Professional Documents
Culture Documents
Ánh Trăng
Ánh Trăng
.................
Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở Thanh Hóa.
Ông là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của Nguyễn Duy
sâu lắng, thắm thiết cái hồn cái vía của ca dao và đi sâu vào cái nghĩa cái tình muôn đời của
con người Việt Nam. Bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác vào năm 1978, khi miền Nam giải
phóng được ba năm. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ. Bài thơ là câu chuyện được
kể theo trình tự thời gian, mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái
“giật mình” cuối bài thơ. Được in trong tập thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy - tập thơ đạt
giải A của Hội nhà Văn Việt Nam (1984). Bốn khổ thơ thuộc phần cuối của bài, thể hiện cuộc
gặp gỡ giữa người lính với vầng trăng và những cảm xúc, suy ngẫm của tác giả với vầng
trăng.
Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với
bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần
gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan
hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên
trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình nghĩa.
Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:
Cuộc dời cũng như dòng sông có lắm thác nghềnh quanh co uốn khúc, đôi khi xảy ra những
chuyện không bao giờ lường trước được:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Đèn điện tắt, cuộc sống hiện đại xa hoa của chốn thị thành bất chợt dừng lại và bao quanh
con người giờ đây chỉ là một màn đêm. Như là một bản năng, con người không bao giờ
muốn ở trong bóng đêm, họ tìm mọi cách để có được ánh sáng thế là “vội bật tung cửa sổ”.
Trước mặt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên
bấy lâu nay. Vầng trăng ấy vẫn cứ “tròn”, vẫn lành lặn vẹn nguyên như hồi nào. Trăng không
bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách cứ hờn dỗi dù có bị xem là “người
dưng”. Cái lòng vị tha, bao dung của ánh trăng đã làm thức dậy trong nhà thơ những suy
nghĩ bâng khuâng:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là bể
như là sông, là rừng”
Mặt người phải đối diện với mặt trăng hay chính tác giả đang phải đối diện với người bạn tri
kỉ của mình ? Vầng trăng im lặng, chẳng nói, chẳng trách móc mà nhà thơ vẫn cứ cảm thấy
“có cái gì rưng rưng”. Cảm xúc giờ đây như muốn trào ra thành từng giọt nước mắt. Điệp từ
“như là” cùng với cấu trúc song hành và nghệ thuật liệt kê đã làm nổi bật lên dòng kí ức
tuôn trào, vỡ òa trong thâm tâm của nhà thơ. “Đồng, bề, sông, rừng”, những cảnh vật đã
gắn bó với người lính ngày xưa ùa về. Nó như là một thước phim chiếu lại những kỉ niệm
thân thương mà bị lãng quên. Giọt nước mắt bây giờ khiến cho tâm hồn nhà thơ trở nên
thanh thản, trong sáng lại, giúp ông nhận ra lỗi lầm của mình.
Thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể
hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Giọng điệu tâm tình tự nhiên của nhà thơ cùng kết
cấu độc đáo của đoạn thơ tạo nên tính chân thực, có sức truyền cảm sâu sắc cho người
đọc. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác,
một người bạn tri âm tri kỉ không bao giờ bỏ rơi người lính.
Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là lời tự nhắc nhở bản thân của tác giả mà đó còn là thông
điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người. Bài thơ đồng thời củng cố ở người đọc về
thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. “Nếu anh bắn
quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ nã đại bác vào anh”