Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 8

Câu hỏi ôn tập LSĐ 30% (Ban Học Tập D21)

1. Trình bày sự phân hóa giai cấp ở Việt Nam sau khi thực dân Pháp xâm lược nước
ta. Tại sao giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam?

Sự phân hoá giai cấp

Sự phân hoá của các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của chính sách thống trị
và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Sau khi đặt ách thống trị lên nước ta chúng
bắt tay ngay vào khai thác thuộc địa nước ta. Chính vì thế chúng cần một lượng lớn
nhân công lao động do đó giai cấp công nhân đã ra đời. Ngay sau đó các giai cấp khác
cũng lần lượt ra đời đó là giai cấp tư bản, giai cấp tiểu tư sản điều này đã làm cho xã
hội Việt Nam có sự phân hóa hết sức sâu sắc.

Giai cấp địa chủ (Đại địa chủ, trung địa chủ, tiểu địa chủ)
Giai cấp địa chủ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử từ địa vị là giai cấp
thống trị nay trở thành tay sai cho thực dân Pháp câu kết với thực dân Pháp bóc lột nhân
dân ta. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận
địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp
dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Một bộ phận nhỏ khác thì chuyển sang kinh
doanh theo lối tư sản.

Giai cấp nông dân


– Chiếm 90% trong xã hội phong kiến thực dân Việt Nam bao gồm: Phú nông, trung
nông, bần nông, cố nông
– Giai cấp nông dân bị địa chủ phong kiến và đế quốc bóc lột nặng nề, dẫn đến giai cấp
nông dân bị đẩy vào đường cùng.
– Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất và hăng hái nhất có vai trò quyết định
đến cuộc giải phóng dân tộc, bị đế quốc và địa chủ chèn ép, bóc lột nặng nề, mâu thuẫn
đặc biệt với đế quốc thực dân và phong kiến tay sai phản động vừa có mâu thuẫn về dân
tộc vừa có mâu thuẫn về giai cấp trong đó mâu thuẫn dân tộc là lớn nhất. Khi có lực
lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàn vùng dậy đấu tranh lật đổ thực
dân phong kiến.Tuy nhiên giai cấp nông dân cũng không thể trở thành lực lượng lãnh
đạo cách mạng do trình độ văn hoá thấp.

Giai cấp công nhân Việt Nam


– Ra đời trước giai cấp tư sản, hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp và phát triển mạnh trong cuộc khai thác thuộc địa lần hai cả về số lượng
lẫn chất lượng.
-Là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp, lãnh đạo cách mạng Việt
Nam
-Chịu ba tầng áp bức bóc lột: đế quốc, tư bản trong nước, địa chủ phong kiến
-Đa số xuất thân từ giai cấp nông dân nên có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp
nông dân, bị đế quốc phong kiến áp bức bốc lột nên học gắn bó với dân tộc, gần gũi với
nhân dân, kế thừa truyền thống yêu nước anh hùng bất khuất của dân tộc

Giai cấp tư sản Việt Nam


– Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới thứ
nhất họ đã trở thành một giai cấp rõ rệt trước đó họ chỉ được gọi là một tầng lớp.
–Bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thế lực kinh tế yếu.
– Tư sản mại bản là những tư bản hoạt động trong lĩnh vực thầu khoán, công nghiệp và
xây dựng. Có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp trở thành đối tượng của cách mạng.
– Tư sản dân tộc là những nhà tư sản vừa và nhỏ có xu hướng kinh doanh độc lập bị tư
sản Pháp chèn ép nên họ có tinh thần dân tộc chống thực dân Pháp, chống phong kiến.
Giai cấp này có tư tưởng dao động do đó cũng không thể trở thành lực lượng lãnh đạo
cách mạng.

Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam


– Hình thành trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp sau chiến tranh thế giới
thứ nhất bao gồm: Trí thức, học sinh-sinh viên, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, dân
nghèo thành thị,… đời sống bấp bênh, dễ phá sản trở thành người vô sản, có long yêu
nước, căm thù giặc.
– Giai cấp tiểu tư sản cũng rất hăng hái tham gia cách mạng và là một trong những động
lực đáng kể của cách mạng, họ là đồng minh của giai cấp công nhân có thể đi với giai
cấp công nhân đến xã hội chủ nghĩa.
Các sĩ phu phong kiến cũng phân hoá, một bộ phận hướng sang tư tưởng dân chủ tư sản
hoặc tư tưởng vô sản. Một số người khởi xướng phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn

Tóm lại sự phân hoá các giai cấp trong xã hội Việt Nam là kết quả của quá trình khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong đó sự xuất hiện của giai cấp công nhân giai
cấp mang sứ mạng lịch sử là đoàn kết và lãnh đạo các giai cấp khác đứng lên đấu tranh
chống đế quốc Pháp giải phóng dân tộc. Ngoài ra các giai cấp nông dân có lực lượng
đông đảo có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng. Các giai cấp khác nếu đi
theo cách mạng cần phải lôi kéo về phía cách mạng, còn lực lượng nào chống đối cách
mạng sẽ là đối tượng của cách mạng.

Tại sao giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam?
Pháp vào nước ta, khai thác thuộc địa lần thứ 1, xây đồn điền, nhà xưởng và bắt đầu
trao đổi buôn bán => lúc này công nhân đã phải xuất hiện sau đó, pháp khai thác thuộc
địa lần thứ 2, những chủ đồn điền, chủ nhà xưởng và cả những thương buôn (buôn
hàng hóa nước ngoài) người việt nam mới xuất hiện (người VN bắt đầu làm chủ và
làm chủ đối với công nhân) => lúc này giai cấp tư sản VN mới ra đời
Đọc thêm bên file của mấy anh chị D20 nhe :v

2. Vì sao nói con đường cách mạng Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn là đúng
đắn, phù hợp với xu thế thời đại và đáp ứng được những yêu cầu khách quan của xã
hội Việt Nam?

a) Tư duy độc lập và tầm nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước của lãnh tụ Hồ
Chí Minh
-Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước, chống thực dân, đế quốc
ở nước ta diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ nhưng tất cả đều không thành công do không có một
đường lối đấu tranh phù hợp
- Người thấy rằng các cuộc cách mạng tư sản “không đến nơi”, “không triệt để” bởi các
cuộc cách mạng ấy không đáp ứng được nhu cầu giải phóng các tầng lớp nhân dân lao
động mà chỉ đem lại quyền lợi cho gia cấp tư sản
-Tiếp xúc với bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, Người đã
tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam
-Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga nǎm
1917, Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật.”
-Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập trung mọi nỗ lực, hướng mọi hoạt động, quyết tâm
truyền bá lý luận Mác-Lênin về nước, tiến hành cuộc vận động đấu tranh giải phóng
dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản

b) Tư duy lý luận về lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: làm thế
nào để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập,
tự do cho nhân dân; lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới. Nói cách khác, với việc lựa
chọn con đường cứu nước đúng đắn, chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài 2/3 thế kỷ: “Lịch sử dường
như đã chuẩn bị sẵn cho dân tộc Việt Nam đi vào thời kỳ hiện đại bằng miếng đất sẵn
sàng được gieo trồng, và bằng những nông phu sẵn hạt giống trong tay. Miếng đất ấy là
nhân dân có truyền thống đấu tranh bất khuất; giống đó là chủ nghĩa Mác - Lênin; người
thứ nhất gieo giống đó là Nguyễn Ái Quốc”(4).

Sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Nguyễn Ái
Quốc dựa trên cơ sở lý luận và khoa học, dựa trên thực tiễn vận động và đòi hỏi của
phong trào cách mạng Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Người đi
đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”(5). Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được
nêu lên trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính
thực tiễn - lịch sử, phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát
triển của thời đại, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa số các tầng lớp
nhân dân Việt Nam: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập
dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa
chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta
trong lúc các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu
tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”(6).

c) Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh
-CNXH không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà còn là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển
-Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là động
lực to lớn động viên, tập hợp, huy động sức mạnh tinh thần, vật chất của toàn dân vượt
qua những thử thách của lịch sử
-Công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
chính là sự tiếp tục con đường cách mạng đã lựa chọn, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
-Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay với
những thắng lợi trong chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; trong xây
dựng CNXH, hội nhập quốc tế và đổi mới đất nước đã chứng minh tính đúng đắn, sáng
tạo, khoa học của con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

3. Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử? Nêu quy luật
hình thành (quy luật chung và quy luật riêng) của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử
1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử
a) Hoàn cảnh quốc tế:
-Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra một thời đại mới trong lịch sử
nhân loại, có tác động thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng
-Những tư tưởng cách mạng cấp tiến truyền vào các nước thuộc địa
b) Trong nước:
-Sự khai thác, bóc lột thuộc địa của Pháp đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn cơ bản
trong lòng xã hội Việt Nam
-Tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp
đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng
-Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết và nhu cầu bức thiết của dân
tộc.

2. Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước
-Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc tuy diễn ra liên
tục, mạnh mẽ nhưng đều lần lượt bị thất bại vì không đáp ứng được những yêu cầu
khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
-Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị đang bế tắc về đường lối
thì khuynh hướng vô sản thắng thế → Phong trào dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản
-Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này, Đảng là sự kết hợp của chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam
-Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
-Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ
“tự phát” thành “tự giác”, được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin
-Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam,
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam;
đồng thời thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển
-Ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Như vậy sự ra đời của Đảng là đòi
hỏi khách quan của thực tế lịch sử lúc bấy giờ, không phải tự nhiên mà có, cũng không
phải muốn là được. Đảng ra đời đáp ứng được khát vọng lớn lao của toàn thể cần lao,
xóa tan màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con
đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển là do chính đòi hỏi của
lịch sử, cần có một tổ chức chính trị Đảng Cộng sản lãnh đạo để đánh đổ thực dân
phong kiến, xây dựng một xã hội mới chứ không phải Đảng áp đặt hay đòi hỏi cho mình
mà được.

Nêu quy luật hình thành (quy luật chung và quy luật riêng) của sự kiện Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời.
Quy luật chung:
Quy luật ra đời chung của các Đảng Cộng sản trên thế giới là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân.
 Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi của phong trào công nhân
 Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào công nhân, trở
thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân.
 Thông qua phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác được kiểm nghiệm, bổ sung,
phát triển và ngày càng hoàn thiện
Quy luật riêng:
Về sự thành lập chính đảng để lãnh đạo cách mạng Việt Nam xuất phát từ tình hình Việt
Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh
thấy rằng, việc ra đời của đảng cộng sản ở đây, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào
công nhân còn non yếu. Do đó, phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của
các tầng lớp nhân dân ta đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân - là phong trào đã diễn ra
liên tiếp, từ rất lâu, trước khi có giai cấp công nhân và phong trào công nhân, là nhân tố
chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm,
=> Hồ Chí Minh đã khẳng định sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
 Thể hiện hai mặt gắn bó với nhau rất chặt chẽ ở HCM:
+ Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Xuất phát từ thực tiễn VN, hiểu rõ phong trào CM VN, vận dụng sáng tạo, bổ
sung và phát triển CN Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là ngọn cờ lý luận cho phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, là cơ sở lý luận cho cương lĩnh cách mạng của Đảng sau này, nhờ có chủ nghĩa
Mác - Lênin mà phong trào Công nhân đã chuyển từ “tự phát” sang “tự giác”
-Giai cấp công nhân và phong trào công nhân: Sự phát triển của phong trào công nhân
trong nước đã khẳng định sự lớn lên trong nhận thức của tư tưởng của giai cấp công
nhân về cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam → Phong trào công nhân ngày 1 trưởng
thành, lớn mạnh và đủ khả năng lãnh đạo cách mạng → 1 trong những điều kiện tất yếu
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Nguồn: ĐD-KTYH 2021 + D20

You might also like