VỢ NHẶT

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

VỢ NHẶT

Kim Lân

A. Kiến thức cơ bản


I. Tác giả
1) Tiểu sử
- Quê: Bắc Ninh – là cái nôi của văn hóa Bắc Bộ, có nhiều lễ hội, những văn hóa truyền thống
- Gia đình thuần nông. Bản thân Kim Lân đã từng làm thợ sơn guốc, làm thợ mộc.
- Kim Lân chứng kiến những biến động lớn lao của lịch sử Việt Nam thế kỉ XX như: sức mạnh
quật khởi của đồng bào ta trong CMT8, nạn đói kinh hoàng 1945, phong trào kháng chiến chống
Pháp,…
- Trong nạn đói 1945, làng quê của Kim Lân phải hứng chịu hậu quả nặng nề, nhiều người chết
đói, nhiều người phải ăn cháo cám cầm hơi qua ngày, trong đó có vợ chồng Kim Lân.
2) Sự nghiệp
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn
- Truyện ngắn của Kim Lân chuyên viết về nông thôn và đời sống của người nông dân bằng sự
am hiểu cảnh ngộ, tâm lý của người trong cuộc. Kim Lân được coi là “con đẻ của đồng ruộng”, là
“nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn” (Nguyên Hồng).
- Hình tượng người nông dân nghèo trong sáng tác của Kim Lân: chất phác, thật thà, hồn hậu,
lạc quan, yêu đời. Tiêu biểu là nhân vật ông Hai trong “Làng”; là Tràng, thị, bà cụ Tứ trong “Vợ
Nhặt”,…
- Tác phẩm của Kim Lân toát lên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc
LHMR: Nông thôn và đời sống người nông dân là một đề tài quen thuộc trong văn học Việt
Nam trước và sau cách mạng. Trước cách mạng, các tác phẩm “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố giấy lên
tiếng kêu cứu đói, sáng tác của Nam Cao cảnh tỉnh “cứu lấy nhân cách con người”,… Sau CMT8,
nhiều nhà văn tiếp tục khám phá, sáng tạo trên một mảnh đất văn học đã có nhiều người cày xới.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, rồi đến “Vợ Nhặt” của Kim Lân đã đặt ra một vấn đề nhức nhối:
tồn tại hay sống, nô lệ hay tự do. Hành trình đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, từ
bóng tối nô lệ đến ánh sáng của cuộc đời tự do của Mị và A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” (Tô
Hoài), của Tràng và thị trong “Vợ Nhặt” (Kim Lân) vừa minh chứng cho sức sống tiềm tàng mãnh
liệt của con người Việt Nam, vừa cho thấy sức sáng tạo tài hoa của mỗi người nghệ sĩ. Đúng như
chân lý nghệ thuật mà Marcel Proust đã phát biểu: “Một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở
chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”.

II. Tác phẩm


1) Vị trí xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng: “Kim Lân đã mượn tay thần để viết nên thần bút ‘Vợ Nhặt’”.
Đây là truyện ngắn xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân.
- Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân sáng tác trước cách mạng
nhưng thất lạc bản thảo. Hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết
nên truyện ngắn “Vợ Nhặt” và in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
2) Nhan đề
- “Vợ Nhặt” là một sự kết hợp từ độc đáo. “Vợ” là danh từ chỉ người có vị trí quan trọng, có vai
trò thiêng liêng trong tổ ấm gia đình. Còn “nhặt” là động từ, gợi liên tưởng tới hành động nhặt
nhạnh những thứ không còn giá trị mà người ta vứt bỏ ngoài đường như cọng rơm cái rác.
→ Sự kết hợp từ trong “Vợ Nhặt” gợi cảm nhận về thân phận rẻ rúng của người phụ nữ trong
nạn đói 1945 qua đó làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm.
3) Những vấn đề trọng tâm trong Vợ Nhặt
a/ Tình huống truyện éo le + cảm động (đề 1)
b/ Nhân vật Tràng
- Trên đường dẫn thị về
- Ngoài chợ tỉnh
- Trong buổi sáng hôm sau
→ Một chàng trai nông dân nghèo, xấu, ế vợ nhưng nhân hậu, phóng khoáng
c/ Nhân vật thị
- Lai lịch: không
- Ngoài chợ tỉnh
- Trên đường theo Tràng về
- Trong bữa cơm ngày đói
- Nhạy cảm trước những tín hiệu đổi đời
- Nạn nhân của nạn đói
- Một người khát khao sống, khát khao hạnh phúc gia đình
→ Vẻ đẹp tiềm ẩn
d/ Nhân vật bà cụ Tứ
- Bà mẹ nông dân nghèo, có cuộc đời đau khổ
- Buổi tối lúc Tràng đưa vợ về: ngạc nhiên, lo lắng, thương con
- Buổi sáng sau khi con trai có vợ
- Trong bữa cơm ngày đói + chi tiết nồi chè khoán
→ Biểu tượng của tình mẫu tử và tình người trong nạn đói
e/ Giá trị hiện thực, nhân đạo
- Đó là bức tranh hiện thực sinh động về số phận của người nông dân nghèo trong nạn đói kinh
hoàng 1945.
- Ca ngợi tình người, tình mẫu tử và khát vọng sống mãnh liệt của con người Việt Nam.
B. LUYỆN ĐỀ
Đề 1: Cảm nhận về tình huống truyện trong “Vợ Nhặt” của Kim Lân
Yêu cầu cần đạt: Ý nghĩa của hành động Tràng nhặt vợ trong năm đói

Mở bài 1
Kim Lân là nhà văn có biệt tài viết truyện ngắn. Truyện của Kim Lân chuyên viết về nông thôn
và đời sông của người nông dân Bắc Bộ bằng tấm lòng của một người được mệnh danh là “con đẻ
của đồng ruộng”. Truyện ngắn “Vợ Nhặt” được sáng tác sau khi hòa bình lập lại (1954) dựa vào
một phần tác phẩm của tiểu thuyết cũ có tên “Xóm ngụ cư” mà Kim Lân sáng tác trước CMT8. Tác
phẩm in trong tập “Con chó xấu xí” ra mắt bạn đọc vào năm 1962, nổi tiếng được ngợi ca là “thần
viết”. Thành công của tác phẩm trước hết đến từ tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

Mở bài 2
Marcel Proust đã từng khẳng định: “Một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ cần một
vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Thật vậy, “cuộc thám hiểm” trong thế giới nghệ thuật cần
sự sáng tạo tài hoa của người nghệ sĩ. Kim Lân là nhà văn như thế. Trong nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam sau 1975, Kim Lân được biết đến như một cây bút viết ít nhưng ngày càng được khâm
phục nhiều. Cũng viết về một đề tài quen thuộc trong văn học là nông thôn và đời sống người nông
dân Bắc Bộ nhưng mỗi truyện ngắn của Kim Lân đều mang lại những khám phá mới mẻ, bất ngờ
khiến người ta ngỡ là “thần viết” (Nguyễn Khải). Một trong những sức hấp dẫn đầu tiên của truyện
ngắn “Vợ Nhặt” là đến từ tình huống truyện độc đáo.

Thân bài
I. Tổng
1) Giới thuyết về tình huống truyện
Truyện ngắn là một thể loại văn học độc đáo, hấp dẫn. Hạt nhân của thể loại truyện ngắn là tình
huống truyện. Đó là những sự kiện đời sống được nhà văn sáng tạo trong tác phẩm. Tình huống
truyện ngắn bao giờ cũng xoay quanh tình huống mà ở đó có sự phức tạp, éo le, nghịch lí của cuộc
đời để tạo nên những sự tương phản bất ngờ. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Tình huống là
khúc, là lát cắt cuộc sống”. Từ một khoảng khác nhắn ngủi giúp người đọc cảm nhận được diện
mạo của đời sống, tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện là yếu tố quyết định của nghệ thuật
truyện ngắn và là thước đo tài năng, sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong văn học, ta đã từng gặp tình
huống tầng hạng chờ tàu đầy ám ảnh trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Cuộc hạnh ngộ với nhiều
tấm lòng trong thiên hạ với “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, hành trình nhận thức, khắc khoải
đau đáu về nghệ thuật và cả cuộc đời của người nghệ sĩ Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu.
2) Cảm nhận chung về tình huống “nhặt vợ”
“Vợ nhặt” của Kim Lân xoay quanh tình huống độc đáo. Đó là việc “nhặt vợ” của Tràng – một
tình huống đùa hoá thật vừa khó tin, vừa éo le cảm động. Qua tình huống truyện, người đọc cảm
nhận được hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

II. Phân
1) Tình huống truyện độc đáo trước hết thể hiện ở nhan đề của tác phẩm (CY)
Nhan đề “Vợ Nhặt” là một sự kết hợp từ độc đáo. “Nhặt” là động từ chỉ những hành động nhặt
nhạnh của rơi của vãi, cọng rơm cái rác không còn giá trị ngoài đường. Trong lúc đó, danh từ “vợ”
lại chủ vai trò, vị trí quan trọng, thiêng liêng của người phụ nữ trong tổ ấm gia đình. Nhan đề “Vợ
Nhặt” bởi vậy đã hé mở số phận bị rẻ rúng của con người trong nạn đói kinh hoàng 1945.
2) Tình huống truyện còn được thể hiện ở bối cảnh năm đói mà Kim Lân miêu tả trong tác
phẩm
Chuyển ý: Bối cảnh năm đói được nhà văn miêu tả vừa chân thật vừa cảm động đã góp phần
thể hiện sự éo le, độc đáo của tình huống truyện. Truyện mở ra một không gian đói khát, chết chóc,
bóng tối bao trùm. Những khuôn cửa tối, những dãy phố lúp xúp không ánh đèn lửa, những khuôn
mặt hốc hác, những đôi mắt ngập đầy bóng tối,… xuất hiện trong ân thanh của tiếng quạ gào từng
hồi thê thiết, trong tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói. Cùng với đó là mùi của tử khí,
“mùi gây của xác người”. Những con người năm đói đi lại “dật dờ như những bóng ma”, “nằm
ngổn ngang khắp lều chợ”. Bên cạnh những cái thây nằm còng queo là “người chết như ngả rạ”.
→ Chỉ vài chi tiết, nhà văn Kim Lân đã mở ra trước mắt ta người nông dân trong nạn đói lịch
sử xảy ra năm 1945. Cuộc sống cõi dương mà phân nửa đã thành cõi âm, thê lương chết chóc bao
trùm.
Giữa cảnh tối sầm và đói khát ấy, việc Tràng nhặt vợ đã mang lại ánh sáng sự sống.

3) Hành động nhặt vợ của Tràng gây nên sự ngạc nhiên đối với tất cả mọi người
Tràng là người nông dân ngụ cư nghèo khổ ế vợ ấy thế mà giữa cảnh đói khát chết chóc, Tràng
bỗng nhặt được vợ, bỗng có người đàn bà theo không về khiến cho mọi người ngạc nhiên, sững sờ.
Những người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên vì sự xuất hiện của một người đàn bà xa lạ đi theo
sau Tràng. Họ bàn tán xì xào, rồi khi hiểu ra là Tràng nhặt vợ, họ càng ngạc nhiên hơn vì giữa lúc
đói khát chết chóc này Trạng lại rước thêm một miệng ăn về nhà. Bọn trẻ con trong xóm ngụ cư
cũng ngạc nhiên nên gào lên trêu chọc: “Chông vợ hài”.
Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại quá đỗi ngạc nhiên vì anh con trai của nà ế vợ lâu nay, bỗng dưng
nhặt được vợ. Bà ngạc nhiên vì dột nhiên có người đàn bà lạ trong nhà, người đàn bà đó lại chào
mình bằng “u” . Sự việc quá đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên đến sững sờ, không tin vào những
gì mình nghe thấy, nhìn thấy. Chỉ đến khi nghe con trai mình giải thích: “Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ” thì bà mới hiểu ra cơ sự. Lòng bà cụ Tứ vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp
của đứa con mình. Trên khuôn mặt khắc khổ của bà ứa ra những giọt nước mắt xen lẫn nụ cười.
Tràng: Ngay đến cả Tràng, người nhặt vợ, cũng rất ngạc nhiên. Anh không dám tin là mình đã
có vợ. Chỉ vài hai câu trêu đùa vu vơ mà Tràng đã có vợ theo về, Thậm chí đến sáng hôm sau khi
hạnh phúc đã thật sự trong tay, Tràng vẫn ngỡ như một giấc mơ, vẫn ngỡ ngàng như không phải.

4) Tình huống truyện không những éo le nà còn cảm động


Chuyển ý: Thế nhưng việc Tràng nhặt được vợ giữa năm đói còn mang lại tình người cảm
động , làm xáo trộn tâm lý của những người xung quanh. Họ vừa mừng vừa lo cho hạnh phúc của
vợ chồng Tràng.
Những người dân xóm ngụ cư cũng mừng cũng vui, “khuôn mặt u tối, hốc hác của họ bỗng
rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”.
Thế nhưng họ cũng lo, cũng thương cảm cho hạnh phúc của đôi trẻ trong hoàn cảnh ngặt nghèo lúc
bấy giờ: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được
cái thì này không?”. Cuộc sống đói khát, chết chóc khiến họ coi người vợ là “nợ đời”.
Bà cụ Tứ - mẹ Tràng vừa mừng vừa thương con, vừa tủi vừa lo cho con. Bà mừng vì đứa con
trai ế vợ của bà đã yên bề gia thất nhưng bà cũng thương con vì: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thương quá…”. Cùng với tình thương của nỗi lòng người mẹ là nỗi lo “biết chính nó có nuôi nổi
nhau qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng điều đáng quý hơn cả là bằng tình thương con
bao la, bằng tình người cảm động, bà cụ Tứ đã dang rộng vòng tay đón thị rồi hướng các con mình
tới một tương lai tươi sáng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
Tràng: Ngay đến cả Tràng cũng vậy. Ban đầu khi thị vin vào một câu đùa để theo Tràng về,
Tràng “cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không, lại còn
đèo bòng” nhưng sau đó Tràng đã đánh cược “Chậc, kệ!” để có được hạnh phúc gia đình.
Thị: Đáng thương và buồn tủi nhất có lẽ là người vợ nhặt. Thị vin vào câu bông đùa, bốn bát
bánh đúc để theo không về làm vợ một người đà ông xa lạ chưa biết tốt xấu thê nào. Hạnh phúc hệ
trọng của đời người con gái được thị quyết định một cách chóng vánh.
5) Ý nghĩa của tình huống truyện
a/ Tình huống truyện góp phần khắc họa tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề tác phẩm
Tình huống truyện đã góp phần làm tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật. Trong sự giao
tranh giữa bóng tối và ánh sáng, cái chết và sự sống, sự xuất hiện của đôi vợ chồng Vợ Nhặt đã
mang lại ánh sáng của niềm tin yêu cuộc đời, của tình người, của khát khao sống, khát khao hạnh
phúc. Họ đi đến đâu, ánh sáng lan tỏa tới đó, mang đến những sự đổi thay diệu kỳ. Xóm ngụ cư u
tối buồn tẻ bỗng xao lên như có một cát gì đó tươi mát thổi vào cuộc sống ấy của họ. Khoảnh khắc
ấy ở xóm ngụ cư giống như cái khoảnh khắc chuyến tàu đêm náo nhiệt sang trọng lướt qua phố
huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Không chỉ có thế, Tràng, thị, bà cụ Tứ đều có những đổi thay tích cực. Tràng trưởng thành hơn,
trách nhiệm hơn. thị trở nên hiền hậu đúng mực, người mẹ nghèo cũng rạng rỡ, nhanh nhẹn hẳn
lên.
Hành trình của tình huống truyện bắt đầu bằng buổi chiều chạng vạng và kết thúc bằng một
buổi sớm mai tươi sáng, ánh nắn ngập tràn. Sự vận động đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ cái chết
đến sự sống đã thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Trong hoàn cảnh đói khát, chết chóc bủa
vây, những người nông dân nghèo họ không nghĩ đến đói, không nghĩ đến chết mà chỉ nghĩ đến
sống, sống làm sao cho thật hạnh phúc. Điều đó đã tô đậm vẻ đẹp tâm hồn lạc quan yêu đời con
người Việt Nam.
b/ Tình huống truyện tô đậm giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm của tác phẩm
Tác phẩm là một bức tranh hiện thực sinh động và đời sống khốn cùng của người nông dân
Việt Nam trong nạn đói kinh hoàng 1945 mà phát xít Nhật, thực dân Pháp đã gây ra cho nhân dân
ta.
Song, đáng trân trọng, “đáng thờ” (Nguyễn Văn Siêu) là những giá trị nhân đạo to lớn. Tác
phẩm không những cảm thông với cảnh ngộ, số phận éo le của những người nông dân nghèo trong
nạn đói mà còn trân trọng, đề cao, đặt niềm tin mãnh liệt vào khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
của họ. Nhà văn hướng nhân vật tới những tín hiệu đổi đời tích cực của mọi thời đại, thổi vào tác
phẩm không khí cách mạng để tạo nên khát vọng, niềm tin lớn lao về một tương lai tươi sáng của
con người.
Tóm lại, “Vợ Nhặt” đã sáng tạo nên một tình huống truyện độc đáo và cảm động, góp phần
mang đến sức hấp dẫn, sức sống lâu bền cho truyện ngắn. Như nhà văn Nguyễn Khải đã nhận xét:
“Tôi không tin Nguyễn Tuân có thể viết “Chữ người tử tù”, cũng như Kim Lân có thể viết “Vợ
Nhặt”. Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết”.

III. Hợp
Kết bài
Đề 2: Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật thị. Nêu nhận xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm

Yêu cầu cần đạt:


- Làm nổi bật vẻ đẹp khuất lấp – “hạt ngọc tâm hồn”
- Giá trị nhân đạo

Mở bài
Nhà văn Chekhov khẳng định: “Nghệ sĩ chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Còn
Elsa Triolet thì cho rằng: “Nhà văn là người cho máu”. Vâng, văn chương Đông Tây Kim Cổ
đều hướng về con người, đều vì con người mà lên tiếng. Những sáng tác của Kim Lân mà tiêu biểu
là “Vợ Nhặt” luôn trĩu nặng tấm lòng của nhà văn với nông thôn và người nông dân. Nổi bật trong
“Vợ Nhặt” là hình tượng nhân vật thị - một người phụ nữ nông thôn có số phận hẩm hiu nhưng lại
tiềm ẩn những vẻ đẹp tâm hồn. Qua nhân vật thị, ta thấy được giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Thân bài
I. Tổng
1) Hoàn cảnh sáng tác
“Vợ Nhặt” có tiền thân là tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân sáng tác trước
cách mạng nhưng thất lạc bản thảo. Hòa bình lập lại (1954), nhà văn dựa vào một phần của cốt
truyện cũ để viết nên truyện ngắn “Vợ Nhặt”. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí”.

2) Giới thuyết về vai trò của nhân vật trong tác phẩm + và vị trí cảm nhận chung về nhân vật
Nhân vật thị là nhân vật có vai trò quan trọng trong tác phẩm. Trước hết đối với một tác phẩm
tự sự thì nhân vật giống như chiếc chìa khóa giúp người đọc mở cánh cửa khám phá lâu đài nghệ
thuật. Xây dựng được những nhân vật sắc nét, để đời là thước đo tài năng của nhà văn. “Vợ Nhặt”
không chỉ thành công với nhân vật Tràng, bà cụ Tứ mà còn để lại ấn tượng với hình tượng người
vợ nhặt.

II. Phân
1) Thị là người phụ nữ có số phận bất hạnh
Văn học từ xưa đến nay phản ánh chân thực, cảm đọng nỗi khổ đau của người phụ nữ. Từ
những bài ca dao than thân đến “Chinh phụ ngâm” của Đoàn thị Điểm, “Truyện Kiều” của Nguyễn
Du, hay “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, thơ ca Hồ Xuân hương hay “Vợ Nhặt” của Kim Lân đều
đã xây dựng số phận đau thương, đầy bất hạnh của người phụ nữ. Đến với “Vợ Nhặt” của Kim Lân,
nhà văn đặt nhân vật thị trong nạn đói khủng khiếp 1945 để qua đó khắc họa chân dung người phụ
nữ cơ hàn trong những phút “rùng mình” của lịch sử.
Trong bối cảnh tối sầm của năm đói, nhân vật thị xuất hiện không tên, khi thì nhà văn gọi là
“người đàn bà”, “cô ả”, cũng có khi gọi là “thị”, “chị ta”. Hẳn nhà văn không nghèo ngôn ngữ đến
độ không tìm cho nhân vật mình được một cái tên. “Thị” là danh từ chung mà nhà văn dùng để gợi
nhân vật của mình khiến ta có cảm giác người đàn bà ấy là hình mẫu chung, mà nhà văn dùng để
gợi bất hành của biết bao người phụ nữ nông thôn lúc bấy giờ.
Không những không có tên, thị cũng không có tuổi, không quê quán, không người thân thích họ
hàng, không quá khứ và chẳng có tương lai nếu như không gặp Tràng. Trong năm đói, thị nhặt thóc
rơi thóc vãi, sống vật vợ như ngọn đèn tàn trước gió.
Bất hạnh của thị không chỉ dừng lại ở đó, chân dung của thị được Kim Lân tả chân thực với
những nét thảm thương nhất. “Cái ngực gầy lép”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “quần áo rách rưới
như tổ đỉa”,… Nếu những tràn văn của Ngô Tất Tố, Nam Cao chỉ xoáy vào cái đói với hiểm họa
cướp đi tính mạng người, hủy hoại nhân tính của họ thì những trang văn của Kim Lân còn cho ta
thấy cái đói có nguy cơ cướp đi những vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ.
2) Vẻ đẹp tiềm ẩn của thị
Thế nhưng thành công của nhà văn Kim Lân là đã khám phá ra vẻ đẹp tiềm ẩn, đã trân trọng
ngợi ca những “hạt ngọc tâm hồn” (Nguyễn Minh Châu) của nhân vật thị. Đó là một người phụ
nữ biết cách cư xử khéo léo và tế nhị.
Khi ở ngoài chợ tỉnh, nghe câu hò vu vơ của Tràng, một chàng trai nông dân ngụ cư nghèo
khổ, thị đã chạy lại đẩy xe giúp. Lúc này, thị “cong cớn”, “liếc mắt cười tít”. Vài hôm sau, thị gặp
lại Tràng trong một hoàn cảnh thê thảm. Cái đói đã biến thị trở thành một người con gái liều lĩnh,
táo tợn. thị sầm sập chạy tới trước mặt Tràng rồi “sưng sỉa” buông những lời trách móc điêu ngoa:
“Điêu! Người thế mà điêu!”,“Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”. Rồi vì bản năng
sinh tồn, thị sẵn sàng gạ ăn giữa đường giữa chợ với một người đàn ông xa lạ: “Có ăn gì thì ăn, chả
ăn giầu”. Khi được mời ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên. Lúc này thị phải đánh
đổi danh dự, lòng tự trọng để có miếng ăn sinh tồn. Nhưng chính cách cư xử khéo léo của thị khiến
ta thấy thị không hề tha hóa về nhân cách. Trước khi đánh đổi danh dự, lòng tự tôn vì miếng ăn, thị
không quên lấy lại một chút sĩ diện diện: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn chứ sợ gì”. Câu nói của thị như
đang tìm kiếm sự đồng cảm, thông cảm từ Tràng. thị nói là “sợ gì” nhưng thực chất thị sợ bị xem
thường, bị coi khinh song lúc này thị buộc phải đánh đổi để có được sự sống. Câu nói của thị đã níu
giữ nhân phẩm trước khi thị phải đánh đổi để có được sự sống. Câu nói của thị đã níu giữ nhân
phẩm trước khi thị phải đánh đổi vì bốn bát bánh đúc. Sau khi cúi đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền, thị biết hàm ơn một cách tế nhị, kín đáo qua lời khen: “Hà! Ngon”. Cách ứng xử ấy khiến
người đọc không khinh ghét mà chỉ xót thương cho nhân vật.
Khi đã trở thành vợ Tràng, thị dần dần trở về với đúng bản chất con người thật của mình: hiền
hậu, biết cách cư xử, tinh tế. Khi biết mọi người trong xóm ngụ cư đổ dồn ánh nhùn về mình, thị
chỉ dám đi sau Tràng ba đến bốn bước, “cái đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt”. Rồi thị rón rén e thẹn, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Kim Lân đã
miêu tả thật tinh tế, chân thực tâm trạng người con gái ngoan hiền trên đường về nhà chồng.
Khi được Tràng dẫn vào chợ tỉnh mua 2 hào dầu để thắp sáng thì thị trách khéo chồng:
“Hoang nó vừa chứ”. Lời trách thể hiện ý thức trách nhiệm vun vén cho tổ ấm gia đình. Nó dự báo
thị sẽ là một người vợ đảm đang, khéo léo, biết chu toàn, tiết kiệm cho cuộc sống sau này.
Về đến nhà Tràng, nhìn thấy gia cảnh nghèo khổ với cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên một
mảnh vườn mọc lên lổm nhổm những búi cỏ dại. Trong nhà xống áo vứt bừa bộn quần áo rách rưới
như tổ đỉa, cái phên rách,… “thị nén tiếng thở dài”. Người phụ nữ ý Tứ ấy giấu đi nỗi thất vọng lo
âu, “cái ngực gầy lép nhô lên nén một tiếng thở dài”. Thị biết chấp nhận hoàn cảnh, khắc sâu ấn
tượng về một người phụ nữ nông thôn cơ hàn sâu sắc trong suy nghĩ và tinh tế trong ứng xử. Điều
đó hé mở một nội tâm đẹp. Trong lúc chờ bà cụ Tứ về, “thị ngồi mớm vào mép giường”, tay khư
khư ôm lấy thúng con mặt bần thần nghĩ ngợi. Rồi đứng trước mẹ chồng, thị đứng nguyên một chột
chỗ không nhúc nhích, “tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Từ dáng vẻ ấy toát lên vẻ giữ gìn, e ấp của
một người đầy tự trọng, đồng thời ẩn giấu trong đó biết bao âu lo, phấp phỏng của một người con
gái đi lấy chồng trong hoàn cảnh bất lợi.
Qua dáng điệu cử chỉ và những nét tâm lý của nhân vật thị, Kim Lân muốn ngợi ca vẻ đẹp tiềm
ẩn, ngợi ca sự khéo léo, tế nhị, hiền hậu trong cách cư xử của người vợ nhặt. Thị khiến ta cảm thấy
đáng thương, trân trọng.

3) Thị là người khao khát sống, khao khát hạnh phúc gia đình
Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm: “Nhà văn tồn tại trên đời để làm công việc giống
như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con
người ta đến chân tường để bênh vực cho những con người không còn ai để bênh vực”. Hiểu
sâu sắc sứ mệnh của một nhà văn chân chính, những trang văn của Kim Lân cũng thế, cũng toát lên
cái khát vọng “bênh vực”, “nâng giấc” cho những con người nhỏ bé trong đáy cùng xã hội. Nhân
vật thị là hiện thân cho khát khao sống , khát khao hạnh phúc mãnh liệt của con người Việt Nam
trong năm đói 1945.
Ngay khi đánh đổi lòng tự trọng để gạ ăn người đàn ông ngụ cư nghèo khổ, dẹp bỏ danh dự của
mình để được sống. Nếu không có khát khao sống mãnh liệt, không có nhu cầu sinh tổn thì có lẽ thị
đã là cái thây nằm còng queo bên đường.
Chưa dừng lại ở khát vọng sống, ở thị ta còn thấy tiềm ẩn khát khao được sống hạnh phúc cho
nên sau khi hàm ơn người đàn ông xa lạ đã mời mình bốn bát bánh đúc, thị khéo léo mà đầy tự
nhiên buông ra một câu thăm dò: “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố!”. Đằng sau câu nói ấy dường
như đã thể hiện được mong muốn được nương tựa vào một người đàn ông đàng hoàng tử tế như
Tràng. Ngay lập tức, Tràng đáp lại bằng một câu đùa thật thà: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa
chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Một lần nữa thị liều lĩnh bám vào một câu
đùa để theo không về làm vợ người ta. Đằng sau cái hành động ấy, người đọc đã thấu cảm được
khát vọng về một tổ ấm hạnh phúc về một mái ấm gia đình, một nơi nương náu của Mị. Sự liều lĩnh
ấy quả thật đã mang lại cho Mị một trang đời hạnh phúc.
Chính điều hạnh phúc giản dị ấy đã mang đến những sự thay đổi thay lớn lao trong tâm hồn thị.
Từ một cô gái đanh đá, chau chát, chỏng lỏn khi ở ngoài chợ tỉnh, thị đã trở thành người phụ nữ của
gia đình, đảm đang, hiền hậu đúng mực”. Chính hạnh phúc gia đình đã khiến thị trưởng thành hơn.
Có thể nói, hiền hậu, đảm đang, tháo vát là bản chất tốt đẹp của người vợ nhặt mà không một tác
động hoàn cảnh nào có thể làm tha hoá. Cái đói khủng khiếp có thể khiến thị cong cớn, trở nên liều
lĩnh nhưng tuyệt đối đó không phải là bản chất của thị. Ngay từ hành động “đẩy xe” phụ Tràng
ngoài chợ tỉnh cho đến sự điềm đạm của thị sau khi có gia đình ta đều thấy thị là một người phụ nữ
tốt bụng. Nhà văn Kim Lân đã luôn luôn đặt một niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp ấy của
nhân vật thị. Sự tỏa sáng của “hạt ngọc tâm hồn” trong nhân vật thị là một nét đẹp trong ngòi bút
nhân đạo Kim Lân.
Người vợ nhặt là một nhân vật độc đáo không chỉ bởi khát vọng sống mãnh liệt tiềm tàng mà
còn bởi sự nhạy cảm với những thông tin, những tín hiệu đổi đời lớn lao của thời đại. Trong bữa
cơm ngày đói, thị tỏ ra là một người có hiểu biết rộng tãi, có những dự cảm tốt về tương lai. Khi
nghe tiếng thúc thuế, thị ngạc nhiên hỏi: “Ở đây còn phải đóng thuế cơ à?”. Rồi tiếp tục mang đến
những thông tin tích cực: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa
đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”. Có thể thị chưa hiểu hết
những ý nghĩa cách mạng của những sự việc đấy nhưng cô biết đó là dấu hiệu của một sự vùng lên
đòi công bằng, giải phóng cho những con người đói khổ. Thông tin quý giá của thị đã đánh thức
trong đầu Tràng sự việc tương tự về đám người phá kho thóc Nhật đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ sao
vàng của Việt Minh. Đây là những luồng sáng của thời đại, không những xua tan tăm tối đói nghèo
cho cuộc đời Tràng, của thị mà còn xua tan bóng đêm nô lệ cho cả dân tộc. Tiếng “ừ” chắc nịch của
thị khẳng định sự hiện diện to lớn của Việt Minh đã nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống, đã hướng hạnh
phúc của đôi vợ chồng vợ nhặt tới một ngày mai tươi sáng, ấm no.
Như vậy, đằng sau vẻ ngoài rách rưới, xanh xao, gầy gộc, đằng sau vẻ đanh đá, liều lĩnh, người
vợ nhặt lại là một người phụ nữ nông thôn tiềm ẩn nhiều vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Hoàn cảnh
nghiệt ngã của năm đói như một phép thử để Kim Lân ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt của
con người Việt Nam. Trong cái đói, cái chết, những người nông dân nghèo khổ không nghĩ đến đói,
đến chết, họ chỉ nghĩ đến sống, sống sao cho hạnh phúc. Nếu Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi
tìm cái đẹp, cái lạ; Nguyên Ngọc là nhà văn đi tìm cái hùng, cái cao cả; thì Kim Lân là nhà văn
“một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”.

LHMR: Nhà văn Nam Cao cho rằng: “Một tác phẩm thật có giá trị phải tả dược tầng sâu
của xã hội, phải khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Viết về thân
phận của người phụ nữ với tất cả vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chìm khuất trong thẳm sâu
nội tâm của một cô Mị đau khổ. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu lại khơi tìm
những “hạt ngọc tâm hồn” khuất lấp của người đàn bà làng chài nghèo khổ, nạn nhân của bạo lực
gia đình,… Và một lần nữa, với “Vợ Nhặt”, Kim Lân đã đặt niềm tin vào những khát vọng sống,
khát vọng hạnh phúc, vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ Việt Nam cơ hàn trong những hoàn
cảnh nghiệt ngã của đời sống. Không có gì tuyệt vời hơn niềm tin và tình yêu thương con người.
Chính điều đó mà Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu và Kim Lân đã viết nên “áng văn chân thực và
giản dị về con người” (Hemingway).

III. Hợp
1) Nội dung
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” đã khắc hoạ thành công chân dung người phụ nữ nông dân cơ hàn
trong nạn đói năm 1945. Từ đó, Kim Lân gửi gắm nhiều thông điệp nghệ thuật mang giá trị hiện
thực và nhân đạo sâu sắc.
Thông qua nhân vật thị, nhà văn Kim Lân đã phơi bày bức tranh hiện thực về đời sống khốn
cùng của người nông dân Việt Nam trước cách mạng dưới ách áp bức của thực dân Pháp, phát xít
Nhật và bọn phong kiến tay sai.
Tác phẩm còn thể hiện tiếng nói nhân đạo với tấm lòng cảm thương, trân trọng của nhà văn
Kim Lân với những nỗi khổ cực và những khát vọng sống, khát vọng hp của con người. Hành trình
số phận của nhân vật thị đã chứng minh sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong cuộc sống của con
người Việt Nam trong thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Viết về nạn đói với cái chết bủa vây,
nhưng nhân vật của Kim Lân không hề nói đói đến chết, mà họ chỉ nói sống, sống sao cho thật
hạnh phúc. Qua chân dung người “vợ nhặt”, tác phẩm còn là bài ca của tình người. Có thể nói, thần
đã mượn tay Kim Lân để viết nên “áng văn chân thực và giản dị về con người”.

2) Nghệ thuật
Leonit Leonop nói: “Mỗi tác phẩm văn học là 1 phát minh về hình thức và là 1 khám phá về
nội dung”. Đoạn văn trên/Tác phẩm “Vợ Nhặt” đã thể hiện sức sáng tạo tuyệt vời của Kim Lân
trong nghệ thuật viết văn và xây dựng nhân vật.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
- Xây dựng tình huống truyện éo le độc đáo.
- Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng đối thoại sinh động, hóm hỉnh, gần gũi.
- Ngôn ngữ chọn lọc, thông tục mà được sử dụng một cách đắc địa, tài hoa.
- Ngoài ra, nhà văn cũng đã sáng tạo được những chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi để làm nổi bật
chân dung nhân vật từ ngoại hình đến tính cách nội tâm.
Đề 3: Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ Nhặt”
Yêu cầu cần đạt:
- Làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của Tràng: nhân hậu, chân thành, tốt bụng.
- Khao khát hạnh phúc gia đình mãnh liệt.

Mở bài

Thân bài
I. Tổng
1) Hoàn cảnh sáng tác
2) Giới thuyết về vai trò của nhân vật trong tác phẩm tự sự
3) Vị trí và cảm nhận chung về nhân vật Tràng
Tràng là nhân vật trung tâm của “Vợ Nhặt” được Kim Lân xây dựng trong một tình huống
truyện éo le mà cảm động. Anh là một người nông dân ngụ cư xấu xí, ế vợ nhưng lại toả sáng nhiều
vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Tràng trở thành biểu tượng của tình người cao đẹp trong nạn đói khủng
khiếp 1945. Đây cũng là nhân vật kết tinh những giá trị nhân đạo của ngòi bút Kim Lân.

II. Phân
1) Giới thiệu ngắn gọn lai lịch, cảnh ngộ, số phận của Tràng
Tràng xuất hiện giữa cảnh tối sầm lại vì đói khát. Cái chết bủa vây, người đói thì nằm ngổn
ngang khắp các lều chợ, bên cạnh đó là “ba bốn cái thây nằm còng quên ở trên đường”, không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Tràng là gã trai ngụ cư nghèo khổ,
ngoại hình thì xấu xí, tính cách thì ngờ nghệch làm nghề kéo xe bò thuê sống cùng mẹ già trên “cái
nhà vắng teo đứng rúm ró trên một mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”. Anh cu Tràng là
dân ngụ cư nên bị xem thường như một thứ cỏ rác hương thôn. Dân gian xưa còn có câu:
“Trai làng goá vợ còn đâu
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư”
Tất cả những điều đó khiến số phận của chàng thêm tội nghiệp, anh hội tụ mọi điều kiện ế vợ,
hạnh phúc gia đình là một thứ quá xa xỉ với anh.

2) Vẻ đẹp tâm hồn


Thế nhưng, “nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Sekhov), Kim Lân - nhà
nhân đạo đã không ngừng đặt niềm tin mãnh liệt ở vẻ đẹp của con người. Ngợi ca những hạt ngọc
tâm hồn trong những người nông dân nghèo khổ tội nghiệp. Đằng sau ngoại hình thô kệch xấu xí
và một số phận bất hạnh, chàng lại là 1 người nông dân chất phác, nhân hậu.

a/ Nhân hậu, chất phác


Trước đây, mỗi chiều đi làm về, Tràng đều chơi với lũ trẻ con trong xóm. Chúng ùa ra vây lấy
anh, cười đùa vui vẻ. Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy được xao lên một chút tiếng cười. Tiếng cười của
lũ trẻ hoà vô cùng tiếng cười “hềnh hệch” của Tràng đã xua tan phần nào cái nghèo khổ tăm tối của
xóm ngụ cư giống như sự xuất hiện của chuyến tàu đêm xua tan bóng tối của phố huyện nghèo
trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Trong nạn đói, “người chết như ngả rạ”, miếng ăn là cả một mạng sống nhưng Tràng lại giúp
đỡ người khác một cách vô tư. Khi gặp lại thị ngoài chợ tỉnh, Tràng đã sẵn sàng mời thị một bữa ăn
no nê với bốn bát bánh đúc. Điều đáng nói là thị là một người xa lạ, không có họ hàng thân thích
với chàng ấy thế mà Tràng lại mời ăn một cách chân thành vô tư. Thậm chí khi thấy người con gái
có vẻ ngại ngùng, Tràng còn vỗ vào túi mà nói: “Rích bố cu”. Câu nói không phải là những lời
khoác lác, khoe khoang của một người đàn ông hời hợt mà là lời trấn an tinh tế của một gã trai
nghèo khổ tốt bụng dành cho người phụ nữ cơ hàn, nguy khốn đang cần mình giúp đỡ. Chính câu
nói ấy của chàng đã động viên thị, cứu sống thị. Cũng cần phải thấy rằng, hành động mời thị ăn bốn
bát bánh đúc của Tràng không phải là để trả ơn thị đã đẩy xe bò giúp, cũng không phải là để lợi
dụng mà nó xuất phát từ tình yêu thương, từ tấm lòng nhân hậu phóng khoáng của một người đàn
ông tử tế tốt bụng. Những chi tiết nghệ thuật giản dị mà giàu sức gợi đã giúp Kim Lân ngợi ca vẻ
đẹp tâm hồn người nông dân, con người Việt Nam với truyền thống “Lá lành đùm lá rách”. Có thể
nói Tràng là hiện thân của tình người ấm áp rất đáng ngợi ca trân trọng trong những phút thử thách
khắc nghiệt của lịch sử lúc bấy giờ

b/ Khát vọng hạnh phúc gia đình mãnh liệt


Chuyển ý: Nếu như nhân vật thị luôn hiện hữu một khát vọng mãnh liệt là được sống và sống
thật hạnh phúc. Thì ở nhân vật Tràng, người đọc cảm nhận sâu sắc về một khát vọng rất giản dị mà
mãnh liệt: khát vọng hạnh phúc gia đình
Ngay khi buông một câu nói đùa như thật: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên
xe rồi cùng về”, Tràng đã nuôi bao hi vọng về hạnh phúc gia đình. Câu nói đùa như thật mà lại rất
tinh tế khéo léo của Tràng hướng tới một người con gái mà theo Tràng là “có tình ý với anh”. Cái
“liếc mắt cười tít” đầy tình Tứ của thị khi ở ngoài chợ tỉnh cũng khiến chàng thích lắm. “Từ cha
sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có người con gái nào cười với hắn tình Tứ như thế”. Câu nói đùa nhằm
đúng đối tượng đã cho thấy khát vọng có thật của Tràng – một người đàn ông ế vợ. Và thế là Tràng
đã nhặt được hạnh phúc trời ban, thị theo không Tràng về.
Niềm hạnh phúc bất ngờ của Tràng lại va ngay vào hiện thực tăm tối. Đói khát chết chóc bủa
vây khiến Tràng “chợt” - lo sợ: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không
lại còn đèo bòng”. Nỗi lo sợ của Tràng là tất yếu vì lúc này cưu mang thị có nghĩa là Tràng đang
“đèo bòng” thêm một miệng ăn về nhà, là chia sẻ cơ hội sống sót qua năm đói. Một người “vợ”
thiêng liêng cao quý bỗng trở thành cái “nợ đời” khi nạn đói bủa vây. Song, vượt lên tất cả những
nỗi lo âu sợ hãi, Tràng dũng cảm, liều lĩnh đánh cược với hoàn cảnh ngặt nghèo với cái đói khủng
khiếp để có được vợ, có được tổ ấm, Tràng buông một câu: “Chậc! Kệ.” đầy kiêu hãnh. Câu nói ấy
đã cho ta thấy một khát khao mãnh liệt về một cuộc sống có đầy đủ vợ chồng, về một hạnh phúc
gia đình của một người đàn ông ngụ cư nghèo khổ.
Chính vì vậy, ngay khi có được hạnh phúc trong tay, Tràng ra sức vun vén, nâng niu nó và đối
xử tử tế với vợ của mình. Tràng dẫn thị vào chợ ăn một bữa no nê, mua cho thị một cái thúng con
để đựng đồ lặt vặt. Đồng thời mua 2 hào dầu để về thắp sáng. Hành động này của Tràng có thể nói
là “hoang” trong hoàn cảnh đói kém lúc bấy giờ nhưng nó ẩn chứa cái khát vọng hướng tới một
cuộc sống tươi sáng mới mẻ, lạc quan của Tràng. Hành động này của Tràng cũng giống Mị trong
“Vợ Chồng A Phủ” bỏ thêm mỡ vào đĩa đèn cho sáng trong đêm tình mùa xuân. Dường như những
con người nghèo khổ đang nỗ lực bước qua bóng tối của đời mình để hướng tới những trang đời
tươi sáng hơn.
Cũng từ đây, ánh sáng tràn ngập cuộc đời Tràng. Tràng dẫn vợ về đến đâu ánh sáng lan toả tới
đó. Đó là ánh sáng của niềm hạnh phúc, của sự tin tưởng vào tương lai. Trên đường đưa thị về,
Tràng luôn trong trạng thái hạnh phúc ngất ngây. Mặt hắn “có một vẻ gì phớn phở khác thường”
“hắn tủm tỉm cười một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Những từ ngữ rất tinh tế mà xúc
động của Kim Lân đã diễn tả niềm hạnh phúc có thật len lỏi vào từng nét mặt, thớ thịt của Tràng,
anh như quên hết những ngày tháng đói khát trước mắt, chỉ còn lại tình nghĩa của hắn với người
đàn bà cạnh bên. Nhà văn đã tha thiết gieo vào lòng người đọc cảm xúc về tình người, về niềm
hạnh phúc quý hơn tất cả trong tăm tối đói khát. Việc nhặt được vợ đối với Tràng thật là một niềm
hạnh phúc như từ trên trời rơi xuống, một hạnh phúc đi từ nghịch lí đắng cay. Nghịch lí ấy càng tô
đậm khát vọng hạnh phúc lớn lao của con người, nó tựa như một chồi cây ham ánh sáng nảy mầm
im lìm trong lòng đất, không có một khó khăn nào có thể làm thui chột được. Thậm chí khát khao
hạnh phúc ấy còn mạnh hơn cả cái chết, lớn hơn cả cái đói. Kim Lân nâng niu từng khát khao chân
chính của con người, khẳng định sức sống tiềm tàng trong tâm hồn họ, giống như trong “Vợ Chồng
A Phủ” của Tô Hoài , “Chí Phèo” của Nam Cao hay “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Tiếng nói nhân
đạo đã toả sức mạnh ra đầu ngọn bút thôi thúc mỗi nhà văn kiếm tìm, nâng niu và thể hiện những
khát khao sống cao đẹp của con người. Giống Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “ Nhà văn tồn tại
trên đời trước hết có lẽ là vì thế: để làm công việc nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt
lộ”.

c/ Hạnh phúc gia đình đã mang đến những đổi thay diệu kì trong Tràng
Buổi tối dẫn thị về ra mắt mẹ
Hạnh phúc gia đình đã trở thành một nguồn động lực tạo nên những đổi thay, những sự trưởng
thành lớn lao diệu kì trong con người Tràng. Từ một người nông dân xấu xí thô kệch, ăn nói vụng
về suy nghĩ vô tư, Tràng trở thành một người đàn ông của gia đình: chín chắn, chỉn chu, đầy trách
nhiệm trong lời nói và hành động. Dẫu vô tư quyết định chóng vánh nhặt thị về nhưng không vì thế
mà Tràng xem nhẹ lễ nghi. Anh vẫn kiên nhẫn chờ đợi để giới thiệu vợ với mẹ một cách đàng
hoàng, trang trọng nhất có thể. Cái cách Tràng sắp xếp: “U hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh
chện cái đã nào” đã tạo không khí cho một buổi lễ trọng đại: buổi lễ giới thiệu nàng dâu mới.
Không những thế, khi thấy mẹ có vẻ ngạc nhiên vì người đàn bà lạ đột nhiên xuất hiện ở trong nhà,
Tràng không đợi lâu mà trân trọng giới thiệu với mẹ bằng những lời lẻ giản đơn mà chan chứa yêu
thương: “Kìa nhà tôi nó chào u”, “nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!”
Nếu như cái đói hạ thấp nhân phẩm của con người thì chỉ có tình yêu thương mới nâng đỡ
được nó. Chỉ bằng một vài câu văn ngắn gọn với cách xưng hô “nhà tôi”, Tràng mà cũng như Kim
Lân đã thể hiện thái độ trân trọng, giá trị của một cuộc hôn nhân nghiêm túc như những cuộc hôn
nhân mâm cao cỗ đầy khác. Lời lẽ của Tràng không những xuất phát từ tình yêu thương mà còn từ
những suy nghĩ chín chắn trách nhiệm của 1 người đàn ông biết nâng niu hạnh phúc gia đình. Hai
chữ “nhà tôi” mà Tràng dành cho thị vừa bảo vệ danh dự nhân phẩm, vừa ngầm công nhận người
đàn bà tội nghiệp ấy trở thành một thành viên trong gia đình, là một nàng dâu hiếu thảo ngoan hiền.
Như Victor Hugo đã nói: “Trên đời chỉ có một ý nghĩa thôi, đó là tình yêu thương nhau”.

Buổi sáng hôm sau, những thay đổi lớn lao của Tràng thật sự diễn ra rõ rệt.
Chuyển ý: Những thay đổi lớn lao của Tràng thực sự diễn ra mãnh liệt rõ ràng trong buổi sáng
hôm sau.
Truyện có sự vận động mãnh liệt từ một buổi chiều chạng vạng, thê lương, chết chóc, tăm tối
của năm đói đến một buổi sáng ngày hè sáng loá, ấm áp. Cùng với sự vận động ấy là những đổi
thay lớn lao trong mỗi nhân vật. Đôi vợ chồng vợ nhặt đi đến đâu, ánh sáng dường như lan toả tới
đó. Ánh sáng của niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm hy vọng tin tưởng lạc quan vào tương lai. Đối
với Tràng, cái buổi “sáng hôm sau” mới có ý nghĩa làm sao. Lúc này “mặt trời lên bằng con sào”
toả những tia nắng rực rỡ xua tan cái lạnh lẽo, cái tối sầm của buổi chiều hôm qua. Trong không
gian ấy, Tràng trở dậy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có
vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Không gian buổi sáng ngày hè lung linh
như khung cảnh một giấc mơ và bản thân Tràng cũng ngỡ rằng mình từ một giấc mơ đi ra - giấc mơ
hạnh phúc. Việc Tràng nhặt được vợ giữa năm đói là một sự kiện bất ngờ gây ngạc nhiên sững sờ
cho mọi người, cho đến cả Tràng.
Nhiều lần Kim Lân đã diễn tả thật xúc động nét tâm trạng này của Tràng. Buổi tối mà thị đã về
trong nhà, Tràng vẫn không thôi ngỡ ngàng “ra hắn đã có vợ rồi đấy ư” cho đến tận sáng hôm nay
Tràng vẫn trong tâm trạng “ngỡ ngàng như không phải”. Phải chăng hạnh phúc quá lớn, quá bất
ngờ như một món quà thượng đế ban tặng khiến Tràng không tin là có thật? Có thể nói, nét tâm
trạng ngạc nhiên ngỡ ngàng của Tràng đã phản ánh một cách chân thật hạnh phúc vỡ oà trong tâm
hồn gã trai ngụ cư nghèo khổ.
Với cảm xúc lâng lâng ấy, Tràng “chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân”. Dáng điệu
ung dung đầy tự tin của Tràng hé mở một sự trưởng thành lớn lao trong nhận thức. Nó khác hẳn với
cái dáng đi “chúi về phía trước” mỏi mệt ủ rũ trong những buổi chiều trước đây. Lúc này, cái đói
dường như không thể đè nổi lên đôi vai của Tràng nữa. Tràng “chớp chớp liên hồi mấy cái” như để
nhận ra một giấc mơ có thật đang hiện hữu xung quanh mình. Anh nhận ra “xung quanh mình có
cái gì vừa thay đổi mới mẻ khác lạ”. Những sự thay đổi ấy nhỏ bé thôi nhưng cũng đủ để tạo nên
một nguồn phấn chấn trong lòng Tràng. Nhà cửa, vườn tược đã được quét dọn sạch sẽ, thu xếp gọn
gàng. Đống quần áo rách rưới đã được phơi phong dưới nắng hè, ang nước đã được đổ đầy, đống
rác đã được hót sạch… Những sự việc ấy đã chứng tỏ vai trò của người vợ trong gia đình. Chính vợ
Tràng đã thu xếp, dọn dẹp nhà cửa khiến nó trở nên quang quẻ “mới mẻ khác lạ”.
Có thể nói, những quan sát, nhìn nhận của Tràng lúc này đều xuất phát từ một nguồn hạnh phúc
ấm áp mà tổ ấm gia đình mang lại. Với mọi người, có thể những sự thay đổi ấy là bình thường,
nhưng với Tràng nó lại mang một ý nghĩa to lớn. Vì từ đây anh đã có vợ vun vén, thu xếp cho cuộc
sống gia đình.
Chưa dừng lại ở đó, hình ảnh người mẹ “lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở” , “vợ hắn
quét lại cái sân” rất bình thường nhưng lại khiến Tràng cảm động đến lạ. Âm thanh của “tiếng chổi
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất” bình dị nhưng giàu sức gợi biết bao. Đó là thứ âm thanh của đời
thường nhưng đã vọng vào trái tim Tràng, thức dậy những tình cảm yêu thương gắn bó lạ lùng.
Trong “Vợ Nhặt”, nhiều lần Kim Lân miêu tả những thanh âm “tiếng quạ gào lên từng hồi tha
thiết”, “tiếng hờ khóc vẳng đến từ những gia đình có người chết đói” khắc hoạ thêm sự thê lương
não nề của bức tranh năm đói. Âm thanh của tiếng trống thúc thuế ngoài đình dội lên như tố cáo
thêm tội ác của bọn Nhật Pháp và phong kiến tay sai. Còn âm thanh của tiếng chổi kêu sàn sạt trên
mặt đất lại khắc hoạ sự ấm áp, bình dị của cuộc sống gia đình mà ở đó sẽ là nơi nương náu của gia
đình Tràng để vượt qua những bão tố trong những phút “rùng mình” của lịch sử. Lắng nghe âm
thanh ấy, Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Thật sự, hạnh phúc đến từ
những điều bình dị trong cuộc sống.
Lúc này Tràng ý thức được niềm hạnh phúc có thật đang chín trong tay “hắn đã có một gia
đình”. Ao ước khát vọng lớn nhất của đời Tràng nay đã trở thành hiện thực. Bởi vậy, “một nguồn
vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng” Tràng. Nếu như ở những khoảnh khắc trước,
Tràng vẫn ngỡ rằng hạnh phúc đó như một giấc mơ thì đến đây, Tràng ý thức được giấc mơ ấy đã
thành sự thật. Và niềm hạnh phúc có thật cũng lan toả trong con người Tràng.
Chính những cảm xúc tích cực ấy, một lần nữa mang đến những sự đổi thay, những sự trưởng
thành trong suy nghĩ của người nông dân ngụ cư nghèo khổ “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Điệp “hắn thấy hắn” tô đậm những
nhận thức của Tràng về trách nhiệm, bổn phận của người làm chủ gia đình. Hắn ý thức được nghĩa
vụ phải lo lắng cho cuộc sống của vợ con trong tương lai. Vậy là từ một gã trai ngụ cư nghèo khổ,
vô tư, thô kệch, quê mùa giờ đây Tràng đã trở thành người đàn ông trưởng thành làm chủ gia đình,
có ý thức về trách nhiệm và tình thương yêu của mình giành cho gia đình. Chính niềm hạnh phúc,
chính những khát khao được sống cho ra sống đã tạo nên sức mạnh tiềm ẩn giúp Tràng và tổ ấm
nhỏ bé của Tràng vượt qua năm đói.
Trong lúc cái đói, cái chết bủa vây, những người nông dân nghèo khổ như Tràng, mẹ Tràng, vợ
Tràng không nghĩ đến đói, không nói đến chết mà họ chỉ nghĩ đến sống, sống sao cho thật hạnh
phúc. Tình thương yêu, lòng tin tưởng lạc quan cùng với ý thức trách nhiệm bổn phận của Tràng đã
góp phần ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam trong năm đói 1945.
Những suy nghĩ về hai từ “bổn phận” của người đàn ông trong gia đình đã được Tràng hiện
thực hoá bằng hành động: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một cái gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà”. Từ láy “xăm xăm” gợi tả hình ảnh một người đàn ông xông xáo, nhanh
nhẹn đầy trách nhiệm muốn làm những việc thật thiết thực để đóng góp xây dựng gia đình. Nếu
như trước đây, nhà của Tràng chỉ là nơi che mưa che nắng, là chốn đi về tuềnh toàng, rách nát, rúm
ró - “cái nhà” thì bây giờ cái nhà ấy là “tổ ấm”, là nơi Tràng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái, xây dựng
tương lai. Nên anh muốn nó góp phần tu sửa “cái nhà” thành “căn nhà” sao cho nó khang trang,
gọn gàng, sạch sẽ. Chỉ một từ dùng thôi “căn nhà” nhưng Kim Lân đã gửi gắm rất nhiều những
khát vọng về một cuộc sống ra sống, đáng sống của người nông dân nghèo. Chính hạnh phúc đã
làm Tràng trưởng thành để tự xây dựng cuộc sống của gia đình mình giữa lúc nạn đói vẫn hoành
hành.
Trong bữa cơm ngày mới mừng nàng dâu tới, Tràng tỏ ra chín chắn, biết suy nghĩ sâu sắc và
nhạy cảm với những thông tin chính trị sẽ mang lại những sự đổi thay lớn lao cho cuộc đời của vợ
chồng Tràng.
+ Tràng ngoan ngoãn hiếu thảo, lắng nghe những lời khuyên bảo chân tình của mẹ.
+ Khi miếng cám đắng chát nghẹn bứ ở trong cổ nhưng Tràng vẫn thản nhiên vì không nỡ làm
mất đi niềm vui tội nghiệp của mẹ già cũng như không khí hoà hợp đầm ấm của gia đình.
+ Đặc biệt, thông tin về đám người đói phá kho thóc Nhật của vợ đã thức dậy những khát khao
về một tương lai tươi sáng trong suy nghĩ của Tràng. Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay
phấp phới của Việt Minh” xuất hiện trong đầu Tràng tựa như một nguồn sáng phá vỡ bầu không
khí tăm tối, chết chóc của năm đói. Đồng thời nó mở ra một con đường sáng trong suy nghĩ của
Tràng và ta tin những người có sức sống mãnh liệt như vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đám người
đói pha kho thóc Nhật hoặc có mặt trong đoàn người tham gia Cách mạng Tháng Tám dưới sự lãnh
đạo của Việt Minh.

LHMR về phần kết tác phẩm: đề trước


→ Như vậy, nhân vật Tràng được xây dựng trong một tình huống éo le, độc đáo và cảm động.
Anh không những là hiện thân của tình người ấm áp trong năm đói mà còn là hiện thân cho khát
vọng sống tiềm tàng mãnh liệt của con người Việt Nam trong những phút “rùng mình” của lịch sử.

III. Hợp
Đề 4: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong đoạn văn sau: “Sáng hôm sau… tu sửa lại căn nhà”
Từ đó, anh chị hãy nhận xét giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ Nhặt”

Yêu cầu cần đạt:


Vẻ đẹp nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau có vợ.
Giá trị nhân đạo của “Vợ Nhặt”

Mở bài
Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định: “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái
cao thượng, cái tốt đẹp, cái thuỷ chung”. Thật vậy, hành trình của con thuyền nghệ thuật là hành
trình đưa tâm hồn người đọc cập bến bờ chân - thiện - mỹ. Những sáng tác của Kim Lân luôn toả ra
thứ ánh sáng diệu kỳ của cái đẹp nhân sinh để “thanh lọc” tâm hồn con người. Kim Lân là nhà văn
“một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn”
(Nguyên Hồng). Ở mỗi truyện ngắn của Kim Lân, ta luôn thấy vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân
nghèo, mà “Vợ nhặt” là một sự kết tinh độc đáo. Tác phẩm không chỉ gây ấn tượng bởi tình huống
truyện éo le mà còn để lại những tình cảm xúc động, sâu lắng về câu chuyện của tình người. Tràng
là nhân vật chính trong câu chuyện được Kim Lân xây dựng nổi bật nhất thông qua đoạn văn sau:
“…” Qua vẻ đẹp của nhân vật Tràng trong đoạn văn, người đọc cảm nhận được giá trị nhân đạo sâu
sắc của “Vợ Nhặt”

Thân bài
I. Tổng
1) Nêu ngắn gọn HCST, xuất xứ của “Vợ Nhặt”
2) Giới thuyết về nghệ thuật + vị trí, cảm nhận chung về nhân vật Tràng trong đoạn văn
“Vợ Nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân sáng tác trước cách mạng
nhưng thất lạc bản thảo. Hoà bình lập lại 1954, nhân vật dựa vào một phần tiểu thuyết cũ để viết
nên truyện ngắn “Vợ Nhặt” và in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tràng là nhân vật chính của
tác phẩm, là nơi Kim Lân gửi gắm nhiều thông điệp nghệ thuật sâu sắc. Nếu như Nam Cao bất hủ
với Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên, Tô Hoài sống đời với Mị và A Phủ trong “Vợ chồng A
Phủ” thì Kim Lân được bạn đọc tưởng nhớ với nhân vật Tràng. Xây dựng được những hình tượng
nghệ thuật sắc nét, là thước đo tài năng của người nghệ sĩ, đoạn văn trên thuộc phần sau của truyện
ngắn “Vợ Nhặt” đã ngợi ca những vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Tràng.

II. Phân
1) Nêu ngắn gọn tình huống truyện làm xuất hiện nhân vật Tràng.
Tràng xuất hiện trong không gian năm đói, người chết như ngả rạ, người sống dật dờ, xanh xám
như những bóng ma. Giữa khung cảnh đói khát ấy, anh chỉ là một gã trai nông dân ngụ cư nghèo
khổ, xấu xí, ế vợ bị coi khinh. Thế nhưng nhờ tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người, cưu mang
người lúc hoạn nạn, Tràng đã nhặt được vợ, đã có được hạnh phúc trời cho giữa hoàn cảnh đói khát
ngặt nghèo. Chính niềm hạnh phúc lớn lao bất ngờ ấy đã mang lại những sự đổi thay âm thầm
mãnh liệt trong con người Tràng.

2) Phân tích Tràng trong đoạn văn.


Không khí buổi sáng hôm sau
Đoạn văn mở ra một khung cảnh buổi sáng mùa hè với “mặt trời lên cao bằng con sào”, “ánh
nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”. Chỉ bấy nhiêu chi tiết, nhà văn Kim Lân đã gợi cảm nhận về một
không khí tươi sáng, ấm áp. Khác hẳn với cái buổi chiều chạng vạng, tăm tối, lạnh lẽo mà Tràng
dẫn thị về. Cái rực rỡ ấm nóng của ánh nắng mùa hè trong ngày mới đã xua tan cái không khí ảm
đạm thê lương với chết chóc. Và đây cũng là một sự vận động mạnh mẽ của cốt truyện mang nhiều
dụng ý nghệ thuật của Kim Lân.
Tâm trạng hạnh phúc, ngạc nhiên của Tràng
Trong không gian ấy, Tràng “trở dậy” với một niềm hạnh phúc lớn lao của một người đàn ông
có gia đình “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Với Tràng, việc nhặt
được vợ, việc có được một tổ ấm gia đình thoả lòng mong ước là một giấc mơ có thật. Tràng là gã
trai ngụ cư nghèo khổ, bị coi khinh như một thứ cỏ khác hương thôn. Người ta vẫn truyền nhau câu
ca rằng:
“Trai làng goá vợ còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư”
Vậy nên Tràng ế mõm mòm. Thật không tin nổi giữa lúc nạn đói hoành hành, người chết như
ngả rạ, chỉ cần bằng bốn bát bánh đúc, một câu đùa tầm phơ tầm phào mà Tràng có vợ theo về.
Hạnh phúc bất ngờ quá khiến Tràng vẫn cảm giác như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Cùng với
từ láy “lửng lơ” cùng nghệ thuật so sánh đã cụ thể hoá niềm hạnh phúc ngất ngây trong tâm hồn
Tràng. Xuyên suốt tác phẩm, nhiều lần nhà văn Kim Lân đã miêu tả niềm hạnh phúc sung sướng
trên khuôn mặt, trên nét mặt của Tràng. Nào là “hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”,
“vênh lên tự đắc”. Và bây giờ khi hạnh phúc đã thật sự chín trong tay, Tràng sống trong tâm trạng
êm ái, lửng lơ.
Không những thế, Tràng còn trong tâm trạng ngạc nhiên ngỡ ngàng mãi không thôi “việc hắn
có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Việc Tràng nhặt được vợ giữa năm
đói như một món quà hạnh phúc bất ngờ đối với người đàn ông nghèo khổ này. Trước đó, vào buổi
chiều tối dẫn thị về, khi thị đã ở trong nhà, Tràng vẫn không dám tin đó là sự thật “ra hắn đã có vợ
rồi đấy ư” Và đến tận sáng hôm sau, hạnh phúc đã thật sự nằm gọn trong tầm tay của Tràng, Tràng
vẫn ngỡ ngàng như không phải. Phải chăng, nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sự tự tin, niềm tin vốn
có của người nông dân nghèo về hạnh phúc gia đình. Chưa bao giờ Tràng dám tin mình lại có được
tổ ấm gia đình trong hoàn cảnh gia đình lúc bấy giờ.

Hành động đi ra sân và những quan sát, cảm nhận của Tràng về sự đổi thay xung quanh
Thế nhưng, Tràng cũng trấn tĩnh “chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân”. Đây là dáng
điệu của một người đàn ông khoan thai, ung dung, đĩnh đạc, dáng điệu của một người đã có gia
đình. Từ láy “lững thững” không những miêu tả dáng điệu thong thả mà còn giúp ta cảm nhận được
niềm hân hoan sung sướng đang tràn ngập trong lòng Tràng. Thế rồi ánh nắng của bữa sớm mùa hè
rực rỡ, sáng loá chiếu thẳng vào mắt Tràng khiến anh “chớp chớp liên hồi mấy cái”. Cái chớp chớp
mắt ấy khiến ta có cảm giác Tràng như đi ra từ một giấc mơ - một giấc mơ có thật khiến anh vỡ oà.
Cảnh vật xung quanh như một minh chứng để Tràng thấy rằng đó không phải giấc mơ mà là sự
thật.
Anh chầm chậm quan sát, cảm nhận những cảnh vật, sự vật nhỏ bé xung quanh mình để rồi
bỗng chợt nhận ra có một sự thay đổi không hề nhỏ. Từ “bỗng” và từ “chợt” tiếp tục gợi tả tâm
trạng ngạc nhiên và hạnh phúc vỡ oà của Tràng khi từ đây cuộc sống của anh đã bắt đầu bước sang
một trang mới. Việc “nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng”,
đống quần áo rách rưới vứt lâu năm nay được đưa ra hong khô dưới ánh nắng hè, đống rác thì được
hót sạch, ang nước thì đã kín đầy ăm ắp… Bấy nhiêu những sự thay đổi nhỏ bé những tưởng hết
sức giản đơn, nhưng với Tràng lại mang đến một sự “mới mẻ, khác lạ”. Tràng không còn là gã trai
ngụ cư, vô tư khờ khạo nữa. Thay vào đó là một người đàn ông có gia đình, sâu sắc và tinh tế. Anh
cảm nhận được những đổi thay tích cực của cuộc sống xung quanh khi có được bàn tay chăm sóc
của người vợ. Cách quan sát cảm nhận của Tràng thể hiện thái độ nâng niu trân trọng hạnh phúc gia
đình.

Sự cảm động, ý thức trách nhiệm của Tràng khi nhìn thấy mẹ và vợ dọn dẹp nhà cửa
Đặc biệt, có một cảnh tượng bình thường đã khiến Tràng cảm động thấm thía. Đó là “người mẹ
đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt
trên mặt đất” Cảnh như một thước phim quay chậm đầy sinh động về khung cảnh sinh hoạt gia
đình. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng thì “lúi húi” nghĩa là đang chăm chú, thoăn thoắt nhổ bỏ những búi cỏ
dại để dọn dẹp lại vườn tược cho gọn gàng sạch sẽ. Không còn là hình ảnh của một người mẹ già
với dáng đi “lọng khọng”, tiếng ho “húng hắng” già nua mệt mỏi mà thay vào đó là một người mẹ
nhanh nhẹn, hoạt bát đang cố gắng sửa soạn vun vén cho tổ ấm mới của các con mình. Điều đó
khiến Tràng cảm nhận một sự đổi thay đầy cảm động, ấm áp. Chưa dừng lại, hình ảnh người vợ
nhặt với “từng nhát chổi kêu sàn sạt trên mặt đất” gợi những cảm nhận về một không khí gia đình
ấm áp đến lạ. Âm thanh của tiếng chổi bình dị, nhưng nó là tiếng gọi của cuộc sống, của hạnh phúc
mà đã lâu lắm rồi Tràng mới nghe được. Trong “Tâm tư trong tù”, nhà thơ Tố Hữu cũng trân trọng
nâng niu những âm thanh bình dị như thế với bao khát vọng tự do:
“Dưới đường khuya nghe tiếng guốc đi về”
Hay như tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng người đi chợ
mặc cả đã trở thành những âm thanh của cuộc sống lương thiện bình dị, đời thường lần đầu tiên
vọng vào đôi tai tỉnh táo của Chí Phèo để thức dậy khát vọng làm người trong truyện ngắn “Chí
Phèo” - Nam Cao. Và ta cũng hẳn không quên tiếng sáo gọi bạn yêu lấp ló ở ngoài đầu núi hay
lửng lơ bay ngoài đường để dìu Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi trong “Vợ chồng A Phủ”
của Tô Hoài… Có thể nói, những âm thanh nhỏ nhưng lại có sức gợi của một bản giao hưởng đã
giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn nhân vật và chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Trong
“Vợ Nhặt”, âm thanh của tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất là một thứ âm thanh nhỏ bé, bình dị
của đời thường nhưng nó lại gây xúc động mạnh. Âm thanh ấy khiến Tràng thấy “thương yêu gắn
bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Vẫn biết Tràng vốn là một người đàn ông nhân hậu, chân thành,
sẵn sàng mời một người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc giữa mùa đói kém nhưng có lẽ, đây là lần
đầu tiên trong trái tim Tràng dấy lên cũng yêu thương thật sự.
Cùng với tình yêu thương là ý thức về trách nhiệm, bổn phận của một người đàn ông trong gia
đình “hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Đến đây, Tràng thật sự nhìn nhận, suy
nghĩ một cách nghiêm túc rằng “hắn đã có một gia đình”. Câu văn ngắn, giọng chắc nịch, lời văn
khẳng định đã tô đậm nhận thức rõ ràng của Tràng về hạnh phúc đã chín trong tay. Và cũng đến
đây, hạnh phúc ấy với Tràng không còn là một giấc mơ.
Những từ “cái nhà”, “gia đình”, “tổ ấm” lần lượt vừa là những cảm nhận, vừa là những nhận
thức sâu sắc của Tràng. “Cái nhà” chỉ là nơi che mưa che nắng, còn “gia đình” là sự gắn kết giữa
hắn với vợ và con cái. Còn “tổ ấm” chính là sự vun vén, xây đắp của các thành viên. Tràng đã có
một tổ ấm với bàn tay chăm sóc vun vén của mẹ, vợ. Ý thức được điều đó, “một nguồn vui sướng
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng” Tràng. Những nguồn năng lượng tích cực ấy thôi thúc
Tràng hành động “làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Việc Tràng “xăm xăm chạy ra
giữa sân” như muốn hiện thực hoá ngay lập tức bằng những hành động thiết thực để vun vén cho tổ
ấm của mình. “Cái nhà” tranh vắng teo, rúm ró của Tràng giờ đây đã trở thành “căn nhà” được thu
dọn gọn gàng sạch sẽ cùng với đó là cuộc đời Tràng sẽ sang một trang mới đầy hạnh phúc. Giờ đây
Tràng mới nên người và ý thức được bổn phận trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con để bảo vệ tổ ấm
của mình.
→ Như vậy, từ một người đàn ông ngụ cư nghèo khổ, thô kệch, xấu xí, vô tư khờ khạo, hạnh
phúc gia đình đã giúp Tràng trở thành một người đàn ông chín chắn, ý thức được bổn phận trách
nhiệm của người làm chủ gia đình. Qua nhân vật Tràng, Kim Lân như muốn gửi tới mai hậu một
thông điệp nhân sinh sâu sắc: Trong năm đói, những người nông dân nghèo khổ không nghĩ đến
đói, không nghĩ đến chết mà chỉ nghĩ đến sống, sống sao cho thật hạnh phúc.
→ Đoạn văn trên đã ngợi ca khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, tiềm tàng trong tâm hồn của
Tràng. Từ đó khơi dậy một niềm tin mãnh liệt trong người đọc rằng Tràng, vợ Tràng nhất định sẽ
có mặt trong đám người đói phá kho thóc Nhật dưới lá cờ Việt Minh.

3) Nhận xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm


Chuyển ý: Nhà văn Sekhov khẳng định: “Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt
tuỷ”. Thật vậy, qua nhân vật Tràng trong đoạn văn trên, người đọc thấy rõ những giá trị nhân đạo
mà Kim Lân gửi gắm trong truyện ngắn “Vợ Nhặt”
Vậy giá trị nhân đạo là gì? Đó là tình thương yêu, là cái nhìn thấu cảm trân trọng của nhà văn
trước những khổ đau bất hạnh và khát vọng của con người. Một tác phẩm văn học chân chính phải
là một tác phẩm có tiếng nói nhân đạo. Truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một áng văn trĩu
nặng tình thương yêu con người trong nạn đói khủng khiếp 1945. Nhà văn gửi gắm thông điệp về
tình người, về khát vọng sống, về sự đồng cảm sẻ chia giữa con người với nhau thông qua hành
trình của đôi vợ chồng vợ nhặt. Đặc biệt, dưới ngòi bút nhân đạo, nhà văn Kim Lân đã đặt niềm tin
sắt son vào sức sống tiềm tàng, vào tình người, tình mẫu tử của những người nông dân Vợ Nhặt
trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn còn hướng các nhân vật tới
một cuộc sống đầy ánh sáng, tự do, ấm no hạnh phúc dưới lá cờ của Việt Minh. Cũng qua “Vợ
Nhặt”, Kim Lân tố cáo tội ác của bọn phát xít thực dân đã đẩy đời sống nhân dân ta đến đường
cùng với nạn đói kinh hoàng.
→ Tóm lại, “Vợ Nhặt” là một truyện ngắn giàu giá trị nhân đạo. Kim Lân đã dùng “Vợ Nhặt”
làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện nhặt vợ từ bóng tối nhưng
lại toả ra nhiều nguồn ánh sáng. Nếu nói rằng: “Văn chương có hai loại: loại đáng thờ và loại
không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người, loại không đáng thờ là loại chỉ
chuyên chú ở văn chương.” thì “Vợ Nhặt” xứng đáng được coi là loại văn chương “đáng thờ”.

III. Hợp
KB
Đề 5: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
Yêu cầu cần đạt: Làm nổi bật
- Tâm trạng bà cụ Tứ trong:
- Buổi tối Tràng dẫn thị về
- Buổi sáng hôm sau
- Vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo
→ Cái nhìn nhân đạo của nhà văn Kim Lân

Mở bài
Thân bài
I. Tổng
1) Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
2) Giới thuyết về hình tượng nghệ thuật + vị trí, cảm nhận chung về nhân vật bà cụ Tứ trong
tác phẩm
Nhân vật có vai trò quan trọng trong tác phẩm tự sự tựa như một chiếc chìa khoá giúp người
đọc khám phá thế giới tư tưởng trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Bà cụ Tứ là nhân vậy xuất
hiện nửa sau tác phẩm “Vợ nhặt” nhưng lại là nhân vật hội tụ nhiều tinh hoa của ngòi bút Kim Lân.
Với tấm lòng nhân đạo, nhà văn xứ Kim Bắc đã xây dựng thành công hình tượng một người mẹ
nông dân nghèo với tình người, tình mẫu tử cao đẹp thiêng liêng và nhất là tinh thần lạc quan, niềm
tin tưởng vào tương lai tươi sáng trong năm đói. Nhân vật bà cụ Tứ góp phần làm nên sức sống của
truyện.

II. Phân tích


1) Giới thiệu ngắn gọn tình huống xuất hiện, lai lịch, cuộc đời bà cụ Tứ
Bà cụ Tứ xuất hiện trong một tình huống truyện éo le mà cảm động: anh cu Tràng - người con
trai duy nhất của cụ bỗng nhặt được vợ giữa lúc nạn đói hoành hành. Nghịch cảnh ấy đã làm nổi bật
tấm lòng nhân hậu của người mẹ nghèo có cuộc đời tội nghiệp đáng thương
Bà cụ Tứ tuổi già, nghèo khó, cuộc đời trải qua biết bao đau thương. Bà xuất hiện trong buổi
hoàng hôn tê tái, thê lương của năm đói với tiếng “húng hắng ho”, với dáng đi “lọng khọng” từ
ngoài rặng tre đi vào. Nhà văn Kim Lân đã khắc hoạ chân thực mà xúc động dáng hình của một
người mẹ nông dân nghèo khổ, già cả, lưng còng, trĩu nặng những lo âu trước cuộc đời sóng gió.

2) Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ


a/ Tâm trạng bà cụ Tứ trong buổi chiều tối Tràng dẫn thị về
Ngạc nhiên
Việc Tràng nhặt được vợ trong năm đói trước hết đã đem lại một sự nhạc nhiên đến sững sờ
trong lòng bà cụ Tứ. Khi thấy người đàn bà xa lạ ở trong nhà, bà “phấp phỏng” tỏ ý không hiểu rồi
“đứng sững lại” và “càng ngạc nhiên hơn”, thậm chí ngay lúc này một loạt những câu hỏi xuất hiện
dồn dập trong suy nghĩ của bà cụ “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ” “người đàn bà
nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia” “sao lại chào mình bằng u?” “ai thế nhỉ?”. Bao
nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu tâm trạng ngạc nhiên. Cụ Tứ không dám tin vào mắt mình. Phải chăng
cái đói quá khủng khiếp, cuộc sống khốn khổ kéo dài dằng dặc cả cuộc đời đã đánh mất đi những
sự nhạy cảm vốn có trong lòng người mẹ nghèo? Bà cụ Tứ nào đâu dám tin anh con trai đáng
thương tội nghiệp, ế vợ bấy lâu nay của mình lại có thể nhặt được vợ ngay lúc này. Thậm chí bà cụ
ngạc nhiên đến nỗi cứ ngỡ những gì bà nhìn thấy không phải là sự thật “bà lão hấp háy cặp mắt cho
đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Từ “nhoèn” diễn tả thật tự nhiên và
chân thật trạng thái nhử mắt và nước mắt của người già làm cho mắt họ mờ đi trong chốc lát. Bới
bà cụ Tứ, đó là sự ngạc nhiên quá đỗi, sự ngỡ ngàng đến sững sờ trước việc anh con trai có vợ. Bà
phải “hấp háy cặp mắt” để tự trấn tĩnh xem đó là mơ hay là thật.
Liên hệ với nỗi ngạc nhiên của các nhân vật trong tác phẩm
Thật ra việc Tràng nhặt vợ giữa năm đói không chỉ có bà cụ Tứ ngạc nhiên. Từ những người
dân ngụ cư cho đến thậm chí cả Tràng cũng không dám tin đó là sự thật. Nhiều lần Tràng cũng
trong một trạng thái tâm lý tương tự, ngạc nhiên ngỡ ngàng như đang ở trong một giấc mơ, chỉ có
điều riêng bà cụ Tứ là ngạc nhiên nhiều nhất. Dường như Kim Lân đã gửi gắm bao niềm cảm thông
xót thương với nỗi niềm nhạc nhiên đến tội nghiệp của mẹ già khi cái đói khủng khiếp lúc bấy giờ
đã làm mất đi sự nhạy cảm vốn có của tình mẫu tử thiêng liêng.

Nỗi tủi hờn, lo lắng


Nhưng khi anh con trai giải thích “nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà lão hiểu ra cơ
sự. Lúc này, lòng người mẹ nghèo ngổn ngang bao nỗi niềm. Bà cụ “cúi đầu nín lặng”. Mấy chữ
đơn sơ nhưng trĩu nặng nỗi lòng người mẹ nghèo. Đó là cái cúi đầu đầy tủi hờn, đầy tình thương và
trách nhiệm. Bà cụ hiểu được rằng các con mình đã phải “nhặt” nhau giữa đường, giữa chợ. Bà
hiểu được những thiệt thòi đáng thương của con mình trong cuộc hôn nhân “vợ nhặt”. Cho nên lúc
này, bà “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình”. Số phận bọt bèo rẻ rúng của
thân phận người nông dân ngụ cư trong năm đói khủng khiếp đã khiến Tràng chỉ có thể nhặt vợ
thay vì có một đám cưới đàng hoàng, trang trọng. Hoàn cảnh sống nghiệt ngã đã làm cho số kiếp
của đứa con bà cụ Tứ càng thêm tội nghiệp. Ngay lúc này, trong lòng bà cụ Tứ không chỉ có tình
thương mà còn có tinh thần trách nhiệm. Bà hiểu được trách nhiệm của người làm cha làm mẹ là
phải “dựng vợ gả chồng” cho con vậy mà “còn mình thì…”. Câu văn ngắn gọn cùng với dấu “…”
như dồn nén, trĩu nặng bao nỗi lòng của người mẹ. Bà vừa thương con mà vừa tự trách mình đã
không hoàn thành bổn phận của người làm cha làm mẹ trước hạnh phúc các con, càng như vậy,
lòng bà cụ Tứ càng nhiều nỗi tủi hờn, nhiều nỗi xót thương. Chính những tình cảm sâu nặng ấy đã
bật ra thành dòng nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”

Hình ảnh dòng nước mắt bà cụ Tứ


Dòng nước mắt từ từ rỉ xuống nơi kẽ mắt kèm nhèm của cụ Tứ ẩn chứa một nội tâm phức tạo,
ngổn ngang nhiều nỗi niềm. Bà cụ dường như đang cố dằn lòng mà không thể dằn lòng. Bao nhiêu
tình thương con, nỗi xót xa ai oán tủi hờn đã bật thốt thành dòng nước mắt, cho nên như nhà văn
Nam Cao đã nói: “Nước mắt là tấm kính biến hình của vũ trụ”, giọt nước mắt của bà cụ Tứ là hiện
thân của tình mẫu tử thiêng liêng. Sau dòng nước mắt ấy hiện diện một nỗi lo lắng của người mẹ
trước hạnh phúc mong manh của các con “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không”. Nỗi lo ấy một lần nữa tô đậm hiện thực khủng khiếp của năm đói. Cái đói đe
doạ mạng sống và hạnh phúc của con người. Vì vậy, nỗi lo của bà cụ Tứ hay nỗi lo của Tràng, của
người những người dân ngụ cư về sự hiện hữu của năm đói là tất yếu.
→ Tất cả những nỗi niềm trên đã gợi tả trước mắt người đọc hình ảnh một người nông dân
nghèo với tình thương con vô bờ bến. Chỉ với một vài dòng suy nghĩ được Kim Lân diễn tả tự
nhiên và chân thực đã giúp người đọc thấu cảm cái gọi là tình mẫu tử thiêng liêng.

Cảm thông, thương xót thị


Không chỉ thương con, bà cụ Tứ còn cảm thông, thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị. Nhìn dáng
hình đang thương tội nghiệp của người xa lạ trước mắt mình, bà cụ Tứ không hề có sự ghét bỏ hay
khinh khi mà ngược lại, lòng đầy thương xót. Cái suy nghĩ của bà cụ Tứ “người ta có gặp nước khó
khăn đói khổ này, người ta mới lấy con mình. Mà con mình mới có vợ được” đã thể hiện tấm lòng
bao dung, nhân hậu của cụ Tứ. Điều đáng nói, thị là người đàn bà xa lạ theo không con trai bà cụ
về. Không một lời hỏi cưới, không một mâm cao cỗ đầy vậy mà người đàn bà xa lạ ấy lại trở thành
dâu con trong nhà. Nếu chấp nhặt lễ giáo, bà cụ thật khó lòng chấp nhận thị, thậm chí rất dễ có cái
nhìn hằn học, khinh thường. Thế nhưng trong suy nghĩ rất mực chân thành của cụ Tứ lị dấy lên một
nỗi niềm thương cảm, thấu hiểu đối với thị, bà hiểu rằng thị theo không con bà về là vì “gặp bước
khó khăn, đói khổ”, là do hoàn cảnh đẩy đưa. Bà cũng hiểu được rằng nhờ hoàn cảnh đấy, đứa con
trai ế vợ bấy lâu nay của bà “mới có vợ được” cho nên cụ Tứ hiểu người, biết ta, nhân hậu bao
dung. Chính tình người ấm áp của bà cụ Tứ đã toả ngọn lửa hồng xua tan cái lạnh lẽo của năm đói
giúp đôi trẻ Tràng - thị được sống trong một mái ấm của tình yêu thương
“Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” thể hiện tình cảm, sự
đón nhận trong hạnh phúc của bà cụ Tứ đối với cuộc hôn nhân của các con. Bà xưng “u”, “các con”
thân tình ấm áp. Chính cách xưng hô ấy đã khiến cho cuộc hôn nhân nhặt nhau giữa đường giữa
chợ của Tràng và thị không còn rẻ rúng, bèo bọt mà trở nên trang trọng, đàng hoàng như những
cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy khác. Lời đầu tiên bà cụ Tứ nói với thị là lời nói của một người mẹ
đón nhận con dâu mới đầy tình thương, tình người. Chính tình cảm này là nguồn chở che dành cho
thị, là sự bảo vệ danh dự cho thân phận người vợ nhặt. Cách nói “u cũng mừng lòng” cho thấy tự
đáy lòng bà cụ Tứ mừng vui hạnh phúc, chúc phúc cho các con. Nếu như “bằng lòng” thì có vẻ bà
cụ Tứ sẽ miễn cưỡng mà chấp nhận nàng dâu mới, còn “mừng lòng” thì bà cụ vui vẻ đón nhận,
chúc phúc cho hạnh phúc của các con. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng ta cảm nhận được tấm lòng nhân
hậu của một người mẹ nông dân nghèo rất hiền từ, sống có tình, có nghĩa.

Niềm tin tưởng, lạc quan


Vượt lên trên những nỗi niềm thương xót, tủi hờn, lo lắng, lòng bà cụ Tứ vẫn tràn đầy niềm tin
tưởng lạc quan. Bà khuyên bảo các con hoà thuận “vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”,
rồi hướng các con đến một tương lai tươi sáng bằng niềm lạc quan, tin tưởng “rồi ra may mà ông
giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về
sau”. Hạnh phúc của các con được xây dựng trong khi nạn đói đang hoành hành nên mới đầu tâm
trạng của bà cụ Tứ bị cái đói đè xuống làm cho trĩu nặng nhưng sau đó niềm vui niềm hạnh phúc
thật sự đã bắt đầu được khơi lên, được nhen nhóm thành ngọn lửa của niềm tin tưởng, lạc quan.
Trong suy nghĩ của bà cụ Tứ lúc này, cái đói sẽ qua đi, các con bà sẽ có tương lai tươi sáng nở mày
nở mặt về sau. Chính tinh thần lạc quan của bà cụ Tứ đã toả ánh sáng xua tan cái tăm tối của năm
đói, tiếp tục lan toả và thắp sáng ngọn lửa niềm tin vào Tràng và thị.
Bà cụ từ người mẹ 70 tuổi - cái tuổi gần đất xa trời lại phải chống chọi với năm đói thế mà lòng
vẫn tràn đầy niềm tin tưởng lạc quan như thế, thật đáng quý đáng trân trọng biết bao. Không phải
ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để cho người mẹ già nói nhiều về tương lai đến thế. Phải chăng bà cụ
Tứ hiện thân cho sứ mệnh mà Kim Lân muốn nhân vật này thực hiện: thắp sáng ngọn lửa tình đời,
tình người, niềm tin tưởng vào tương lai tốt đẹp để xua tan năm đói khủng khiếp. Không những thế,
nhà văn Kim Lân còn ngầm gửi tới chúng ta thông điệp: một người mẹ già nua nghèo khổ như cụ
Tứ mà vẫn tràn đầy niềm tin, tinh thần lạc quan thì những chàng trai cô gái có sức sống tiềm tàng
mãnh liệt như Tràng và thị thì tinh thần ấy còn lớn lao đến nhường nào.
Kết thúc trong buổi chiều tối đọng lại trong nỗi niềm của bà cụ Tứ vẫn là tình thương con: “cốt
làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u
thương quá”. Bà cụ bộc lộ thẳng thắn , chân thành mà tự nhiên tình thương sâu nặng. Cụ Tứ càng
thương các con hơn khi chúng phải lấy nhau trong lúc “đói to” mà hoàn cảnh gia đình thì ngặt
nghèo, không có nổi một bữa cơm, một đám cưới cho đàng hoàng: Càng ngẫm càng thương con, vì
vậy “bà cụ nghẹn lời không nói được, nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Tình thương con lúc này
không còn bị nén chặt mà rỉ xuống 2 dòng nước mắt như lúc đầu. Thay vào đó “cứ chảy xuống
ròng ròng những giọt nước mắt xót thương”. Một lần nữa nhà văn lại dụng tâm khắc họa dòng nước
mắt của người mẹ thương con giữa màu đói, vì thương con, người mẹ nghèo ấy chỉ có thể nghẹn lời
mà cứ để cho dòng nước mắt thay tâm trạng. Cho nên Kim Lân nâng niu từng chi tiết nhỏ để khắc
họa chân dung người mẹ nông dân nghèo từng trải, hiểu đời và có tấm lòng sâu thẳm với các con
của mình. Có một nhà văn đã khẳng định: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Có thể nói, chi tiết
giọt nước mắt đã góp phần tô đậm tấm lòng của một nhà văn nhân đạo lớn.
Như vậy. Trong buổi chiều tối Tràng dẫn thị về, lòng bà cụ Tứ ngổn ngang bao nỗi niềm. Từ
ngạc nhiên cho đến đan xen những nỗi niềm phức tạp, nhưng bao trùm tất cả, ta vẫn thấy ở bà cụ
Tứ tỏa sáng tình người, tình mẫu tử cao đẹp thiêng liêng. Có thể nói, cụ Tứ là biểu tượng cho người
mẹ nông dân nghèo ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng mà nhà văn Kim Lân rất đỗi kính yêu.

b/ Tâm trạng, hành động của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau
Chuyển ý: Sáng hôm sau, những buồn đau lo lắng qua đi, chỉ còn lại sự tin tưởng, hi vọng và
niềm vui mừng hạnh phúc, “Vợ nhặt” của Kim Lân có sự vận động cốt truyện mạnh mẽ từ bóng tối
đến ánh sáng, từ buổi chiều chạng vạng, tê tái lạnh lẽo của năm đói đến một buổi sáng mùa hè chói
chang, rực rỡ, ấm áp. Trong cái buổi sáng mùa hè ấy, hạnh phúc của đôi vợ chồng vợ nhặt lan tỏa
và mang đến những sự đổi thay bất ngờ, sự đổi thay lớn lao nhất có thể nói đang diễn ra ở nhân vật
bà cụ Tứ.
Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm “tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng
rỡ hẳn lên”. Bà cụ dậy sớm cùng con dâu quét dọn cửa nhà vườn tược. Những hành động “lúi húi
giẫy những bụi cỏ mọc nham nhở” “xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa” đã thể hiện một nội tâm
đầy hạnh phúc. Dường như bà cụ hạnh phúc hơn tất cả khi con trai bà nhặt được vợ, yên bề gia thất.
Vậy nên ta không còn thấy dáng hình của một người mẹ với dáng đi “lọng khọng” tiếng ho “húng
hắng”, đôi mắt kèm nhèm đầy mệt mỏi của buổi chiều hôm trước. Thay vào đó là hình ảnh một
người mẹ nhanh nhẹn, tháo vát, vui vẻ. Những từ láy “lúi húi”, “xăm xắn” kết hợp với các tính từ
“nhẹ nhõm”, “tươi tỉnh” “rạng rỡ” đã hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh người mẹ khỏe
khoắn vui vẻ và tràn đầy hạnh phúc, không còn tuổi già. Không còn mệt mỏi và hình như cái đói
cũng không còn hiện diện, chỉ còn lại bà cụ Tứ niềm hy vọng là niềm lạc quan, tươi vui tốt đẹp. Cái
việc bà cùng con dâu quét tước, thu dọn nhà cửa thật bình thường nhưng hóa ra lại đầy ắp ý nghĩa.
Sắp xếp, thu dọn cửa nhà vườn tược là bà cụ đang muốn sống lâu dài với các con, muốn khẳng định
rằng nạn đói khủng khiếp sẽ qua đi, các con của bà sẽ sống đàng hoàng, hạnh phúc “cuộc đời có thể
khác đi, làm ăn có thể khấm khá hơn”.
Trong bữa cơm ngày đói chào đón con dâu mới, bà cụ không màng đến cái nghèo, cái đói đang
bủa vây mà toàn nói đến chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Kim Lân lắng lại để miêu tả
cái thảm hại của bữa cơm ngày đói. Chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn và một niêu
cháo lõng bõng, một nồi chè khoán đắng chát nhưng bằng tình thương con sâu sắc, bà cụ Tứ đã
biến nó thành một bữa ăn cơm thịnh soạn, một buổi sum họp gia đình ấm áp, hòa hợp. Điều đặc
biệt là bà lão nói rất nhiều chuyện vui chuyện sung sướng sau này. Bà lão nhen lên niềm tin, niềm
hy vọng trong lòng các con khi căn dặn: “làm cái chuồng gà”, “có tiền ta mua lấy đôi gà”, “ngoảnh
đi ngoảnh lại mà có ngày đàn gà”. Thật sự lòng lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai của bà cụ Tứ
chính là ánh sáng ấm áp của căn nhà, tỏa sáng hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ và xua tan năm đói.
Tinh thần ấy của bà cụ Tứ gợi ta nhớ tới bài ca dao quen thuộc của người nông dân nghèo trong xã
hội xưa:
“Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”
(Mười cái trứng)
Vẻ đẹp tâm hồn bà cụ Tứ còn được nhà văn Kim Lân khắc họa qua chi tiết “nồi chè khoán”
hóm hỉnh, tài hoa. “Chè khoán” chính là cháo cám - một món ăn dành cho gia súc của người nông
dân ấy vậy mà giờ đây nó trở thành món chè khoán được bà cụ Tứ đon đả mời chào trong bữa cơm
trang trọng của gia đình. Khi bữa ăn đang vui bỗng ngừng lại vì niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được lưng hai chén đã hết nhẵn thì bà cụ Tứ lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc lên nghi ngút rồi đon
đả mời chào: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Đồng thời bà cũng giải thích” “Cám đấy mày ạ, hì.
Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Nồi cháo cám
đã tô đậm hiện thực bi thảm của người nông dân trong năm đói. Cái đói khủng khiếp, người nông
dân đến cháo cũng không có mà ăn, phải ăn cháo cám cầm hơi qua ngày. Ngay đến vợ chồng Kim
Lân cũng phải trải qua những ngày ăn cháo cám tăm tối như thế trong nạn đói. Vậy nên Kim Lân
đã viết về chi tiết nồi “chè khoán” - cháo cám bằng tất cả tấm lòng của một người được mệnh danh
là “con đẻ của đồng ruộng”. Sự đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ của người nông dân nghèo đã giúp
Kim Lân viết lên những trang văn đầy cảm động. Việc bà cụ Tứ vui vẻ vừa cười vừa mời chào
“ngon đáo để” gợi ta cảm nhận tới những xúc vị thần của nó. “Ngon” ở đây không phải là ở xúc vị
vật chất đắng chát của cháo cám mà là những xúc cảm tinh thần. Niềm vui, niềm hạnh phúc đã biến
cái đắng chát thành cái ngọt ngào, “ngon đáo để”. Chi tiết nồi chè khoán cũng là chi tiết hóm hỉnh
duy nhất trong tác phẩm mà Kim Lân dùng để trao tặng người mẹ nghèo. Từ đó, nhân vật như làm
sáng lên chất người, sáng lên tình mẫu tử, sáng lên niềm tin niềm hy vọng đang bị chèn ép bởi cái
đói, cái chết. Có một điều là Bà cụ Tứ - một người mẹ đã ngoài 70, cái tuổi gần đất xa trời thế
nhưng Kim Lân lại để cho người mẹ ấy thắp sáng ngọn đuốc của niềm tin tưởng lạc quan. Từ đó,
nhà văn như muốn gửi tới chúng ta một tưởng rằng đến bà cụ Tứ còn tràn đầy hy vọng như thế thì ở
các con bà, niềm hy vọng ấy còn diễn ra âm thầm mãnh liệt đến nhường nào. Ta cảm nhận được
sức sống tiềm tàng mạnh mẽ trong nội tâm nhân vật bà cụ Tứ cũng như trong các con của bà.
→ Vậy là trong bữa cơm ngày đói, trong không khí của một ngày mới mùa hè tươi sáng, bà cụ
Tứ là một người mẹ tràn đầy hạnh phúc, khỏe khoắn mang tới năng lượng tích cực cho các con.
Chưa bao giờ ta thấy bà cụ nói nhiều, vừa nhiều vừa vui vẻ đến thế. Sự hạnh phúc trên khuôn mặt
của bà cụ Tứ làm cho ta nhớ tới nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Giữa bao nhiêu khổ đau, bất hạnh, “lần đầu tiên trên khuôn
mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười”. Nụ cười của người đàn bà bất hạnh ấy
là được nhìn các con “chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc thật đơn giản mà trong nhân sinh vô
thường này ta vẫn kiếm tìm chính là tình yêu thương. Bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của
Kim Lân hay người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” đều là hiện thân của tình mẫu
tử: “Cá chuối đắm đuối vì con”, “Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”. Quả đúng như Victor Hugo
trong “Những người khốn khổ” đã gửi tới chúng ta thông điệp rằng: “Trên đời chỉ có một điều ý
nghĩa thôi: là yêu thương nhau”.
Giọt nước mắt của bà cụ Tứ ở cuối tác phẩm thật giàu sức gợi. Đây là lần thứ ba những giọt
nước mắt lăn trên khuôn mặt khắc khổ, nhăn nheo của người mẹ già. Ở những lần trước là giọt
nước mắt tủi hờn thương con, xót xa cho số kiếp thiệt thòi của đứa con mình. Và đến đây, một lần
nữa ngòi bút của Kim Lân lắng lại với những cảm xúc tự nhiên, chân thành khi miêu tả giọt nước
mắt bà cụ Tứ. Tiếng trống thúc thuế dồn dập ngoài đình đã phá vỡ không khí hạnh phúc của gia
đình cụ, đe dọa hạnh phúc, sự sống của các con cụ nên “cụ Tứ ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không
dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Giọt nước mắt của bà cụ Tứ đã phản ánh số phận khốn khổ tận
cùng của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến sưu cao
thuế nặng. Giọt nước mắt ấy đã phơi bày thực trạng thảm khốc trong xã hội nông thôn lúc bầy giờ.
Nhưng hơn hết, đó là giọt nước mắt của tình người, tình mẫu tử thiêng liêng. Bà cụ ngoảnh vội ra
ngoài để giấu đi những lo lắng tủi hờn vì không muốn làm ảnh hưởng tới những hạnh phúc mới
chớm của các con mình. Quả thật, “lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Có thể nói, hình ảnh giọt
nước mắt bà cụ Tứ và những trang văn viết về nhân vật này nói chung đều thấm đượm tinh thần
nhân đạo của nhà văn Kim Lân. Kim Lân đã viết về người mẹ nông dân nghèo bằng ngồi bút kính
yêu nhất.
→ Như vậy đoạn văn trên nói riêng và “Vợ nhặt” của Kim Lân nói chung đã khắc họa thành
công chân dung người mẹ nông dân cơ hàn giàu tình người, giàu tình thương con trong năm đói
khủng khiếp 1945. Ta thấy bóng dáng của người mẹ Việt Nam đôn hậu bao dung trong chân dung
hình ảnh bà cụ Tứ. Nhân vật bà cụ Tứ đã góp phần làm sáng thông điệp nghệ thuật của “Vợ nhặt”
rằng trong cái đói, cái chết bủa vây nhưng những người nông dân nghèo không nghĩ đến cái đói, cái
chết, họ chỉ nghĩ đến sống, sống sao cho thật hạnh phúc. “Vợ nhặt” của Kim Lân xứng đáng được
coi là một “áng văn chân thực và giản dị với con người” (Hemingway).

III. Hợp

You might also like