Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI

Tên đề tài:

Nghiên cứu giai cấp công nhân theo quan điểm chủ nghĩa Mác. Đánh giá thực trạng
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng
giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HIỆN


Bùi Văn Tuyển Hà Giang Thảo Duyên
Mã sinh viên: 21510101361
2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hồ Chí Minh, 16 tháng 12 năm 2022

BÀI TIỂU LUẬN MÔN: CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI

Họ và tên sinh viên: Hà Giang Thảo Duyên

Mã số sinh viên: 21510101361

Mã lớp học phần:

ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN

Ghi bằng số Ghi bằng chữ Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày…… tháng……năm 2022

Sinh viên nộp bài

Hà Giang Thảo Duyên


3

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................5
B. NỘI DUNG.............................................................................................................6
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG................................................................................6
1. Định nghĩa......................................................................................................6
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân:................................................................6
1.2. Đặc điểm:.................................................................................................6
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:........................................6
2.1. Nội dung kinh tế:.....................................................................................6
2.2. Nội dung chính trị - xã hội:........................................................................6
2.3. Nội dung văn hóa – tư tưởng:.......................................................................7
3. Những điều kiện quyết định sứ mệnh của giai cấp công nhân:......................7
4. Những điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh:.......................7
Chương II: THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM...................8
1. Sự ra đời của GCCN:.....................................................................................8
2. Vai trò của GCCN:.........................................................................................8
3. Những thành tựu đạt được:.............................................................................8
4. Hạn chế:........................................................................................................10
5. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của GCCN:.........................11
6. Một số vấn đề đặt ra hiện nay.......................................................................12
7. Liên hệ bản thân...........................................................................................13
Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0..................................................................................15
1. Phương hướng chung để nâng cao chất lượng GCCN Việt Nam................15
2. Phương hướng riêng.....................................................................................16
3. Giải pháp:.....................................................................................................17
C. KẾT LUẬN:............................................................................................................18

DANH MỤC VIẾT TẮT


GCCN: giai cấp công nhân
ĐCS: Đảng Cộng sản
CNH: Công nghiệp hoá
HĐH: Hiện đại hóa
4

CNXH: Chủ nghĩa xã hội


5

A. PHẦN MỞ ĐẦU

Trong sự chuyển biến của 5 hình thái kinh tế xã hội, luôn có 1 giai cấp đứng ở vị trí
trung tâm đóng vai trò lãnh đạo quá trình chuyển biến đó. Sự chuyển biến từ hình thái
tư bản chủ nghĩa sang hình thái xã hội chủ nghĩa vai trò chủ lực là giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử của thế giới, là lực lượng chính dẫn đến hình
thái kinh tế xã hội tiếp theo. Theo quan điểm Mác-Leenin: “Chừng nào quan hệ bóc lột
vẫn cong thì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo vẫn có
cơ hội nổ ra, nhằm thay thế nhà nước mà họ gọi là nhà nước tư sản và giai cấp tư sản
bằng nhà nước vô sản tại các nước phi cộng sản – cánh tả và xã hội chủ nghĩa.” Sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là nội dung chủ yếu, điểm căn bản của
chủ nghĩa Mác – Leenin, là phạm trù trung tâm, nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Do là lực lượng lao động chính hiện nay nên sự tác động của công nhân
còn tác động đến quá trình sản xuất cụ thể, ảnh hưởng tình hình kinh tế chính trị trên
toàn thế giới, ảnh hưởng đến sự phát triển nền khoa học công nghệ trong hiện tại và
tương lai. Để hiểu hơn về lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa, em xin nghiên cứu về sự ra đời, định nghĩa, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong quan điểm chủ nghĩa Mác, những điều kiện quyết định sứ mệnh của
giai cấp công nhân, những điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh, từ đó
liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam.
6

B. NỘI DUNG
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG
1.Định nghĩa
1.1.Khái niệm giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với sự
phát triển của nên công nghiệp hiện đại. Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến. Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ
bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột
giá trị thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động
làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác láo động vì lợi ích chung của
toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của mình.
1.2. Đặc điểm:
- Giai cấp công nhân trên phương diện kinh tế - xã hội: Là người lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội
hóa cao, là người không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, phải bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư, là những người lao động tự do với
nghĩa tự do bán sức lao động của mình để kiếm sống. - Giai cấp công nhân trên phương diện
chính trị - xã hội: lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ là máy
móc, là sản phẩm của nền đại công nghiệp, được rèn luyện tính kỉ luật, tổ chức, tinh thần
hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp.

2.Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:


2.1.Nội dung kinh tế:
- Là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội.

- Đóng vai trò nòng cốt trong quá trình giải phóng lực lượng sản xuất( vốn bị kìm hãm, lạc
hậu, chậm phát triển trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho
quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.

- Là lực lượng đi đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh công nghiệp gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

2.2. Nội dung chính trị - xã hội:


- Cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, tiến hành cách mạng
chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức của chủ
nghĩa tư bản, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
7

- Dùng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới, phát triển
kinh tế văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản lý kinh tế - xã hội và tổ
chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ,
công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

2.3. Nội dung văn hóa – tư tưởng:


- Trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa,
tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động, công bằng, dân chủ, bình
đẳng và tự do.

- Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã
hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa.

3. Những điều kiện quyết định sứ mệnh của giai cấp công nhân:
- Do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định: Giai cấp công nhân được rèn
luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh, đối lập với lợi ích sản xuất. Họ chỉ có thể tự giải phóng bằng
cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định: là lực lượng lao động
chính hiện nay, giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng
đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt
mục tiêu cách mạng, khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống
tư bản.
4. Những điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh:
- Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân về cả số lượng và chất lượng:

+ Phát triển số lượng gắn liền với phát triển chất lượng

+ Chất lượng: phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng, năng lực (lao động
giản đơn, cơ bắp dần được thay bằng sự hỗ trợ của máy móc, công nghệ hiện đại) và trình
độ làm chủ khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại (cách mạng 4.0).

+ Số lượng: phát triển về số lượng và đa dạng về cơ cấu.

- Đảng cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử của mình:

+ Đề ra đường lối.

+ Tuyên truyền vận động đưa đường lối vào thực tiễn.

+ Tổ chức thực hiện đường lối.


8

+ Gương mẫu thực hiện đường lối. - Liên minh giai cấp giữa các giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Chương II: THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1. Sự ra đời của GCCN:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành thuộc địa nửa phong kiến,
nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạc của chúng. Sau khi
đặt ách thống trị lên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp cấu kết với bọn
phong kiến tay sai tiến hành khai thác các hầm mỏ, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, mở
các tuyến đường, mở các đồn điền trồng cây công nghiệp,… Từ đó, nước ta có một lớp
người lao động mới ra đời – đó là những công nhân làm thuê, phần lớn tập trung ở các thành
phố, các khu công nghiệp. Năm 1906 nước ta có khoảng 5 vạn công nhân. Đến năm 1924,
công nhân đã có 22 vạn người. Ở nước ta, với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong
kiến thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trước hết là phải lãnh đạo cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giành độc lập dân tộc. Trong giai đoạn cách mạng
xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.Vai trò của GCCN:
Công nhân lao động nước ta hiện nay có trên 11 triệu người, chiếm khoảng 13,5% dân số,
26,46% lực lượng lao động xã hội (giai cấp công nhân lao động Việt Nam ngày càng đa
dạng về cơ cấu ngành nghề, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp) hằng năm
đóng góp trên 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà nước. Hình
thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức (có trình độ đại học, cao đẳng trở lên)
làm công tác quản lý, nghiên cứu và quản lý khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh
doanh... Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát
triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công
nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước.

3. Những thành tựu đạt được:


Qua 35 năm đổi mới, hơn 12 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X),
GCCN Việt Nam đã tăng về số lượng, trưởng thành về chất lượng và khẳng định, phát
huy vai trò, địa vị của mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, tổng
số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta có
9

khoảng 24,5 triệu người, trong đó công nhân, lao động trong các doanh nghiệp chiếm
khoảng 60%, chiếm tỉ lệ khoảng 14% số dân và 27% lực lượng lao động xã hội. Dự
báo đến năm 2020, giai cấp công nhân có khoảng 20,5 triệu người. Công nhân trong
doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
nhanh; ngược lại, công nhân trong doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số
lượng.

Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị của giai cấp công
nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri thức, nắm vững khoa học - công
nghệ tiên tiến tăng lên. Công nhân trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu
vực ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với máy móc, thiết bị
tiên tiến, làm việc với các chuyên gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng
lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công
nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, có trình độ học vấn,
văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, sẽ là lực lượng lao động chủ
đạo, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia
tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai…

Công tác Công đoàn và phong trào công nhân đã đạt được kết quả toàn diện, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ. Công đoàn đã có
những sáng tạo, đề xuất và tổ chức được nhiều chương trình hoạt động mới như: Chăm
lo phúc lợi cho đoàn viên công đoàn; tổ chức "Tết Sum vầy" cho người lao động; xây
dựng các thiết chế công đoàn, góp phần tháo gỡ những vấn đề bức xúc về nhà ở, nhà
trẻ, nơi sinh hoạt văn hoá… cho người lao động. Đã có nhiều biện pháp linh hoạt, kịp
thời cùng hệ thống chính trị giải quyết những vụ, việc liên quan đến công tác bảo đảm
an ninh, trật tự, quyền lợi, đời sống của công nhân, viên chức, người lao động. Tổ chức
đối thoại, thương lượng thoả ước lao động tập thể, góp phần bảo đảm chế độ, chính
sách và từng bước nâng cao phúc lợi, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động, thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến
bộ. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục tạo được sức lan toả trong hệ thống. Phong trào
thi đua yêu nước trong CNVCLĐ có sự chuyển biến tích cực. Tổ chức công đoàn ngày
càng được củng cố và phát triển. Công tác tập hợp công nhân, người lao động đạt
nhiều kết quả, số lượng đoàn viên tăng nhanh so với các nhiệm kỳ trước, xuất hiện
nhiều hình thức tập hợp công nhân, viên chức, phát triển đoàn viên, thành lập công
đoàn cơ sở rộng khắp trong các doanh nghiệp. Mô hình tổ chức bộ máy, tổ chức công
đoàn đang được hoàn thiện; chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn từng bước được
nâng cao. Trên khắp các lĩnh vực đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến,
CNVCLĐ đi đầu và thành công trong lao động sản xuất kinh doanh, khẳng định vai trò
10

của tổ chức công đoàn trong hệ thống chính trị, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của
Công đoàn Việt Nam.

4. Hạn chế:

Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất
cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ
cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản

Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2013 tổng số công nhân lao động làm việc
trực tiếp trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900
người (chiếm 12,8% dân số, 21,7% lực lượng lao động xã hội). Trong đó, có
1.660.200 công nhân làm việc trong doanh nghiệp nhà nước; 6.854.800 công nhân
trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và 3.050.900 công nhân trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”, Tuy
nhiên, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại chưa tương thích với quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động. Để hướng đến một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, số lượng
giai cấp công nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 24% lực lượng lao động xã
hội là tỷ lệ còn thấp.

Tuổi bình quân trẻ: từ 18-30 (chiếm 36,4%)

Tuổi nghề cao nhất: 1-5 năm (chiếm 30,6%)

Làm việc đúng ngành được đào tạo: chiếm 75,85%

Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghề nghiệp, có 70,2% tổng số công nhân có
trình độ trung học phổ thông, 26,8% có trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ tiểu
học. Công nhân có trình độ trung cấp chiếm 17,9%, trình độ cao đẳng chiếm 6,6%, trình độ
đại học chiếm 17,4%, công nhân được đào tạo tại doanh nghiệp chiếm 48%.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2014 về chất lượng lao động được tính
theo thang điểm 10, thì chất lượng lao động Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12
nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB. Trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp
đã ảnh hưởng không tốt đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm.
11

Nguồn lực lao động qua đào tạo của nước ta vừa thiếu lại vừa thừa, hệ quả là tỷ lệ thất
nghiệp của những người đã qua đào tạo ngày càng cao. Trong số 10,77 triệu người lao động
đã qua đào tạo có chứng chỉ, văn bằng hiện nay, thì trình độ đại học trở lên có 4,47 triệu
người (chiếm 41,51%), trình độ cao đẳng có 1,61 triệu người (chiếm 14,99%), trình độ trung
cấp 2,92 triệu người (chiếm 27,11%), trình độ sơ cấp có 1,77 triệu người (chiếm 16,39%).

Theo đó, trình độ đại học/cao đẳng/trung cấp/sơ cấp tương ứng theo tỷ lệ: 1/0,35/0,65/0,4.
Điều này cảnh báo về sự mất cân đối trong cơ cấu lao động qua đào tạo giữa các bậc ở nước
ta.

Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù được cải thiện,
song vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng không thuận đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật,
đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tốc độ
tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038, năng suất lao động của
công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được
Thái Lan. Do đó, nếu không tập trung đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có
kế hoạch đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao động khi
các dự án lớn đầu tư vào Việt Nam. Một thực trạng đáng quan tâm khác là tỷ lệ thất
nghiệp của những người đã qua đào tạo đang ngày càng cao…

Trong thời gian tới, quá trình toàn cầu hóa sản xuất với sự phân công và hợp tác lao
động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Khi
chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những rào cản về không
gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ, thị trường lao động được
gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt. Hiện ASEAN đã có hiệp
định về di chuyển tự nhiên nhân lực, có thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng chỉ
hành nghề chính thức đối với 8 ngành nghề được tự do chuyển dịch: kiểm toán, kiến
trúc, kỹ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên và du lịch. Việc công nhận trình độ lẫn
nhau về kỹ năng nghề sẽ là một trong những điều kiện rất quan trọng trong việc thực
hiện dịch chuyển lao động giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Nhưng đây
cũng sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số lượng công nhân lành nghề ở nước ta còn
khiêm tốn, buộ#c phải chấp nhận nguồn lao động di cư đến từ các nước khác có trình
độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình độ của công nhân nước ta không được cải thiện để
đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”.

5. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của GCCN:
12

Hiện nay, tâm lý, thói quen và tác phong lao động gắn liền với nền sản xuất nhỏ còn in
đậm trong một bộ phận giai cấp công nhân nước ta. Hơn nữa, trong quá trình phát
triển, giai cấp công nhân thường xuyên tiếp nhận những thành phần mới, phần lớn là
từ nông dân, họ còn trẻ tuổi đời, ý thức lập trường giai cấp còn hạn chế. Vì vậy, “Công
nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính
trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động”

Dưới tác động của hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân nước ta năng động, chủ động
hơn, cố gắng nâng cao năng lực, hướng tới hiệu quả công việc ngày càng cao hơn.
Nhưng mặt khác, một bộ phận công nhân nước ta bị phai nhạt giá trị đạo đức truyền
thống, xa rời lý tưởng cách mạng. Kết quả một cuộc khảo sát về lối sống của giai cấp
công nhân nước ta hiện nay cho thấy: công nhân có lối sống buông thả, thực dụng
chiếm 27,9%; 22% ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân; 13,6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống;
18,7% có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống; 12,9% có thái độ bi quan, chán đời;
20,3% vô cảm trước bất công; 25,5% ứng xử, giao tiếp kém; 8,1% trụy lạc; 29,4% đua
đòi, lãng phí. Những kết quả khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luật lao
động như: không sử dụng thiết bị bảo hộ lao động (45,2%); đi muộn, về sớm (24,8%);
lấy đồ của công ty (11,8%); nghỉ làm không xin phép (25,6%); không hoàn thành định
mức công việc (25,6%); không chấp hành kỷ luật lao động (19,3%) [6, tr.58].

Điều này gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người công nhân Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế.Nhiều công nhân coi công việc tại nhà máy, xí nghiệp
như là một cách mưu sinh, chứ chưa phải là một nghề nghiệp; họ chưa coi đó là một sự
nghiệp, không ý thức được vị trí và vai trò của giai cấp mình.
Theo một cuộc khảo sát gần đây đối với công nhân ba miền (Bắc, Trung, Nam) cho
thấy, hầu hết công nhân không nhận mình thuộc giai cấp lãnh đạo xã hội, họ chỉ nhận
mình là những người làm công ăn lương, cố gắng làm tốt công việc để tăng thêm thu
nhập nhằm cải thiện cuộc sống

Không ít công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tâm
lý làm thuê. Họ chỉ chú trọng đến “công việc”, làm tròn phận sự, thụ động và ít chú
trọng đến các lĩnh vực chính trị - xã hội, coi những hoạt động đó là của ban chuyên
trách. Do nhận thức như vậy, nên có “một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu
vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội”

6. Một số vấn đề đặt ra hiện nay


13

Những biến đổi tích cực trong của GCCN nước ta đã góp phần to lớn vào sự phát
triển kinh tế -xã hội. Tuy nhiên, trong nội bộ GCCN nước ta cũng đang xuất hiện một
số vấn đề cần quan tâm. Mặc dù trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của
CNLĐ nước ta đã được nâng lên, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; đang có
sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật, rõ nét nhất là tình trạng thiếu nghiêm
trọng chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi, công nhân có trình độ tay nghề cao. Tình
trạng công nhân làm việc không đúng với chuyên môn, ngành nghề được đào tạo còn
khá phổ biến. Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội đang diễn ra khá sâu sắc trong
nội bộ giai cấp. Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp và ý thức tổ chức kỷ luật, tác
phong công nghiệp của một bộ phận công nhân còn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên, đoàn
viên công đoàn trong CNLĐ còn thấp…Tuy nhiên, sự phát triển của GCCN chưa đáp
ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp của sự nghiệp CNH, HĐH và họi nhập kinh tế quốc tế,... Địa vị chính trị của
GCCN chưa thể hiện đầy đủ, GCCN còn hạn chế về phát huy vai trò nóng cốt trong
liên minh GCCN với nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bản
thân GCCN đã có nhiều nỗ lực vươn lên nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều yếu kém.
Các doanh nghiệp và người sử dụng lao động thuộc thành phần kinh tế, đóng góp tích
cực vào tạo việc làm và thu nhâp cho công nhân nhưng không ít trường hợp còn vi
phạm chính sách, pháp luật đối với người lao động..

7. Liên hệ bản thân


- Là sinh viên, phải không ngừng học tập, rèn luyện làm chủ kiến thức, kỹ năng. Sau
khi tốt nghiệp có thể trở thành công nhân, trí thức,... qua đó đóng góp vào công
cuộcxây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn. Đồng thời, cần ủng hộ
các phong trào đấu tranh của GCCN, nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới.
- Là thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước, khi đất nước ta đang trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội, để thực hiện được SMLS của GCCN, thực hiện được mục
tiêu, sợi chỉ đỏ xuyên suốt con đường cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đó là
“ độc lập dân tộc găn liền với chủ nghĩa xã hội”, bản thân là sinh viên cần giác ngộ
được lập trường về tư tưởng Mác- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giác ngộ lí tưởng
của giai câp công nhân là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, và phấn đầu xây
dụng một xã hội tiến bộ, dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh. Phấn
đấu là đảng viên của ĐCS Việt Nam, phấn đầu rèn luyện trên tất cả các mặt, viết
tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc.
- Sinh viên phải hiểu được đặc điểm ra đời của GCCN Việt Nam, trong lòng một xã
hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa, từ một xã hội lạc hậu, cơ cấu giai cấp lạc hậu.
Dẫn tới trình độ thấp, tác phong công nghiệp còn hạn chế, Do vậy, bản thân sinh
viên phải đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam, với tầm nhìn
14

đến năm 2045 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại. Chính vì vậy, sinh
viên phải là người tiên phong trong tiếp thu, giáo dục, phổ biến tri thức góp phần
nâng cao tri thức cho cộng đồng. Thứ tư, chúng ta phải tin tưởng vào chủ nghĩa Mác
– Lenin, vào sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, vào con đường độc lập dân tộc và chủ
nghĩaa xã hội, phê phán những quan điểm sai trái, quan điểm của các học giả
phương Tây là tìm đủ mọi cách để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN trong
phong trào thế giới, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt
Nam.
15

Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) là sự kết hợp của công nghệ trong
các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới
và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới.

Dù cách mạng 4.0 mang đến nhiều lo ngại về thất nghiệp khi máy móc làm tất cả mọi
việc, nhưng một số nhà nghiên cứu tin rằng, việc giảm tổng số việc làm là không thể.
Bởi, siêu tự động hóa và siêu kết nối có thể nâng cao năng suất những công việc hiện
tại và tạo ra nhu cầu về những công việc hoàn toàn mới khác.

Theo ThS.Ngô Văn Khiêm (Tạp chí Xây dựng Đảng), đứng trước sự phát triển nhanh
chóng và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giai cấp công nhân Việt
Nam có những thuận lợi đan xen với khó khăn cơ bản.

1. Phương hướng chung để nâng cao chất lượng GCCN Việt Nam

Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: “Đối với giai cấp công nhân, phát triển
về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn nghề nghiệp, xứng đáng là là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc
làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật đối với công nhân và lao
động, như Luật Lao động, Luật Công đoàn, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối
với công nhân; có chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ
chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế…Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ
những công nhân ưu tú”.
Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã ra nghị quyết
về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và
vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi
16

của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam… Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh
về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày
càng được trí thức hóa: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có
khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học – công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện
phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế;
… có tác phong công nghiệp và kỷ luật cao”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Coi trọng giữ vững bản
chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng”. Đồng thời, “Chú trọng
xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, giai cấp nông nhân, đội ngũ trí
thức, đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới”. Vì
vậy, Đảng và Nhà nước phải “quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai
cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của
công nhân; bảo đảm việc làm, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân;
sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp,… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tính
thần của công nhân”.

2. Phương hướng riêng


 Đối với bản thân GCCN: GCCN phải luôn không ngừng học tập, nâng cao trình
độ học vấn tay nghề, không ngừng nâng cao giác ngộ ý thức giai cấp. Cần nâng cao ý
thức giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó thiết
tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ XHCN, ý chí vươn lên
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại, trong điều kiện phát triển nền
kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh,
bồi dưỡng lương tâm nghề nghiệp, tinh thần đấu tranh xây dựng, rèn luyện ý thức tổ
chức kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp.
o Đối với Đảng cộng sản: ĐCS cần luôn quan tâm đến GCCN, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng; Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực cán bộ đảng viên, thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, cơ cấu cán bộ phải hợp lý.
Đảng phải lãnh đạo xây dựng chiến lược về GCCN trong thời kỳ CNH, HĐH; lựa
chọn những cán bộ tốt trong gia cấp công nhân để tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và công đoàn; Lãnh đạo Nhà nước xây dựng, ban hành
à thực thi những chủ trương, chính sách để xây dựng GCCN lớn mạnh; Giải quyết có
hiệu quả những vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân. Định hướng đào tạo nghề
17

nghiệp cho thanh niên từ cấp học phổ thông. Tăng cường lãnh đạo thể chế hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng. Các cấp ủy của Đảng cần chú trọng lãnh đạo, tạo điều
kiện để Công đoàn làm tròn vai trò, vị trí vủa mình, thông qua hoạt dộng công đoàn,
Đảng định hướng về mục địch chính trị, tập hợp đông đảo công nhân trong mặt trận
thống nhất rộng rãi, nhằm phát huy vai trò tiên phong, cách mạng của GCCN. Chú ý
hơn nữa công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ xuất thân từ công dân, từng
bước tăng tỉ lệ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng chính quyền. Chú
trọng công tác đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và tạo cơ hội phát triển cho những cán bộ
công đoàn trẻ, có năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tốt xuất thân từ công nhân.
 Đối với nhà nước XHCN: Nhà nước XHCN phải có chính sách giáo dục, đào
tạo nâng cao trình độ học vấn và tay nghề cho giai cấp công nhân để phù hợp với yêu
cầu của thời đại mới. Cần đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng GCCN, để đủ số
lượng, đảm bảo về chất lượng, cơ cấu hợp lý, theo hướng trí thức hóa GCCN, có trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm
chủ công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh.
Chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân những nhà kinh doanh có tài, có đức, các nhà
quản lý giỏi và các cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với
công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập.
Ngoài ra, nhà nước XHCN cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề cải thiện đời sống công
nhân. Trước mắt cần tập trung giải quyết một cách cơ bản vấn đề việc làm, nâng cao
đời sống, quyền dân chủ của công nhân và thực hiện công bằng xã hộ, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện việc làm, ăn ở, học tập, vui chơi, giải trí
và tăng cường chăm sóc sức khỏe cho công nhân. Đặc biệt cần cải cách, hoàn thiện
chính sách tiền lương, nâng lương tối thiểu, xây dựng cơ chế trả lương theo vị trí làm
việc thực tế của công nhân, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và phân phối
theo sự đóng góp của mọi người, để nâng cao đời sống cho công nhân và gia đình họ.
Hơn nữa cần có những chính sách chăm lo, cải thiện điều kiện lao động, phòng chống
có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nhà nước XHCN cần tăng cường
khối đại đoàn kết, liên minh hợp tác hữu nghị với GCCN quốc tế. Đại đoàn kết dân tộc
– di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua
hàng ngàn năm dựng nước và giữa nước.
3. Giải pháp:

- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh
tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
18

- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

- Nhà nước cần phải đi đầu trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ,
khoa học quản lý, đồng thời phải mở rộng về quy mô sản xuất.

- Đưa các nội dung của cách mạng khoa học, công nghệ vào chương trình giảng dạy để
sau khi ra trường nguồn nhân lực này có thể được sử dụng ngay vào quá trình lao động
sản xuất.

- Đưa ra những dự báo về nhu cầu nhân lực, từ đó đưa ra những chủ trương, chính sách
phù hợp trong đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, tránh lãng phí việc đào tạo như
trước đây.

- Đấu tranh ngăn chặn những việc làm sai trái của các tổ chức, cá nhân, làm cho các
khu vực kinh tế này phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Cần tuyên truyền, vận động, thuyết phục, khuyến khích các chủ doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đồng hành, ủng hộ, tạo điều kiện để tổ
chức đảng được thành lập và hoạt động thuận lợi, hiệu quả.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức, bản
lĩnh chính trị, nhiệt tình, tâm huyết và kỹ năng công tác cho cán bộ đảng ở doanh
nghiệp.

C. KẾT LUẬN:

C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái
lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. Giai cấp công nhân nước ta đã và
đang có sự biến đổi quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát triển giai cấp công
nhân Việt Nam lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng để họ xứng đáng là giai cấp
lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tê
19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/vi-the-giai-cap-cong-nhan-viet-nam-mot-so-van-
de-dat-ra-ve-nhan-thuc-trong-boi-canh-moi-37951.html

https://congdoancongthuong.org.vn/tin-tuc/t5881/xay-dung-doi-ngu-nhan-luc-trinh-do-
cao-truoc-thach-thuc-cua-cach-mang-4-0.html

Báo điện tử http://www.123kienthuc.com/

Báo điện tử https://vi.wikipedia.org/

You might also like