Professional Documents
Culture Documents
07 Di Truyen Quan The Thầy Hòa
07 Di Truyen Quan The Thầy Hòa
DÀN BÀI
I. Mở đầu
II. Định luật Hardy-Weinberg
1. Định luật Hardy-Weinberg
2. Cơ chế định luật trên bệnh lặn NST thường
3. Cơ chế định luật trên bệnh liên kết NST giới tính X
III. Những yếu tố ảnh hưởng lên cân bằng Hardy-Weinberg
1. Trường hợp ngoại lệ cho quần thể lớn có giao phối
ngẫu nhiên
2. Những ngoại lệ cho trường hợp các tần số alen liên tục
MỤC TIÊU
Học xong phần này sinh viên sẽ có khả năng:
- Hiểu được các khái niệm về di truyền học quần thể
- Phát biểu được định luật Hardy-Weinberg
- Liệt kê các giả định của luật Hardy-Weinberg
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến cân bằng Hardy-
Weinberg
I. MỞ ĐẦU
Di truyền học quần thể là chương học đánh giá về sự phân bố các
biến đổi di truyền xảy ra trong dân số, tần số gien và kiểu gien
được duy trì hoặc thay đổi. Di truyền học quần thể liên quan đến
hai yếu tố: yếu tố di truyền (như đột biến và sinh sản) với các
yếu tố môi trường và xã hội (như sự chọn lọc và di cư). Các yếu
tố này được sử dụng cùng nhau để xác định tần số và sự phân bố
của các alen và kiểu gien trong gia đình và cộng đồng.
Toán học mô tả về hoạt động của các gien trong quần thể là một
yếu tố quan trọng của nhiều ngành học gồm cả nhân chủng học,
sinh học tiến hóa và di truyền học người. Hiện nay, các nhà di
truyền học người đang sử dụng các qui luật và phương pháp di
truyền học quần thể để giải quyết rất nhiều câu hỏi chưa được trả
lời có liên quan đến lịch sử và cấu trúc di truyền của quần thể
người, sự di truyền của các gien giữa các quần thể và giữa các
thế hệ, sử dụng các phương pháp tối ưu để xác định sự biến đổi
di truyền với những bệnh phổ biến. Trong di truyền y học thực
hành, di truyền quần thể cung cấp những kiến thức về các bệnh
di truyền phổ biến trong dân số, những thông tin cần thiết để
chẩn đoán lâm sàng và tư vấn di truyền, bao gồm việc xác định
tần số các alen cần thiết để dự đoán chính xác những con số
nguy cơ dẫn đến bệnh.
Trong bài này, chúng ta xem xét các khái niệm về di truyền
học quần thể, cân bằng Hardy-Weinberg, xem xét các giả
định của cân bằng Hardy-Weinberg và các yếu tố có thể gây
ra kết quả sai lệch hoặc những sai lệch từ sự cân bằng trong
thực tế khi so sánh với quần thể lý tưởng.
Tần số
Số lượng kiểu gien
người liên quan Tần số
nghiên được alen
Kiểu gien cứu quan sát Allen thu được
CCR5/CCR5 647 0.821
CCR5/ΔCCR5 134 0.168 CCR5 0.906
ΔCCR5/ΔCCR5 7 0.011 ΔCCR5 0.094
Tổng 788 1.000
Bảng 1: Tần số kiểu gien của alen CCR5 bình thường và alen
ΔCCR5 bị mất đoạn
(Martinson JJ, Chapman NH, Rees DC et al. Global distribution of the
CCR5 gene 32-basepair deletion. Nat Gienet 16:100-103, 1997).
Khi quan sát tần số các kiểu gien, có thể xác định trực tiếp tần số
alen bằng cách đếm số lượng alen. Theo đó, sự xuất hiện tần số
của một alen trong dân số, được quan tâm đến như là một bộ
gien (gene pool) lý thuyết (một bộ sưu tập của tất cả các alen tại
một locus cụ thể cho toàn dân số). Đối với các locus trên NST
thường, độ lớn của bộ gien tại một locus gấp hai lần số lượng
của từng cá thể trong dân số vì mỗi kiểu gien NST thường bao
gồm hai alen, có nghĩa là, một cá thể ΔCCR5/ΔCCR5 có hai alen
ΔCCR5 và một cá thể CCR5/ΔCCR5 có chứa hai alen khác
nhau. Ví dụ, tần số quan sát của alen CCR5 là:
Tương tự như vậy, người ta có thể tính toán tần số của alen ΔCCR5
là 0,094, cũng bằng cách này có thể tính một cách trực tiếp các alen
ΔCCR5 [(2 × 7) + (1 × 134) = 148 alen trong tổng số 1576 alen]
hoặc đơn giản chỉ bằng cách lấy 1 trừ đi tần số của alen CCR5 bình
thường là 0,906, vì tần số của hai alen cần phải đảm bảo bằng 1.
1. Định luật Hardy-Weinberg
Như chúng ta đã xem ví dụ ở gien thụ thể cytokine CCR5, có thể
sử dụng một mẫu của những cá thể với những kiểu gien đã được
biết trong một dân số để đưa ra kết quả dự đoán tần số các alen
bằng cách đếm số alen trong mỗi cá thể với mỗi kiểu gien. Kết
quả sẽ được chuyển đổi như thế nào? Chúng ta có thể tính toán
tỷ lệ dân số mang các kiểu gien khác nhau khi chúng ta biết được
tần số alen không? Tần số kiểu gien thu được từ tần số alen
không đơn giản như cách chúng ta đếm bởi vì chúng ta thực sự
không biết trước được những alen này sẽ phân bố ở dạng đồng
hợp tử hay dị hợp tử như thế nào.
Tuy nhiên, với một dân số lý thuyết, có một mối tương quan toán
học đơn giản được biết đến là định luật Hardy-Weinberg dùng để
tính toán tần số kiểu gien từ tần số alen. Định luật này được xem
như là nền tảng của di truyền học quần thể, được đặt theo tên của
Geoffrey Hardy, một nhà toán học người Anh và Wilhelm
Weinberg, một bác sĩ người Đức đã xây dựng định luật độc lập
với nhau vào năm 1908.
Định luật Hardy-Weinberg dựa trên những giả định sau đây:
- Quần thể lớn và giao phối ngẫu nhiên.
- Tần số alen không thay đổi theo thời gian bởi vì:
Không có xuất hiện đột biến.
Mỗi cá thể với tất cả các kiểu gien đều có khả năng
giao phối và truyền lại gien của chúng như nhau, nghĩa
là ở đây không có sự chọn lọc đối với bất kỳ kiểu gien
đặc biệt nào.
Không có sự di trú có ý nghĩa của những cá thể từ một
quần thể mang tần số các alen rất khác với dân số
đích.
Định luật Hardy-Weinberg có hai thành phần quan trọng.
- Đầu tiên là một số điều kiện giả định, một mối quan hệ
đơn giản tồn tại giữa tần số alen và tần số kiểu gien trong
một quần thể. Giả sử p là tần số alen A và q là tần số alen
a trong bộ gien (gene pool) và các alen kết hợp lại với
nhau để tạo ra những kiểu gien một cách ngẫu nhiên, đó là
quá trình giao phối diễn ra trong quần thể hoàn toàn ngẫu
nhiên với các kiểu gien quan tâm ở tại locus này. Khả
năng cho hai alen A sẽ bắt cặp để tạo thành kiểu gien AA
là p2; tương tự khả năng cho hai alen a bắt cặp để tạo ra
kiểu gien aa là q2; và cơ hội cho một alen A và một alen a
bắt cặp để tạo ra kiểu gien Aa là 2pq (yếu tố thứ 2 xuất
phát từ thực tế là các alen A có thể được thừa hưởng từ
người mẹ và alen a từ người cha hoặc ngược lại).
2. Những ngoại lệ cho trường hợp các tần số alen liên tục
2.1. Di truyền Drift trong quần thể nhỏ
Có những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tần số alen của một dân
số nhỏ so với ở một dân số lớn. Nếu quần thể nhỏ, tác động ngẫu
nhiên, như là việc gia tăng khả năng sinh sản hoặc sự tồn tại của
những cá thể mang một đột biến, việc xảy ra không liên quan
đến alen đột biến (mà sẽ được chọn lựa, không phải là một sự
kiện ngẫu nhiên), có thể làm tần số các alen thay đổi ở thế hệ kế
tiếp. Ở một quần thể lớn, cũng như việc tác động ngẫu nhiên sẽ
được tính ra trung bình, nhưng ở một dân số nhỏ, tần số alen sẽ
bị biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi những thay đổi.
Hiện tượng này, được gọi là di truyền Drift, dùng để giải thích
làm thế nào tần số alen có thể thay đổi là kết quả của những thay
đổi xảy ra tại bộ gien ở một quần thể nhỏ.
2.2. Đột biến và chọn lọc
Ngược lại với việc giao phối chọn lọc có thể làm xáo trộn tần số
tương quan của các kiểu gien khác nhau theo dự đoán của cân
bằng Hardy-Weinberg, sự thay đổi trong tần số alen do chọn lọc
hoặc đột biến thường xảy ra một cách từ từ, theo từng bước nhỏ
và gây ra độ lệch ít hơn khi sử dụng cân bằng Hardy-Weinberg
(ít nhất là đúng cho những trường hợp bệnh lặn). Tỉ lệ đột biến
thường thấp hơn tần số của các bệnh dị hợp tử lặn trên NST
thường và thường những đột biến mới có ít ảnh hưởng trong thời
gian ngắn lên tần số alen ở các bệnh này. Ngoài ra, gần như
những alen lặn bị mất đi sẽ nằm ẩn đâu đó trong gien dị hợp tử
và không phải là mục tiêu để chọn lọc.
Kết quả là sự chọn lọc không có tác động lớn trong thời gian
ngắn lên tần số của các alen lặn này. Vì vậy, cân bằng Hardy-
Weinberg có thể áp dụng ngay cho các alen gây ra những bệnh
lặn nghiêm trọng trên NST thường. Tuy nhiên, đối với bệnh trội
hoặc liên kết NST X, sự chọn lọc và đột biến sẽ làm xáo trộn tần
số alen được dự đoán theo cân bằng Hardy-Weinberg do làm
giảm hoặc tăng đáng kể số kiểu gien.
Cơ sở phân tử cho sự đột biến rất được quan tâm. Ở đây chúng ta
xem khái niệm về giá trị phù hợp (fitness), yếu tố chính để xác
định một đột biến là việc mất đi một cách đột ngột, dần trở nên
ổn định trong quần thể hoặc thậm chí trở thành các alen trội tại
các locus có liên quan. Tần số của một alen trong quần thể đại
diện cho sự cân bằng giữa tốc độ những alen đột biến xuất hiện
thông qua sự đột biến và tác động của việc chọn lọc. Nếu một
trong hai yếu tố đột biến hoặc hiệu quả chọn lọc thay đổi, tần số
alen dự kiến cũng sẽ thay đổi theo.
Mặc dù một alen được truyền cho thế hệ kế tiếp phụ thuộc vào
giá trị phù hợp (f) của nó, mà được sử dụng để đánh giá số con
cháu của những người mang bệnh sống sót đến tuổi sinh sản, so
với nhóm chứng phù hợp. Nếu một alen đột biến có khả năng là
alen bình thường hiện diện trong thế hệ kế tiếp, giá trị f bằng 1.
Nếu alen đột biến gây chết hoặc vô sinh, việc chọn lọc sẽ chống
lại nó hoàn toàn và giá trị f bằng 0.
Một thông số liên quan là hệ số chọn lọc, s là cách đánh giá sự
mất đi giá trị phù hợp và được định nghĩa là 1 - f, nghĩa là tỷ lệ
các alen đột biến không truyền lại cho thế hệ sau và bị mất đi do
tác động của việc chọn lọc. Về mặt di truyền, một đột biến xuất
hiện làm mất khả năng sinh sản của một cá thể trưởng thành
cũng như việc gây chết hoặc là nguyên nhân gây sẩy thai sớm
đều không có khả năng truyền cho thế hệ sau. Giá trị phù hợp có
nghĩa là như vậy, là kết quả của của sự sống còn và khả năng
sinh sản. Về mặt sinh học, giá trị phù hợp không mang ý nghĩa gì
cho trường hợp du nhập gien ngoại lai ngoại trừ một kết quả
được đảm bảo: đó là khả năng đóng góp vào vốn gien ở thế hệ
tiếp theo.
2.3. Chọn lọc bệnh lặn
Việc chọn lọc chống lại các đột biến lặn có hại ít tác động lên tần
số dân số của các alen đột biến hơn là việc chọn lọc chống lại
các đột biến trội bởi vì chỉ có một tỷ lệ nhỏ các gien xuất hiện ở
dạng đồng hợp tử và do đó có hiệu quả với áp lực chọn lọc.
Ngay cả khi xảy ra việc chọn lọc hoàn toàn chống lại thể đồng
hợp tử (f = 0), như trong nhiều trường hợp bệnh lặn gây chết trên
NST thường, chắc chắn sẽ mất nhiều thế hệ để làm giảm tần số
gien vì hầu hết các alen đột biến ở dạng dị hợp tử với giá trị phù
hợp bình thường.
Ví dụ, tần số alen đột biến gây bệnh phenylketon niệu (PKU), q:
là khoảng 1% dân số da trắng. Hai phần trăm dân số (2 × p × q)
là dị hợp tử, mang một alen đột biến, trong khi chỉ có 1 cá nhân
trong 10.000 (q2) là đồng hợp tử mang hai alen đột biến. Tỷ lệ
của những alen đột biến được cho bởi:
Như vậy, chỉ khoảng 1% tất cả các alen đột biến trong dân số
nằm ở dạng đồng hợp tử mang mầm bệnh và được tiếp xúc để
chọn lọc nếu chế độ ăn uống điều trị không phù hợp. Loại bỏ
việc chọn lọc chống lại một bệnh lặn NST thường như bệnh
PKU do những điều trị thành công về mặt y học sẽ chỉ là làm
chậm tác động lên việc gia tăng tần số gien qua nhiều thế hệ. Vì
vậy, nếu có sự giao phối ngẫu nhiên, có thể sử dụng cân bằng
Hardy-Weinberg cho các kiểu gien ở bệnh lặn trên NST thường,
mặc dù việc chọn lọc chống lại thể đồng hợp tử đối với alen lặn.
Các mối tương quan toán học giữa kiểu gien và tần số alen theo
luật Hardy-Weinberg đảm bảo hầu hết các yêu cầu thực tế ở các
bệnh lặn.
2.4. Chọn lọc bệnh trội
Những alen đột biến trội được biểu hiện trực tiếp với việc chọn
lọc, ngược lại với những đột biến trên alen lặn, hầu hết nằm "ẩn"
ở dạng dị hợp tử. Do đó, tác động của việc chọn lọc và đột biến
sẽ rõ ràng hơn và dễ dàng đánh giá hơn do các đặc điểm nổi trội.
Alen trội gây chết mang tính di truyền được biểu hiện để chọn
lọc ở thể dị hợp tử, có thể loại bỏ tất cả các alen gây bệnh ở một
thế hệ. Một số bệnh nhân mang những đặc điểm bệnh NST
thường chiếm ưu thế với giá trị phù hợp bằng không hoặc gần
không và tạo ra kết quả mới nhiều hơn là từ các đột biến trên
NST thường chi phối (Bảng 4).
Trong một số trường hợp, các gien và các alen đột biến cụ thể
được biết đến và các kết quả nghiên cứu gia đình cho thấy đột
biến mới xảy ra trên cá thể mang bệnh không được thừa hưởng
từ cha mẹ. Trong các điều kiện khác, các gien không được biết,
chịu sự tác động về tuổi tác từ người cha đã được xem xét cho
thấy một đột biến mới ở tế bào dòng tinh người cha là nguyên
nhân dẫn đến bệnh. Ứng dụng để tư vấn di truyền cho cha mẹ
của một đứa trẻ với bệnh do NST thường chi phối, trường hợp
bệnh di truyền gây chết có nguy cơ phát sinh thấp vì cần phải có
điều kiện cho một đột biến độc lập khác phát sinh.
µ = sq
Khi một bệnh di truyền làm hạn chế khả năng sinh sản nghiêm
trọng đến nỗi làm cho giá trị phù hợp bằng không (s = 1), được
xem như là một bệnh nguy hiểm gây chết mang tính di truyền.
Đối với một rối loạn gây chết mang tính di truyền trội, mỗi alen
trong quần thể phải có một đột biến mới vì không ai được thừa
hưởng từ cha mẹ. Trong trường hợp bệnh không phát triển sụn
(achondroplasia), giá trị phù hợp của người bệnh không phải
bằng không nhưng chỉ có khoảng 1/5 số trẻ em cũng như những
người có tầm vóc bình thường trong dân số. Vì vậy, giá trị phù
hợp trung bình f là 0,20 và hệ số chọn lọc s là 0,80. Trong các
thế hệ tiếp theo, chỉ có 20% số alen achondroplasia hiện diện
được truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Bởi vì tần số bệnh
achondroplasia không giảm nên những đột biến mới thay thế cho
80% các gien bị đột biến trong dân số bị mất đi do quá trình
chọn lọc.
2.6. Đột biến và cân bằng chọn lọc trong các đột biến
lặn liên kết NST X
Đối với những kiểu hình liên kết NST X, y học quan tâm đến là
những trường hợp xảy ra ở thể lặn, hoặc gần như thế, việc chọn
lọc xảy ra ở NST giới tính nam và không xảy ra ở thể dị hợp tử
nữ, trừ một phần nhỏ phụ nữ mang thể dị hợp tử với giá trị phù
hợp thấp. Chúng ta giả định rằng phụ nữ ở thể dị hợp tử có sức
khỏe bình thường. Bởi vì nam giới chỉ có một nhiễm sắc thể X
và ở nữ có hai, bộ gien của các alen liên kết X trong toàn bộ bộ
gien của dân số sẽ được phân chia, với một phần ba số alen đột
biến hiện diện ở nam giới và hai phần ba ở nữ. Như chúng ta đã
xem trong trường hợp đột biến trội xảy ra trên NST thường, các
alen đột biến bị mất đi thông qua việc chọn lọc phải được thay
thế bởi những đột biến mới xảy ra thường xuyên để duy trì tỷ lệ
mắc bệnh được quan sát. Nếu tỷ lệ mắc một căn bệnh liên kết X
nguy hại là không thay đổi và việc chọn lọc đang có hoạt động
chống lại, NST giới tính ở nam giới, tỷ lệ đột biến, μ, phải bằng
hệ số lựa chọn, s, thời gian q, tần số alen, chỉ 1/3 việc chọn lọc
hoạt động diễn ra trên một phần ba các alen đột biến trong dân
số, có nghĩa là, chỉ hiện diện ở nam giới. Vì vậy:
µ = sq/3
Đối với một bệnh di truyền gây chết người liên kết X, s = 1 và
1/3 tất cả các bản sao của gien đột biến mang mầm bệnh bị mất
đi từ mỗi thế hệ. Vì vậy, 1/3 những người mang bệnh gây chết
người liên kết X được cho là có mang một đột biến mới và các
bà mẹ của họ bình thường về mặt di truyền có nguy cơ truyền
bệnh thấp nếu có con với người bị cùng loại bệnh. Trong những
loại bệnh ít nghiêm trọng như bệnh hemophilia A, tỷ lệ những
người bệnh mang các đột biến mới ít hơn 1/3 (hiện nay khoảng
15%). Do việc điều trị bệnh hemophilia được cải thiện rất tốt,
tổng tần số các alen đột biến được dự đoán sẽ tăng tương đối
nhanh và đạt một trạng thái cân bằng mới, như trong trường hợp
các bệnh do NST thường chi phối. Giả sử tỷ lệ đột biến tại locus
này vẫn như nhau, tỷ lệ người bệnh hemophilia do một đột biến
mới này sẽ giảm, mặc dù tỷ lệ mắc bệnh tăng lên. Như một sự
thay đổi có ý nghĩa quan trọng để tư vấn di truyền cho những
bệnh này.
2.7. Di cư và dòng chảy gien (gene flow)
Di cư có thể thay đổi tần số alen bởi quá trình gene flow, được
định nghĩa như là sự khuếch tán chậm của các gien qua một hàng
rào cản. Dòng chảy gien thường liên quan đến dân số lớn và làm
thay đổi dần tần số gien. Các gien của quần thể di cư với đặc tính
tần số alen riêng biệt của chúng dần sáp nhập vào hệ gien của
dân số mà họ đã di chuyển đến. (Thuật ngữ di cư được sử dụng ở
đây theo nghĩa rộng là vượt qua một hàng rào sinh sản, có thể là
chủng tộc, sắc tộc, văn hóa và không nhất thiết phải về địa lý và
yêu cầu chuyển đổi vật lý từ vùng này sang vùng khác).
Tần số alen bị mất 32 cặp base của gien thụ thể cytokine CCR5,
ΔCCR5, đã được nghiên cứu trong nhiều quần thể trên toàn thế
giới. Tần số alen ΔCCR5 là cao nhất, khoảng 10%, ở Tây Âu và
Nga và khoảng vài phần trăm ở Trung Đông và ở Ấn Độ. Alen
ΔCCR5 gần như không thấy xuất hiện ở châu Phi và vùng Viễn
Đông, cho rằng đột biến này có nguồn gốc từ người da trắng và
phát tán theo hướng đông của dân số (Hình 11).
Một ví dụ khác của gene flow giữa các nhóm dân cư được phản
ánh trong tần số các alen đột biến đặc biệt gây bệnh PKU. Có
bằng chứng rõ ràng rằng các đột biến thường gặp nhất xuất xứ từ
Celtic. Những đột biến tương tự bây giờ cũng phát triển trong
nhiều nhóm dân cư trên khắp thế giới. Sự hiện diện của các alen
PKU giống nhau trong những quần thể khác nhau phản ánh sự di
chuyển địa lý của người Celtic.
Vì vậy, tần số bệnh PKU là khoảng 1/4500 tại Ireland, nhưng
bệnh này dần dần ít phổ biến trên khắp miền bắc và miền nam
châu Âu. Hiện có rất ít gene flow ở khu vực Đông Á, tỉ lệ mắc
bệnh PKU tại Nhật Bản chỉ khoảng 1/109.000.