Professional Documents
Culture Documents
Văn MB KB
Văn MB KB
Mở bài:
Có một nhà thơ ao ước được làm “Mây ở đầu ô – Mây lang thang” và được làm “Một chiếc linh
hồn nhỏ - đi về chân núi xanh”. Người yêu thơ mệnh danh nhà thơ ấy là thi sĩ tài hoa của sứ Đoài mây
trắng, là cha đẻ của “Đôi mắt người Sơn Tây”. Suốt cuộc đời cầm bút, ông đã dành rất nhiều trang viết đẹp
nhất đời mình để ngợi ca sắc xanh áo lính. Ông chính là nhà thơ Quang Dũng (người từng là Đại đội trưởng
của binh đoàn Tây Tiến) - người đã đi qua cuộc chiến và còn để lại bản giao hưởng kết tinh từ nỗi nhớ người
lính. Thi phẩm Tây Tiến - hành khúc bất tử của một thời hoa lửa. Để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người
đọc là...
Kết bài:
Đọc Tây Tiến, cái tay cảm nhận được không chỉ là vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh bi tráng của
người lính Tây Tiến mà còn toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây. Tất cả hiện lên thật
rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, nỗi nhớ thương chưa khi nào nguôi ngoai. Có thể nói, với Tây
Tiến, Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài bất hủ về người lính trong kháng chiến chống
Pháp. Khói lửa chiến tranh đã qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã bước sang trang mới, nhiều người thuộc đoàn
quân Tây Tiến năm xưa giờ đây đã trở thành thiên cổ, trong đó có cả nhà thơ Quang Dũng hào hoa... Đúng
như những vần thơ Giang Nam từng viết:
“ Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông. ”
Kết bài:
Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương,
đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki
từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” và phải
chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy con đường riêng của mình khi tiến đến Đất Nước, để rồi Đất Nước
hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới
của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là
học tập mà còn giữ gìn truyền thống, giữ gìn đất nước và góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Kết bài:
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở
vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” khi sân ga, bến
nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy
ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu:
“ Khi ta còn trẻ, thơ là người mẹ
Ta lớn lên rồi, thơ là người bạn, người yêu
Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái
Lúc chết đi rồi, kỉ niệm hoá lưu thơ ”
Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con
người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của
tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà.
6. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân) ★
Mở bài:
Trong bài thơ “Vang bóng” trích từ tập thơ “Thương nhớ tài hoa”, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã
dành những lời thơ đẹp ca ngợi nhà văn ấy và dòng sông ấy:
Lại hình dung một thế kỷ không xa
Thủy điện nuốt tươi sức phóng túng sông Đà
Đà gửi thần linh vào tùy bút
Văn như thuyền độc mộc
Thác thăng hoa
Người yêu văn mệnh danh nhà văn ấy là “cây độc huyền cầm” của văn học Việt Nam, là chuyên viên cao
cấp của tiếng Việt. Ông cũng chính là người thợ kim hoàn của chữ, là người đã đóng dấu cái tôi độc tấu (vừa
tài hoa vừa uyên bác) lên thể loại tùy bút. Nhắc đến ông là nhắc đến một vùng trời xôn xao những thanh âm
ngôn ngữ. Và bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ ấy chính là nhà văn Nguyễn Tuân - người đã mang đến những
trang hoa về dòng sông ánh sáng: tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người
đọc là...
Kết bài:
Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương tổ quốc. Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn
cảm xúc yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh
động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của
tác giả. Nguyễn Tuân đã phát hiện ra trong người lái đò bình dị ấy chắc nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với
sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng
hái, quên mình vì công việc. Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lai qua ngày, mây vẫn
bay và gió vẫn thổi.. nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi, kì diệu.
Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân
đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp,
của sự tài hoa và uyên bác...
Kết bài:
Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo của sông
Hương cho độc giả cả nước. Nó là một dòng sông hung tợn, man dại ở khúc thượng nguồn rồi trở nên mê
đắm, thủy chung khi gặp được người tình trong mộng của mình là Huế. Sông Hương không vô tri vô giác
mà nó có cảm xúc và có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu quê hương xứ sở nồng nàn của Hoàng
phủ Ngọc Tường, một kí giả nặng lòng với Huế:
“ Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên
Xa con sông mang bao nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ. ”
8. VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài) ★★
Mở bài:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào?
Đã có lần nhà văn Tô Hoài - nhà văn có duyên nợ với đề tài miền núi Tây Bắc tâm sự rằng: chuyến
đi 8 tháng ấy (1952) là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá. Tôi không thể
bao giờ quên được lúc Vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù!
Chéo lù!” (tiếng H’Mông có nghĩa là “Trở lại! Trở lại!”). Hai tiếng “Trở lại” chẳng những nhắc tôi có ngày
trở lại mà tôi phải đem gửi lại cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển
hiện lại cuộc đời người H’Mông trung thực, trí tình... Và đó là lý do giản dị để truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
ra đời với tất cả lấp lánh và ánh ngời trên trang sách như một món quà gửi lại Tây Bắc. Để lại ấn tượng trong
lòng người đọc là...
Kết bài:
Vậy là chỉ sau một chuyến vượt rừng, với sự nhạy cảm và tình yêu mãnh liệt đối với vùng đất Tây
Bắc, Tô Hoài đã kịp khắc họa vẻ đẹp tinh khôi của cô gái xinh đẹp như đóa hoa ban của núi rừng; Mị. Cô
gái ấy đã đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ thung lũng đau thương đến cánh đồng
vui. Dẫu có lúc Mị sống trong nước mắt, nhưng chính trong đau thương ấy, cây đời vẫn mãi mãi xanh tươi -
sự sống vẫn bất diệt như mùa xuân vẫn sẽ trở về trên những miền núi cao Tây Bắc, bất chấp gió và rét rất dữ
dội.
Sông Tô một thoáng mấy mờ
Phủ Hoài lặng tiếng vẫn chờ đợi ai
Truyện Tây Bắc mãi nguôi ngoai
Vợ chồng A Phủ nhớ ai bên trời.
Kết bài:
Trên phông nền u ám của nạn đói, của cái chết, của tiếng quạ kêu thê thiết với mùi đốt đống rấm khét
lẹt, Kim Lân vẫn pha vào đó một chút màu sắc ấm áp của hạnh phúc lứa đôi, của tình yêu thương con người.
Và từ trong sâu thẳm đêm tối của nạn đói, tác phẩm “Vợ nhặt” vẫn loé lên những tia sáng ấm lòng.
Anh hãy tin vào điều tốt đẹp ngày mai
Tia sáng lóe giữa đêm đen thảm khốc
Và đâu đó, giữa cánh đồng chết chóc
Sự sống sẽ nảy mầm cho hạnh phúc sinh sôi.
Kết bài:
Nhiều thập kỷ trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện, trong khí thế vươn
lên của đất nước và dân tộc, sẽ còn tìm thấy nhiều tầng ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch Hồn Trương Ba,
da hàng thịt. Thông qua hình tượng hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề tư tưởng thấm
đẫm chất nhân văn, không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà có ý nghĩa muôn đời đối với tất cả mọi người. Xét
đến cùng, sân khấu kịch Việt Nam đã vắng bóng Lưu Quang Vũ từ lâu, nhưng “Hồn Trương Ba da hàng
thịt” vẫn sẽ lấp lánh dưới ánh đèn sân khấu với những triết lý sâu sắc về cuộc đời và con người.
Kết bài:
Giã từ khẩu súng ngoài chiến trường, Nguyễn Minh Châu trở về cuộc sống thời bình với tư cách một
nhà văn có biệt tài tái hiện một cách đầy ám ảnh những mảng tối, những góc khuất, những mất mát của con
người thời hậu chiến. Văn của ông thầm thì lặng lẽ nhưng ngắm sâu. Khép lại trang cuối của “Chiếc thuyền
ngoài xa”, người đọc vẫn khắc khoải câu hỏi về người đàn bà hàng chài: “Đời chị có lúc nào thật vui
không?”, phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà đại thi hào
Nguyễn Du đã viết trong “Văn chiêu hồn” hơn hai thế kỷ trước:
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Kết bài:
“Tôi yêu say mê cây xà nu. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây
cao vút, vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thân vừa rắn rỏi, mênh mông, tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến
ngàn đời sau “. Trong dụng ý miêu tả của mình, Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn những cánh rừng xà nu
cạnh con nước lớn và chạy bát ngát đến tận chân trời làm phông nền cho tác phẩm. Để từ đó xuất hiện
những người anh hùng và những hành động anh hùng của người Tây Nguyên. Những hành động kiên cường
anh dũng của họ mãi được lịch sử ghi nhận và cuộc đời, hành động của họ mãi mãi trở thành trang sử thi bất
hủ của dân tộc. Và trong những đêm huyền thoại với ngọn lửa bập bùng soi rõ, những trang sử thi Anh Hùng
mãi được hát lên, được ghi nhớ và được kể lại trong muôn đời sau. Và đâu đó, âm vang trong núi, trong
nước, trong cánh rừng và trong tâm trí người Xô Man vẫn còn câu nói trầm trầm đầy uy lực của cụ Mết:
“nhớ lấy, ghi nhớ,... Chúng nó cầm súng, mình phải cầm mác”.