Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


----–&—----

ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
LIÊN HỆ VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhóm thực hiện : 05


Lớp : 231_HCMI0111_06
Giảng viên hướng dẫn : VŨ THỊ THU HÀ
Môn học : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hà Nội – 03/2024
LỜI MỞ ĐẦU

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác- Lênin, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, không chỉ có giá trị dân tộc mà còn có ý
nghĩa thời đại, góp phần vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra ở hiện nay. Tư
tưởng Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng đối với quá trình xây dựng Đảng và nhà
nước đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam.

Tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam vô
cùng toàn diện và sâu sắc, chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý
luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam, là cẩm nang cho sự nghiệp đổi
mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc
tế. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam cung cấp
cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước,
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại
bỏ những sai phạm trong bộ máy nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích của nhân
dân.

Dựa vào những cơ sở trên, nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Phân tích những
điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam. Liên
hệ với việc xây dựng Nhà nước Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu. Trong quá
trình nghiên cứu, thảo luận khó tránh khỏi sai sót rất mong nhận được các nhận
xét, góp ý của cô để bài tiểu luận được thêm hoàn thiện. Em xin chân thành cảm
ơn.

1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước Việt Nam
1.1. Vị trí vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng
định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại”. Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc đó, tư tưởng
về nhà nước chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Hiện nay, việc nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước có ý nghĩa cấp thiết về lý luận và thực tiễn đối
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do
dân, vì dân, một nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh và hiệu quả. Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về: “Vấn đề
chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng”. Người đã
xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường của cách mạng vô sản và
nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước như một nội dung cơ bản của cách mạng
Việt Nam.

1.2. Quá trình hình thành và phát triển nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
việc lực chọn và xây dựng Nhà nước Việt Nam:
Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã thấy rõ bộ mặt phản nhân tính của nhà nước thực
dân phong kiến. Đó là hình thức nhà nước xấu xa, tồi tệ nhất mà nhân loại từng
biết đến, nhưng lại là một sản phẩm tất yếu của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới.
Từ đó, Hồ Chí Minh đặt vấn đề về sự cần thiết phải lật đổ nhà nước thối nát đó,
nhưng bằng cách nào, con đường nào, lấy gì để thay thế nó thì Người chưa có sẵn
một câu trả lời. Trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước và nhu cầu giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong quá trình khảo cứu, Hồ Chí
Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước hiện thời: Nhà nước dân chủ tư sản mà
những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ Cách
mạng Tháng Mười 1917.

2
Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay ở Pháp, mặc dù
đã xác lập được một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và nhân đạo,
nhưng về thực chất vẫn là công cụ thống trị của một số người, vì lợi ích của thiểu
số, đại bộ phận dân chúng vẫn bị bóc lột, nô dịch cả ở chính quốc lẫn ở các nước
thuộc địa, còn chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù
của nhân dân lao động. Vì vậy, mục đích giải phóng và phát triển của xã hội Việt
Nam không thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà nước đó. Đối lập với nhà nước tư sản,
nhà nước Xô Viết còn non trẻ nhưng đã bộc lộ sức sống và ưu thế nổi trội của
mình, hướng vào phục vụ lợi ích cho quần chúng công-nông-binh. Đây chính là
loại hình nhà nước của chế độ xã hội mới mà cách mạng Việt Nam phải đi theo.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng
Mười, kiểu nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin.

Tính chất sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh là việc vận dụng kinh nghiệm Xô
Viết để kiến tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Năm 1941, trong quá
trình xây dựng căn cứ địa cách mạng, Hồ Chí Minh thành lập Ủy ban Việt minh,
Ủy ban giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh, liên tỉnh. Giữa năm 1945,
khu giải phóng Việt Bắc đã hình thành chính quyền hoàn chỉnh. Bằng công tác
thực tiễn chu đáo, thiết thực, các ủy ban nhân dân, chính quyền kiểu mới cắm rễ
trong lòng quần chúng, tạo nên uy tín và sức mạnh.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử ngày 2-9-1945, Hồ Chí
Minh công bố danh sách Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Dưới sự
lãnh đạo của Hồ Chí Minh, ngay từ những ngày đầu tiên, chính quyền mới đã
hướng vào giải quyết và thỏa mãn các nhu cầu tối cần thiết của Nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam ngày càng được củng cố
và hoàn thiện về các mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước thật sự là
công cụ quyền lực của Nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và nguyện vọng của
toàn dân tộc. Trong xây dựng và lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh đã tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có phân công, phân
nhiệm rõ ràng nhằm thực hiện mục tiêu dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh

3
hạnh phúc. Người đã chỉ đạo tổ chức bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, thích hợp đủ
năng lực và trí tuệ quản lý đất nước.

Chương 2: Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước Việt Nam:
2.1. Nhà nước dân chủ:
2.1.1. Bản chất của nhà nước dân chủ:
* Nhà Nước Việt Nam là nhà nước dân chủ và mang bản chất của giai cấp công
nhân, được thể hiện qua các nội dung sau:

- Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Lời nói đầu
của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ
Nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”. Ngay trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do Nhân dân là người
chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của Nhân dân là liên
minh công – nông – trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

- Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc
giành lấy chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới, chính là để giai cấp công
nhân và Nhân dân lao động có được một tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục
tiêu nói trên.

- Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến
cả hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ
quan nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ,
đồng thời cũng nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập
trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về Nhân dân. ‘

* Bản chất của giai cấp công nhân thống nhất với tính Nhân dân và tính dân tộc
thể hiện cụ thể như sau:

4
- Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế kỉ
XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp Nhân dân Việt Nam, hết thế hệ này
đến thế hệ khác đã không quản hi sinh xương máu chiến đấu cho độc lập, tự do
của Tổ quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức
mạnh của toàn dân tộc đã được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại
xâm, giành lại độc lập, tự do, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa -
Nhà nước dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhà nước Việt Nam
mới, do vậy, không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, mà là thuộc về Nhân
dân.

- Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì,
nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của Nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền
tảng. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản
của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của Nhân dân lao động và của toàn
dân tộc. Nhà nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh không chỉ
cho lợi ích của giai cấp cấp công nhân mà còn của Nhân dân lao động và của toàn
dân tộc.

- Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn
thể dân tộc giao phó là tổ chức Nhân dân tiến hành của cuộc kháng chiến để bảo
vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ
của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản
là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp chính
của Nhà nước.

2.1.2. Nhà nước của Nhân dân:


- Trong nhà nước của dân, thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ
tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành các thiết
chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Nói nhà nước là của dân,

5
Điều 1, Hiến pháp năm 1946 do Bác Hồ làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể Nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”. “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra Nhân
dân phán quyết”.

- Trong nước ta, Nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà
nước do Nhân dân tổ chức ra, nhân viên nhà nước là người được ủy quyền, thực
hiện ý chí nguyện vọng của Nhân dân, trở thành công bộc của Nhân dân.

Hồ Chí Minh đã viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là Nhân dân làm chủ.
Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến
tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ
trung thành của Nhân dân”. Trong các chế độ cũ, nhà nước là bộ máy của giai cấp
bóc lột dùng để thống trị và áp bức Nhân dân; viên chức, quan lại tự xưng là “cha
mẹ dân”, đè đầu cưỡi cổ dân. Trong chế độ dân chủ, Bác Hồ nói: “Dân làm chủ thì
Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày
tớ cho Nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”.

- Nhà nước dân chủ Nhân dân do Nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông qua
tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu.

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của Nhân dân không chỉ thể hiện
ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, mà còn ở quyền bãi miễn,
kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm làm cho
Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động. Người khẳng
định “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân”.

- Theo quan điểm Hồ Chí Minh, để thể hiện Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước
thì đại biểu do dân bầu ra phải có mối liên hệ thường xuyên với Nhân dân; thoát ly
mối liên hệ này, Nhà nước rất dễ rơi vào quan liêu, trì trệ, đứng trên đầu Nhân
dân, trái với bản chất dân chủ đích thực vốn có của Nhà nước kiểu mới. Là người
làm chủ Nhà nước, Nhân dân có quyền, thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền

6
lực, nhưng đồng thời Nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Nhà nước,
làm cho Nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh.

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân là Nhà nước dân
chủ,bthể hiện quyền lực của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là bảo đảm thực
thi quyền lực của Nhân dân lao động.

2.1.3. Nhà nước do Nhân dân:


- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do Nhân dân trước hết là nhà nước do
Nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của mỗi người cách
mạng là phải làm cho dân hiểu, dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm
chủ, trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Theo quan điểm Hồ Chí
Minh “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận
công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi
với trách nhiệm, nghĩa vụ.

- Trong nhà nước do Nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để Nhân
dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng
dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ của mình.

- Nhà nước do Nhân dân cần coi trọng việc giáo dục Nhân dân, đồng thời Nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của
mình.

- Không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của Nhân dân, cũng không chỉ đưa Nhân dân
tham gia công việc nhà nước, mà còn chuẩn bị và động viên Nhân dân chuẩn bị tốt
năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí
Minh.

2.1.4. Nhà nước vì Nhân dân:


- Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của Nhân dân làm mục

7
tiêu, tất cả đều vì lợi ích của Nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào
khác.

- Hồ Chí Minh, Người đã từng nói: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm
vào mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính
phủ Nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi
cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.

- Trong nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ nhưng đồng thời vừa là người lãnh
đạo Nhân dân. Là đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ
hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi Nhân dân, trọng
dụng người tài.

 Như vậy, để làm người thay mặt Nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa
hiền lại vừa minh.

2.2. Nhà nước pháp quyền:


Nhà nước pháp quyền Việt Nam được thiết lập theo Hiến pháp nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, với đặc điểm chính là chủ nghĩa xã hội và chính trị
đơn chủng. Dưới đây là một số điểm nổi bật về nhà nước pháp quyền Việt Nam:

1. Chủ nghĩa xã hội:


Hiến pháp Việt Nam xác định rằng Việt Nam là "nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân
dân tối thượng". Chủ nghĩa xã hội là nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị, đặt
ưu tiên cao cho lợi ích của nhân dân và xã hội.

2. Chính trị đơn chủng:


Chính trị đơn chủng là một đặc điểm quan trọng của hệ thống chính trị Việt Nam.
Quyết định của một đảng chính trị duy nhất là quyết định cho cả nhà nước. Đảng
Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đóng vai trò lãnh đạo duy nhất và chủ thể duy nhất
của quyền lực.

8
3. Tổ chức chính trị:
- Quốc hội: Là cơ quan lập pháp cao nhất, có trách nhiệm quyết định chính sách,
luật pháp và giám sát chính phủ.
- Chính phủ: Là cơ quan hành pháp, có trách nhiệm thực hiện các chính sách và
quyết định của Quốc hội.
- Tòa án Nhân dân: Là cơ quan tư pháp, đảm bảo sự độc lập trong phân xử và giải
quyết các vụ án.

4. Pháp luật và Hiến pháp:


- Hiến pháp: Là văn bản cơ bản xác định tổ chức và hoạt động của nhà nước. Hiến
pháp 2013 là Hiến pháp hiện hành.
- Pháp luật: Việc xây dựng và ban hành pháp luật được thực hiện bởi Quốc hội và
các cơ quan có thẩm quyền khác.

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh:


Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được thể hiện trong việc đặt lợi
ích của nhân dân lên hàng đầu, đồng thời nhấn mạnh tình yêu quê hương, chống
ngoại xâm, và xây dựng xã hội công bằng.

6. Quản lý kinh tế:


Việc quản lý kinh tế ở Việt Nam chủ yếu dựa trên hình thức kinh tế xã hội chủ
nghĩa, trong đó, có sự tham gia của cả kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân.

 Những đặc điểm này tạo nên hệ thống chính trị và pháp luật của nhà nước pháp
quyền Việt Nam, phản ánh tư tưởng chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.

* Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam:
2.2.1. Nhà nước hợp pháp, hợp hiến:

Một nhà nước hợp pháp, hợp hiến là vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm
hàng đầu. Trong bản Tuyên ngôn độc lập - khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, bằng những lý lẽ chắc chắn, thuyết phục, Người đã trịnh trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về địa vị hợp pháp của Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

9
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước hợp pháp, hợp hiến phải được Nhân
dân thừa nhận thông qua Tổng tuyển cử, đồng thời phải có Hiến pháp và hệ thống
pháp luật riêng, được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, sau khi
chúng ta giành được chính quyền, mặc dù Chính phủ lâm thời được Nhân dân ủng
hộ và tin tưởng; trước sự chống phá quyết liệt của “thù trong, giặc ngoài”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương và kêu gọi Nhân dân đi bầu cử để thành lập Nhà
nước hợp hiến, hợp pháp. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của một vĩ
nhân, nhất là việc xử lý khéo léo, hiệu quả những vấn đề phức tạp, căng thẳng,
những âm mưu phá hoại và can thiệp của cả bên trong và bên ngoài ở thời điểm
lịch sử đó.

Tư tưởng của Bác Hồ về nhà nước hợp pháp và hợp hiến là nền tảng triết lý chính
trị của Người, phản ánh cam kết sâu sắc đối với xây dựng một quốc gia dân chủ,
công bằng, và tự chủ. Bác nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc thiết lập một nhà
nước tuân theo pháp luật, tôn trọng quyền lực của hiến pháp, và bảo vệ quyền lợi
của công dân. Trong quá trình cách mạng, Bác không chỉ khuyến khích sự tham
gia tích cực của nhân dân mà còn đề xuất các cơ chế tự quản và tự chủ ở cấp địa
phương, nhằm thể hiện lòng yêu nước và tinh thần tự chủ của nhân dân. Người coi
việc xây dựng hệ thống lập pháp và thực thi pháp luật là cực kỳ quan trọng để duy
trì trật tự và công bằng trong xã hội. Tổng cộng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nhà nước hợp pháp và hợp hiến không chỉ là một khía cạnh quan trọng
của tư tưởng chính trị mà còn là hướng dẫn cho sự phát triển bền vững và đồng
đều của đất nước Việt Nam.

2.2.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước thượng tôn pháp luật được xây dựng dựa trên
một số nguyên tắc quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh cách mạng Việt Nam.

 Chấp nhận và tôn trọng pháp luật

Hồ Chí Minh vững tin vào việc nhà nước phải tuân theo pháp luật và tỏ ra tôn
trọng đối với hệ thống pháp luật. Người thấy rằng một xã hội chỉ có thể tồn tại và
phát triển bền vững khi nhà nước được xây dựng trên cơ sở của quy luật và
nguyên tắc chính trị được đặt ra bởi pháp luật.
10
 Chủ động thiết lập và duy trì pháp luật

Hồ Chí Minh không chỉ coi việc tuân theo pháp luật là quan trọng mà còn khuyến
khích sự chủ động trong việc thiết lập và duy trì hệ thống pháp luật. Bác thấy rằng
nhà nước phải chịu trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển pháp luật để
đảm bảo tính công bằng và tự chủ cho mọi công dân.

 Công bằng và bảo vệ quyền công dân

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước thượng tôn pháp luật đặt nặng mục tiêu
công bằng và bảo vệ quyền lợi của công dân. Bác coi đó là tiền đề cần thiết để xây
dựng một xã hội vững mạnh, nơi mà mọi người đều có quyền và trách nhiệm.

 Không được phép miễn trách nhiệm

Hồ Chí Minh không chấp nhận sự miễn trách nhiệm của nhà nước trước pháp luật.
Bác nỗ lực xây dựng một hệ thống pháp luật mạnh mẽ và công bằng, nơi mà ngay
cả các quan chức cấp cao cũng phải tuân theo và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

 Liên kết giữa nhà nước và nhân dân thông qua pháp luật

Hồ Chí Minh coi việc xây dựng nhà nước thượng tôn pháp luật không chỉ là vấn
đề của chính quyền mà còn là một phương tiện để tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa
nhà nước và nhân dân. Qua việc đảm bảo sự công bằng và tuân thủ pháp luật,
Người hy vọng xây dựng lòng tin và sự đồng thuận trong cộng đồng. Tư tưởng
của Bác Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền nhân nghĩa là một phần quan trọng
của triết lý chính trị của Bác.

2.2.3. Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa:

Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ
quát, là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, gian khổ của quần chúng
nhân dân trong quá trình phá bỏ mô hình nhà nước độc tài, chuyên chế để xây
dựng mô hình nhà nước kiểu mới, mà ở đó “ý chí của người dân được nâng lên
thành luật”.

11
 Nhà nước Pháp luật

Bác Hồ hướng tới việc xây dựng một nhà nước dựa trên nguyên tắc pháp luật.
Ngài coi pháp luật là nguồn gốc và cơ sở của quyền lực, và đề xuất việc thiết lập
các quy tắc và quy định rõ ràng để đảm bảo tính công bằng và bảo vệ quyền lợi
của người dân.

 Pháp quyền và Nhân quyền

Bác Hồ hỗ trợ ý tưởng về pháp quyền và nhân quyền, coi chúng là những giá trị
cốt lõi của xã hội. Bác nhấn mạnh sự cần thiết của việc bảo đảm quyền tự do và
quyền lợi của công dân thông qua việc thiết lập và duy trì hệ thống pháp luật công
bằng.

 Nhân nghĩa và Quốc gia

Bác Hồ coi nhân nghĩa là nguyên tắc hướng dẫn cho hoạt động chính trị và xã
hội. Bác khuyến khích tinh thần đoàn kết và trách nhiệm xã hội, coi quốc gia như
một cộng đồng mà mỗi cá nhân đều đóng góp vào sự phát triển và tiến bộ chung.

 Dân chủ và Tự chủ

Trong tư tưởng Bác Hồ, dân chủ và tự chủ là nguyên tắc quan trọng. Người
khuyến khích sự tham gia của nhân dân trong quá trình ra quyết định và quản lý
công việc xã hội và Bác coi đây là cơ sở của nhà nước dân chủ và tự chủ.

 Quyền lực và Trách nhiệm

Bác Hồ nhấn mạnh trách nhiệm của quyền lực. Bác xem người lãnh đạo cần phải
chịu trách nhiệm trước nhân dân và pháp luật. Quyền lực không được lạm dụng
mà phải được sử dụng vì lợi ích chung và tiến bộ của xã hội.

Tóm lại, tư tưởng nhà nước pháp quyền nhân nghĩa trong triết lý chính trị của Bác
Hồ Chí Minh thể hiện sự cam kết của ông với quyền lực công bằng, nhân quyền,
và sự phát triển xã hội bền vững, trong đó nhân dân được đặt lên hàng đầu.

12
2.3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh:
2.3.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước:
Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động có hiệu
quả, phòng chống thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ Nhà nước, Hồ Chí
Minh rất chú trọng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Các
cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước, dù ít hay nhiều đều nằm giữ quyền lực trong
tay. Quyền lực này là do Nhân dân ủy thác cho. Nhưng một khi đã nắm giữ quyền
lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền. Người
chỉ rõ: “dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy quyền vì cái tật ngông nghênh, cậy
thế, cậy quyền. Những ông này không hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt
Minh, nên khi nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng”. Vì thế, để đảm
bảo tất cả mọi quyền lực thuộc về Nhân dân, cần kiểm soát quyền lực nhà nước.

Về hình thức kiểm soát quyền lực Nhà nước, theo Hồ Chí Minh, trước hết, cần
phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân tộc, là Đảng
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính vì vậy, Đảng có quyền và có trách
nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước. Để kiểm soát có kết quả tốt, cần có hai điều
kiện là việc kiểm soát phải có hệ thống và người kiểm soát phải là người có uy tín.

Vấn để kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước và việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà
nước. Hiến pháp năm 1946 ghi rõ một số hình thức kiểm soát bên trong Nhà nước,
trong đó nổi bật là kiểm soát của Nghị viện nhân dân có quyền “Kiểm soát và phê
bình chính phủ”, “Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ
chức”.

Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì thế, Nhân dân có quyền
kiểm soát quyền lực Nhà nước. Người nhấn mạnh: “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà
muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Nhân dân
đóng vai trò hết sức quan trọng, nếu không có nhân dân giúp sức thì đảng không
làm được gì hết.
13
2.3.2. Phòng chống tiêu cực nhà nước:

 Những tiêu cực của nhà nước:

“Với loài sâu mọt đục khoét Nhân dân cũng vậy. Nếu phải giết đi một con mà cứu
được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa là nhân đạo” - Hồ Chí Minh.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề tiêu cực trong nhà
nước. Người cũng chỉ rõ những khái niệm của tiêu cực nhà nước, ảnh hưởng của
chúng đến sự phát triển của quốc gia. Theo Người, nguy hại nhất là khi được
Nhân dân ủy quyền, một số cán bộ, công chức “đã vác mặt làm quan cách mạng"
kéo bè, kéo cánh để thu vén lợi ích cá nhân. Vì ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mà trong
bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã nảy sinh những “lỗi lầm rất
nặng” làm biến dạng nhà nước. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam Hồ Chí Minh thường đề cập đến vấn đề sau đây và nhắc nhở mọi người
tránh và khắc phục.

 Đặc quyền, đặc lợi:

Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy
mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch vời dân, đồng
thời vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như
thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.

 Tham ô, lãng phí, quan liêu:

Chỉ một tháng sau khi thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí
Minh đã gửi thư cho Uỷ Ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải
chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức bóc lột
nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những “ông quan cách mạng”Hồ Chí
Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ
kiêu ngạo. Người nhắc nhở “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết được
sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này,
thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi
trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính Phủ sẽ không

14
khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà mà tôi phải nói.
Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng.

Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong
lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy
của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt
gian, mật thám”. Ngày 27/11/1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 223 ấn định hình
phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/1/1947, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội phạm
tham ô, trộm cắp của công nhân là tội tử hình.

Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Bản thân Người luôn
làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hàng
ngày. Lãng phí ở đây là lãng phí sức lao động, lãng phí thời gian, lãng phí tiền
của. Chính vì vậy, cần thực hiện các biện pháp chống lãng phí để tiết kiệm, nó là
một quốc sách của mọi quốc gia.

Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp
dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần
gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp
mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết
khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo tên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến
chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế
độ mà không biết nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ dung túng, che chở
cho nạn tham ô lãng phí.

Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô lãng phí; muốn trừ sạch bệnh
tham ô lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.

 Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo:

Những hành động trên gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch
liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình không tài năng gì cũng
15
kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì
đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng
họ của ai. Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết cách
làm cho mọi người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.

Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính
Phù là thần thánh rồi... Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”làm mất uy
tín của Chính Phủ.

* Nguyên nhân:
Hồ Chí Minh đã dày công luận giải nguyên nhân nảy sinh tiêu cực để tìm ra các
biện pháp phòng chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
 Nguyên nhân chủ quan:
Bắt nguồn từ căn “bệnh mẹ” là chủ nghĩa cá nhân, từ sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện
của bản thân cán bộ.

 Nguyên nhân khách quan:


- Do công tác cán bộ của Đảng và nhà nước chưa tốt, cách tổ chức, vận hành trong
Đảng trong nhà nước, sự phối hợp giữa Đảng với Nhà nước chưa thật sự khoa học,
hiệu quả.

- Do trình độ phát triển còn thấp của đời sống xã hội.

- Do tàn dư của chính sách phản động của chế độ thực dân, phong kiến.

- Do âm mưu chống phá của các lực lượng phản động.

* Biện pháp phòng chống:


Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, phát
huy quyền làm chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.

Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Cán bộ đảng
viên phải nghiêm túc và tự giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật. Công tác kiểm tra phải
thường xuyên.

16
Ba là, phạt nghiêm minh, nghiêm khắc, đúng người, đúng tội là cần thiết. Coi
trọng giáo dục, lấy giáo dục, cảm hóa làm chủ yếu. Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể
hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, nghiêm
khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của
bất cứ ai.

Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách nhiệm
nêu gương càng lớn.

Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống
lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy nhà nước. Bất kỳ người
Việt nào có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, thì dù là người dân thường, hay cán bộ,
đảng viên, thì đều phải có trách nhiệm tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

Chương 3: Liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng Nhà nước Việt Nam:
3.1. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam
hiện nay:
3.1.1. Thành tựu:
Về mặt xây dựng Đảng, qua 38 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đa số cán bộ, đảng viên của Đảng đã tích cực rèn
luyện phẩm chất, năng lực, tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong
công tác, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới.

Về hiệu quả trong thực tiễn, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
đạt nhiều tiến bộ, thể hiện trên nhiều phương diện: Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp
tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; hệ thống pháp luật đáp ứng
ngày càng tốt yêu cầu. Các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN được củng
cố.

Thành tựu đạt được phản ánh sự đúng đắn của đường lối và năng lực Đảng lãnh
đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển
không ngừng của Nhà nước trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

17
Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng ta đã lãnh đạo
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí một cách triệt để và có hiệu quả ngày càng cao hơn. Qua đó,
xử lý nghiêm và kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí theo tinh thần
“không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý
nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí;... xử lý nghiêm những cán
bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp”. Từng bước
xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiện đại, nhân văn, lấy lợi ích
của nhân dân và của đất nước là mục đích tối thượng.

Đảng ta đã chỉ ra những biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên và coi đó là một trong bốn nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn
vong của Đảng và chế độ. Các kỳ Đại hội Đảng và nhiều hội nghị Trung ương các
khóa tiếp tục đánh giá thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; xác định việc ngăn chặn và đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa có ý
nghĩa cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng đã đề cập nội dung xây dựng Đảng về đạo đức: “Tập trung thực hiện
mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức
và đạo đức”[5]. Đây là một trong những điểm mới, rất căn bản và trọng yếu trong
việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng hiện nay.

Ngoài ra về kinh tế, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên CNXH được trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhưng mang
giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà. Nhìn lại chặng
đường vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế, Việt Nam đã từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hóa, chuyển sang cơ
chế thị trường thông qua: xác định các hình thức sở hữu chủ yếu (toàn dân, tập
thể, tư nhân), thừa nhận sự tồn tại tất yếu của nhiều thành phần kinh tế; xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh
tế kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
18
mạnh; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế.
Với phương châm “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”, Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; gắn kết
kinh tế nước ta với khu vực và thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu
tư và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sau khi xóa bỏ thành công chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham
gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế
then chốt, không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng,
vùng, liên vùng và tiến tới tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.

An ninh và ổn định: Việt Nam duy trì một môi trường an ninh và ổn định, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và xã hội.

3.1.2. Về mặt hạn chế


Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức
chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, giảm sút ý chí chiến đấu,
đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của
Nhà nước; công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên còn hạn chế. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch nhiều lần tuyên truyền chống
phá cách mạng Việt Nam, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn nhằm kích động, lôi kéo
các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, chính trị trật
tự an toàn xã hội; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên
tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.

Hiện nay, mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động mạnh mẽ khiến cho một bộ
phận cán bộ, công chức, đảng viên thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”; một số tổ chức cơ sở đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu còn thấp, vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Bộ máy nhà nước sau nhiều lần cải cách, tinh
gọn đã trở nên năng động, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Tuy vậy, sức ì của cơ
chế cũ, sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật và những yếu kém trong tổ chức,
quản lý, tình trạng tham nhũng, sách nhiễu trong các cơ quan công quyền... vẫn là

19
những trở lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo ở nước ta.
Trong tổng thể, việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục
là một quá trình đang diễn ra, cần sự đổi mới và cải tiến liên tục để đáp ứng được
yêu cầu của thời đại và phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước.

3.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc xây dựng Nhà nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay:
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay:

- Nhận thức chính trị chưa đầy đủ: Một phần của nhân dân vẫn chưa nắm bắt
được vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng thể chế trong quản lý hành
chính nhà nước và quản trị nhà nước. Họ chưa thấu hiểu được rằng thể chế là nền
tảng để phát huy sức mạnh của nhà nước, tăng cường tính dân chủ, minh bạch và
hiệu quả trong hoạt động của cơ quan nhà nước, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng
của nhân dân.

- Tư tưởng bao cấp, chủ quan: Có sự duy ý chí và chủ quan trong việc xây dựng
thể chế, cục bộ chưa được khắc phục triệt để trong hoạch định và xây dựng thể
chế. Một số cơ quan, đơn vị, địa phương tự ý ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật không phù hợp với quy định của nhà nước, gây mâu thuẫn, xung đột và
lãng phí. Một số nơi lại thiếu sáng tạo, chủ động và trách nhiệm trong việc xây
dựng thể chế phù hợp với thực tiễn địa phương.

- Trình độ và năng lực của cán bộ, công chức: Đội ngũ cán bộ, công chức tham
mưu hoạch định và xây dựng thể chế còn nhiều bất cập. Một số cán bộ, công chức
còn thiếu kiến thức, kỹ năng và tư duy pháp lý, không nắm vững các nguyên tắc,
quy trình và phương pháp xây dựng thể chế. Một số cán bộ, công chức còn thiếu
tinh thần học tập, nghiên cứu và cập nhật các vấn đề mới trong lĩnh vực xây dựng
thể chế. Một số cán bộ, công chức còn thiếu tinh thần trách nhiệm, chủ động và
sáng tạo trong công tác xây dựng thể chế.

20
- Nguồn lực tài chính hạn chế: Đầu tư cho xây dựng và ban hành thể chế còn hạn
chế. Ngân sách dành cho xây dựng thể chế còn thấp so với nhu cầu và yêu cầu của
công tác xây dựng thể chế. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách cho xây
dựng thể chế còn thiếu minh bạch, hiệu quả và hợp lý. Việc huy động và sử dụng
các nguồn lực khác cho xây dựng thể chế còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế.

- Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến: Mặt trái của cơ chế thị trường, bệnh
quan liêu và tệ tham nhũng trong hệ thống chính trị cũng gây ảnh hưởng đến quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Một số cán
bộ, công chức, đảng viên có tư tưởng phong kiến, lợi ích nhóm, tham nhũng, lạm
quyền, xâm phạm quyền lợi của nhân dân. Một số tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm pháp luật, lợi dụng thể chế để trục lợi, gian lận, đùa cợt với pháp luật.

Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
vẫn đang tiếp tục, và cần phải đối mặt và giải quyết những hạn chế này để đảm
bảo sự phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Để làm được
điều này, cần phải nâng cao nhận thức chính trị của nhân dân, phát huy tinh thần
dân chủ, đoàn kết và sáng tạo trong xây dựng thể chế. Cần phải đổi mới và nâng
cao trình độ và năng lực của cán bộ, công chức, đảng viên trong công tác xây
dựng thể chế. Cần phải tăng cường đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính
cho xây dựng thể chế. Cần phải chống lại tư tưởng phong kiến, bệnh quan liêu và
tệ tham nhũng, xây dựng một hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó
với nhân dân.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dụng nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
Việt Nam hiện nay:
Để xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay một cách
hiệu quả, có thể áp dụng các giải pháp sau đây:

- Tăng cường kỷ luật và kỷ cương trong toàn bộ hệ thống hành chính: Điều
này đòi hỏi việc cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ cho cán bộ, công
chức, nhân viên, để tạo môi trường làm việc khuyến khích đổi mới sáng tạo và
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, cũng phải tăng cường giám sát,

21
kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm kỷ luật, kỷ cương, tham nhũng, lãng
phí, cố ý làm trái.

- Phân cấp và phân quyền rõ ràng giữa các cấp, các ngành, các địa phương:
Xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trung ương với các
bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, và giữa Chính phủ trung ương với các chính
quyền địa phương các cấp. Khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp, mâu
thuẫn, thiếu minh bạch trong phân cấp, phân quyền. Tạo điều kiện cho các cấp,
các ngành, các địa phương tự chủ, sáng tạo, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
nhân dân.

- Nâng cao chất lượng dịch vụ công cho nhân dân và doanh nghiệp: Tiếp tục
sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, hiện đại,
bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao trình độ phục
vụ, thái độ làm việc của cán bộ, công chức, nhân viên trong lĩnh vực dịch vụ công.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đức và tài, đáp ứng yêu cầu của
cách mạng: Đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả, vừa có đức, vừa
có tài, trong đó đức là gốc. Đức là trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân
dân, có tinh thần phục vụ nhân dân, có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt. Tài là có
năng lực, trình độ, kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm, sáng tạo, đổi mới trong công
việc.

- Đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ, công chức theo hướng chuyên môn
hóa, hiện đại hóa: Tuyệt đối trung thành với cách mạng, hăng hái, thành thạo
công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ và có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc
mới cho cán bộ, công chức, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý,
kinh tế, xã hội.

- Chú trọng thực tế và nỗ lực làm việc để phục vụ nhân dân: Chính phủ cần
hành động và phục vụ dựa trên tinh thần làm việc thực tế và nỗ lực không ngừng.
Thực tế là phải nắm bắt tình hình, thực trạng, xu hướng, yêu cầu, mong muốn của

22
nhân dân, của xã hội, của thế giới. Nỗ lực là phải cố gắng, vượt qua khó khăn,
thách thức, tìm kiếm giải pháp, đưa ra quyết định, thực hiện nhiệm vụ, đạt được
kết quả.

- Quản lý đô thị hiệu quả để phát triển bền vững: Phân định nhiệm vụ, quyền
hạn đặc thù của chính quyền đô thị, quản lý và tổ chức đời sống dân cư đô thị, và
bảo đảm các dịch vụ công cộng cơ bản, thiết yếu. Tăng cường quản lý đất đai, môi
trường, giao thông, an ninh, trật tự, xây dựng văn hóa đô thị, nâng cao chất lượng
sống của người dân đô thị. Khuyến khích sự tham gia của người dân, doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội trong quản lý đô thị.

23
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam là một quan điểm khoa
học nhân đạo về bản chất giai cấp của nhà nước, nhà nước của dân, do dân, vì dân,
nhà nước pháp quyền, trong sạch và vững mạnh. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước có những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định
hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.

Với những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới, sáng tạo cũng như
những hạn chế còn tồn tại trong quá trình xây dựng nhà nước theo hướng pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá trình đổi mới
đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện nhà nước hiện
nay là một quá trình khó khăn cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn. Điều đó đòi hỏi
Đảng, nhà nước và nhân dân ta cần có những bước đi và giải pháp vừa khẩn
trương vừa vững chắc trong việc cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước
để có thể đáp ứng được xu thế phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày
nay.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 – Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
https://snv.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/aRIn3er4plGA/
content/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-va-su-van-
dung-cua-ang-ta-trong-giai-oan-hien-nay
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-
chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/phap-quyen-nhan-nghia-ho-chi-minh-
2396

https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-thuong-mai/tu-tuong-
ho-chi-minh/giao-trinh-tu-tuong-ho-chi-minh/17633245

https://prtc.ninhthuan.gov.vn/portal/Pages/2017/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-
nha-nuoc-cua-dan,-do-dan,-vi-dan-.aspx#:~:text=%C4%90%E1%BB%91i
%20l%E1%BA%ADp%20v%E1%BB%9Bi%20nh%C3%A0%20n
%C6%B0%E1%BB%9Bc,Vi%E1%BB%87t%20Nam%20ph%E1%BA
%A3i%20%C4%91i%20theo.

BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 05

STT HỌ VÀ TÊN NHIỆM VỤ ĐÁNH GIÁ ĐIỂM


- Nhóm trưởng
1 Nguyễn Thị Phương Linh
- Nội dung Chương I
-Thư ký
2 Đoàn Thị Hồng Mai
-Làm Word
-Làm nội dung phần
3 Lê Thị Diệu Linh
liên hệ
-Làm nội dung phần
4 Nguyễn Thị Phương Linh
liên hệ

25
-Làm nội dung lý
5 Trần Thị Phương Linh
thuyết
-Làm nội dung phần
6 Vũ Hải Linh
bình luận
-Làm nội dung phần
7 Hoàng Thị Loan
bình luận
8 Nguyễn Thanh Loan -Làm powerpoint
-Làm nội dung các
9 Trần Nguyệt Nga
tấm gương
-Làm nội dung các
10 Nguyễn Thùy Ngân
tấm gương

26
27
28

You might also like