2.4.1 Nội dung của Chính cương Đảng Lao Động Việt Nam: Lực lượng cách mạng: Ðộng lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, những thân sĩ yêu nước và tiến bộ; trong đó nền tảng là công nhân, nông dân, trí thức; lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân. Trong đó nông dân và công nhân có mối quan hệ khăng khít, tiểu tư sản là bạn đồng minh tin cậy và tư sản dân tộc là bạn đồng minh có điều kiện. 2.4.2 Sự bổ sung và phát triển của Chính cương so với Cương lĩnh và Luận cương: Cương lĩnh chính trị 2/1930 do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã nêu ra năm vấn đề chính trong đó vấn đề về lực lượng cách mạng được xem là một quyết định đúng đắn trong việc tập trung đông đảo quần chúng cùng chống lại kẻ thù chung trước mắt bỏ qua vấn đề về phong kiến, ruộng đất, lực lượng cách mạng bao gồm những người Việt Nam yêu nước: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc yêu nước. Lấy giai cấp công nhân làm lực lượng lãng đạo Việt Nam, Đảng đã tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, điều này vừa đề cao tính đoàn kết dân tộc vừa cho thấy sự đúng đắn đối với tình hình đất nước khi mọi người đều có lý tưởng chung là giải phóng dân tộc và mâu thuẫn giai cấp còn chưa có tính gay gắt giữa vô sản và tiểu tư sản, địa chủ. Luận cương chính trị 10/1930, Đảng đã chỉ ra mâu thuẫn giai cấp gay gắt giữa vô sản và tư sản, địa chủ được hậu thuẫn bởi Pháp, chúng ra sức bóc lột dân cày một cách rất độc ác, điều này được nêu rõ trong văn kiện như sau: “ Ruộng đất thì lần lần rút vào tay đế quốc và địa chủ cả, lại có một bọn bao đất về cho thuê lại (quá điền), ruộng đất thuê đi mướn lại mấy lần mới đến dân cày nghèo, bởi vậy mà địa tô rất cao.” 1, chính vì lẽ đó mà nhiều người dân đã phải bán con cái, ruộng đất đi gán nợ, ngoài ra còn có “ Ở các sản nghiệp và các đồn điền, mỏ, hầm, bọn tư bổn bóc lột đè nén thợ thuyền một cách rất dã man. Tiền lượng thì không đủ ăn lại bị cúp ngược, cúp xuôi. Ngày làm thì trung bình cũng 11, 12 giờ. Thường thường lại bị chửi bị đánh. Công nhân không có chút xã hội bảo hiểm nào cả. Ở trong các đồn điền và hầm mỏ, bọn chủ nhốt thợ thuyền trong 1 Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Đảng toàn tập – tập 2. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.96 trại và không cho đi ra khỏi chỗ làm. Chúng nó dùng giấy giao kèo mà một người chở đi chỗ khác rồi tự do cai quản lấy thợ thuyền, thậm chí có quyền xử phạt thợ thuyền. ”2 , những điều trên đã làm cho phong trào cách mạng bùng nổ khắp nơi với lực lượng nòng cốt là vô sản giai cấp và nông dân, thợ thuyền. Trong nội dung của luận cương nêu rõ địa vị các giai cấp không đều nhau và theo hướng cách tư sản dân quyền với mục tiêu thổ địa cách mạng vì vậy Đảng xác định các bộ phận như tư bản thương mại, tư bản công nghệ là thuộc về phe phản cách mạng, bọn thủ công nghiệp thì có thái độ do dự, bọn tiểu thương thì không tán thành cách mạng và tư sản trí thức thì chỉ hăng hái lúc đầu qua đó ta không thấy được khả năng các sự tham gia của giai cấp khác vào lực lượng cách mạng trừ giai cấp vô sản, đây là một bước đi thiếu đúng đắn của Đảng, quy chụp tất cả tầng lớp tư sản là phe đế quốc trong khi đó vẫn còn nhiều bộ phân tư bản, địa chủ yêu nước. Như vậy ta thấy Đảng đã quá chú tâm vào tầng lớp vô sản mà bỏ qua tư sản, tiểu tư sản, địa chủ điều này khiến cho tinh thần đoàn kết dân tộc chưa được phát huy triệt để. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng 2-1951, cùng với bản Chính cương Đảng Lao Động Việt Nam, được xem như một bước tiến lớn trong vấn đề xác định lực lượng cách mạng Việt Nam, lực lượng bao gồm: “Động lực của cách mạng là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”, qua đó ta thấy được rằng Đảng đã phát huy tối đa tinh thần yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam, xác định đúng đắn mục tiêu và kẻ thù trước mắt bỏ qua các hạn chế về giai cấp để thành lập nên lực lượng yêu nước muốn giải phóng dân tộc, xác định các bộ phân tư sản, địa chủ yêu nước và phản cách mạng từ đó kêu gọi mọi người gia nhập lực lượng cách mạng chứ không còn đánh đồng tất cả giai cấp tư sản là phản cách mạng nữa, khắc phục hạn chế so với luận cương trước đó. Nhận xét: Chính cương Đản Lao Động Việt Nam là một sự trưởng thành và đúng đắn trong việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam, Chính Cương không chỉ phát huy tính đoàn kết đại dân tộc Việt Nam, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân yêu 2 Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Đảng toàn tập – tập 2. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.96 nước gia nhập kháng chiến mà còn khắc phục các hạn chế về tổ chức và xác định thành phần lực lượng cách mạng so với luận cương trước đó. Chính cương vẫn cho thấy lực lượng nòng cốt là công nhân, nông dân nhưng bên cạnh đó bổ sung thêm lực lượng tri thức và chú tâm lôi kéo những bộ phận khác như địa chủ, tiểu tư sản, Chính cương còn thể hiện đúng theo tinh thần của Luận Cương chính trị 10-1930 do Nguyễn Ái Quốc phát biểu đó là bỏ qua sự phân hóa giai cấp phong kiến điều này là phù hợp đối với hoàn cảnh của đất nước, là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng lực lượng lớn mạnh và đa dạng.
- Từ giữa năm 1921, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,…
So sánh Luận cương chính trị của Đảng (10 - 1930) và Cương lĩnh chính trị (2 - 1930) - Điểm sai của luận cương chính trị 10 - 1930 (download tai tailieutuoi.com)
Câu hỏi 1: Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. Chuẩn bị về mặt tư tưởng chính trị
Phân tích những điều cần thiết dẫn tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam tháng 2 /1930 Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930)