư.
▪Đối với tư chứng thư, người lập di chúc có thể tự viết di chúc hoặc nhờ người
khác viết hộ di chúc và phải có hai người làm chứng.
▪ Di chúc công chính chứng thư được lập trước công chứng viên, người có thẩm
quyền chứng thực, người có quyền xác nhận di chúc theo quy định của pháp luật.
- Chỉ người nào trong tình trạng tính mạng bị cái chết đe doạ và không thể lập di chúc bằng văn
bản được thì có thể lập di chúc miệng (khoản 1 Điều 629 BLDS năm 2015).
- Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng
của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng, những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ (khoản 5 Điều 630
BLDS năm 2015).
- Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, thì
văn bản do người làm chứng ghi lại nội dung di chúc miệng phải được công chứng hoặc chứng thực
xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng (khoản 5 Điều 630 BLDS năm 2015).
Di chúc miệng được lập hợp pháp cũng có giá trị pháp lý và có thể có hiệu lực như các di chúc
được lập bằng văn bản. Nhưng di chúc miệng mặc nhiên không có giá trị pháp lý như quy định vừa
nêu. Theo đó, người có di chúc miệng không cần phải tuyên bố hay thực hiện các hành vi pháp lý để
vô hiệu hóa di chúc. Điều đó cũng có nghĩa, dù người lập di chúc miệng hay bất kỳ ai đều không thể
làm cho di chúc miệng có hiệu lực.
Vì vậy, quy định trên đây cũng đòi hỏi người lập di chúc cần thận trọng khi lập di chúc miệng và
nếu sau thời gian nói trên mà người lập di chúc vẫn muốn giữ nguyên nội dung như đã từng thể hiện
trong di chúc miệng thì người đó cần phải lập một di chúc khác. Di chúc mới này được lập theo quy
định chung.
Hiệu lực của di chúc thể hiện ở các hệ quả sau: (1) làm phát sinh quyền thừa kế của người
được chỉ định hưởng di sản theo di chúc; (2) làm mất quyền thừa kế của người bị người lập di chúc
truất quyền thừa kế; (3) hạn chế việc phân chia di sản; và (4) hiệu lực của di chúc được thực hiện
ưu tiên hơn so với thừa kế theo pháp luật. Có thể hiểu ngắn gọn, chia thừa kế theo di chúc là chia
thừa kế theo ý chí cá nhân trước khi chia thừa kế theo ý chí của nhà làm luật.
Không phải mọi di chúc được người để lại di sản lập ra đều có hiệu lực. Để có thể phát sinh
hiệu lực, di chúc phải hợp pháp. Di chúc hợp pháp là di chúc được lập tuân thủ các điều kiện luật
định.
Thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm di chúc có giá trị pháp lý làm phát sinh hiệu lực
của quyền thừa kế theo di chúc và những ràng buộc pháp lý khác được xác định trong di chúc.
Khoản 1 Điều 643 BLDS 2015 quy định: Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo đó,
thời điểm có hiệu lực của di chúc là do luật định, không ai có thể thay đổi, kể cả người lập di chúc.
Việc người lập di chúc đưa ra điều kiện để thực hiện di chúc cũng không làm thay đổi thời điểm có
hiệu lực của di chúc, mặc dù việc thực hiện di chúc có thể bị “tạm ngừng” theo ý nguyện của
người lập di chúc. Cũng cần lưu ý, quy định này chỉ thuần túy điều chỉnh về thời điểm di chúc phát
sinh hiệu lực. Điều này không có nghĩa là di chúc đương nhiên có hiệu lực từ thời điểm mở thừa
kế. Thông thường, di chúc được lập hợp pháp thì có thể phát sinh hiệu lực tại thời điểm mở thừa
kế, nếu di chúc không rơi vào những trường hợp bị “thất hiệu”.
Khi người chết lập nhiều di chúc khác nhau thì việc xác định hiệu lực của các di chúc đó cần dựa
trên các dấu hiệu khác nhau: tính hợp pháp của di chúc, thời điểm lập di chúc, nội dung di chúc... Nếu
các di chúc đó đều hợp pháp thì cần xem xét nội dung di chúc có mâu thuẫn nhau hay không và di
chúc nào được lập sau cùng. Theo đó, hiệu lực của các di chúc được xác định như sau:
(i) Trong trường hợp người để lại di sản lập nhiều di chúc có nội dung mâu thuẫn nhau thì chỉ di
chúc sau cùng được lập hợp pháp có hiệu lực;
(ii) Nếu có nhiều tờ di chúc mà nội dung các tờ di chúc không mâu thuẫn nhau thì tất cả các di
chúc được lập hợp pháp đều có hiệu lực.
(iii) Nếu chỉ một phần di chúc trước mâu thuẫn với di chúc sau thì di chúc sau và phần di chúc trước
không bị mâu thuẫn có hiệu lực, còn phần di chúc trước bị mâu thuẫn với di chúc sau thì không có
hiệu lực
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 34
5. THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC NỘI DUNG DI CHÚC
5.1. Khái niệm thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc
Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của một số người thừa kế theo pháp luật
ở hàng thừa kế thứ nhất, Điều 644 BLDS năm 2015 quy định hạn chế quyền
tự do lập di chúc của người có tài sản bằng cách trích từ những người người
thừa kế khác để dành cho những người thừa kế không phụ thuộc nội dung di
chúc, với giá trị mỗi suất mà người thừa kế này được hưởng, bằng 2/3 suất
của người kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật. Trường hợp
đó được gọi là thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.
(i) Diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc là những người thân thích nhất thuộc hàng
thừa kế thứ nhất theo pháp luật khi đáp ứng một số điều kiện.
(ii) Thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc chỉ được áp dụng khi người thuộc diện thừa kế
không phụ thuộc nội dung di chúc bị truất quyền hưởng di sản (không được người lập di chúc cho
hưởng di sản) hoặc khi thực tế họ không được hưởng di sản hoặc được hưởng phần di sản ít hơn giá
trị của một suất thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc;
(iii) Giá trị của một suất thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc nhỏ hơn giá trị một suất thừa
kế theo pháp luật (chỉ bằng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật).
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 36
5.2. Diện thừa kế, điều kiện được hưởng thừa kế không phụ thuộc nội dung
di chúc
Diện những người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc là nhóm những
người thân thích nhất của người để lại di sản, đáng lẽ có thể được thừa kế theo
luật, nhưng đã bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản bằng cách nói rõ
trong di chúc về việc không cho họ hưởng di di sản hoặc tuy không nói rõ điều
đó trong di chúc, nhưng thực tế lại không dành cho họ được hưởng di sản thừa
kế hoặc có dành cho họ một phần di sản nhưng ít hơn hai phần ba của một suất
thừa kế theo pháp luật.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 37
Theo quy định tại khoản 1 Điều 644 BLDS năm 2015, diện thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc bao gồm những người sau đây:
- Cha, mẹ của người để lại di sản: cha, mẹ nói ở đây bao gồm cả cha mẹ
đẻ, và cha mẹ nuôi. Cha, mẹ nuôi phải là cha, mẹ nuôi hợp pháp, tuân thủ theo
các quy định liên quan về cha, mẹ nuôi và con nuôi theo quy định của pháp
luật hôn nhân – gia đình.
- Vợ hoặc chồng của người để lại di sản. Vợ chồng ở đây phải là vợ chồng
hợp pháp, tuân thủ quy định liên quan của pháp luật hôn nhân – gia đình.
+ Con chưa thành niên. Thời điểm xác định tuổi của con chưa thành niên để làm căn cứ chia thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc là thời điểm mở thừa kế.
+ Con đã thành niên phải là người không có khả năng lao động để tự nuôi sống mình, không phụ thuộc
vào việc người này có hoàn cảnh kinh tế như thế nào. Người không có khả năng lao động để tự nuôi sống
mình có thể được hiểu là cá nhân đã thành niên vào thời điểm mở thừa kế, nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các
bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình như bị các bệnh nan y (ung thư, suy thận
mạn tính...); bị bệnh nặng như bại liệt toàn thân, liệt cột sống, liệt đốt sống cổ, liệt từ hai chi trở lên, cụt mất từ
hai chi trở lên, mù mắt; bị mất sức lao động từ 81 % trở lên. Việc xác định thuộc trường hợp mất từ 81 % sức lao
động trở lên có thể cần phải có giấy y chứng của cơ sở y tế hoặc cơ quan giám định pháp y có thẩm quyền.
- Điều kiện chung: Cũng như những người thừa kế hợp pháp khác của người để lại di sản,
người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc cũng phải tuân thủ các yêu cầu
của một người thừa kế:
+ Không từ chối hưởng di sản theo Điều 620 BLDS năm 2015.
+ Không bị mất quyền hưởng di sản theo Điều 621 BLDS năm 2015.
+ Cá nhân còn sống, tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Điều kiện đặc thù: Người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc không được hưởng
di sản hoặc tuy được hưởng di sản nhưng giá trị của phần di sản thực tế được hưởng nhỏ hơn
2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 41
5.2.3. Các bước chia và việc xác định giá trị của một suất thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc
Trong trường hợp người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc bị người quá cố truất quyền
hưởng di sản hoặc sử dụng di chúc định đoạt toàn bộ di sản cho những người khác hưởng, thì cần áp dụng Điều
644 BLDS năm 2015 để bảo vệ quyền lợi cho những người này. Khi tiến hành phân chia di sản thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc, cần tiến hành lần lượt theo các bước sau đây:
Bước (3) xác định giá trị hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật.
Bước (4) Xác định những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc được hưởng di sản.
Bước (5) Trích phần di sản thừa kế của những người thừa kế khác để bù cho những người thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc.
Bước (2) Chia thừa kế phần di sản còn lại: phần di sản không định đoạt trong di chúc hoặc liên
quan đến phần di chúc vô hiệu hoặc thất hiệu được chia theo pháp luật cho những người thừa kế theo
pháp luật của người để lại di sản, nếu họ đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản. Riêng trường hợp
người bị người để lại di sản truất quyền hưởng di sản vẫn không được chia thừa kế theo pháp luật.
Bước (3) xác định giá trị hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật. Thông thường, để xác
định giá trị một suất thừa theo pháp luật, chúng ta sẽ giả sử toàn bộ di sản do người chết để lại được
chia thừa kế theo pháp luật. Lưu ý: khi tính một suất thừa kế theo pháp luật, chúng ta cần lấy toàn bộ
di sản ban đầu chia theo đầu người ở hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản, bao gồm cả người
bị truất quyền hưởng di sản. Sau đó, lấy giá trị 1 suất TKTPL đó nhân cho 2/3 thì được giá trị của một
suất thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 43
Bước (4) Xác định những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc được
hưởng di sản. Đối chiếu kết quả của bước (3) và kết quả của bước (4) với quy định tại Điều 644
BLDS năm 2015, ta thấy: Nếu những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc
thực tế không được hưởng di sản thì chia cho họ 1 suất thừa kế bằng 2/3 của 01 suất thừa kế theo
pháp luật; nếu thực tế họ đã được hưởng di sản, nhưng chưa đủ hai phần ba giá trị 1 suất TKTPL thì
chia cho họ để họ được hưởng đủ 2/3 x 01 suất thừa kế theo pháp luật. Nếu phần di sản mà họ
hưởng trên thực tế bằng hoặc lớn hơn giá trị hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật thì không
phát sinh quyền thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.
Bước (5) Trích phần di sản thừa kế của những người thừa kế khác để bù cho những người
thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc. Sau khi đã chia thừa kế không phụ thuộc nội dung di
chúc, chúng ta sẽ biết rõ người thừa kế đã thực tế nhận được bao nhiêu di sản và còn thiếu bao
nhiêu. Phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc còn thiếu sẽ được cắt giảm
từ những người thừa kế khác, theo tỷ lệ tương ứng mà mỗi người thừa kế khác được hưởng.
3/31/2019 TH.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI 44
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN, QUYỀN
SỞ HỮU VÀ THỪA KẾ
1
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
(1) Nắm và hiểu được những quy định của BLDS và luật khác có
liên quan về thừa kế theo pháp luật
(2) Phân biệt được thừa kế theo pháp luật với thừa kế theo di chúc
(3) Biết được quy định về các hàng thừa kế và thừa kế thế vị
(4) Vận dụng được các quy định trên vào thực tiễn để giải quyết
tình huống và phân chia di sản thừa kế
3
Nội dung
3. THỪA KẾ THẾ VỊ
4
1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
5
1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật
A kết hôn B
C D
Khi A chết – không để lại di chúc (cha mẹ A đã
chết trước A) – di sản của A sẽ chia cho những
người ở hàng thừa kế thứ nhất là B, C, D.
7
Phân biệt với thừa kế theo di chúc
Toàn bộ di sản được chia theo pháp luật trong các trường hợp sau:
a. Không có di chúc
✓ Người để lại di sản không lập di chúc
✓Người để lại di sản lập di chúc và đã tiêu hủy di chúc
9
b. Di chúc không hợp pháp
→ Là di chúc vi phạm các điều kiện tại khoản 1 Điều 630 BLDS:
✓Người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc, bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
✓Nội dung của di chúc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã
hội
✓ Hình thức di chúc trái quy định của luật
10
Ví dụ: Di chúc không hợp pháp → thừa kế theo pháp luật
12
d. Những người được chỉ định làm
người thừa kế theo di chúc mà không
có quyền hưởng di sản hoặc từ chối
nhận di sản.
13
Một phần di sản được chia thừa kế theo pháp luật (và
một phần vẫn chia theo di chúc) trong trường hợp:
✓ Do người lập di chúc chỉ muốn định đoạt một phần di sản
theo di chúc
✓ Do giá trị tài sản nhỏ nên người để lại di sản không định
đoạt theo di chúc…
14
Ví dụ
A kết hôn B
C D E
Năm 2017, A lập di chúc hợp pháp để lại 1/3 di sản của mình cho B, C và em
trai A là X. Năm 2018, A chết – Di sản 720 triệu của A được chia như sau:
→ Chia theo di chúc: B = C = X = 240/3 = 80 triệu đồng
→Chia theo pháp luật (hàng thừa kế thứ nhất của A):
B = C = D = E = 480/4 = 120 triệu đồng.
15
b. Phần di sản có liên quan
đến phần của di chúc không
có hiệu lực pháp luật
16
c. Phần di sản có liên quan đến người được thừa
kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng
di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan
đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di
chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế.
17
Ví dụ
A kết hôn B
C D
- Năm 2017, A lập di chúc cho C và D hưởng toàn bộ di sản của mình.
- Năm 2018, A chết và C từ chối nhận toàn bộ di sản của A.
→ Phần di sản mà C từ chối nhận sẽ được chia theo pháp luật cho
những người thừa kế ở hàng thứ nhất của A (là B và D).
18
Tình huống áp dụng
✓Phạm vi trên được xác định dựa trên ba mối quan hệ: hôn
nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
21
Quan hệ hôn nhân
Lưu ý: Quan hệ hôn nhân thực tế được thừa nhận nếu đáp ứng những
điều kiện theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị quyết
35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 về việc thi hành Luật trên.
22
Quan hệ huyết thống
+ Trực hệ: là mối quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người
kia kế tiếp nhau. Ví dụ: quan hệ giữa cụ, ông, bà, cha, mẹ đẻ và con đẻ của
người chết.
+ Bàng hệ: là mối quan hệ giữa những người thân thuộc không sinh ra nhau
nhưng cùng sinh ra từ một “gốc”. Ví dụ: Anh, chị, em ruột; bác, chú, cậu, cô,
dì ruột; cháu gọi người chết là bác, chú, cậu, cô, dì ruột, ….
23
Quan hệ nuôi dưỡng
→ Là quan hệ được xác lập trên cơ sở nuôi con nuôi hợp pháp
hoặc quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con.
24
1.3.2. Hàng thừa kế
✓Là những nhóm người trong diện thừa kế được pháp luật
quy định xếp một lượt với nhau dựa vào mức độ quan hệ gần
gũi với người để lại di sản để hưởng thừa kế di sản của người
này.
✓Theo Điều 651 BLDS 2015 quy định thì những người thừa kế
theo pháp luật được xếp theo thứ tự thành 03 hàng thừa kế.
25
2. CÁC HÀNG THỪA KẾ
26
2.1. Hàng thừa kế thứ nhất
Gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết.
27
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng
Điều 8 Luật HNGĐ 2014: Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều
kiện sau đây:
-Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định.
→ Phải đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
28
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng (tt)
- Hôn nhân thực tế: là quan hệ hôn nhân thỏa mãn các điều kiện kết hôn
theo quy định pháp luật nhưng không đăng ký kết hôn.
Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 v/v thi hành Luật HNGĐ 2000:
+ Trước 3/1/87: chưa đăng ký – khuyến khích đăng ký – công nhận là vợ chồng
+ Trừ 2 trường hợp trên, từ 1/1/2001 trở đi: không đăng ký kết hôn – không
công nhận là vợ chồng.
29
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng (tt)
Trường hợp một người có nhiều vợ trước ngày 13/01/1960 ở miền Bắc (ngày
công bố Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959) và trước ngày
25/03/1977 ở miền Nam (ngày công bố các văn bản pháp luật được áp dụng
thống nhất trong cả nước) thì tất cả các người vợ được hưởng thừa kế hàng
thứ nhất của chồng và người chồng được hưởng thừa kế hàng thứ nhất
của tất cả những người vợ.
30
Lưu ý – Đ 655 BLDS
- Vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một
người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
- Vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Toà án cho ly hôn bằng
bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì
người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
- Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết
thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.
31
Quan hệ thừa kế giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ
Cha, mẹ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của con đẻ và ngược lại.
Lưu ý:
+ Con đẻ bao gồm con trong giá thú và con ngoài giá thú.
+ Con dâu không phải là người thừa kế theo pháp luật của bố mẹ
chồng và con rể cũng không phải là người thừa kế theo pháp luật của
bố mẹ vợ.
32
Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ nuôi, con nuôi
Quan hệ thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất chỉ phát sinh
giữa cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi trên cơ sở quan hệ nuôi con
nuôi hợp pháp.
Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010: Nuôi con nuôi là việc xác
lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người
được nhận làm con nuôi. (phải đăng ký)
33
Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ nuôi, con nuôi (tt)
Người được nhận làm con nuôi: Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010
-Trẻ em dưới 16 tuổi;
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột
nhận làm con nuôi.
Điều kiện đối với người nhận con nuôi: Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010
- Có năng lực hàn h vi dân sự đầy đủ;
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên (trừ trường hợp được cha dượng, mẹ kế nhận làm
con nuôi,...)
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con nuôi;
34
Lưu ý
➢ Con nuôi vẫn được hưởng di sản thừa kế của cha đẻ, mẹ đẻ (thừa kế theo pháp
luật và thừa kế thế vị).
➢ Một người nhận nuôi con nuôi rồi mới kết hôn - con nuôi với người vợ
(chồng) mới kết hôn đó không được hưởng thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ
nhất của nhau.
➢ Quan hệ thừa kế theo pháp luật không phát sinh giữa con nuôi và con ruột của
người nhận nuôi, giữa con nuôi và cha, mẹ của người nhận nuôi.
35
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
➢ Quan hệ thừa kế theo pháp luật không phát sinh giữa con riêng với
những người có quan hệ thân thích với bố dượng, mẹ kế.
36
2.2. Hàng thừa kế thứ hai
Gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
37
Lưu ý:
➢ Con riêng của vợ và con riêng của chồng không phải là anh, chị, em
ruột của nhau – không thừa kế ở hàng thứ hai của nhau
➢ Con nuôi và con đẻ của một người không phải là anh, chị, em ruột
của nhau - không thừa kế ở hàng thứ hai của nhau
➢ Một người làm con nuôi của người khác vẫn được hưởng di sản của
anh, chị, em ruột của mình ở hàng thừa kế thứ hai và ngược lại
38
2.3. Hàng thừa kế thứ ba
Gồm:
+ Cụ nội, cụ ngoại của người chết;
+ Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết;
+ Cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột;
+ Chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
39
Lưu ý chung
✓ Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau
✓Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng
di sản hoặc từ chối nhận di sản
✓ Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước – Đ 622
BLDS 2015
40
Tình huống áp dụng
41
Giải quyết tình huống
43
3.1. Khái niệm thừa kế thế vị
→ Là trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết
trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
44
Ví dụ:
A+B
C+H D
A+B
C+H D
K+X
Y Y (chắt của A) – thế vị K
46
3.2. Một số lưu ý
✓ Thừa kế thế vị chỉ áp dụng đối với trường hợp thừa kế theo pháp
luật, không áp dụng trong trường hợp thừa kế theo di chúc.
✓ Tất cả những người thừa kế thế vị sẽ được hưởng chung nhau phần
di sản lẽ ra cha, mẹ hoặc ông, bà chúng được hưởng.
✓ Người thừa kế thế vị chỉ có thể được hưởng di sản nếu cha, mẹ hoặc
ông, bà của họ được quyền hưởng di sản.
47
3.2. Một số lưu ý (tt)
✓ Con đẻ của con nuôi được thừa kế thế vị nhưng con nuôi của một
người không được thừa kế thế vị tài sản của cha, mẹ đẻ của người đó
(con nuôi của con đẻ không được thừa kế thế vị)
Ví dụ:
+ A nuôi B, B sinh ra C thì C được thừa kế thế vị cho B để hưởng di sản
của A.
+ A sinh ra B, B nuôi C thì C không được thừa kế thế vị di sản của A.
48
3.3. Tình huống áp dụng 1
X=Y
Hãy chia thừa kế di sản của A?
49
Giải quyết tình huống 1
-Di sản của A được chia theo pháp luật (do không có
di chúc)
- Người thừa kế là D, E, (X + Y) thế vị cho C vì C
C+H D E chết trước A, B đã chết trước A.
→D = E = (X + Y) = 1,2 tỷ/3 = 400 triệu đồng
X=Y
Hãy chia thừa kế di sản của A?
51
Giải quyết tình huống 2
-Di sản của A được chia theo pháp luật (do không có
di chúc)
- Người thừa kế là B, D, E, (X + Y) thế vị cho C vì C
chết trước A.
C+H D E
→B = D = E = (X + Y) = 1,2 tỷ/4 = 300 triệu đồng
Kết luận:
X=Y B = 300 triệu đồng
D = 300 triệu đồng
E = 300 triệu đồng
53
Giải quyết tình huống 2
Nếu A chết có để lại di chúc thì việc phân chia di sản
của A như sau:
-Chia theo di chúc: B, D, E, C = 1,2 tỷ/4 = 300
-Phần di sản của C theo di chúc (do C chết trước A)
C+H D E
sẽ không có hiệu lực và được chia theo pháp luật cho
những người thừa kế của A là: B, D, E, (X + Y) thế vị
X=Y C = 300/4.
- Lưu ý: Nếu A có di chúc thì không áp dụng thừa kế
thế vị.
54
Lưu ý: Phân biệt với thừa kế chuyển tiếp
55
Lưu ý: Phân biệt với thừa kế chuyển tiếp
✓ Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và
trình tự do pháp luật quy định
✓ Có 3 hàng thừa kế được phân chia dựa theo mức độ thân thích gần
gũi với người để lại di sản.
✓ Với thừa kế theo pháp luật thì đặt ra vấn đề thừa kế thế vị
✓ Lưu ý các trường hợp áp dụng thừa kế thế vị và phân biệt với thừa
kế chuyển tiếp.
57
Chương 8.
❑Theo Điều 614 BLDS năm 2015, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có
quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Như vậy, kể từ thời điểm mở thừa
kế, bất kỳ lúc nào, những người có liên quan đến thừa kế di sản (những người
thừa kế, người quản lý di sản) đều có thể thông báo cho những người thừa kế biết
về thời điểm mở thừa kế. Những người thừa kế có quyền thỏa thuận với nhau về
thời điểm họp mặt những người thừa kế.
❑Những người thừa kế có thể thỏa thuận về địa điểm phân chia di sản. Nếu
những người thừa kế không thỏa thuận được thì địa điểm họp mặt sẽ là nơi mở
thừa kế theo quy định tại khoản 2 Điều 611 BLDS năm 2015.
1.1.2. Nội dung, hình thức của thỏa thuận tại cuộc họp mặt những người
thừa kế
- Các nội dung quan trọng cần thống nhất của những người thừa kế có thể là:
+ Nếu di sản chưa được phân chia ngay thì những người thừa kế cần cử người quản lý
di sản, xác định quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản, nếu trong di chúc người
để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản;
+ Cử người phân chia di sản, xác định quyền và nghĩa vụ của người phân chia di sản,
nếu người này không được chỉ định trong di chúc;
+ Xác định di sản và các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại;
+ Xác định người có quyền, nghĩa vụ công bố di chúc và các nội dung cần phải công
bố, nếu di chúc không đề cập tới những vấn đề này, trừ trường hợp Bộ luật dân sự,
Luật Công chứng có quy định khác;
Khi họp mặt những người thừa kế thì những người thừa kế, người quản lý di sản, người được
chỉ định phân chia di sản phải cùng nhau tiến hành thống kê di sản. Mục đích của việc thống
kê di sản là nhằm xác định đúng đắn về số lượng, chủng loại, giá trị và hiện trạng di sản. Khi
thống kê, những người thừa kế cần lập biên bản ghi nhận nội dung của việc thống kê di sản
đó. Biên bản thống kê di sản cần được ghi chép rõ ràng, cụ thể về các nội dung như:
- Số lượng, chủng loại, tình trạng, giá trị di sản; người đang quản lý, sử dụng di sản; các giấy
tờ chứng minh, nếu có;
- Chủ nợ của người để lại di sản, giá trị các khoản nợ (để thanh toán nợ từ di sản trước khi di
sản được phân chia); và
- Những người đang thiếu nợ người chết, giá trị các khoản nợ đó...
1.2.1. Thống kê di sản
Trong trường hợp người đang trực tiếp quản lý di sản tùy tiện
định đoạt, hoặc khai thác, sử dụng làm mất mát, giảm sút giá trị
di sản thì căn cứ vào biên bản thống kê di sản để yêu cầu bồi
thường.
Về nguyên tắc, mọi tài sản hợp pháp do người chết để lại
đều có thể là di sản để chia thừa kế, trừ những tài sản gắn
liền với nhân thân hoặc các tài sản không được chuyển giao
qua giao dịch, thừa kế. Tuy nhiên, trong số những tài sản có
thể chuyển giao được thông qua việc thừa kế, có một số
loại tài sản liên quan đến các quy định riêng của pháp luật
chuyên ngành, nên cần được xác định rõ về tình trạng, số
lượng, giá trị, điều kiện được hưởng… để có thể đưa vào
khối di sản của người chết có thể phân chia thừa kế.
Có thể kể đến một số loại tài sản sau:
❖ Tiền gửi tiết kiệm hoặc các khoản tiền khác trong các tài khoản tại
ngân hàng.
❖ Tài sản hình thành trong tương lai, nhà ở hình thành trong tương lai
xác định theo quy định của pháp luật về nhà ở, pháp luật khác có liên quan.
❖ Tài sản được hưởng thừa kế có điều kiện: như suất nhà ở tái định, nhà
ở được mua “hóa giá” từ tài sản của Nhà nước nhưng chưa thanh toán
xong tiền mua, nhà ở được thuê mua chưa trả đủ tiền theo thời hạn thanh
toán luật định…
❖ Đối với quyền sử dụng đất mà người chết được hưởng hợp pháp,
nhưng chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận thì tiếp tục thực hiện theo các
quy định liên quan của Luật Đất đai.
2. Thứ tự ưu tiên thanh toán
7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
9. Tiền phạt.
Thứ nhất là “chi phí cho việc bảo quản di sản” đã được chuyển
lên ưu tiên thứ 3, còn trong BLDS năm 2005 là ưu tiên thứ 9. Nếu
không có các khoản chi phí cho việc bảo quản, duy trì, bảo vệ toàn vẹn
cho di sản theo thời gian thì không thể còn di sản để chia thừa kế và
thanh toán các khoản khác.
Thứ hai là “tiền phạt” trong BLDS năm 2005 quy định ở vị trí
ưu tiên thứ 7, nhưng BLDS năm 2015 đã chuyển xuống gần cuối là ưu
tiên thứ 9. Bởi vì đây là một chế tài áp dụng cho chủ thể có hành vi vi
phạm hợp đồng, nên cần phải ưu tiên trả các khoản nợ khác trước rồi
mới chi trả cho tiền phạt sau thì mới thỏa đáng.
3. Phân chia di sản theo di chúc
Nếu người chết có để lại di chúc hợp pháp, thì người quản lý
di sản và chia di sản sẽ căn cứ vào nội dung của phần di chúc có
hiệu lực để chia di sản. Nếu có nhiều di chúc, thì chỉ những di
chúc được xác định có hiệu lực mới là căn cứ để phân chia di
sản. Nếu nhiều di chúc không mâu thuẫn nhau đều hợp pháp, thì
tất cả các di chúc đều có hiệu lực và đều được thi hành.
Khi chia di sản theo di chúc, cần xác định phần di sản dùng
vào việc thờ cúng, phần di tặng, phần di sản của từng người
được di chúc chỉ định, để chia cho từng người thừa kế bằng hiện
vật hay theo tỷ lệ.
- Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để
lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người
thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định
trong di chúc, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
- Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật
thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu
được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị
giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu
huỷ do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
- Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo
tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được
tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm
phân chia di sản.
- Ví dụ:
A di chúc cho B và C mỗi người hưởng ½ giá trị căn
nhà của mình.
→ Khi A chết sẽ chia theo di chúc trong đó B,C hưởng
½ giá trị căn nhà.
• Bài tập tình huống:
Ông A và bà B là hai vợ chồng, họ có ba người
con là anh C, D và anh E (đã thành niên). Tài sản chung
làm ra ông đã làm hợp đồng tặng cho hết cho B. Chỉ còn
căn nhà là tài sản riêng, ông đã lập di chúc định đoạt
cho C hưởng ½ căn nhà, còn lại chia đều cho D và E.
Ngày 01/10/2016 ông A chết. Anh (chị) hãy chia thừa kế
trong các trường hợp trên biết rằng: trị giá căn nhà lúc
này là 1.200.000.000 đồng, di chúc hợp pháp.
• Hướng giải quyết:
- Di chúc hợp pháp nên chia thừa kế theo di chúc.
- C được ½ của 1.200.000.000=600.000.000
- D và E mỗi người một phần bằng nhau của phần còn lại là:
600.000.000:2= 300.000.000.
- Nhưng có B là người hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc
nên phải tính kỷ phần bắt buộc là: 1.200.000.000:4= 300.000.000.
- 2/3 của 300.000.000 = 200.000.000.
- Vì vậy B được ít nhất bằng 200.000.000
- Phần này lấy từ C,D,E theo tỷ lệ % (C=100.000.000: D=E
=100.000.000)
4. Phân chia di sản theo pháp luật
- Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng
đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một
phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được
hưởng.
- Để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được
hưởng.
- Nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế
khác được hưởng.
• Bài tập tình huống:
Ông A và bà B là hai vợ chồng, họ có hai người con
là anh C,D. Ngày 01/10/2015 ông A chết do tai nạn giao
thông. Lúc này B đang mang thai 3 tháng. Anh (chị) hãy
chia thừa kế trong các trường hợp trên biết rằng:
- Tài sản chung của A,B là 240 triệu đồng.
- Bố mẹ của A đều đã chết.
• Hướng giải quyết.
- Thời điểm mở thừa kế là lúc A ngày 01/10/2015.
- Vì không có di chúc nên chia thừa kế theo pháp luật.
- Di sản của A là 240:2=120 triệu đồng.
- Hàng thừa kế thứ nhất của A là B, C, D.
- Nhưng B đang mang thai nên phải để một suất để thai
nhi sinh ra còn sống sẽ hưởng.
- 120:4=30=B=C=D và một phần cho thai nhi.
- Nếu 6 tháng sau B sinh ra E còn sống thì E sẽ được
hưởng.
• Tiếp.
- Nếu E chết trước khi sinh ra thì phần của E sẽ chia đều
cho B, C, D.
- Nếu E sinh ra 10 tiếng sau chết thì giải quyết như thế
nào?
- Phần của E sẽ được B là mẹ được thừa kế.
- Tuy nhiên E phải được làm thủ tục khai sinh.
- Sau đó làm thủ tục khai tử.
Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân
chia di sản bằng:
hiện vật;
nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những
người thừa kế có thể thoả thuận về việc định giá
hiện vật và thoả thuận về người nhận hiện vật;