đất nước

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

1.

Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà
thơ trẻ trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri
thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Mở rộng ý (học sinh chú ý nghe giảng): “Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy
tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực
vào cuộc chiến đấu của nhân dân” – Có lẽ, đây chính là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến “Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân” mà nhà thơ gửi gắm vào đứa
con tinh thần của mình. Nếu những nhà thơ khác từ thời đại trước đến
những năm tháng kháng chiến hào hùng chống Pháp và chống Mĩ đều nhìn
đất nước tử khía cạnh khách quan hay định nghĩa đất nước thuộc quyền sở
hữu của một triều đại vua chúa thì Nguyễn Khoa Điểm lại nhìn đất nước từ
cái nhìn rất gần gũi, quen thuộc và gắn liền với những gì thuộc về nhân dân.
Bởi lẽ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu
của nhân dân, cùng nhân dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc, cùng nhân dân cầm
súng, cùng nhân dân đấu tranh nên ông thấu hiểu những hi sinh mất mát nhà
nhân dân hứng chịu, những khó khăn gian khổ, những mong muốn của nhân
dân. Chính vì vậy, đoạn trích "Đất Nước" nói riêng và trưởng ca "Mặt đường
khát vọng" nói chung đã tập trung thể hiện những gì thuộc về nhân dân. Và
nó như một khúc tráng ca để nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về
những gì Nhân dân đã cống hiến cho Đất Nước.
2. Tác phẩm
- Đoạn trích “Đất Nước" thuộc phần đầu chương V, của trưởng ca “Mặt
đường khát vọng” viết năm 1971, là một trong những đoạn thơ đặc sắc, thể
hiện những cảm nhận riêng, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước. Ở đó, nguồn
cảm hứng chi phối mạch thơ là “Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân" về các
phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa, đời sống tinh thần,
- Trường ca “Mặt đường khát vọng" viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở thành
thị các vùng tạm chiếm miền Nam: Họ nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mĩ. Chính vì vậy, văn học giai đoạn này nói chung và thơ Nguyễn Khoa
Điềm nói riêng đã hướng về nhân dân, đất nước, khi họ ý thức được sứ mệnh
của thế hệ minh và đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến
đấu của toàn dân tộc.
- Định nghĩa đơn thuần về “Đất nước":
+ “Đất nước" là toàn bộ vùng lãnh thổ bao gồm vùng trời, vùng đất, vùng
biển; là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có ranh giới biên cương, lãnh
thổ phân chia.
+ Để đất nước tồn tại và phát triển là nhờ vào sự gắn kết sâu sắc giữa các thế
hệ về văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thống lịch sử...
3. Bố cục bài thơ
Phần 1. Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định nghĩa
đến nhận thức, trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.
* Vấn đề 1. (9 câu thơ đầu): Lý giải cội nguồn của Đất nước có từ rất lâu đời
và rất gần gũi, thân thương đối với mỗi con người (tử huyền thoại, cổ tích
đến truyền thống yêu nước, lao động cần cù, thuần phong mỹ tục và lối sống
tình nghĩa thủy chung)
“Khi ta lớn lên.. -
có từ ngày đó..."
* Vấn đề 2. (20 câu thơ tiếp theo): Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác
giả từ nhiều
phương diện (địa lý, lịch sử, văn hóa)
“Đất là nơi anh...
..... cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
* Vấn đề 3. (13 câu thơ tiếp theo): Đất nước là sự kết tinh, hóa thân trong
mỗi con người, chúng ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với
sự trưởng tổn của quê hương, xứ sở bằng những nhận thức và hành động
cụ thể (gắn bó, san sẻ, hóa thân...)
“Trong anh và em hôm nay...
....Đất Nước muôn đời"
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng
hình Tổ quốc; làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần..; Nhân
dân làm ra thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca..
* Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất nước được tạo dựng từ
những địa danh, thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phận, tính cách, tâm hồn
của nhân dân (từ tình nghĩa thủy chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất
của con người; từ cội nguồn thiêng liêng cho đến truyền thống hiếu học, non
sông gấm vóc tươi đẹp vô ngắn...)
“Những người vợ nhớ chồng....
.. đã hóa núi sông ta"
* Vấn đề 5. (18 câu thơ tiếp theo): Nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử Đất nước,
không ai khác chính Nhân dân là người làm ra lịch sử dân tộc.
"Em oi em....
..... đã làm ra Đất Nước”
* Vấn đề 6. (17 câu thơ cuối): Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân", bởi
Nhân dân là người tạo dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa, tinh hoa
cuộc sống cho đến ca dao thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca...
“Họ giữ và truyền cho ta...
....trên trăm dáng sông xuôi."
4. Những nét độc đáo và đặc sắc nghệ thuật được thể hiện trong bài thơ “Đất
Nước”
4.1. The tho tu do
+ Thể thơ tự do gần như văn xuôi giúp từng ý thơ trong bài đều vận động
bằng chiều sâu trong triết lý trí tuệ; không véo von cầu kì, không bó buộc
khuôn khổ, không ràng buộc cảm xúc khi thể hiện.
+ Có những đoạn câu thơ chỉ có ba chữ, có những đoạn câu thơ giãn ra đến
mười hai, mười bốn chữ, cách gieo vần, hợp âm biến tấu linh hoạt: khi vẫn
chéo, vẫn lưng, không vẫn... Cách ngắt nhịp theo ý thơ, nhạc điệu có nhiều
âm sắc hiện đại...
4.2. Giọng thơ đậm chất trữ tinh có sự đan xen giữa triết luận và chất chính
luận.
+ Mượn hình thức tự sự trữ tỉnh thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa
anh và em, mang tính giải bảy, bộc bạch, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về tổ quốc,
lỏng vào đó suy nghĩ về trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình đối với đất
nước. Chính chất tư duy logic và chất thơ đã làm cho việc lý giải các vấn đề
triết luận, gửi gắm tình cảm chung, tỉnh cảm thiêng liêng, lớn lao về đất nước
trở nên sâu sắc.
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và triết lý suy tư, giữa trữ tình và
chính luận: giúp giọng thơ thêm phần tha thiết, đầm thẳm, thủ thỉ, nhẹ
nhàng và sâu lắng; làm cho những định nghĩa mang tầm triết học về đất
nước trở nên dung bị, giản đơn, dễ hiểu, dễ nhớ mà thấm thía, quen thuộc
và gần gũi.
4.3. Sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều
phương diện.
+ Trong chiều dài của lịch sử. Từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ đến thời các
vua Hùng từ thời trung đại đến hiện đại; từ quá khứ, hiện tại đến tương lai...
+ Trong chiều rộng của không gian địa lý: từ Bắc – Trung – Nam đến vùng
núi, đồng bằng, vùng biển; từ không gian sinh hoạt đến không gian riêng tư
của tình yêu đôi lứa; từ không gian hùng vĩ của núi cao, sông dài đến rừng
vàng, biển bạc... Từ cụ thể đến khái quát, từ gần gũi, thân thuộc đến cao cả,
thiêng liêng...
+ Trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân
tộc... Khẳng định: Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó mật
thiết với cuộc sống của nhân dân. Bởi bất kì đâu, bất kì thời điểm nào, đất
nước cũng hiện hữu ba phương diện trên và nó từ nhân dân mà có. Vậy
nên, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân" chính là hệ quy chiếu mọi cảm xúc
và suy tưởng, là cốt lõi trong quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
muốn nhắn gửi trong đứa con tinh thần của mình. Nhờ phát hiện mới mẻ
này mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã làm sâu sắc hơn ý niệm về Đất Nước
trong thơ ca kháng chiến thời chống Mĩ, làm nổi bật sự quan trọng của tầng
lớp nhân dân, tư tưởng “Đất nước của Nhân dân": Bởi Đất Nước có trong
đời sống mọi mặt của Nhân dân, do Nhân dân làm ra, do Nhân dân gìn giữ,
do Nhân dân lưu truyền; Đất Nước sẽ trưởng tổn bất diệt cùng Nhân dân,
được nói bằng tiếng nói của Nhân dân, được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ con cháu trong Nhân dân...
Khác với quan niệm của các nhà cách mạng, các nhà thơ thời đại trước khi họ
tập trung nhấn mạnh vào quyền sở hữu, quyền làm chủ đất nước: coi đất
nước là của Vua: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư" (Sông núi nước Nam vua
Nam ở) trong bản tuyên ngôn được coi là đầu tiên khẳng định chủ quyển của
người Việt trên lãnh thổ của mình. Hay Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ"
cũng nói những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu “thái ấp của ta, bổng lộc
các người". Đến giai đoạn sau, có nhiều tiến bộ hơn về sự quan trọng của
nhân dân nhưng không khẳng định “Đất Nước là của Nhân dân": Nguyễn Trãi
nói “Có lật thuyền mới thấy dân như nước"; Lênin nhận định “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng"; Nguyễn Đình Chiểu trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” cũng đề cao sức mạnh của nhân dân... Nhưng phải đến “Đất Nước"
của Nguyễn Khoa Điểm mới có cái nhìn nhận rõ ràng, chi tiết, mới mẻ là: Đất
Nước không của ai hết, không thuộc quyền sở hữu của thế lực cầm quyền
nào mà “Đất Nước của Nhân dân”.
4.4. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian.
+ Vận dụng một cách sáng tạo, không trích nguyên văn những câu da dao
dân ca hay thành ngữ, tục ngữ, không kể lể dài dòng mà chỉ nắm bắt lấy cái
hồn của văn hóa dân gian để gợi liên tưởng, tạo suy ngẫm cho độc giả, tạo
cảm giác vừa mới lạ vừa thân thuộc.
+ Chất liệu văn hóa lấy từ đời sống dân gian vừa gợi ra thế giới cổ tích vừa
mang tính chất trang trọng, thuyết phục phù hợp với mọi đối tượng: từ
người tri thức, người có trình độ văn hóa đến những người nông dân chân
lấm tay bùn đều có thể hiểu, đều phải liên tưởng tim tôi, đồng sáng tạo
cùng tác giả.
4.5. Tư duy nghệ thuật hiện đại..
+ Mượn những nghịch li để diễn tả những khám phá, tư tưởng mới mẻ của
mình. Không vay mượn hay dùng những từ ngữ sáng tạo để thể hiện ý thơ
mà dùng những từ ngữ rất quen thuộc, dân đã, gần gũi với lời ăn tiếng nói
hằng ngày.
+ Trong một câu thơ thường hay xuất hiện hai đại lượng trái ngược: bên này
cái nhỏ bé, bên kia cái lớn lao: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà
ăn”; “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”; “Đất là nơi Chim về”; “Nước là nơi Rồng
ở"....
4.6. Ngôn ngữ
+Tác giả viết hoa danh tử “Đất Nước" thể hiện sự trân trọng, thành kính,
trang nghiêm
khi nói về Đất Nước của mình.
+ Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, chân thành, gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng
ngày nhưng cũng đẩy mãnh liệt gợi về nguồn cội xa xăm.
+ Giọng thơ, nhịp điệu lúc tha thiết lúc trang nghiêm, sâu lắng; lúc trầm lặng,
suy tư đậm chất chính luận; lúc lại như nhắn nhủ, thẩm thì, thủ thỉ, tâm sự.....

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


Phần 1: Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định
nghĩa đến nhận thức, trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.
Vấn đề 1. (9 câu câu đầu): Nhà thơ lý giải cội nguồn của Đất Nước có từ rất
lâu đời và rất gần gũi, thân thương đối với mỗi con người: từ huyền thoại,
cổ tích đến truyền thống yêu nước, lao động cần cù, thuần phong mĩ tục và
lối sống tình nghĩa thủy chung...
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
- Câu thơ đầu: Viết theo thể khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"
+ Câu thơ mộc mạc, chân thành, giản dị như một lời chuyện trò cất lên từ
sâu thẩm trái tim nhà thơ muốn gửi đến người đọc, ta cũng có thể hiểu đó
như một lời thi thẩm tâm sự, thủ thi giữa người anh với người em của
mình, hay giữa chàng trai nói với cô gái....
+ Đại từ nhân xưng “ta" là một đại từ vô định, không xác định rõ là ai chỉ biết
rằng bất cứ người dân nào sinh ra trên mảnh đất cong cong hình chữ S, mang
trong mình dòng máu dân nước Việt đều ngay lập tức được bao bọc và nâng
niu, được mang quốc tịch, được nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi mang
tên Đất nước Việt Nam.
+ Điều đặc biệt ta thấy, danh từ "đất nước" thưởng là danh từ chung,
không phải danh từ riêng hay tên riêng nhưng ở đây, trong bài thơ của
mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết hoa danh từ “Đất Nước" như một
thứ cảm xúc thiêng liêng, thành kính, trân trọng, nâng niu của ông dành cho
“Đất Nước Việt Nam" thân yêu, đất nước máu thịt của mình.
+ Cách nói: “Khi ta lớn lên..." là để chỉ sự trưởng thành của con người: Khi ta
còn thơ bé, có thể nhận thức về cuộc sống xung quanh, nhận thức về đất
nước, về trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc vẫn còn non dại. Nhưng khi
đã “lớn lên" nghĩa là khi đã trưởng thành, đã biết suy nghĩ và nhận thức thì
phải ý thức trách nhiệm được sứ mệnh của mình đối với quê hương, đất
nước, với nơi chôn rau cắt rốn của mình.
+ Ba chữ “đã có rồi" vừa là lời khẳng định vừa là lời bộc lộ niềm tự hào mãnh
liệt về sự trưởng tổn của đất nước. “Đã có" nghĩa là đất nước đã trường tổn
qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, sẵn có trong mọi mặt,
trong đời sống của người dân, trong văn hóa, trong truyền thống hình thành
và phát triển bao đời.
- 3 câu thơ tiếp theo: Lý giải sự hình thành và phát triển của Đất Nước “có
trong" huyền thoại, cổ tích; Đất Nước “bắt đầu” với thuần phong mĩ tục và
“lớn lên” với truyền thống yêu nước của người dân nước Việt.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
* Sự tồn tại của Đất Nước có trong huyền thoại, cổ tích: “Ngày xửa ngày
xưa.." Để nói về lịch sử trường tổn của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm không bắt đầu bằng việc đưa các dữ liệu sử thi hay các mốc lịch sử
vàng son mà gợi nhắc về những điều rất gần gũi, quen thuộc trong cuộc
sống của nhân dân ta, đó là những chất liệu văn học dân gian có trong
huyền thoại, cổ tích:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa... mẹ thường hay kế
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa.." thường được dùng trong câu mở đầu của
những câu truyện cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa, ở quận Cao - Bình có hai vợ
chồng tuổi già mà chưa có con. Nhà hộ nghèo hàng ngày phải lên rừng chặt
những bó củi về đổi lấy gạo nuôi thân. Họ ham giúp người như đắp đường
khơi cống, đỡ đần kẻ giả người yếu mà không nề hà gì cả... (Truyện cổ tích
Thạch Sanh); “Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị tên là
Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua
đời,..." (Truyện cổ tích Tấm Cám); “Ngày xửa ngày xưa, trị vì cõi đất Âu - Lạc
có một ông vua tên là An Dương Vương. Vua có một nàng công chúa tên là
Mị Châu..." (Truyền thuyết về An Dương Vương)... gợi ý niệm đất nước có từ
rất lâu đời, rất xa xưa trong lịch sử. “Đất Nước cỏ trong... truyện cổ tích, tức
là Đất Nước có trước cả sự ra đời của truyện cổ tích nên mới xuất hiện trong
lời “... mẹ thường hay kê”.
+Cụm từ “ngày xửa ngày xưa..” còn như một bản nhạc du dương đưa ta về
thế giới với vầng trăng đưa nôi, với những câu hò điệu hát đong đầy trong lời
ru của mẹ khi ta còn thơ bé. Nó như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng tâm
hồn ta thêm trong sáng, vun đắp cốt cách con người như những hạt giống
xanh tốt vươn lên đón ánh nắng bình minh của cuộc đời. Chính những bài
học sâu sắc từ truyện cổ tích đã chăm bẵm cho ta về cái “chân – thiện - mĩ"
để ta biết yêu quê hương, đất nước, con người. Nói về ý nghĩa của truyện cổ
tích, nó không chỉ là lời ru, tiếng hát; là bài học, là sự giáo dục mà còn là đời
sống tinh thần trong mỗi con người.
+ Qua đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về
truyền thống cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn ngàn năm văn
hiến. Trong bốn ngàn năm đó, không chỉ là công cuộc khai hoang bờ cõi, gìn
giữ biên cương mà còn là công cuộc giáo dục thế hệ con cháu đạo lý ân tình
ân nghĩa, cải thiện cái ác, lịch sử dân tộc thông qua các câu truyện huyền
thoại cổ tích.
* Sự khởi đầu của Đất Nước là bắt đầu từ thuần phong mĩ tục: "..bắt đầu
miếng trầu bây giờ
Không chỉ định hình Đất Nước “có trong cái ngày xửa ngày xưa...", mà nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu của Đất Nước qua một nét
sống giản dị nhưng đậm đà bản sắc dân tộc của những người bà, người mẹ
Việt Nam. Đó là phong tục “ăn trầu”: Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn
+ Hình ảnh “miếng trầu" gợi cho ta nhớ về “Sự tích trầu cau”, một câu
chuyện cổ tích mang ý nghĩa nhân văn nhân bản sâu sắc và được xem là
truyện xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục lệ “ăn trầu" cũng tử câu
chuyện này mà nên – một phong tục rất riêng mang bản sắc của người Việt
xưa nay, thấm vào miếng trầu dung dị ấy là bốn nghìn năm lịch sử, bốn
nghìn năm ông bà ta gìn giữ phong tục ăn trầu.
+ Hình ảnh “miếng trầu" thủy chung, chia sẻ mọi vui buồn, thăng trầm, sự
kiện quan trọng trong đời sống người dân, nó còn gợi về mối quan hệ tình
nghĩa truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Trong tục cúng lễ, miếng
trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu dâng gửi đến
ông bà, những bậc tiền bối đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân.
“Miếng trầu" còn gợi ra huyền sử tình yêu, tượng trưng cho mối quan hệ vợ
chồng thủy chung, son sắt. Và cũng có lẽ vì thế mà “miếng trầu” đã trở thành
vật biểu tượng cho tình yêu, hôn nhân và gia đình.
+ Ý thơ đã đánh thức trong chúng ta một điều tưởng chừng như đơn giản
nhưng lại vô cùng thấm thía: Muốn có được những điều lớn lao (có được
Đất Nước) đừng coi thường những vật phẩm quen thuộc (hình ảnh “miếng
trầu"), bởi trong mỗi vật phẩm quen thuộc có thể chứa đựng những điều
hết sức thiêng liêng (“miếng trầu" là văn hóa, là phong tục, tập tục của
người dân, từ đó hình thành văn hóa cho một đất nước). Điều đó cho thấy,
đất nước này sở dĩ có được ngày hôm nay, tồn tại đến tận bây giờ và mãi
mãi về sau là nhờ vào sự sống bền bỉ của nó với những vật tưởng như rất
bình thường, nhỏ nhoi và đơn giản. * Sự trưởng thành của Đất Nước là tử
truyền thống yêu nước thương nói: “ lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà
đánh giặc"
Nếu Đất Nước “tồn tại” tử trong những câu truyện cổ tích “cái ngày xửa ngày
xưa", "khởi đầu" tử lịch sử và là sự kết tinh từ tâm hồn văn hóa Việt thì để
Đất Nước “trưởng thành" được như ngày hôm nay chính là từ nhận thức của
mỗi cá nhân mang trong mình dòng máu Lạc Hồng với truyền thống yêu nước
thương nòi, đánh giặc giữ nước:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Giới phê bình văn học nhận định: Thơ Nguyễn Khoa Điểm hấp dẫn với sự
kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất
nước, quả đúng không sai. Và ngay trong ý thơ này, ta cũng nhận thấy rất rõ
điều đó khi ông viết “Đất Nước lớn lên...”, “lớn lên” nghĩa là trưởng thành,
mà con người muốn trưởng thành phải có nhận thức và nhận thức đó lại là
nhận thức về truyền thống dân tộc thì còn gì ý nghĩa, thiêng liêng, cao cả
hơn?
+ Câu thơ còn gợi nhắc cho ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng - chàng trai
làng Phù Đổng Thiên Vương đã nhổ tre đôi bờ làng Ngà mà đánh giặc; chàng
trai với tiếng nói đầu đời là khao khát đánh đuổi giặc ngoại xâm. Điều đó gợi
lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất, anh
dũng, hy sinh chỉ với mong muốn giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ
nền độc lập... )
+ Song song với những tấm gương hi sinh thân mình vì đất nước còn là hình
ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê, gắn bó mật thiết
với đời sống con người, là sự đồng hiện cho những phẩm chất trong cốt cách
con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thủy chung, yêu chuộng hòa
bình nhưng cũng rất kiên cường bất khuất trong đấu tranh. Tre đứng thẳng,
hiên ngang bất khuất, “tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng
lúa chín..."; tre cùng gánh vận mệnh chung của dân tộc, chia sẻ khó khăn
trong chiến đấu: “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ" hay:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
D Qua ba câu thơ, ta thấy: Sự hình thành, tồn tại và trưởng thành của Đất
Nước là dựa vào ba tài sản lớn về văn hóa tinh thần của người dân . Đó là
những câu truyện cổ tích, ca dao dân ca, thành ngữ, tục ngữ, thói quen, tập
tính, phong tục và truyền thống đánh giặc của người dân nước Việt. Chính
những điều nhỏ nhoi, bình dị không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày ấy
lại làm nên bộ mặt văn hóa khi ta hô vang hai tiếng Việt Nam. - 4 câu thơ
tiếp : Những yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục, lối sống thủy chung
son sắt, đức tính cần cù lao động, chịu thương chịu khó của con người Việt
Nam.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
- Ỷ thơ: Tóc mẹ thì bới sau đầu
+ Nét văn hóa đầu tiên được nhắc đến trong bốn câu thơ này là vẻ đẹp giản
dị của người phụ nữ Việt Nam với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn
thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu).
Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh người phụ nữ lại được nhà thơ nhắc
đến ngày đầu tiên với vẻ đẹp giản dị này, bởi lẽ hình ảnh người bà, người
mẹ tần tảo sớm hôm với mái tóc được búi gọn đằng sau đã đi sâu từng ký
ức của mỗi người con khi nhớ về quê hương, nhớ về bà, về mẹ.
+ Nét đẹp ấy cũng đi vào những câu ca dao dân ca một cách nhẹ nhàng, sâu
lắng :Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Đề chỉ dài cho rối lòng anh
hay
Tóc em dài em cài hoa lí
Miệng em cười có ý anh thương.
hoặc
Em đi khắp bốn phương trời
Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây
Gặp người má đỏ hây hây
Răng đen rưng rức tóc mây rườm rà.
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
+ Nét đẹp văn hóa tiếp theo mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn gửi
đó là đạo li ân tình ân nghĩa, thủy chung son sắt ngàn đời của dân tộc, là sự
gắn kết giữa các đấng sinh thành, của cha, của mẹ. Chính tỉnh nghĩa ấy đã tạo
nên mái ấm gia đình cho con khôn lớn, cho con trưởng thành từng ngày.
+ Thành ngữ “Gừng cay muối mặn" được vận dụng một cách sâu sắc: Gừng
càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau
càng lâu càng tình nghĩa càng đong đầy, càng thấu hiểu, càng dung hòa với
nhau. Hình ảnh ấy gợi ta nhớ tới câu ca: Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
+ Tình cảm chân thành ấy là nguồn gốc của mọi tình yêu thương như suối
nguồn chảy qua bao thế hệ, đó là sự gắn kết giữa đời này với đời sau.
Cái kèo cái cột thành tên
+ Câu thơ gợi nhắc một nét văn hóa của người Việt, đó là truyền thống làm
nhà “kẻo – cột” (Các “kèo” có hình tam giác cân, trong kiến trúc cổ là hệ
thống gỗ kết nối các đầu cột để đỡ hai mái dốc cho chắc chắn; Các “cột” đẩy
mái nhà lên cao, kéo giữ cái cột lại với nhau làm nên sự bền vững, kiên cố cho
khung nhà).
+ Cũng chính tử gian nhà tình nghĩa ấy, thói quen đặt tên con bằng những vật
dụng quen thuộc cũng ra đời như cái Đục, cái Bè, cái Na, thẳng Tít,...
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
+ Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của người bà, người mẹ hay tỉnh nghĩa thủy
chung, phong tục tập quán mà đất nước còn đẹp rạng ngời với truyền thống
lao động cần cù, chịu thương chịu khó của người dân sớm hôm tần tảo với
nền văn minh lúa nước.
+ Thành ngữ “một nắng hai sương" lại một lần nữa được nhà thơ Nguyễn
Khoa Điểm sử dụng một cách đẩy tinh tế. “Một nắng hai sương" gợi lên sự
tẩm tảo, lam lũ, cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân chân lấm
tay bùn.
+ Để có được hạt gạo trắng ngắn ta trong ngày hôm nay là quá trình gìn giữ
nét văn hóa từ đời cha ông để lại với nền văn minh trồng lúa nước. Và để
có được bát cơm dẻo thơm ta thưởng thức hàng ngày trong mỗi bữa cơm
người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo, cấy, xay, giã,
giản, sàng... Thấm vào trong từng hạt gạo bé nhỏ ấy là vị mặn của giọt mồ
hôi với những nhọc nhằn của người dân.
+ Ý thơ cũng khéo léo nhắc nhở chúng ta về đạo lý ân tình ân nghĩa: Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ nguồn... Ăn hạt gạo dẻo thơm ngày hôm
nay phải biết nhớ đến công lao người làm ra nó.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
- Câu thơ cuối khép lại như một lời khẳng định chắc nịch đẩy tự hào Đất
Nước có từ ngày đó... + “Ngày đó" là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn
đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có nền văn hóa mà có
văn hóa nghĩa là có Đất Nước.
→ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm điểm lại các di sản văn hóa gần gũi, quen
thuộc (huyển thoại, cổ tích; truyền thống yêu nước; lối sống thủy chung, tình
nghĩa; đức tính cẩn củ, lao động...) của ông cha để lại chứ không phải là
những công trình kì vĩ, những thi phẩm văn hóa kiệt tác, những đền đài mếu
mạo... Một kiểu tóc của bà, của mẹ cũng là một giá trị văn hóa hay một cái
tên thường nhật cũng là một giá trị văn hóa hoặc một cái yêu nhau nên
duyên vợ chồng cũng thuộc về phạm trù văn hóa; một đức tính cần cù lao
động cũng là một phương diện văn hóa. Hoặc đơn giản là những câu ca dao,
dân ca, tục ngữ, thành ngữ, huyền thoại còn được lưu truyền trong kí ức
cũng chính là tài sản về văn hóa.
Những nét dung dị, giản đơn quen thuộc mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
nhắn gửi qua 9 câu thơ đầu làm ta nhớ đến lời Bác dặn trước lúc đi xa:
“Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải
yêu những câu hát dân ca". Ca dao, dân ca là nét đặc trưng văn hóa của
người dân Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải thấm nhuần, phải
yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước.
Nghệ thuật: thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo
chất liệu văn hóa dân gian như tập tục ăn trầu, búi tóc, truyền thống đánh
giặc, nền văn minh lúa nước... Nhà thơ vận dụng linh hoạt các thành ngữ, tục
ngữ, ca dao dân ca vào các ý thơ một cách sâu sắc. Điệp ngữ Đất Nước được
nhắc lại nhiều lần và luôn được viết hoa thể hiện sự trân trọng, nâng niu, tình
cảm trân quý của nhà thơ đối với Tổ quốc... Tất cả làm nên một đoạn thơ
đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ
nhẹ nhàng mang âm hưởng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm tính triết
lý sâu lắng.
Vấn đề 2. (20 câu thơ tiếp theo): Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác
giả từ nhiều phương diện (địa lý, lịch sử, văn hóa)
Phương diện 1. Phương diện địa lý ( Đất là nơi anh... dân mình đoàn tụ).
Phương diện địa lý được nhìn nhận từ bốn khía cạnh không gian:
+ Không gian gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi người
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
+ Không gian của tình yêu đôi lứa.
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thẳm + Không gian
tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng lãnh thổ. Đất là nơi “con chim phượng
hoàng bay về hòn núi bạc" Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển
khơi"
+ Không gian sinh tổn thiêng liêng của dân tộc.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
- Không gian gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
+ Đất Nước được tách ra thành hai thành tố: Đất và Nước. Đất Nước ở đây
đã gắn với những kỉ niệm thân thuộc trong ký ức của mỗi người ngày còn
thơ ấu cắp sách tới trường.
+ Thành tố “đất” – để chỉ con đường anh tới trưởng hàng ngày, là ngôi
trường cung cấp hành trang, tri thức cho chúng ta tự tin bước vào đời; là nơi
những cánh chim non thêm chắc đôi cánh vươn tới những chân trời mới...
Thành tố “nước” là dòng sông nơi em thả mình tắm mát mỗi trưa hè, dòng
sông chở nặng phù sa vun đắp những cánh đồng thơm ngát, những bãi mía,
nương ngô...
+ “Đất" là con đường đến trưởng; “Nước” là dòng sông chở nặng phù sa, đó
là không gian quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của
mỗi con người. Không ai trong số chúng ta có thể quên được những kỉ niệm
gắn với con đường cắp sách đến trưởng và cũng không ai trong số chúng ta
có thể quên được hình ảnh dòng sông quê hương với những câu hò. Dòng
sông tươi mát ấy làm tôi nhớ đến bài hát “Khúc hát sông quê" của ca sĩ Anh
Thơ với những câu hát say đắm lòng người: “Qua nửa đời phiêu dạt, con lại
về úp mặt vào sông quê. Ơi con sông đạt dào như lòng mẹ, chở che con qua
chớp bể mưa nguồn. Từng hạt phù sa tháng ba tháng bảy, từng vị heo may
trên má em hồng. Ơi con sông quê con sông quê, con sông quê...
- Không gian của tình yêu đôi lứa:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thẩm
+ Đất Nước chia tách cho anh và em có không gian riêng tư, nhưng khi ta hò
hẹn Đất Nước lại hòa nhập là một và trở thành không gian hẹn hò của đôi lứa
yêu nhau. Không gian ấy sẽ là nơi nâng bước và minh chứng cho tinh yêu của
hai đứa với những lời thể nguyện thủy chung son sắt, những lời hẹn ước yêu
đương...
+ “Nơi ta hò hẹn” gợi cho về không gian của làng quê thanh bình, yên ả với
tiếng gió vi vu ngoài đồng ruộng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa
vào, giếng nước, gốc đa, sân đình hay chiếc cầu nhỏ xinh nối đôi bờ mương
đầu xóm... tất cả đều đẹp, đều bình dị, hải hòa mà nồng thắm. Chính ở
mảnh đất yên bình đó đã gắn kết nhịp đập của hai trái tim khi họ yêu nhau.
Trong tình yêu ấy, Đất Nước như một phần không thể thiếu trong nỗi nhớ
thảm của anh dành cho em, của em gửi đến anh.
+ Hình ảnh “chiếc khăn” chính là biểu tượng tình yêu, của nỗi nhớ thương.
Bởi chẳng ai yêu mà không nhớ như Xuân Diệu đã từng viết : “Làm sao sống
được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào" hay nữ hoàng
thơ tình Xuân Quỳnh cũng viết trong Sóng : “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong
mơ còn thức". Ý thơ còn làm ta nhớ đến những vẳng ca dao lay động lòng
người, bồi hồi xao xuyến trước tình cảm chân thành của những trái tim
đương thời say đắm :
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
- Không gian tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng lãnh thổ :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"
+ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn chất liệu dân ca là câu hò Bình Trị -
Thiên để cảm nhận Đất Nước trên phương diện không gian tráng lệ, rộng lớn,
giàu đẹp của vùng lãnh thổ. Nguyên văn câu hò : “ Con chim phượng hoàng
bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi - Gặp nhau
đây xin phân tố đôi lời – Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời
về non xanh”.
+ Không gian tráng lệ, rộng lớn ấy có thể hiểu là núi sông, bờ cõi; là ba miền
Bắc - Trung – Nam một dải nối liền. “Hòn núi bạc" như dãy Trường Sơn
hùng vĩ, sừng sững, hiên ngang; “Biển bạc" là biển Đông mênh mông sóng
nước. Cách nói này, giúp ta hình dung đất nước Việt Nam là một cường
quốc giàu tài nguyên thiên nhiên - nhiều rừng vàng, biển bạc, khoáng sản
phong phú, đất đai màu mỡ.
+ Trên không gian rộng lớn ấy biết bao thế hệ đã nối tiếp nhau xây dựng và
bảo vệ Đất Nước. Nếu những câu thơ đầu đoạn trích, Đất Nước hiện lên
với những hình ảnh quen thuộc gần gũi thì đến với đoạn thơ thứ hai ta lại
thấy hình ảnh Đất Nước hiện lên với không gian vô cùng tráng lệ, hùng vĩ.
- Không gian sinh tồn thiêng liêng của dân tộc.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
+ “Thời gian đằng đẵng" gợi ra quãng thời gian với bao lớp thế hệ cha ông
thay nhau nằm xuống để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước. “Không gian mênh
mông” là mảnh đất thiêng liêng chúng ta sinh sống và phát triển trong
quãng thời gian dài “đằng đẵng” kia.
+ Dù trải qua biết bao thăng trầm lúc chia cắt, khi hợp khi tan thì không gian
sinh tổn Bắc – Trung – Nam một dài vẫn là “nơi dân mình đoàn tự". Hai từ láy
“đằng đẵng”, “mênh mông" kết hợp cùng ý thơ “nơi dân mình đoàn tụ" đã
lột tả được một đất nước có truyền thống tử lâu đời với tinh thần đoàn kết,
cùng nhau phát triển, làm ăn sinh sống, gìn giữ và bảo vệ Đất Nước.
+ Ý thơ làm ta nhớ đến những lời cuối trong bản “Tuyên ngôn độc lập" của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và
của cái để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Phương diện 2: Phương diện lịch sử (chiều dài, chiều sâu và cội nguồn lịch sử
của dân tộc)
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
+ Với tình yêu nồng nàn dành trọn cho Đất Nước thân yêu, nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm thể hiện tình cảm của mình vào ý thơ một cách đầy tự hào khi ông
gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi Lạc Hồng - dòng dõi con Rồng cháu Tiên
của người dân nước Việt. Đó là truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên : Lạc Long
Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bảo ta trong bọc trăm trứng nở trăm con, 50 theo
cha lên rừng, 50 theo mẹ xuống biển, cùng khai thiên lập địa - một truyền
thuyết ra đời đã từ rất lâu, và cũng là truyền thuyết lý giải nguồn gốc người
Việt.
+ Từ truyền thuyết ấy, dân ta tự hào mình là con Rồng, cháu Tiên, là con cháu
Vua Hùng. Và cũng chính truyền thuyết ấy đã nhắc nhở chúng ta : Tất cả đều
là anh em một nhà, dù có lên rừng hay xuống biển, dù có ngoài đảo xa xôi hay
đất liền thương mến thì nguồn cội từ xa xưa vẫn được đẻ ra từ trong một bọc
trứng, vì vậy hãy luôn biết yêu thương, che chở, động viên, giúp đỡ lẫn nhau.
Phương diện 3 : Phương diện văn hóa gắn với những quan niệm, phong tục,
tập quản – những vẽ đẹp kết tinh tinh hoa tâm hồn người dân nước Việt.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
+ Câu chuyện về lớp lớp những thế hệ người dân Việt với “Những ai đã
khuất" trong quá khứ - là những con người sống giản dị, chết bình tâm,
những người đã hi sinh thân mình để dựng nước và giữ nước ; “Những ai bây
giờ" trong hiện tại và tương lai – những thế hệ người dân cứ nối tiếp nhau từ
đời này sang đời khác.
+ Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh của mình “Yêu nhau và sinh con đẻ
cái" để duy trì nòi giống, từ đó góp vào một nhiệm vụ to lớn, thiêng liêng và
cao quý. Đó là “Gánh vác phần người đi trước để lại", thế hệ sau nối tiếp thế
hệ trước những tinh hoa dân tộc và “Dặn dò con cháu chuyện mai sau”.
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
+ Đây chính là nét văn hóa gắn với quan niệm, phong tục, tập quán của
người Việt . Đó là đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ
nguồn"... Sống ngày hôm nay, phải nhớ ơn công lao sinh thành, dưỡng dục,
khai thiên lập địa, gìn giữ đất nước của cha ông ta.
+ Qua đó, nhà thơ khéo léo đặn đỏ thế hệ sau phải ý thức về tổ tiên và cội
nguồn dân tộc với ngày lễ Quốc giỗ của người dân Việt Nam được tổ chức
hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 3 (âm lịch) tại đền Hùng, thành phố Việt
Trì, tỉnh Phú Thọ. Như Bác Hồ đã từng nói: “Các vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Vậy nên:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng Ba mùng mười
+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà cũng rất đỗi tự
hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử, hướng về bao thế hệ
đi qua đã góp công dựng nên Đất Nước này. Người dân Việt Nam dù đi khắp
bốn phương nhưng trong tâm linh họ luôn có một mái nhà chung để quay
đầu nhớ cố hương, đó chính là quê cha đất tổ Hùng Vương : “Dù chim ham
trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về", người dân việt Nam
là thế, lúc nào cũng thế, dù đi bốn bể năm châu thì cũng luôn hướng về quê
hương, hướng về cội nguồn, hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Vấn đề 3. ( 13 câu thơ tiếp theo): Đất Nước là sự kết tinh, hóa thân trong mỗi
con người, chúng ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự
trường tồn của quê hương, xứ sở bằng những nhận thức và hành động cụ thể
(gắn bó, san sẻ. hóa thân..)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
=> Nhận thức về trách nhiệm đối với Đất Nước trong mỗi cá nhân. Đó là
mối quan hệ giữa con người và Đất Nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa
cái riêng và cái chung.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
=> Trách nhiệm gìn giữ và phát triển Đất Nước đối với thế hệ tương lai.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẽ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
=> Tử nhận thức dẫn đến hành động cụ thể: gắn bỏ, san sẻ, hóa thân cho
dáng hình đất nước. + Nhận thức về trách nhiệm đối với Đất Nước trong mỗi
cá nhân, cộng đồng.
Nhận thức trong cá nhân: anh và em
Nhận thức trong sự vẹn tròn của cộng đồng
Nhận thức về thế hệ tương lai
Sau những cảm nhận, suy ngẫm, đưa ra định nghĩa, tư duy mới mẻ trên nhiều
phương diện khác nhau thông qua cuộc đối thoại, trò chuyện tâm tỉnh về Đất
Nước. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định một cách tinh tế
của người tri thức đẩy suy tư.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
+ Vì sao “trong anh và em" lại có một phần Đất Nước? Vì Đất Nước là nơi ta
sinh ra, nơi ta lớn lên, sinh hoạt và học tập. Đất Nước là chủ quyền, là lãnh
thổ, là núi sông bờ cõi do biết bao con người đã hi sinh mà gây dựng nên. Đất
Nước là hơi thở, là máu thịt thiêng liêng của chúng ta, chúng ta sống trong
Đất Nước đều được thừa hưởng những giá trị vật chất và tinh thần mà cha
ông để lại. Vậy nên, trong ta luôn có một phần Đất Nước.
+ Và “Hôm nay” chính là sự kết tinh của ngày hôm qua, hôm qua là những
chuỗi ngày có sự hi sinh xương máu của biết bao thế hệ cha ông đã nằm
xuống để bảo vệ từng tấc đất này. Cho nên sự sống của mỗi cá nhân trong
đó có anh và em là sự hiện thân, sinh động hình ảnh của Đất Nước trong
mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam hôm nay đã thừa hưởng, tiếp nối và
cần phải phát triển những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của Đất Nước
từ hạt gạo ta ăn hàng ngày, miếng trầu trong những tục lễ đến cây tre,
giếng nước, gốc đa đầu làng hay tình yêu thương giữa cha và mẹ, giữa đôi
lứa, anh và em.
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
+ Hành động “cầm tay" là một nghĩa cử cao đẹp: Khi hai đứa cầm tay là khi
trong anh và em đã có sự thấu hiểu, yêu thương, chia sẻ với nhau và Đất
Nước từ đó cũng trở nên đẹp hơn, hài hòa hơn, nồng thắm hơn. Nói cách
khác, khi anh và em cầm tay là đã có sự giao thoa cảm xúc, giao thoa tình yêu
Đất Nước giữa hai trái tim.
+ Ý thơ gợi cho ta về tinh thần đoàn kết giữa con người với con người: “Một
cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao" hay đạo lý yêu
thương, đùm bọc, che chở lẫn nhau: “Nhiều điều phủ lấy giá gương - Người
trong một nước phải thương nhau cùng".
+ Nhất là trong những năm tháng Đất Nước bị chia cắt hai miền Bắc - Nam thì
cái “cầm tay" giữa mọi người thật ý nghĩa biết bao. Và điều đó giúp Đất Nước
từ đó trở nên “vẹn tròn, to lớn" hơn. Đó sẽ là nguồn sức mạnh vô cùng lớn
lao để chúng ta vượt qua kháng chiến trường kì đến với nền độc lập, tự do.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Dẫn dắt: sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đối
với Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện niềm tin trọn vẹn của
minh vào thế hệ tương lai – những mầm non tương lai của đất nước.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
+ “Những ngày tháng mơ mộng” ở đây có thể hiểu là ngày dân ta được sống
trọn vẹn trong nền hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó còn là ngày Đất
Nước ta hiên ngang sảnh vai với các cường quốc năm châu. Như mong muốn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không,
dân tộc Việt Nam có được sánh vai các cường quốc năm châu hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu".
+ “Những ngày tháng mơ mộng" đó không chỉ là niềm mong mỏi của riêng
nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm mà là niềm mong ước của hàng triệu, hàng chục
triệu trái tim Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, dù sống trong bom đạn, trong
chiến tranh ác liệt nhưng niềm tin cũng như khát vọng, tinh thần “yêu hòa
bình – chuộng tự do" trong chúng ta chưa bao giờ dập tắt.
+ Qua đó, nhà trí thức yêu nước mang tên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo
nhắc nhớ thế hệ trẻ hãy ý thức về sứ mệnh của mình để "mang Đất Nước đi
xa", kế tục truyền thống, làm rạng danh Đất Nước, rạng danh quê hương
xứ sở.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẽ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
→ Tử nhận thức dẫn đến hành động cụ thể: gắn bỏ, san sẻ, hóa thân cho
dáng hình đất nước. Vì sao phải có hành động cụ thể – Bởi đó mới chính là
cống hiến thiết thực cho Đất Nước. + Bởi Đất Nước là sự kết tinh, hóa thân
trong mỗi người, là máu xương, là tinh thần trong mỗi con người. Chính vì
thế con người, đặc biệt là giới trẻ phải có tinh thần trách nhiệm đối với sự
trưởng tổn của quê hương, xứ sở.
+ “Máu xương” là cụm tử ẩn dụ chỉ sự hi sinh, mất mát của biết bai thế hệ
cha anh đã ngã xuống trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, gìn giữ và bảo
vệ Đất Nước; trong sự hình thành, phát triển và tồn tại Đất Nước.
+ Điệp từ “Phải biết" cùng các động từ "gắn bó" – "san sẽ" – “hóa thân” giàu
sức, thể hiện tinh thần tự nguyện của chúng ta đối với sứ mệnh Đất Nước.
“Gắn bỏ" là sự yêu thương, là mối quan hệ mật thiết, bền chặt với đất nước;
“San sẽ" là tinh thần trách nhiệm, yêu thương, san sẻ niềm vui, nỗi buồn với
vận mệnh dân tộc; “Hóa thân" là dâng hiến, cổng hiến, hi sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
+ Những lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm
làm tôi nhớ đến những câu hát trong bài “Khát vọng tuổi trẻ”. “Đừng hỏi Tổ
quốc đã làm gì cho ta, mà phải hỏi rằng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay",
rồi lại day dứt với những khát vọng cống hiến trong bài “Tự nguyện".
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương"
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng
hình Tổ quốc; làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần...; Nhân
dân làm ra thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca...
Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất Nước được tạo dựng từ
những địa danh, thẳng cảnh gắn với cuộc sống, số phần, tinh cánh, tâm hồn
của nhân dân (từ tình nghĩa thủy chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất
của con người; tử cội nguồn thiêng liêng cho đến truyền thống hiếu học, non
sông gấm vóc tươi đẹp vô ngần...)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
→ Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở nên thiêng
liêng, gần gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
→ Khái quát về đất nước, suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử
Việt Nam.
8 câu thơ đầu: Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở
nên thiêng liêng, gần gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân.
- Sự hóa thân đó là sự hóa thân vào những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu
của Đất Nước in đậm dấu ấn tâm hồn, lối sống của nhân dân.
+ Biện pháp nghệ thuật liệt kê, kết hợp cùng động từ “góp” để diễn tả hình
ảnh nhân dân đã hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp của
Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh được liệt kê từ Bắc đến Nam, đầu đâu
cũng mang bóng dáng của nhân dân. Ở miền Bắc:
- Vẻ đẹp tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng chung thủy, son sắt, bền vững:
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái
+ Núi Vọng Phu: có hình người vợ chờ chồng ở Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn và
nhiều nơi khác trên đất nước ta. Nó gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con
chờ chồng mà hóa đá.
+ Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tương truyền do hai vợ chồng
yêu nhau hóa thân thành. Nó là sự kết thành từ hai tảng đá giống hình trống
mái nằm trên một ngọn núi và cũng xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta.
Đó là những vẻ đẹp của tình cảm thủy chung son sắt, tình nghĩa vợ chồng
đã trở thành bất tử với mọi thách thức khắc nghiệt của thời gian. Bởi dù
nắng mưa, sương gió thì những ngọn núi kia vẫn sừng sững như vậy mà lưu
truyền ý nghĩa của nó đến với các thế hệ sau. - Vẻ đẹp tượng trưng cho
truyền thống đánh giặc, gìn giữ đất nước và công cuộc xây dựng, bảo vệ
nền kiến thiết nước nhà.
+ Chứng tích “trăm ao đảm để lại" kéo dài từ huyện Đông Anh sang huyện
Sóc Sơn (Hà Nội) qua truyền thuyết người anh hùng làng Gióng cưỡi ngựa
đánh giặc Ân rồi bay về trời
+ Quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi" bao quanh núi Hi
Cương (tỉnh Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị, chính là đàn voi chín
mươi chín con quây quần chầu phục quanh đất Tổ.
+ Đó là tượng hình “con cóc, con gà quê hương" cùng góp mình cho Vịnh Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh trở “thành danh lam thắng cảnh" được UNESCO công
nhận là Di sản thế giới (năm 1994).
Ở miền Trung: ta về mảnh đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút non
Nghiên” do những cậu học trò nghèo dựng nên - đó là biểu tượng của
truyền thống hiếu học.
Ở miền Nam:
+ Dòng sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp với: “Những con rồng nằm im góp
dòng sông xanh thẳm”. Và chính từ dòng sông này biết bao tấn thóc, tấn
gạo được gieo trồng và được xuất khẩu đi khắp các quốc gia.
+ Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm", tên đất, tên làng đều mang
bóng dáng của nhân dân đã tôn tạo nên nét đẹp văn hóa, truyền thống, để
hôm nay và mai sau con cháu đời đời ngưỡng vọng biết ơn.
- Nhân dân – những con người bình dị, vô danh đã hóa thân vào đất nước;
mỗi người lặng lẽ góp phần mình làm nên vẻ kì thú của thiên nhiên và bề dày
của truyền thống. Như vậy, từ Bắc vô Nam đọc khắp dải đất cong cong hình
chữ S này, đầu dầu ta cũng thấy sự hóa thân của nhân dân những con người
bình dị, vô danh; mỗi cuộc đời đều lặng lẽ góp phần mình làm nên vẻ kì thú
của thiên nhiên và bề dày của truyền thống. Nhưng điều đặc biệt và kì diệu
trong thơ Nguyễn Khoa Điểm đó là có tên những danh lam thắng cảnh cho ta
hình dung chúng đang ở vị trí nào, ở miền Bắc hay miền Nam, ở Hưng Yên
hay Phú Thọ, ở Mũi Né hay Cà Mau nhưng tuyệt nhiên không có tên của một
người nào rõ ràng để chúng ta hồi tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc tất cả
đều từ Nhân dân mà ra. Trải qua biết bao năm tháng, họ đã lặng lẽ, bền bỉ,
kiên cường, đã tạo dựng nên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu ấn sâu đậm trên
dáng hình quê hương xứ sở.
4 câu thơ sau: Sự khái quát về Đất Nước với những suy ngẫm có tính triết lý
sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dảng hinh, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
- Tử vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, tác giả suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của
con người, của lịch sử truyền thống Việt Nam.
+ Hòn Trống Mái, Núi Vọng Phu gợi ra tỉnh nghĩa thủy chung, son sắt của vợ
chồng. + Từ dấu ấn “trăm ao đầm", đất Tổ Hùng Vương gợi ra truyền thống
đánh giặc chống ngoại xâm, tình yêu quê hương đất nước, quyết tâm bảo vệ
từng tấc đất.
+ Truyền thống hiếu học, mở mang tri thức luôn được khắc ghi thông qua
hình ảnh núi bút, non Nghiên.
+ Những tên xã, tên làng, tên đường, tên phố ngày nay... đều mang một
câu chuyện lịch sử gợi nhắc chúng ta phải ghi nhớ, đó là công ơn của những
người đi trước đã hi sinh cả cuộc đời vì vận mệnh dân tộc.
- Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên một tầm khái quát mới dưới nhận thức của
nhà thơ: Để có được một Đất Nước tươi đẹp vô ngắn sau bốn nghìn năm là
do Nhân dân đã hóa thân vào dáng hình Đất Nước. Nhân dân chính là người
đã tạo dựng, đã đặt tên, đã ghi dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng
sông trên khắp mọi miền đất nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
+ Hai câu thơ đầu khẳng định dáng hình của Nhân dân trong không gian Đất
Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi". Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ
làm cho đất nước thêm phản tươi đẹp mà còn mang “một dáng hình, một
ao ước, một lối sống ông cha"... Nghĩa là nhân dân không chỉ góp mình tạo
danh lam thắng cảnh mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong
tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
+ Hai câu thơ cuối: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta", “núi sông ta" sở dĩ
có được là nhờ “những cuộc đời" đã hóa thân để góp nên, mà cuộc đời đó
không ai khác chính là nhân dân. Nhân dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà
con góp cả cuộc đời và số phận của mình.
- Thông qua đoạn thơ, chủ thể trữ tình bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của
cảnh quan thiên nhiên kì thú, về những truyền thống quý báu của dân tộc;
thể hiện niềm nâng niu, trân trọng và ngưỡng mộ trước những đóng góp
lớn lao của nhân dân.
Nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và trữ tỉnh, giữa suy tưởng và
cảm xúc; là sự vận dụng sáng tạo thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt của
âm hưởng, nhịp điệu; của các biện pháp liệt kê, trùng điệp...
+ Nhà thơ đã khéo léo sử dụng linh hoạt chất liệu truyện kể dân gian, chất
liệu văn hóa dân tộc để sáng tạo hình ảnh và thể hiện cách cảm nhận độc đáo
về đất nước; cách triển khai ý thơ đi tử cụ thể đến khái quát phù hợp với các
suy tưởng chính luận.
+ Ngôn ngữ gần gũi với đời sống mà vẫn mới mẻ; hình ảnh quen thuộc gợi
mở nhiều liên tưởng sâu sắc trong lòng độc giả.
Vấn đề 5. (18 câu thơ tiếp): Nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước, tác giả
khẳng định không ai khác, chính Nhân dân là người làm ra lịch sử, truyền
thống dân tộc, làm ra ĐN.
Em oi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
= Đất Nước trong bốn nghìn năm là lớp lớp thế hệ con trai, con gái tự hào
xung phong gìn giữ, bảo vệ và phát huy truyền thống dân tộc.
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
→ Không ai khác, những người dân vô danh đã sống và chết để gìn giữ Đất
Nước. Mở đầu đoạn thơ là lời gọi đầy tha thiết, nồng nàn cất lên từ đáy lòng
của nhà thơ
Em oi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước.
+ Đó là lời gọi cùng nhau hướng cái nhìn về bốn nghìn năm lịch sử, nhìn vào
dòng chảy xa xăm, sâu thẳm của dân tộc trong bốn nghìn năm ông cha ta đã
gìn giữ và bảo vệ ĐN. + Nhìn vào bốn nghìn năm để quan sát và chiêm
nghiệm về công sức của Nhân dân đã dành cho Đất Nước trong suốt thời
gian dài đằng đằng ấy.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con
+ Trong bốn nghìn năm lịch sử ấy, chúng ta tự hào về những chàng trai, cô gái
đã xung phong ra mặt trận, tự hào về tuổi trẻ Việt Nam.
+ Cách dùng từ “năm tháng nào" kết hợp cung điệp ngữ “người người lớp
lớp" cho thấy sự đông đảo thế hệ người dân trong lịch sử, họ đã cùng nhau,
thay nhau, tiếp bước nhau làm nên Đất Nước. Mỗi lớp người là một thế hệ
với vô vàn những người con gái, con trai, tất cả đều đã từng “bằng tuổi chúng
ta" bây giờ, đều đẹp đẽ, trẻ trung, đều cần cù, chịu thương chịu khó nổi tiếp
nhau hết thời này đến thời khác.
+ Những phẩm chất tốt đẹp của người dân cũng được “lớp lớp” người “con
gái con trai" gợi lên qua những việc làm cụ thể của họ: Đó là truyền thống
“cần cù lao động”, chịu thương chịu khó. Bên cạnh đó còn là truyền thống
yêu nước thương nòi. Khi Đất Nước có ngoại xâm, họ mang trong mình
truyền thống đánh giặc, người con trai trở thành Thạch Sanh, Thánh Gióng,
xông pha trận mạc; người con gái trở về “nuôi cái cùng con", đảm đang gánh
vác tăng gia sản xuất, hậu phương vững vàng.
+ Không chỉ có “người con trai ra trận" mà những người mẹ Việt Nam anh
hùng cũng “giỏi việc nước, đảm việc nhà" với truyền thống “giặc đến nhà thì
đàn bà cũng đánh" làm ta nhớ đến chị Út Tịch, chị Võ Thị Sáu...
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
+ Và cũng chính từ “lớp lớp người con gái con trai" đã xông pha mặt trận
để trở thành anh hùng, anh hùng trong công cuộc gìn giữ và bảo vệ Đất
Nước.
+ Cả một đoạn thơ xuyên suốt chiều dài bốn nghìn năm lịch sử đất nước
nhưng ta không hể thấy xuất hiện một tên riêng của bất kì ai hay một thời đại
nào, chỉ thấy điểm chung các thế hệ. Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các
anh hùng lừng lẫy đã có Tổ quốc lưu danh, còn sự đóng góp của Nhân dân thì
vô cùng vô hạn, là thầm lặng lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng tất cả cho Đất
Nước từ mồ hôi, xương máu đến tâm hồn, trí tuệ thì làm sao có thể kể xiết!
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
+ Nhà thơ NKĐ nhấn mạnh: Nhân dân – họ là những con người vô danh tươi
đẹp vô ngắn. Đó là tuổi trẻ, điệp ngữ “con gái, con trai" được lặp đi lặp lại
trong mười tám dòng thơ như một cách nhấn mạnh vẻ đẹp của thế hệ trẻ đã
xả thân vì non sông đất nước.
+ “Họ" là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác
định, và đối với cách nhìn nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm thì đó chính
là lớp lớp thế hệ “con gái, con trai" trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa
tuổi, đó là nhân dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, đông
đảo...
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ để cập đến cách sống, cách nghĩ và khẳng
định công lao của Nhân dân. Nhân dân trong cách sống “giản dị”, và cách nghĩ
rất “bình tâm”.
+ Bởi họ là những con người chân chất, thuần phác, đơn sơ, cần củ làm lụng
trên những mảnh ruộng cằn cỗi biến chúng thành hoa thơm; họ là những
người khi đất nước có ngoại xâm, họ xung phong ra trận mạc, chiến đấu bảo
vệ Đất Nước. Khi hết giặc, họ trở về với cuộc sống thường nhật, bình tâm,
thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, cứ lặng lẽ “gánh vác phần người đi
trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau".
+ Tất cả họ đều vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất
Nước", mỗi người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của đời mình luôn có
một phần đóng góp dù là nhỏ bé để dựng nước hoặc giữ nước, hoặc phát
triển hoặc để đất nước trường tồn.
+ Chính những đóng góp giản đơn nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự
lớn lao, vĩ đại của Đất Nước, và chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của
mỗi con người lại làm nên sự trưởng tồn vô hạn của Đất Nước.
Nội dung 6: Đất Nước của Nhân dân – những người làm ra và lưu giữ ngôn
ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần, ca dao thần thoại...
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con củi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
→ Nhân dân chính là người tạo dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa,
những giá trị trong đời
sống tinh thần.
Đề Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
→ Nhân dân chính là người tạo dựng nên ca dao dân ca, ca dao thần thoại,
cổ tích. Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thi bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
=> Khúc ca dao thần thoại vang ca khắp mọi miền, ngân dài trong dáng hình
Đất Nước. Không chỉ là những con người vô danh bình dị, cống hiến cả cuộc
đời mình cho Đất Nước, mà Nhân dân còn giữ gìn và truyền lại cho các thế
hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của Đất Nước.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con củi Họ truyền giọng điệu
mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến đi dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái Có ngoại xâm thì chống
ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
+ Điệp đại từ “họ” mang đến cảm giác đông đảo, và đúng là như vậy vì quản
chúng Nhân dân không thể và không bao giờ có thể là một cá nhân nào đó.
+ Những câu thơ kết hợp với hệ thống các động từ mang tính chất lưu
truyền “giữ... truyền... hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ
mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng
đất nước. Đó là “gánh vác" việc thế hệ trước giao phó, gìn giữ, duy trì và
phát triển để rồi “dặn dò con cháu” nối tiếp.
+ Sau những động từ “giữ... truyền... gánh... đắp... be..." là những hình ảnh
hữu hình như “hạt lúa... lửa... hòn than..." hoặc vô hình “giọng điệu... tiếng
nói... tên xã... tên làng...", tất cả đều là những giá trị tinh thần hoặc vật chất
để làm nên Đất Nước và gắn bó mật thiết với cuộc sống hàng ngày của Nhân
dân.
Nhân dân đã lưu truyền nền văn minh lúa nước:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Đất Nước Việt Nam nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước, nhân dân
ta bao đời nay sống bằng nghề trồng lúa. “Hạt lúa” – chính là thứ hạt ngọc
chất chịu tinh hoa của đất trời, là kết quả của quá trình “một nắng hai
sương”, “dãi nắng dầm mưa" của bao thế hệ. Nay nó đã trở thành biểu
tượng văn hóa đầy tự hào, trở thành biểu tượng cho truyền thống lao động
cần củ của người nông dân.
Nhân dân đã lưu truyền đời sống tinh thần:
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con củi
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
+ Lửa chính là nguồn sống, ảnh lửa hướng ta đến cuộc sống thịnh vượng,
ấm no, hạnh phúc, sung túc sum vầy... (Phân tích mở rộng: nghe hướng dẫn
trong bài giảng)
+ Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân dân, trong sự vận động và phát triển
theo dòng lịch sử, là sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống mưu
sinh hoặc khai hoang bờ cõi... Trong những “chuyến di dân" như vậy, Nhân
dân không chỉ mang theo đổ đặc, lương thực mà còn “gánh” theo những
giá trị tinh thần thiêng liêng, quý báu.
+ Động từ “gánh” làm cho tên xã, tên làng bỗng trở nên cụ thể và gợi cho ta
nhớ về những phong tục tập quán, những vùng đất với những cái tên mang
thân thuộc. Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho đời sau an cư
lạc nghiệp:
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
+ Những cụm động từ “đắp đập”, “be bờ” gợi lên sự vun vén cho đầy đặn
hơn, vững chắc hơn, đẩy là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những
người đi trước dành cho con cháu đời sau.
+ Câu thơ có cấu tứ tiểu về giữa hai thế hệ “đời trước – đời sau" và tính chất
công việc “chuẩn bị - hưởng thụ” đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng
của những người đi trước: Họ sẵn sàng và chấp nhận vất vả, lo lắng, làm lụng
không mong muốn hưởng thụ nhưng vẫn rất thanh thản, bình dị, mãn
nguyện trong công việc với niềm tin con cháu hưởng phúc, sung sướng, ấm
no từ sự hi sinh của họ.
+ Từ đó, tác giả còn nhắc nhở chúng ta về đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
“Uống nước nhớ nguồn"... Hưởng thụ thành quả ngày hôm nay phải nhớ đến
công sức những con người đã hi sinh cả cuộc đời mình, đã dày công vun đắp
trái thơm quả ngọt cho ta hưởng thụ ngày hôm nay.
Nhân dân đã lưu truyền ngôn ngữ, giọng điệu:
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
+ Tiếng nói là của cải tinh thần cũng là vật chất vô giá, là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất của cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể
góp phần làm nên bản sắc văn hóa của một dân tộc.
+ Và có ngôn ngữ, có tiếng nói là có sự khẳng định văn hóa riêng. Tiếng nói,
giọng điệu, ngôn ngữ ấy trường tổn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp
hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc
chiến tranh, bất chấp tất cả những âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm
lược.
+ Giọng điệu, ngôn ngữ ta sử dụng ngày hôm nay, là tiếng nói của dân tộc là
nhờ vào công sức và tấm lòng của Nhân dân từ bao đời nay, qua những lời
ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những lời ca, câu ví dân gian, trong thế
giới của những câu truyện cổ tích.... Mạch cảm xúc đẩy suy ngẫm mang tính
triết lý của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhắn gửi cứ thể dồn tụ đến cuối
đoạn trích khiến độc giả càng đọc càng thích thú, càng đọc càng thấy thấm
thía tư tưởng “Đất Nước Nhân Dân – Đất Nước của ca dao thần thoại":
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
+ Những danh từ chung “Đất Nước”, “Nhân dân” cũng trở thành danh từ
riêng và được viết hoa một cách trang trọng, và được lặp lại nhiều lần trong
hai câu thơ cho thấy sự gắn bỏ không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất
Nước.
+ Sau những vần thơ ngọt ngào nêu rõ vai trò của Nhân dân, khẳng định công
lao to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ “Để
Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" đã giúp nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm lý
giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bài.
+ Không phải ngẫu nhiên mà tử đầu đến cuối đoạn trích, rất nhiều lần nhà tri
thức tài hoa của chúng ta lại nhắc nhiều đến ca dao thần thoại gắn với Nhân
dân như vậy. Phải chăng, đó là lời gợi mở cho ý thơ: “Đất Nước của Nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại".
+ “Ca dao thần thoại” có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian,
mà văn hóa dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu
giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân dân. Văn học dân gian
do Nhân dân sáng tạo nên và nó là sản phẩm phản ánh cuộc sống của Nhân
dân.
+ Chính vì vậy, nhà thơ thể hiện tư tưởng “Đất Nước Nhân dân" là hoàn toàn
có căn cứ và là căn cứ không thể tranh cãi được bởi Đất Nước được tạo
dựng, được gìn giữ, bảo vệ, tổn tại và phát triển... là từ tình yêu và nỗi đau,
từ mồ hôi, nước mắt, từ tính mạng và máu xương của vô vàn những con
người thầm lặng dâng hiến.
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cắm bằng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gây
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Qua “ca dao thần thoại", Nhân dân đã đem đến và lưu truyền cho biết bao
thế hệ những bài học đạo lí sâu sắc nhằm răn dạy chúng ta phải biết yêu
thương, che chở, đùm bọc, cưu mang lẫn nhau; biết trân trọng công sức
nghĩa tình, biết ở hiền gặp lành, tránh xa cái ác, hướng tới điều thiện; biết
kiên nhẫn phục thủ, biết học cách làm người sao cho phải đạo.... Dạy anh biết
“yêu em từ thuở trong nôi"
+ Đây là phương diện đầu tiên nhà thơ muốn chúng ta khắc ghi, đó là tình
cảm thủy chung son sắt giữa con người với con người trong mọi mối quan hệ.
+ Ý thơ được lấy từ câu ca dao: “Yêu em từ thuở trong nội – Em nằm em khóc
anh ngồi anh ru”, ý thơ khẳng định tình yêu thủy chung bền vững không gì có
thể đong đếm được. Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
+ Phương diện thứ hai nhà thơ để cập đến là tình nghĩa giữa con người với
con người, bởi nó là thứ nặng hơn nhiều lần mọi giá trị vật chất.
+ Quan niệm này được lấy từ ý ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông - Vàng rơi
không tiếc, tiếc công cầm vàng”. Ở đây chính là quan niệm sống đẹp mà Nhân
dân muốn gửi gắm thông qua những câu ca dao ngọt ngào, sâu lắng được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi ca dao đã “dạy anh biết": Sống
trên đời cản quý trọng tình nghĩa.
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
+ Ý thơ lấy từ câu ca dao: “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy,
gặp đâu đánh què”, lại một lần nữa ta bắt gặp hình ảnh cây tre Việt Nam
không chỉ mang cốt cách tâm hồn người dân Việt mà còn luôn gắn bó với
công cuộc gìn giữ đất nước.
+ Đánh giặc ngoại xâm bảo vệ non sông đất nước là truyền thống quý báu của
dân tộc ta, và với một người sâu sắc như nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm thì ông
không thể quên thể
hiện điểu đó trong ý thơ của mình. Và đó cũng là phương diện thứ ba mà
Nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu.
+ Ý thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của Nhân
dân trong công cuộc gìn giữ Đất Nước. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã
luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm, cuộc chiến nào cũng kéo dài hàng
chục năm, thậm chí hàng trăm năm, hàng nghìn năm... Thử hỏi nếu không
có kiên trì, bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt thì dân tộc ta có thể vượt
qua bao khó khăn, gian khổ, mất mát hi sinh đến ngày toàn thắng không?
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
+ Ý thơ gợi cho ta hình ảnh về những dòng sông, những dòng sông không biết
bắt đầu từ đâu, tử bến bờ nào nhưng khi đã chảy vào mảnh đất cong cong
hình chữ S này sẽ hòa chung một câu hát, một điệu hò.
+ Ý thơ này làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca
Huế ngọt ngào trên sông Hương hay những âm thanh tha thiết của những
câu hò ví dặm trên sông Lam và cả những tiếng hò sâu lắng của những người
“chèo đò, kéo thuyền vượt thác" trên dòng sông khúc thượng nguồn vùng
núi Tây Bắc... Đó là tiếng hát được lưu truyền từ đời này sang đời khác, nó
thể hiện tình yêu cuộc sống trong lao động, tình yêu quê hương đất nước sâu
đậm, cùng với đó là tinh thần lạc quan giúp chúng ta vững tin vào ngày mai.
+ “Dòng sông” ở đây có thể hiểu là dòng sông văn hóa, dòng chảy lịch sử. Và
đó cũng là sự hợp thành của dòng máu 54 dân tộc anh em. Dòng sông đó
“trăm màu, trăm dáng" như sự đa dạng và phong phú trong văn hóa của
người người dân Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm
để làm nên một Đất Nước đậm đà bản sắc dân tộc.

You might also like