Professional Documents
Culture Documents
đất nước
đất nước
đất nước
Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà
thơ trẻ trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri
thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Mở rộng ý (học sinh chú ý nghe giảng): “Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy
tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực
vào cuộc chiến đấu của nhân dân” – Có lẽ, đây chính là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến “Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân” mà nhà thơ gửi gắm vào đứa
con tinh thần của mình. Nếu những nhà thơ khác từ thời đại trước đến
những năm tháng kháng chiến hào hùng chống Pháp và chống Mĩ đều nhìn
đất nước tử khía cạnh khách quan hay định nghĩa đất nước thuộc quyền sở
hữu của một triều đại vua chúa thì Nguyễn Khoa Điểm lại nhìn đất nước từ
cái nhìn rất gần gũi, quen thuộc và gắn liền với những gì thuộc về nhân dân.
Bởi lẽ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu
của nhân dân, cùng nhân dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc, cùng nhân dân cầm
súng, cùng nhân dân đấu tranh nên ông thấu hiểu những hi sinh mất mát nhà
nhân dân hứng chịu, những khó khăn gian khổ, những mong muốn của nhân
dân. Chính vì vậy, đoạn trích "Đất Nước" nói riêng và trưởng ca "Mặt đường
khát vọng" nói chung đã tập trung thể hiện những gì thuộc về nhân dân. Và
nó như một khúc tráng ca để nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về
những gì Nhân dân đã cống hiến cho Đất Nước.
2. Tác phẩm
- Đoạn trích “Đất Nước" thuộc phần đầu chương V, của trưởng ca “Mặt
đường khát vọng” viết năm 1971, là một trong những đoạn thơ đặc sắc, thể
hiện những cảm nhận riêng, độc đáo của nhà thơ về Đất Nước. Ở đó, nguồn
cảm hứng chi phối mạch thơ là “Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân" về các
phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa, đời sống tinh thần,
- Trường ca “Mặt đường khát vọng" viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở thành
thị các vùng tạm chiếm miền Nam: Họ nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mĩ. Chính vì vậy, văn học giai đoạn này nói chung và thơ Nguyễn Khoa
Điềm nói riêng đã hướng về nhân dân, đất nước, khi họ ý thức được sứ mệnh
của thế hệ minh và đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến
đấu của toàn dân tộc.
- Định nghĩa đơn thuần về “Đất nước":
+ “Đất nước" là toàn bộ vùng lãnh thổ bao gồm vùng trời, vùng đất, vùng
biển; là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có ranh giới biên cương, lãnh
thổ phân chia.
+ Để đất nước tồn tại và phát triển là nhờ vào sự gắn kết sâu sắc giữa các thế
hệ về văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thống lịch sử...
3. Bố cục bài thơ
Phần 1. Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định nghĩa
đến nhận thức, trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.
* Vấn đề 1. (9 câu thơ đầu): Lý giải cội nguồn của Đất nước có từ rất lâu đời
và rất gần gũi, thân thương đối với mỗi con người (tử huyền thoại, cổ tích
đến truyền thống yêu nước, lao động cần cù, thuần phong mỹ tục và lối sống
tình nghĩa thủy chung)
“Khi ta lớn lên.. -
có từ ngày đó..."
* Vấn đề 2. (20 câu thơ tiếp theo): Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác
giả từ nhiều
phương diện (địa lý, lịch sử, văn hóa)
“Đất là nơi anh...
..... cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
* Vấn đề 3. (13 câu thơ tiếp theo): Đất nước là sự kết tinh, hóa thân trong
mỗi con người, chúng ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với
sự trưởng tổn của quê hương, xứ sở bằng những nhận thức và hành động
cụ thể (gắn bó, san sẻ, hóa thân...)
“Trong anh và em hôm nay...
....Đất Nước muôn đời"
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng
hình Tổ quốc; làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần..; Nhân
dân làm ra thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca..
* Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất nước được tạo dựng từ
những địa danh, thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phận, tính cách, tâm hồn
của nhân dân (từ tình nghĩa thủy chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất
của con người; từ cội nguồn thiêng liêng cho đến truyền thống hiếu học, non
sông gấm vóc tươi đẹp vô ngắn...)
“Những người vợ nhớ chồng....
.. đã hóa núi sông ta"
* Vấn đề 5. (18 câu thơ tiếp theo): Nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử Đất nước,
không ai khác chính Nhân dân là người làm ra lịch sử dân tộc.
"Em oi em....
..... đã làm ra Đất Nước”
* Vấn đề 6. (17 câu thơ cuối): Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân", bởi
Nhân dân là người tạo dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa, tinh hoa
cuộc sống cho đến ca dao thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca...
“Họ giữ và truyền cho ta...
....trên trăm dáng sông xuôi."
4. Những nét độc đáo và đặc sắc nghệ thuật được thể hiện trong bài thơ “Đất
Nước”
4.1. The tho tu do
+ Thể thơ tự do gần như văn xuôi giúp từng ý thơ trong bài đều vận động
bằng chiều sâu trong triết lý trí tuệ; không véo von cầu kì, không bó buộc
khuôn khổ, không ràng buộc cảm xúc khi thể hiện.
+ Có những đoạn câu thơ chỉ có ba chữ, có những đoạn câu thơ giãn ra đến
mười hai, mười bốn chữ, cách gieo vần, hợp âm biến tấu linh hoạt: khi vẫn
chéo, vẫn lưng, không vẫn... Cách ngắt nhịp theo ý thơ, nhạc điệu có nhiều
âm sắc hiện đại...
4.2. Giọng thơ đậm chất trữ tinh có sự đan xen giữa triết luận và chất chính
luận.
+ Mượn hình thức tự sự trữ tỉnh thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa
anh và em, mang tính giải bảy, bộc bạch, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về tổ quốc,
lỏng vào đó suy nghĩ về trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình đối với đất
nước. Chính chất tư duy logic và chất thơ đã làm cho việc lý giải các vấn đề
triết luận, gửi gắm tình cảm chung, tỉnh cảm thiêng liêng, lớn lao về đất nước
trở nên sâu sắc.
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và triết lý suy tư, giữa trữ tình và
chính luận: giúp giọng thơ thêm phần tha thiết, đầm thẳm, thủ thỉ, nhẹ
nhàng và sâu lắng; làm cho những định nghĩa mang tầm triết học về đất
nước trở nên dung bị, giản đơn, dễ hiểu, dễ nhớ mà thấm thía, quen thuộc
và gần gũi.
4.3. Sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều
phương diện.
+ Trong chiều dài của lịch sử. Từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ đến thời các
vua Hùng từ thời trung đại đến hiện đại; từ quá khứ, hiện tại đến tương lai...
+ Trong chiều rộng của không gian địa lý: từ Bắc – Trung – Nam đến vùng
núi, đồng bằng, vùng biển; từ không gian sinh hoạt đến không gian riêng tư
của tình yêu đôi lứa; từ không gian hùng vĩ của núi cao, sông dài đến rừng
vàng, biển bạc... Từ cụ thể đến khái quát, từ gần gũi, thân thuộc đến cao cả,
thiêng liêng...
+ Trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân
tộc... Khẳng định: Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó mật
thiết với cuộc sống của nhân dân. Bởi bất kì đâu, bất kì thời điểm nào, đất
nước cũng hiện hữu ba phương diện trên và nó từ nhân dân mà có. Vậy
nên, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân" chính là hệ quy chiếu mọi cảm xúc
và suy tưởng, là cốt lõi trong quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
muốn nhắn gửi trong đứa con tinh thần của mình. Nhờ phát hiện mới mẻ
này mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã làm sâu sắc hơn ý niệm về Đất Nước
trong thơ ca kháng chiến thời chống Mĩ, làm nổi bật sự quan trọng của tầng
lớp nhân dân, tư tưởng “Đất nước của Nhân dân": Bởi Đất Nước có trong
đời sống mọi mặt của Nhân dân, do Nhân dân làm ra, do Nhân dân gìn giữ,
do Nhân dân lưu truyền; Đất Nước sẽ trưởng tổn bất diệt cùng Nhân dân,
được nói bằng tiếng nói của Nhân dân, được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ con cháu trong Nhân dân...
Khác với quan niệm của các nhà cách mạng, các nhà thơ thời đại trước khi họ
tập trung nhấn mạnh vào quyền sở hữu, quyền làm chủ đất nước: coi đất
nước là của Vua: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư" (Sông núi nước Nam vua
Nam ở) trong bản tuyên ngôn được coi là đầu tiên khẳng định chủ quyển của
người Việt trên lãnh thổ của mình. Hay Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ"
cũng nói những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu “thái ấp của ta, bổng lộc
các người". Đến giai đoạn sau, có nhiều tiến bộ hơn về sự quan trọng của
nhân dân nhưng không khẳng định “Đất Nước là của Nhân dân": Nguyễn Trãi
nói “Có lật thuyền mới thấy dân như nước"; Lênin nhận định “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng"; Nguyễn Đình Chiểu trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” cũng đề cao sức mạnh của nhân dân... Nhưng phải đến “Đất Nước"
của Nguyễn Khoa Điểm mới có cái nhìn nhận rõ ràng, chi tiết, mới mẻ là: Đất
Nước không của ai hết, không thuộc quyền sở hữu của thế lực cầm quyền
nào mà “Đất Nước của Nhân dân”.
4.4. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian.
+ Vận dụng một cách sáng tạo, không trích nguyên văn những câu da dao
dân ca hay thành ngữ, tục ngữ, không kể lể dài dòng mà chỉ nắm bắt lấy cái
hồn của văn hóa dân gian để gợi liên tưởng, tạo suy ngẫm cho độc giả, tạo
cảm giác vừa mới lạ vừa thân thuộc.
+ Chất liệu văn hóa lấy từ đời sống dân gian vừa gợi ra thế giới cổ tích vừa
mang tính chất trang trọng, thuyết phục phù hợp với mọi đối tượng: từ
người tri thức, người có trình độ văn hóa đến những người nông dân chân
lấm tay bùn đều có thể hiểu, đều phải liên tưởng tim tôi, đồng sáng tạo
cùng tác giả.
4.5. Tư duy nghệ thuật hiện đại..
+ Mượn những nghịch li để diễn tả những khám phá, tư tưởng mới mẻ của
mình. Không vay mượn hay dùng những từ ngữ sáng tạo để thể hiện ý thơ
mà dùng những từ ngữ rất quen thuộc, dân đã, gần gũi với lời ăn tiếng nói
hằng ngày.
+ Trong một câu thơ thường hay xuất hiện hai đại lượng trái ngược: bên này
cái nhỏ bé, bên kia cái lớn lao: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà
ăn”; “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”; “Đất là nơi Chim về”; “Nước là nơi Rồng
ở"....
4.6. Ngôn ngữ
+Tác giả viết hoa danh tử “Đất Nước" thể hiện sự trân trọng, thành kính,
trang nghiêm
khi nói về Đất Nước của mình.
+ Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, chân thành, gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng
ngày nhưng cũng đẩy mãnh liệt gợi về nguồn cội xa xăm.
+ Giọng thơ, nhịp điệu lúc tha thiết lúc trang nghiêm, sâu lắng; lúc trầm lặng,
suy tư đậm chất chính luận; lúc lại như nhắn nhủ, thẩm thì, thủ thỉ, tâm sự.....