Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

Môn: Kỹ năng đại diện ngoài tố tụng, tham gia giải quyết
tranh chấp ngoài Toà án và cung cấp dịch vụ pháp lý khác.
Hồ sơ số: LS. CS HC 12

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG 12

Họ và tên Nguyễn Quỳnh Anh


Ngày sinh : 08/03/2001
Số báo danh : 14
Lớp Luật sư : LS25.2 B6 tại Hà Nội
2
A. Tóm tắt bối cảnh tư vấn
Từ ngày 01/10/2021 đến ngày 05/10/2021 công ty Y và công ty X đã thống nhất
ký kết. Hợp đồng thuê máy số 2709 X-Y về việc thuê thiết bị thi công. Với nội dung
sau:
- Thuê 01 xe bánh xích công suất 750 tấn, hiệu liber của Đức sản suất, thông số
cần 140m (Điều 1 hợp đồng).
- Thời gian thuê 03 tháng với đơn giá là 6.900.000.000 đồng/ tháng
là20.700.000.000 đồng Công ty X chịu chi phí vận chuyển một chiều đi đến công
trình là 1.400.000.000 đồng. Tổng giá trị hợp đồng đã bao gồm VAT 10% là
24.310.000.000 đồng.
- Công ty X đã đặt cọc cho Công ty Y một khoản tiền tương đương với chiphí
thuê thiết bị 01 tháng, chưa bao gồm VAT là 6.900.000.000 đồng ngay sau khi ký kết
hợp đồng và 01 chiều cước vận chuyển lượt về bằng 1.400.000.000 đồng ngay sau
khi toàn bộ thiết bị của Công ty Y tập kết đầy đủ. Nếu sau 02 ngày từ ngày kể từ
ngày thiết bị được tập kết tại công trình mà Công ty Y chưa nhận được cước thanh
toán cước vận chuyển lượt về thì Công ty Y sẽ tạm dừng lắp dựng, hoạt động của
thiết bị. Sau 04 ngày nếu chưa nhận được thanh toán cước phí vận chuyển lượt về thì
coi như Công ty X đơn phương chấm dứt hợp đồng và Công ty Y có quyền rút thiết
bị khỏi công trình (Điều 1 Hợp đồng)
- Công ty X chịu trách nhiệm: Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn cho thiết bị và
thợ lái, cấp nhiên liệu theo đúng hướng dẫn sử dụng, cung cấp thông tin chính xác về
các giấy tờ cần thiết cho thiết bị vào công trường trước khi bàn giao, nếu như Công ty
X mặc định không thông báo gì về giấy tờ khi thiết bị đến công trường, Công ty Y
bắt đầu tính thời gian thuê cho dù thiết bị không có làm việc do thiếu giấy tờ, chỉ
định người ký vào khối lượng làm việc, phải thanh toán đúng hạn cho công ty Y toàn
bộ giá trị công việc đã hoàn thành.

- Công ty Y chịu trách nhiệm: Bàn giao thiết bị tại công trình trong điều kiện
hoạt động tốt, mua bảo hiểm rủi ro cho mọi thiết bị, thợ lái và thợ máy, khi tháo dở
và lắp ráp thiết bị, phải có nhân viên kỹ thuật hướng dẫn tại chổ để đảm bảo an toàn,
mọi mất mát hay hưng hỏng thiết bị do phá hoại hoặc mất cấp từ bên thứ 3 thì Công
ty X chịu trách nhiệm.

Thời gian thuê được tính từ ngày khi thiết bị sẵn sàng hoạt động tại công trường.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên thực hiện như sau:
Công ty X đã đặt cọc tổng giá trị: 6.900.000.000 đồng như sau:
 Lần 1: 1.000.000.000 đồng vào ngày 01/10//2021.
 Lần 2: 3.140.000.000 đồng vào ngày 03/10//2021.
 Lần 3: 2.760.000.000 đồng vào ngày 05/10//2021.
Ngày 07/10/2021, Công ty thực hiện bàn giao thiết bị theo thỏa thuận và có 18
biên bản bàn giao thiết bị đầy đủ có đủ chữ ký của bên giao và bên nhận. Đối với

1
người vận chuyển chỉ có 16/18 biên bản bàn giao có chữ ký.
Kể từ ngày 05/10/2021 đến ngày 28/10/2021 Công ty Y tiến hành lắp đặt máy.
Theo biên bản hiện trường ngày 28/10/2021 có nội dung không đúng theo thỏa thuận.
Tuy nhiên ngày 19/10/2021đến ngày 24/10//2021, Công ty Y nhắn tin liên hệ với
ông tiến (Công ty X) gửi hồ sơ kiểm định viên để đăng ký vào khu vực dự án, sáng
ngày 24/10/2022 nhân viên kiểm định của công ty Y đã vào đến công trường (họ phải
di chuyển từ NT đến công trường của Công ty X ở LĐ). các nhân viên kiểm định cố
gắn thiết phục công ty X cho phép kiểm định máy trong ngày, nếu ở lại qua đêm sẽ
phải cách ly dài ngày dẫn đến việc kiểm định sẽ bị chậm trễ, bên cạnh đó. Đại diện
Công ty Y đã gửi các hồ sồ sơ liên quan đến thợ lái, thiết bị cẩu và giấy kiểm định an
toàn của bên thứ 3 cho ông Đức - Công ty X là chỉ huy trưởng công trường, và ông
Lê Việt Tiến - Giám đốc đại diện pháp luật của Công ty X trong nhóm chat Zalo
chung phục vụ trao đổi công việc của hai bên.
- Đến ngày 30/10/2021, ông Tiến nhắn tin:“Dự án có thể tạm ngưng 15 đến30
ngày. Ngày 01/11/2021 công ty phát hành công văn số: 0111/2021/X phát hành công
văn về việc tháo dở, di dờ cẩu ra khỏi vị trí trả lại mặt bằng cho dự án và thanh toán
tiền cọc và bồi thường thiệt hại, trong đó có nội dung:“bằng công văn này, Công ty X
gửi đến quý công ty thông báo như sau: 15h hôm nay ngày 01/11/2021 chúng tôi sẽ
tự mình tháo dỡ di dờ cẩu ra khỏi dự án để trả mặt bằng cho chủ đầu tư”.
- Ngày 19/11/2021, Công ty Y gửi công văn cho chủ đầu tư trình bày sự việcliên
quan đến thiết bị cẩu 750 tấn giữa hai bên, đồng thời nêu ra hai hướng xử lý: một là
giảm giá thuê cho công ty X và xác nhận bàn giao thiết bị và xác nhận thời gian thuê
cẩu; hoặc hai là Công ty tiến hành rút cẩu do Công ty X không tuân thủ quy định
trong hợp đồng. Ngày 20/11/2021, Công ty Y tiếp tục gửi email thông báo Công ty
X, yêu cầu xác nhận các phương án mà công ty Y đề xuất.
- Ngày 23/11/2021 tại trụ sở công an xã Trạm Hành, thành phần làm việcgồm đại
diện công an xã, đại diện Công ty Y, đại diện Công ty TCE, đại diện Công ty X trong
đó có nội dung: Công ty Y xin phép bắt đầu từ ngày 23/11/2021 tháo cẩu để đưa ra
khỏi công trường.
- Ngày 25/11/2021, Công ty Y gửi công văn số: 9721/Y có nội dung về việc tuân
thủ hợp đồng.
- Ngày 29/11/2021, Công ty X phát hành công văn số: 2911/2021/X thôngbáo về
việc đình chỉ hợp đồng.
- Ngày 30/11/2021, Công ty Y gửi công văn số: 10221/Y thông báo về việc tiến
hành tháo dỡ thiết bị và thu hồi thiết bị vào ngày 01/12/2021, do không nhận được sự
hợp tác từ phía Công ty X, đồng thời yêu cầu Công ty X thanh toán tiền vận chuyển
lượt về theo quy định của hợp đồng.
- Ngày 25/04/2022, Công ty X gửi đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theogửi đến
Trung tâm trọng tài Quốc tế ABC - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Công
ty Y những nội dung sau đây:
1) Yêu cầu thứ nhất:

2
Ngay lập tức hoàn trả đầy đủ cho Công ty X số tiền: 25.930.400.000 đồng, bao
gồm:
- Tiền cọc cho thuê thiết bị mà Công ty X đã thanh toán cho Công ty Y:
6.900.000.000 đồng.
- Cước vận chuyển một lượt mà Công ty X đã thanh toán cho bên vận chuyển:
1.400.000.000 đồng;
- Tiền lãi trả chậm: 836.200.000 đồng tạm tính từ ngày nộp đơn khởi kiện ngày
25/04/2022.
- Khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc là 6.900.000.000 đồng do Công
ty Y từ chối thực hiện hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại cho Công ty X tạm tính đến ngày 15/10/2021 là:
10.000.000.000 đồng, phí thuê thiết bị của nhà cung cấp khác cùng với chi phí thuê
nhân công.
- Phí thuê Luật sư là 2.400.000.000 đồng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý.
2) Yêu cầu thứ hai: Yêu cầu Công ty Y phải thanh toán toàn bộ chi phí phát sinh
trong quá trình tố tụng Trọng tài thương mại bao gồm tất cả các chi phí và lệ phí
pháp lý có liên quan đến Công ty X kể cả chi phí đi lại và chi phí Luật sư nêu trên.
3) Yêu cầu thứ ba: Công ty X theo đây bảo lưu quyền sữa đổi, bổ sung đơn khởi
kiện này cùng với bất chứng cứ bổ sung nào theo quy định tại Điều 14 của Quy tắc
của Trung tâm trọng tài Quốc tế ABC.
- Ngày 27/05/2022, Công ty Y gửi bản tự bảo vệ tới Trung tâm trọng tài kèm
theo đơn khởi kiện lại như sau:
▪ Ý kiến về yêu cầu khởi kiện của Công ty X trong bản tự bảo vệ: khôngchấp
nhận yêu cầu khởi kiện của công ty X. Công ty Y đã thực hiện đúng các thỏa thuận
trong hợp đồng liên quan đến nghĩa vụ bàn giao các thiêt bị và các giấy tờ kèm theo.
Công ty X đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ theo quy định tại Điều 1, Điều 2.2 và
2.3 và Điều 4.1 của hợp đồng 2709 về việc thanh toán chi phí vận chuyển, thanh toán
tiền thuê máy, về việc tổ chức lắp đặt cẩu... vì vậy, Công ty Y có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng và yêu cầu công ty X phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
▪ Đơn khởi kiện lại, Công ty Y yêu cầu Công ty X: Buộc Công ty X thanhtoán
ngay cho Công ty Y với số tiền là 18.992.715.000 đồng.
▪ Tiền thuê cẩu 03 tháng theo hợp đồng, sau khi trừ tiền cọc: 6.900.000.000 đồng:
15.870.000.000 đồng và chi phí vận chuyển tháo dỡ cẩu một chiều về là:
2.070.000.000 đồng, lãi suất trả chậm tiền thuê cẩu tạm tính đến thời điểm
27/05/2022: 1.052.715.000 đồng
=>> Tổng giá trị 15.870.000.000 đồng.

B. Tóm tắt nội dung tranh chấp.


Nguyên Đơn: Công ty Cổ Phần Thương mại và dịch Vụ X
Có giấy phép kinh doanh ngày 22/07/2010
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Việt Tiến chức Vụ: Giám Đốc
Đại diện theo ủy quyền: ông Đoàn Chính, ủy quyền ngày 06/04/2022.
3
Bị đơn: Công ty TNHH Y
Có giấy phép kinh doanh ngày 12/03/2015
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Siêu Việt chức Vụ: Giám Đốc
Từ ngày 01/10/2021 đến ngày 05/10/2021 Công ty Y và Công ty X đã thống nhất
ký kết. Hợp đồng thuê máy số 2709 X-Y về việc thuê thiết bị thi công. Với nội dung
sau:
1) Thuê 01 xe bánh xích công suất 750 tấn, hiệu liber của Đức sản suất, thông số
cần 140m (Điều 1 hợp đồng).
2) Thời gian thuê 03 tháng với đơn giá là 6.900.000.000 đồng/ tháng
là20.700.000.000 đồng; Công ty X chịu chi phí vận chuyển một chiều đi đến công
trình là 1.400.000.000 đồng. Tổng giá trị hợp đồng đã bao gồm VAT: 10% là
24.310.000.000 đồng.
3) Công ty X đã đặt cọc cho Công ty Y một khoản tiền tương đương với chi phí
thuê thiết bị 01 tháng, chưa bao gồm VAT là 6.900.000.000 đồng ngay sau khi ký kết
hợp đồng và 01 chiều cước vận chuyển lượt về bằng 1.400.000.000 đồng ngay sau
khi toàn bộ thiết bị của Công ty Y tập kết đầy đủ. Nếu sau 02 ngày từ ngày kể từ
ngày thiết bị được tập kết tại công trình mà Công ty Y chưa nhận được cước thanh
toán cước vận chuyển lượt về thì Công ty Y sẽ tạm dừng lắp dựng, hoạt động của
thiết bị. Sau 04 ngày nếu chưa nhận được thanh toán cước phí vận chuyển lượt về thì
coi như Công ty X đơn phương chấm dứt hợp đồng và Công ty Y có quyền rút thiết
bị khởi công trình (Điều 1 Hợp đồng).
4) Theo Điều 4.2 của hợp đồng công ty Y chịu trách nhiệm:
- Bàn giao thiết bị tại công trình trong điều kiện hoạt động tốt nhất;
- Mua bảo hiểm rủi ro cho thiết bị, thợ lái và thợ máy;
- Khi tháo dỡ và rắp ráp thiết bị, phải có có nhân viên kỹ thuật hướng dẫn tại chổ
để đảm bảo an toàn;
- Cung cấp đầy đủ bảo hộ lao động cho công nhân vận hành theo đúng quy
địnhcủa Công ty X;
- Mọi mất mát hay hưng hỏng thiết bị do phá hoại hoặc mất cấp từ bên thứ 3 thì
Công ty X chịu trách nhiệm.
5) Theo Điều 4.1 của hợp đồng công ty X chịu trách nhiệm:
- Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn cho thiết bị và thợ lái;
- Cấp nhiên liệu theo đúng hướng dẫn sử dụng;
- Cung cấp thông tin chính xác về các giấy tờ cần thiết cho thiết bị vào công
trường trước khi bàn giao;
- Nếu như Công ty X mặc định không thông báo gì về giấy tờ khi thiết bị đến
công trường;
- Công ty Y bắt đầu tính thời gian thuê cho dù thiết bị không có làm việc do thiếu
giấy tờ;
- Chỉ định người ký vào khối lượng làm việc;
- Phải thanh toán đúng hạn cho công ty Y toàn bộ giá trị công việc đã hoàn thành.
Có giấy phép kinh doanh ngày 22/07/2010
4
Đại diện theo pháp luật: Ông lê Việt Tiến
Chức vụ: Giám Đốc
6) Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên thực hiện như sau:
Công ty X đã đặt cọc tổng giá trị: 6.900.000.000 đồng như sau:
Lần 1: 1.000.000.000 đồng vào ngày 01/10//2021; Lần 2: 3.140.000.000
đồng vào ngày 03/10//2021; Lần 3: 2.760.000.000 đồng vào ngày 05/10//2021.
Ngày 07/10/2021, Công ty thực hiện bàn giao thiết bị theo thỏa thuận và có 18
biên bản bàn giao thiết bị đầy đủ có đủ chữ ký của bên giao và bên nhận. Đối với
người vận chuyển chỉ có 16/18 biên bản bàn giao có chữ ký.
Kể từ ngày 05/10/2021 đến ngày 28/10/2021 Công ty Y tiến hành lắp đặt máy.
Theo biên bản hiện trường ngày 28/10/2021 có nội dung không đúng theo thỏa thuận.
Tuy nhiên ngày 19/10/2021đến ngày 24/10//2021, Công ty Y nhắn tin liên hệ với
ông tiến (Công ty X) gửi hồ sơ kiểm định viên để đăng ký vào khu vực dự án, sáng
ngày 24/10/2022 nhân viên kiểm định của công ty Y đã vào đến công trường (họ phải
di chuyển từ NT đến công trường của Công ty X ở LĐ). các nhân viên kiểm định cố
gắn thiết phục công ty X cho phép kiểm định máy trong ngày, nếu ở lại qua đêm sẽ
phải cách ly dài ngày dẫn đến việc kiểm định sẽ bị chậm trễ, bên cạnh đó. Đại diện
Công ty Y đã gửi các hồ sồ sơ liên quan đến thợ lái, thiết bị cẩu và giấy kiểm định an
toàn của bên thứ 3 cho ông Đức - Công ty X là chỉ huy trưởng công trường, và ông
Lê Việt Tiến - Giám đốc đại diện pháp luật của Công ty X trong nhóm chat Zalo
chung phục vụ trao đổi công việc của hai bên.
- Đến ngày 30/10/2021, ông Tiến nhắn tin:“Dự án có thể tạm ngưng 15 đến30
ngày. Ngày 01/11/2021 công ty phát hành công văn số: 0111/2021/X phát hành công
văn về việc tháo dở, di dờ cẩu ra khỏi vị trí trả lại mặt bằng cho dự án và thanh toán
tiền cọc và bồi thường thiệt hại, trong đó có nội dung:“bằng công văn này, Công ty X
gửi đến quý công ty thông báo như sau: 15h hôm nay ngày 01/11/2021 chúng tôi sẽ
tự mình tháo dỡ di dờ cẩu ra khỏi dự án để trả mặt bằng cho chủ đầu tư”.
- Ngày 19/11/2021, Công ty Y gửi công văn cho chủ đầu tư trình bày sự việc liên
quan đến thiết bị cẩu 750 tấn giữa hai bên, đồng thời nêu ra hai hướng xử lý: một là
giảm giá thuê cho công ty X và xác nhận bàn giao thiết bị và xác nhận thời gian thuê
cẩu; hoặc hai là Công ty tiến hành rút cẩu do Công ty X không tuân thủ quy định
trong hợp đồng. Ngày 20/11/2021, Công ty Y tiếp tục gửi email thông báo Công ty
X, yêu cầu xác nhận các phương án mà công ty Y đề xuất.
- Ngày 23/11/2021 tại trụ sở công an xã Trạm Hành, thành phần làm việc gồm
đại diện công an xã, đại diện Công ty Y, đại diện Công ty TCE, đại diện Công ty X
trong đó có nội dung: Công ty Y xin phép bắt đầu từ ngày 23/11/2021 tháo cẩu để
đưa ra khỏi công trường.
- Ngày 25/11/2021, Công ty Y gửi công văn số: 9721/Y có nội dung về việc tuân
thủ hợp đồng.
- Ngày 29/11/2021, Công ty X phát hành công văn số: 2911/2021/X thông báo về
việc đình chỉ hợp đồng.

5
- Ngày 30/11/2021, Công ty Y gửi công văn số: 10221/Y thông báo về việc tiến
hành tháo dỡ thiết bị và thu hồi thiết bị vào ngày 01/12/2021, do không nhận được sự
hợp tác từ phía Công ty X, đồng thời yêu cầu Công ty X thanh toán tiền vận chuyển
lượt về theo quy định của hợp đồng.
- Ngày 25/04/2022, Công ty X gửi đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo gửi đến
Trung tâm trọng tài Quốc tế ABC - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Công
ty Y những nội dung sau đây:

1.Tài liệu có trong hồ sơ. Đơn khởi kiện.


- Thông báo của Trung tâm trọng tài.
- 20 biên bản bàn giao thiết bị.
- Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty cổ phần thương mại và
dịch vụ X.
- Giấy ủy quyền số 0804/2022 của công ty cổ phần thương mại và dịch vụ X.
- Công bố thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp của công ty TNHH Y.
- Hợp đồng 18/2021/LĐTUABIN/Z-X ngày 02/10/2021 về việc lắp đặt tua bin
gió giữa công ty cổ phần năng lượng Z và Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ X.
- Chi tiết đã chuyển Đặt cọc lần 1 giữa Công ty X và Công ty Y.
- Chi tiết đã chuyển Đặt cọc lần 2 giữa Công ty X và Công ty Y.
- Email trao đổi giữa Công ty X và Công ty Y.
- Chi tiết đã chuyển Đặt cọc lần 3.
- Biên bản hiện trường ngày 28/10/2021 giữa Công ty X và Công ty Y.
- Công văn số 3010/2021/X ngày 30/10/2021 của Công ty X về việc vi phạm cam
kết và bồi thường thiệt hại.
- Công văn số 0111/2021/X ngày011/11/2021 của Công ty X về việc tháo dỡ, di
dời cẩu ra khỏi vị trí trả lại mặt bằng dự án và thanh toán lại tiền cọc và bồi thường
thiệt hại.
- Biên bản làm việc ngày 23/11/2021 tại công an xã Trạm Hành.
- Công văn số 2511/2021/X của Công ty X ngày 25/11/2021 về việc tuân thủ hợp
đồng 2709 X-Y.
- Hợp đồng thuê máy số 2709 X-Y ngày 02/01/2021 giữa Công ty X và Công ty
Y.
- Giao dịch chuyển cho Công ty vận chuyển.
- Ủy nhiệm chi của Công ty X.
- Giao dịch chuyển khoản qua Internet banking.
- Biên lai chuyển tiền qua tài khoản.- Bản tự bảo vệ - Đơn khởi kiện lại.
2. Cơ sở pháp lý.
- Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13;
6
- Luật thương mại số 36/2005/QH11;
- Luật Xây dựng số 36/2005/QH11;
- Luật trọng tài thương mại.
- Nghị Định số 46/2015/NĐ-CP;
3. Luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng là Nguyên Đơn:
BẢN LUẬN CỨ

BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN


THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ X TẠI PHIÊN HỌP HỘI ĐỒNG TRỌNG
TÀI

Kính thưa Hội Đồng Trọng Tài,


Tôi là Nguyễn Quỳnh Anh – Luật sư thuộc Đoàn LS TP. Hà Nội – Là Luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Cổ phần Thương Mại Và Dịch Vụ X.
Là nguyên đơn trong vụ án được Hội Đồng Trọng Tài – Trung tâm trọng tài Quốc tế
ABC thụ lý số......../TB-TLVA ngày ......
Căn cứ hồ sơ vụ án, Tôi xin trình bày Luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn tại phiên họp Hội Đồng Trọng Tài như sau:

I. VỀ NỘI DUNG KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN:


Buộc Bị Đơn hoàn trả đầy đủ tiền đặt cọc, phí vận chuyển một chiều mà Nguyên
Đơn đã thanh toán cho bên vận chuyển và tiền lãi chậm trả của tiền đặt cọc, phí vận
chuyển.
Thứ nhất, căn cứ Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 và Hợp đồng số 2709_X_Y về
việc thuê thiết bị thi công giữa Nguyên Đơn và Bị Đơn ký ngày 02/10/2021 ("Hợp
đồng 2709"), Bị Đơn từ chối thực hiện Hợp Đồng (không giao đúng xe cẩu đúng
thông số và thời hạn như quy định trong Hợp đồng) và các bên không có thỏa thuận
nào khác về vấn đề đặt cọc thì tài sản đặt cọc trong trường hợp này là 6.900.000.000
đồng phải được hoàn trả cho Nguyên Đơn.
Thứ hai, theo bản sao kê Giao dịch chuyển tiền cho công ty vận chuyển mà
Nguyên Đơn đã nộp, xác định được lịch sử thanh toán phí vận chuyển chiều đi của
Nguyên Đơn như sau:
(i) 04/10/2021: 400.000.000 đồng – Nguyên Đơn tạm ứng đặt cọc Trung Thuận
vận chuyển cầu Bình Thuận ĐL;
(ii). 08/10/2021: 270.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán vận chuyển cầu
LTM 1750 Đà Lạt;
(iii). 08/10/2021: 100.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán Trung Thuận vận
chuyển cầu Bình Thuận ĐL;
(iv). 08/10/2021: 490.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán Trung Thuận vận
chuyển cầu Bình Thuận ĐL;
(v). 27/10/2021: 230.000.000 đồng – Nguyên Đơn thanh toán 230 triệu vận
7
chuyển 2 cầu.
Tổng phí vận chuyển mà Nguyên Đơn đã thanh toán là 1.490.000.000 đồng. Đây
là khoản phí mà Nguyên Đơn phải chịu khi thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hợp
đồng 2704 cho Bị Đơn. Và vì Bị Đơn trên thực tế đã từ chối thực hiện hợp đồng, Bị
Đơn có nghĩa vụ phải hoàn trả phí vận chuyển này cho Nguyên Đơn.
Thứ ba, căn cứ tại Điều 306 Luật Thương Mại 2005 về quyền yêu cầu tiền lãi do
chậm thanh toán, Bị Đơn phải trả khoản lãi chậm trả tạm tính đến ngày Nguyên Đơn
nộp Đơn khởi kiện (25/04/2021), theo lãi suất chậm trả 0.05%/ngày quy định tại Điều
2.2 Hợp đồng 2709, phát sinh trên khoản tiền đặt cọc đã được Nguyên Đơn thực hiện
thanh toán đầy đủ cho Bị Đơn vào ngày 05/10/2021, tương ứng với số tiền
696.900.000 đồng; khoản phí vận chuyển mà Nguyên Đơn thanh toán đầy đủ vào
ngày 27/10/2021, tương ứng với số tiền 133.355.000 đồng.
II. Buộc Bị Đơn bồi thường thiệt hại vật chất cho Nguyên Đơn.
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 302, Điều 303 Luật Thương Mại 2005, việc Bị
Đơn không tiến hành bàn giao thiết bị, không kiểm định an toàn và giao cho
Nguyên Đơn một xe cẩu không thể đưa vào sử dụng được do không đạt yêu cầu là
hành vi vi phạm thỏa thuận tại Hợp đồng 2709. Hành vi này đã dẫn đến việc Nguyên
Đơn không thể đưa xe cẩu vào sử dụng, phải thuê bên thứ ba khác tiến hành thi công
công trình lắp đặt theo đúng thời hạn và tiến độ theo thỏa thuận với Chủ Đầu Tư
nhưng vẫn không kịp, dẫn đến việc vận chuyển và lắp đặt xe cẩu là không muộn hơn
05/10/2021.
Thứ hai, Bị Đơn chỉ căn cứ vào "một phần nội dung" Biên bản hiện trường ngày
28/10 rằng xe đến ngày 18/10/2021 đã dựng được cẩu với cầu hình 126m nên có cơ
sở để khẳng định Bị Đơn đã bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn và Nguyên Đơn đã
tiến hành lắp đặt để đưa vào sử dụng. Việc căn cứ như trên là vô cùng phiến diện và
cắt kéo câu chữ, làm sai sự thật bởi lẽ, nghĩa vụ của Bị Đơn là phải bàn giao đầy đủ,
thiết bị phải đạt đủ điều kiện kiểm định để đưa vào sử dụng. Biên bản hiện trường
ngày 28/10 nêu rõ rằng phía Bị Đơn xác nhận rằng "chưa tiến hành kiểm định chất
lượng và an toàn thiết bị lần đầu tiên, chưa bàn giao các giấy tờ chứng nhận của cẩu
LR 1750 cho công ty X" và "Công ty Y xác nhận cẩu chưa sẵn sàng hoạt động tại
công trường do chưa đủ điều kiện hoạt động". Như vậy, chứng tỏ đến ngày
28/10/2021 (vượt quá 03 ngày theo tiến độ thực hiện lắp đặt mà hai bên đã trao đổi
qua email), Bị Đơn vẫn chưa tiến hành bàn giao thiết bị và xe cẩu vẫn chưa đưa vào
sử dụng tại công trường được.
Thứ ba, Bị Đơn cho rằng trong suốt quá trình vận chuyển và lắp đặt thiết bị tại
công trường, Nguyên Đơn không có bất kì một văn bản nào xác nhận việc Bị Đơn
bàn giao thiết bị thiếu và yêu cầu Y phải bàn giao các thiết bị còn thiếu. Nhận định
trên thể hiện sự thiếu trách nhiệm của Bị Đơn và không thiện chí thực hiện Hợp
đồng, bởi lẽ, ngay trong Hợp đồng ký kết giữa hai bên, không có một điều khoản nào
quy định về việc Nguyên Đơn có trách nhiệm thông báo cho Bị Đơn khi bàn giao
thiết bị có thiếu sót.
8
Đồng thời, mục đích Nguyên Đơn ký kết Hợp đồng với Bị Đơn là để thuê xe cẩu
phục vụ cho việc thi công công trình, không phải là để phục vụ cho mục đích mua
bán hàng hóa, thiết bị. Đến cả việc vận hành, sử dụng xe cẩu Nguyên Đơn đều phải
hoạt động dưới sự giám sát của thợ vận hành phía Bị Đơn thì việc buộc phải biết rõ
các thành phần, bộ phận nào còn thiếu trên xe cẩu không phải trách nhiệm của
Nguyên Đơn. Mặt khác, theo Hợp đồng ký kết giữa hai bên, Bị Đơn là phía phải có
trách nhiệm trong việc bàn giao đầy đủ và đảm bảo thiết bị đưa vào sử dụng đúng
thời hạn cho Nguyên Đơn. Bị Đơn buộc phải giao đầy đủ chứ không phải bị động và
đổ lỗi cho Nguyên Đơn về việc không thông báo Bị Đơn bàn giao thiếu thiết bị và
yêu cầu Bị Đơn bàn giao đủ.
Thứ tư, Bị Đơn cho rằng đã thực hiện nghĩa vụ bàn giao giấy tờ và Nguyên Đơn
đã biết rõ về thông số kỹ thuật cũng như chủ sở hữu của cẩu trục bánh xích và xác
định rằng Biên bản làm việc phần nội dung cung cấp hồ sơ và kiểm định Biên bản
này là không phù hợp. Việc Bị Đơn nhận định như trên là không hợp lý khi mà Ông
Đỗ Văn Nghĩa với chức vụ Lái cẩu 750 tấn và Ông Nguyễn Văn Tính – chức vụ
Quản lý đều là đại diện từ phía Bị Đơn cử lên công trường để thực hiện công tác
kiểm định.
Thứ năm, Bị Đơn xác định rằng theo Hợp đồng mà hai bên đã ký kết, Bị Đơn có
quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng do Nguyên Đơn vi phạm thời hạn thanh toán
cước vận chuyển. Bị Đơn xác định thời gian Nguyên Đơn phải thanh toán cước vận
chuyển bắt đầu tính từ 05/10/2021 đến 09/10/2021. Những nhận định trên hoàn toàn
không có căn cứ, bởi lẽ, vào 8 giờ sáng 05/10/2021 Bị Đơn mới tiến hành vận chuyển
thiết bị lên công trường của Nguyên Đơn, mặt khác, căn cứ theo 18 Biên bản bàn
giao, thì đến 08/10/2021 Bị Đơn mới thực hiện xong nghĩa vụ tập kết toàn bộ thiết bị
tại công trường của Nguyên Đơn. Đồng thời, theo Điều 2 Hợp đồng 2709 ký kết giữa
các bên, thời hạn thanh toán cước vận chuyển được tính ngay sau khi toàn bộ thiết bị
của Bị Đơn được tập kết đầy đủ tại công trường của Nguyên Đơn, vì vậy, việc Bị
Đơn xác định ngày 05/10/2021 được tính là ngày phát sinh nghĩa vụ thanh toán cước
vận chuyển là không đúng như thỏa thuận trong Hợp đồng 2709.
Thứ sáu, Bị Đơn xác định đến ngày 23/11/2021 Nguyên Đơn vẫn chưa thanh
toán tiền thuê 01 tháng cho Bị Đơn, do vi phạm trên nên Bị Đơn có quyền rút máy
mà không gặp bất cứ sự cản trở nào từ Nguyên Đơn căn cứ theo Điều 2 Hợp đồng
2709. Nhận định trên của Bị Đơn là không có căn cứ, không tôn trọng, tuân thủ thỏa
thuận tại Hợp đồng. Đầu tiên cần làm rõ ràng, việc xác định thời điểm bắt đầu tính
tiền thuê được xác định kể từ khi thiết bị sẵn sàng hoạt động tại công trường và hoàn
tất thủ tục bàn giao thiết bị cho Nguyên Đơn. Trên thực tế, cho tới khi Bị Đơn tháo
dỡ xe cẩu vào ngày 01/12/2021, thì Nguyên Đơn vẫn chưa nhận được bất kì hồ sơ tài
liệu bàn giao nào và xe cẩu cũng chưa được đưa vào sử dụng được một ngày nào.
Thứ hai, việc Bị Đơn xác định rằng Nguyên Đơn không tiếp tục lắp đặt thiết bị là do
lỗi của Nguyên Đơn, dẫn đến vi phạm nối tiếp vi phạm là sai lệch hoàn toàn, có dấu
hiệu của hành vi chối bỏ trách nhiệm, bởi lẽ, căn cứ vào Điều 4 Hợp đồng 2709, Bị
9
Đơn có trách nhiệm bố trí 02 thợ vận hành để Nguyên Đơn có thể dễ dàng huy động
vào bất kỳ thời gian nào trong ngày và bất kỳ ngày nào trong tháng, đồng thời, khi
Nguyên Đơn tháo dỡ, lắp ráp thiết bị của Bị Đơn, thì phải có nhân viên kỹ thuật
hướng dẫn tại chỗ để đảm bảo an toàn, tuy nhiên, theo Biên bản hiện trường ngày
28/10, thì mãi cho đến ngày 16/10 phía Bị Đơn mới bố trí đủ 02 nhân viên, trong đó
chỉ có 1 nhân viên kỹ thuật, nhân viên còn lại là quản lý. Mặt khác, khi hai nhân viên
này tiến hành hỗ trợ kiểm định, bàn giao và xác nhận các nội dung tại Biên bản hiện
trường, thì phía Bị Đơn như đã đề cập ở trên, cho rằng các nội dung được 02 nhân
viên trên xác nhận là không phù hợp. Như vậy, qua hai căn cứ nêu trên cho thấy rằng,
Bị Đơn mặc dù đã thỏa thuận với Nguyên Đơn tại Hợp đồng 2709, nhưng trên thực tế
thì việc nỗ lực, thiện chí hợp tác thực hiện hợp đồng gần như bị động, chây ì và
không sâu sát.
Thứ bảy, về yêu cầu buộc Nguyên Đơn thanh toán ngay cho Bị Đơn số tiền
18.992.715 đồng gồm: tiền thuê cẩu 03 tháng theo hợp đồng (sau khi bù trừ tiền đặt
cọc 6.900.000 đồng) tương đương với 15.870.000 đồng và tiền phí vận chuyển và
tháo dỡ cẩu chiều về là 2.070.000 đồng; Lãi suất chậm trả của tiền thuê cẩu tạm tính
đến thời điểm 27/5/2022 tương đương với 1.052.715 đồng. Thứ tám, căn cứ mà Bị
Đơn xác định để làm cơ sở tính tiền thuê trên thực tế chưa phát sinh theo như thỏa
thuận trong Hợp đồng 2709, do đó, việc Bị Đơn xác định số tiền thuê xe cẩu 03 tháng
và lãi suất chậm trả của tiền thuê là không có cơ sở. Cuối cùng, Bị Đơn xác định
Nguyên Đơn phải chịu tiền phí vận chuyển chiều về là không có căn cứ. Bởi lẽ theo
Hợp đồng 2709, các bên đã quy định rõ tại Điều 1 rằng Nguyên Đơn sẽ chịu phí vận
chuyển chiều đi và Bị Đơn chịu phí vận chuyển chiều về. Mặt khác, trong Hợp đồng
2709 không đề cập đến trường hợp nếu chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn thì
Nguyên Đơn phải chịu phí vận chuyển chiều về. Do đó, việc Bị Đơn xác định
Nguyên Đơn phải chịu tiền phí vận chuyển chiều về là không hợp lý.
III. Kết luận và Kiến nghị
Từ các lập luận, phân tích trên, tôi cho rằng các yêu cầu của Nguyên Đơn là có
cơ sở, các yêu cầu của Bị Đơn là không có căn cứ.
Kính mong HĐTT xem xét giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, thấu đáo và bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng cho Nguyên Đơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Luật sư Nguyễn Quỳnh Anh

10

You might also like