Tiểu Luận Ck- Quan Hệ Vn-tq

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

KHOA TIẾNG TRUNG

HỌC PHẦN: QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

BÀI TẬP CUỐI KÌ

CHỦ ĐỀ: HỢP TÁC KINH TẾ GIỮA MALAYSIA VÀ VIỆT


NAM VỚI TRUNG QUỐC: TÁC ĐỘNG VÀ Ý NGHĨA

Giảng viên: Nguyễn Hùng Vương

Sinh viên thực hiện: Trần Thu Hà 20CNT02 - MSV: 415200090

Lớp học phần: Quan Hệ Việt Nam – Trung Quốc 04

Năm học 2023-2024


MỤC LỤC

I. GIỚI THIỆU ........................................................................................................4

II. TOÀN CẦU HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NƯỚC ........................................5

III. CHIẾN LƯỢC CỦA MALAYSIA VÀ VIỆT NAM NHẰM TĂNG CƯỜNG
HỢP TÁC KINH TẾ VỚI TRUNG QUỐC ..............................................................7

1. Chuyến thăm cấp cao........................................................................................7

2. Thành lập các thể chế đặc biệt..........................................................................8

3. Chương trình xúc tiến xuất khẩu và đầu tư ...................................................10

4. Đặc khu kinh tế ...............................................................................................11

5. Ưu đãi đầu tư đặc biệt.....................................................................................13

6. Xu hướng và tác động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với
Trung Quốc ...........................................................................................................13

IV. KẾT LUẬN ....................................................................................................14


HỢP TÁC KINH TẾ GIỮA MALAYSIA VÀ VIỆT NAM VỚI
TRUNG QUỐC: TÁC ĐỘNG VÀ Ý NGHĨA

TÓM TẮT

Kể từ khi triển khai chiến lược Toàn cầu hóa và tham gia Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào năm 2001, Trung Quốc đã thành công trong việc hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là thông qua đầu tư nước ngoài. Sự hòa
nhập này được củng cố với việc Trung Quốc triển khai Sáng kiến Vành đai và
Con đường (BRI) vào năm 2013, một dự án cơ sở hạ tầng lớn để nâng cao sự kết
nối của Trung Quốc với gần 140 quốc gia trong việc phối hợp chính sách, cơ sở
hạ tầng, thương mại, tài chính và kết nối giữa người dân. Thông qua sự hỗ trợ của
một số cơ quan tài chính tập trung vào Trung Quốc, BRI đã cung cấp các cơ hội
kinh tế khác nhau đặc biệt là cho các nước đang phát triển đòi hỏi đầu tư cơ sở hạ
tầng đáng kể. Trong bối cảnh của Malaysia và Việt Nam, sự phát triển này đặt ra
câu hỏi về sự tự chủ và năng lực của hai quốc gia này để nâng cao sự hợp tác kinh
tế với Trung Quốc để tận dụng sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc nói chung
và BRI nói riêng. Dựa trên bối cảnh trên, bài viết này đưa lập luận Malaysia và
Việt Nam có chính sách và khả năng để nâng cao sự hợp tác kinh tế với Trung
Quốc, mặc dù hai quốc gia có năng lực khác nhau. Bài viết cũng chỉ ra rằng sự tự
chủ quốc gia và năng lực nhà nước của Malaysia và Việt Nam bị hạn chế trong
việc quản lý các xu hướng và tác động phát sinh từ sự hợp tác kinh tế với Trung
Quốc để tạo ra một tình thế đôi bên cùng có lợi.

Từ khóa: Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam, Sáng kiến Vành đai và Con đường
(BRI), tự chủ quốc gia, năng lực nhà nước.
I. GIỚI THIỆU

Kể từ khi triển khai chiến lược Toàn cầu hóa và tham gia Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào năm 2001, Trung Quốc đã thành công trong việc hội nhập
sâu hơn nữa nền kinh tế của mình vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là thông qua
việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI). Chiến lược này đã giúp Trung Quốc
trở thành quốc gia thương mại lớn nhất thế giới vào năm 2013, trở thành nguồn
đầu tư lớn thứ hai thế giới vào năm 2016, chỉ sau Hoa Kỳ ,và là một trong những
nhà cung cấp tài chính phát triển hàng đầu thế giới . Xu hướng này được củng cố
thêm với việc Trung Quốc triển khai Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) vào
năm 2013, một dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ bao gồm Vành đai Kinh tế Con đường
tơ lụa trên đất liền và Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21. Tính đến tháng 7 năm
2019, Chính phủ Trung Quốc đã ký kết 195 thỏa thuận hợp tác chính phủ BRI với
136 quốc gia và 30 tổ chức quốc tế nhằm nâng cao năm loại kết nối bao gồm phối
hợp chính sách, cơ sở hạ tầng, thương mại, tài chính và mối quan hệ giữa người
với người.
Để hiện thực hóa các mục tiêu của BRI, Trung Quốc đã thiết lập một số cơ chế
tài chính mới bao gồm Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB) và Quỹ Đường
Vành đai với vốn khởi đầu lần lượt là 100 tỷ USD và 40 tỷ USD. Trước đó, Trung
Quốc cùng với các quốc gia BRICS khác gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Nam Phi đã
thành lập Ngân hàng Phát triển Mới (NDB) với vốn khởi đầu là 50 tỷ USD. Sáng
kiến này cũng được hỗ trợ bởi các tổ chức tài chính Trung Quốc hiện có đặc biệt
là Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung
Quốc (CHEXIM). Ước tính Trung Quốc đã chi khoảng 200 tỷ USD cho tất cả các
dự án BRI. Theo Morgan Stanley, tổng chi phí của Trung Quốc trong suốt giai
đoạn BRI sẽ đạt từ 1,2 đến 1,3 nghìn tỷ USD vào năm 2027 (CFR, ngày 28 tháng
1 năm 2020).
Được hỗ trợ bởi một số tổ chức tài chính lấy Trung Quốc làm trung tâm trên,
BRI đã mang lại các cơ hội kinh tế và thương mại đặc biệt cho các nước đang phát
triển, bao gồm cả Malaysia và Việt Nam, những nước đang cần đầu tư vào cơ sở
hạ tầng. Theo Global Infrastructure Outlook (2020), từ năm 2007 đến 2040,
Malaysia và Việt Nam yêu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng ước tính là 460 tỷ USD
và 605 tỷ USD. Trong giai đoạn này, khoảng cách giữa nhu cầu đầu tư với các
đầu tư hiện tại ở Malaysia và Việt Nam đạt 77 tỷ USD (Malaysia) và 102 tỷ USD
(Việt Nam).
Dựa trên các thiết lập trên, liệu Malaysia và Việt Nam có quyền tự chủ và khả
năng tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc hay không? Xu hướng và tác
động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc là gì? Để
trả lời những câu hỏi này, bài viết này được tổ chức thành năm phần bao gồm (i)
Giới thiệu; (ii) Toàn cầu hóa và vai trò của nhà nước; (iii) Hợp tác kinh tế giữa
Malaysia và Việt Nam hợp tác kinh tế với Trung Quốc; (iv) Xu hướng và tác động
của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc; và (v) Kết luận.
Do hạn chế về không gian, hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với Trung
Quốc chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại và đầu tư từ năm 2000 đến 2019,
trong khi thảo luận về hợp tác đầu tư giữa Malaysia và Trung Quốc được giới hạn
đến ngày 9 tháng 5 năm 2018, trước khi chính phủ Barisan Nasional (BN) rơi vào
thất bại trong cuộc tổng tuyển cử lần thứ 14.

II. TOÀN CẦU HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NƯỚC

Để giúp trả lời các câu hỏi trên, phần này sẽ thảo luận về một số cách tiếp cận
trong lý thuyết toàn cầu hóa – siêu toàn cầu hóa, những người hoài nghi và những
người theo chủ nghĩa biến đổi - đặc biệt nhấn mạnh vào vai trò của nhà nước trong
phát triển. Theo những người ủng hộ siêu toàn cầu hóa, toàn cầu hóa đề cập đến
sự xuất hiện của một nền kinh tế toàn cầu thống trị thế giới. Những nhóm này tự
hào về sự ưu việt của hệ thống thị trường tự do và bác bỏ các chiến lược của nhà
nước trong việc quản lý nền kinh tế quốc gia. Họ lập luận rằng toàn cầu hóa là tất
yếu và mang tính tổng thể, và các quốc gia- dân tộc không còn hoạt động và lỗi
thời nữa . Khác với những người ủng hộ chủ nghĩa siêu toàn cầu hóa, những người
hoài nghi như Hirst và Thompson (1996) lập luận rằng toàn cầu hóa là một truyền
thuyết ẩn dụ thực tế của nền kinh tế quốc tế đang được chia thành ba khối thương
mại lớn là Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương và Bắc Mỹ. Theo những người
hoài nghi, nền kinh tế quốc tế hiện tại vẫn chưa hình thành một thị trường toàn
cầu hội nhập hoàn toàn, và nó ít hội nhập hơn so với những năm 1890. Họ lập
luận rằng những gì đang xảy ra không phải là toàn cầu hóa mà là sự gia tăng mức
độ quốc tế hóa giữa các nền kinh tế quốc gia chiếm ưu thế được hỗ trợ bởi vai trò
được củng cố của nhà nước (Abdul Rahman 2001).
Trái với những người hoài nghi, những người theo chủ nghĩa biến đổi như
Rosenau (1997) lập luận rằng toàn cầu hóa thực sự tồn tại vì nó phản ánh mức độ
kết nối toàn cầu chưa từng có khi thế giới không còn phân biệt rõ ràng giữa các
vấn đề quốc tế và nội bộ. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa biến đổi không
đồng ý với những người ủng hộ toàn cầu hóa về vai trò của nhà nước trong phát
triển. Thay vào đó, dưới sự toàn cầu hóa, vai trò của nhà nước được tái cơ cấu để
quản lý những tác động bất lợi chỉ tạo ra những người chiến thắng trong số các
quốc gia mạnh mẽ và giàu có, cũng như các nhóm ít quyền lực và giàu có trong
xã hội trong khi những người bị thiệt thòi bao gồm các quốc gia nhỏ và yếu, cũng
như phần lớn dân số, đặc biệt là tầng lớp lao động (Abdul Rahman 2001).
Để giải quyết những tác động tiêu cực đó, điều quan trọng cho các nước đang
phát triển là tăng cường sự tự chủ của nhà nước và không gian chính sách. Dưới
những điều kiện nhất định, theo Abdul Rahman (2005), các nước đang phát triển
vẫn có sự tự chủ để đối phó với toàn cầu hóa theo trường phái tự do thị trường và
tiếp tục thúc đẩy chương trình phát triển của họ. Những quốc gia đang phát triển
này có thể theo đuổi mô hình 'nhà nước trong quá trình phát triển' tức là can thiệp
của nhà nước vào nền kinh tế để đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để đạt
được điều đó, những quốc gia này cần có chính sách và sự tự chủ để cho phép họ
thực hiện quyết định kinh tế và tránh bị chi phối bởi các lợi ích tổ chức đặc biệt
từ bên ngoài.
Tuy nhiên, quyền tự chủ của nhà nước thôi chưa đủ để thực hiện chính sách một
cách hiệu quả. Mượn ý kiến của Abdul Rahman và Weiss và Hobson , tự chủ của
nhà nước phải đi đôi với sự tồn tại của một 'nhà nước mạnh' được trang bị cơ sở
hạ tầng bốn chiều, bao gồm: xâm nhập (khả năng tiếp cận và tương tác trực tiếp
với người dân), khai thác (khai thác tài nguyên vật chất hoặc con người), đàm
phán (khả năng đàm phán, thiết lập ,phối hợp hợp tác với các nhóm khác nhau),
và quản trị (khả năng giải quyết một cách hiệu quả với các vấn đề của hệ thống
quản trị mới như trách nhiệm, minh bạch và quản trị tốt). Kết hợp với tư tưởng
phát triển mà mục đích huy động các lực lượng khác nhau trong xã hội và tạo cơ
sở cho tính hợp pháp của nhà nước, mô hình nhà nước phát triển dù ở dạng sửa
đổi vẫn có thể được thực hiện.
Dựa trên cuộc thảo luận trước đó, bài viết này áp dụng phương pháp biến đổi vì
nó nhấn mạnh vai trò của các quốc gia nhỏ hơn trong việc nắm bắt toàn cầu hóa –
trong trường hợp này, là toàn cầu hóa phương Đông – bằng cách tăng cường hợp
tác kinh tế với trung tâm của nó, Trung Quốc. Ba khái niệm đã được thảo luận ở
trên, bao gồm tự chủ của nhà nước (và không gian chính sách), khả năng đàm
phán/phối hợp và khả năng quản trị cũng sẽ được áp dụng. Các quyền tự chủ của
nhà nước đo lường sự vắng mặt tương đối của nền kinh tế Trung Quốc ảnh hưởng
ở Malaysia và Việt Nam trong khi không gian chính sách đo lường khả năng của
hai nước trong việc xây dựng và thực hiện chương trình nghị sự phát triển của họ.
Khả năng đàm phán hoặc điều phối đảm bảo rằng sự hợp tác giữa hai quốc gia sẽ
mang lại lợi ích kinh tế chung trong khi năng lực quản trị đo lường sự tuân thủ
của hai quốc gia trong việc duy trì trách nhiệm, minh bạch và quản trị tốt. Các
khái niệm này sẽ được áp dụng để xem xét khả năng của hai quốc gia trong việc
tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc và quản lý các tác động tiêu cực phát
sinh từ việc hợp tác kinh tế với Trung Quốc.

III. CHIẾN LƯỢC CỦA MALAYSIA VÀ VIỆT NAM NHẰM TĂNG


CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ VỚI TRUNG QUỐC

Phần này thảo luận về không gian chính sách và năng lực phối hợp của Malaysia
và Việt Nam nhằm tăng cường các chương trình hợp tác kinh tế với Trung Quốc.
Năm chiến lược sẽ được thảo luận ở đây là các chuyến thăm cấp cao, thành lập
các thể chế đặc biệt, các chương trình xúc tiến xuất khẩu và đầu tư, đặc khu kinh
tế và cung cấp các ưu đãi đầu tư.

1. Chuyến thăm cấp cao


Để tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam đã trao
đổi các chuyến thăm cấp cao với các đối tác Trung Quốc nhằm tăng cường cam
kết thực hiện sự đồng thuận cấp cao đã được các bên và các nước đạt được. Ngoài
ra, cơ chế này còn có tác dụng định hướng quan hệ song phương, hàn gắn quan hệ
chính trị, hình thành các thỏa thuận hợp tác và hình thành các thể chế làm cơ sở
cho hợp tác. Trong giai đoạn 2009-2020, Thủ tướng Malaysia đã có 6 chuyến
thăm chính thức Trung Quốc trong đó có tổng cộng 13 chuyến thăm chính thức
Trung Quốc của các lãnh đạo Việt Nam gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng và Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ( CPV) (Zaharul 2021).
Mặc dù các chuyến thăm chính thức của Việt Nam tới Trung Quốc diễn ra thường
xuyên hơn Malaysia nhưng mục đích chính của chuyến thăm nhằm hàn gắn mối
quan hệ chính trị căng thẳng do sự cố giàn khoan HYSY981 của Trung Quốc đặt
trên vùng biển Việt Nam năm 2014. Trong một số chuyến thăm cấp cao, cả Việt
Nam và Trung Quốc đều nhấn mạnh rằng bất kỳ khác biệt nào liên quan đến tranh
chấp Biển Đông cần phải được giải quyết thông qua tham vấn và thỏa thuận chung
đã được lãnh đạo hai nước nhất trí. Trong trường hợp của Malaysia, một trọng
tâm chính của các chuyến thăm cấp cao cũng là nhằm hàn gắn mối quan hệ chính
trị được cho là căng thẳng giữa hai nước sau vụ máy bay MH370 của Malaysia
mất tích và vụ bắt cóc công dân Trung Quốc ở Sabah vào năm 2014 dưới chính
quyền của Thủ tướng Najib Razak ( Kuik 2014). Trọng tâm này cũng được nhấn
mạnh trong chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai của Thủ tướng Mahathir
Mohamad sau những tuyên bố cực đoan chống lại các dự án lớn của Trung Quốc
tại Malaysia trong cuộc Tổng tuyển cử lần thứ 14 (GE14) và quyết định của chính
phủ Pakatan Harapan (PH) đình chỉ ba dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tại
Malaysia. Malaysia nhậm chức sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tháng
5/2018 (Zaharul 2021).
So với Việt Nam, Malaysia tích cực hơn trong việc tận dụng cơ chế này để xây
dựng và ký kết các thỏa thuận hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Trong chuyến thăm
Trung Quốc của ông Najib vào năm 2016, 14 thỏa thuận giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp (B2B) đã được ký kết trị giá 143,64 tỷ RM, bao gồm các dự án Liên
kết Đường sắt Bờ Đông (ECRL), Melaka Gateway và dự án Bandar Malaysia.
Tổng cộng có 16 thỏa thuận và MoU giữa chính phủ với chính phủ (G2G) cũng
đã được ký kết. Trong chuyến thăm Trung Quốc năm 2017, trong số các Biên bản
được ký kết có giữa Tập đoàn Kinh tế Kỹ thuật số Malaysia, chính quyền thành
phố Hàng Châu và Alibaba cho dự án Khu Thương mại Tự do Kỹ thuật số (DFTZ)
tại Kuala Lumpur.
Về phía Việt Nam, mặc dù trọng tâm chính của chuyến thăm là hàn gắn quan hệ
chính trị nhưng hợp tác kinh tế giữa hai nước lại tiếp tục được thúc đẩy. Trong
chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc năm 2016, ông Tập
Cận Bình phát biểu hai bên cần phát huy hiệu quả vai trò của Ban Chỉ đạo Hợp
tác song phương Việt Nam - Trung Quốc trong lập kế hoạch và điều phối; đẩy
nhanh sự liên kết giữa Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc
và “Hai hành lang, Một vành đai kinh tế” (TCOB) của Việt Nam; hình thành nền
tảng mới cho sự hợp tác về năng lực sản xuất; đẩy nhanh phát triển các dự án hợp
tác cơ sở hạ tầng trọng điểm và các khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới. Cuộc thảo
luận trên cho thấy hai nước có không gian chính sách và khả năng điều phối các
chương trình với Trung Quốc thông qua các chuyến thăm cấp cao. Trong khi cả
hai nước đều có thể hàn gắn quan hệ chính trị với Trung Quốc, Malaysia lại tích
cực hơn trong việc ký kết các hiệp định kinh tế và MoU với Trung Quốc.

2. Thành lập các thể chế đặc biệt


Ngoài việc tăng cường các chuyến thăm cấp cao tới Trung Quốc, Malaysia và
Việt Nam đã thành lập một số tổ chức như một cơ chế phối hợp nhằm tăng cường
hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Chính quyền của Najib Razak, một vị trí đã được
thành lập là Đặc phái viên của Thủ tướng tại Trung Quốc với chức vụ cấp bộ
trưởng. Vị trí này được nắm giữ bởi một số cá nhân, bao gồm Ong Ka Ting từ
năm 2011 đến năm 2018 dưới thời chính quyền của Thủ tướng Najib Razak, Tan
Kok Wai từ năm 2018 đến năm 2020 dưới thời chính quyền của Thủ tướng lần
thứ hai Mahathir Mohamad, và Tiong King Sing bắt đầu từ năm 2020 dưới thời
Thủ tướng Mahathir Mohamad. chính quyền của Thủ tướng Muhyiddin Yassin.
Vai trò của Đặc phái viên là hỗ trợ Thủ tướng và chính phủ tăng cường quan hệ
kinh tế và thương mại chặt chẽ hơn giữa Malaysia-Trung Quốc bằng cách giúp
các công ty Malaysia thâm nhập thị trường Trung Quốc, thu hút FDI từ Trung
Quốc và đại diện cho Thủ tướng điều phối các dự án đã ký kết.
Theo nguyên Tổng thư ký Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế (MITI), Tiến
sĩ Rebecca, Đặc phái viên nhằm mục đích quản lý các khía cạnh chính trị để tạo
thuận lợi cho các hoạt động thương mại và đầu tư. Điều này là do thực tế là nhiều
hoạt động hợp tác kinh tế với Trung Quốc có sự tham gia của các doanh nghiệp
nhà nước (SOE) mang tính chất chính trị. Ngoài ra, Đặc phái viên được bổ nhiệm
bao gồm các nhà lãnh đạo chính trị Trung Quốc nói tiếng phổ thông và hiểu văn
hóa Trung Quốc, từ đó tạo điều kiện giao tiếp với các đối tác và doanh nhân từ
Trung Quốc (Phỏng vấn, ngày 22 tháng 10 năm 2018).
Ngoài Đặc phái viên, chính quyền của Najib Razak còn thành lập Ủy ban Giám
sát Đặc biệt để điều phối và giám sát các hoạt động kinh tế với Trung Quốc nhằm
hiện thực hóa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước đạt được vào năm
2013. Ủy ban này đóng vai trò là nền tảng một cửa để giám sát các hoạt động kinh
tế song phương, do Thủ tướng Chính phủ chủ trì, Bộ Công thương và Công nghiệp
quốc tế (MITI) cùng các cơ quan khác của Chính phủ điều phối. Để đối phó với
BRI của Trung Quốc, chính phủ đã thành lậpở cấp thấp hơn, Ban Thư ký Quốc
gia Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRINS) trực thuộc MITI vào năm 2017
sau khi ký kết Biên bản ghi nhớ giữa MITI và Ủy ban Cải cách Phát triển Quốc
gia Trung Quốc (NDRC) để thúc đẩy phát triển kinh tế chung trên Con đường tơ
lụa và Tuyến đường hàng hải thế kỷ 21. Chức năng chính của BRINS là giám sát
và điều phối các dự án BRI ở Malaysia và giám sát các dự án BRI ở nước ngoài
có sự tham gia của các thực thể Malaysia.
Trong khi ba tổ chức trên được thành lập ở cấp quốc gia, hai nước đã thiết lập
một cơ chế tham gia trực tiếp là Hội đồng hợp tác chung (JCC) cho Khu công
nghiệp Kuantan Malaysia-Trung Quốc (MCKIP) và Khu công nghiệp Qinzhou
Trung Quốc-Malaysia. Công viên (CMQIP). JCC có nhiệm vụ giám sát sự phát
triển chung của các công viên này. Hội đồng đại diện của hai nước bao gồm các
bộ, cơ quan chính phủ, chính quyền tỉnh và bang, chủ sở hữu và quản lý các khu
công nghiệp, đại sứ quán và hội đồng doanh nghiệp. Trong cuộc gặp lần thứ tư
được tổ chức vào tháng 6 năm 2019 tại Kuala Lumpur, hai bên đã ghi nhận những
tiến bộ đạt được của hai công viên và đàm phán một đề xuất mang tính xây dựng
nhằm tăng cường phát triển chung.
Ngược lại với Malaysia chỉ có một cơ chế can dự trực tiếp với Trung Quốc thông
qua JCC, Việt Nam có ít nhất hai cơ chế can dự trực tiếp với Trung Quốc để quản
lý hợp tác kinh tế giữa hai nước. Cơ chế thứ nhất là Ban Chỉ đạo Hợp tác Song
phương (SCBC) cấp Phó Thủ tướng được Chính phủ hai nước thành lập năm 2006.
SCBC là cơ chế quan trọng thứ hai trong việc quản lý và điều phối các mối quan
hệ giữa hai Chính phủ sau Hiệp định các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo chính
phủ và đảng. Nó nhằm mục đích khuyến khích giao tiếp song phương và tin cậy
lẫn nhau cũng như tạo điều kiện hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác nhau và cung
cấp các phương pháp hiệu quả để giải quyết mọi vấn đề hoặc xung đột có thể ảnh
hưởng đến toàn bộ mối quan hệ. Từ năm 2006 đến 2018, SCBC đã tổ chức luân
phiên 11 cuộc họp thường niên giữa thủ đô hai nước. Trực thuộc SCBC, Ủy ban
Hợp tác Kinh tế và Thương mại Song phương (CETC) đã được thành lập như một
cơ chế liên lạc trực tiếp giữa Bộ Thương mại Trung Quốc và Bộ Công Thương
Việt Nam nhằm điều phối hợp tác kinh tế giữa hai nước. Không giống như
Malaysia, Việt Nam không có các tổ chức chuyên môn như Đặc phái viên và
BRINS để giám sát và điều phối các dự án của Trung Quốc và BRI tại Việt Nam.
Các dự án này của Trung Quốc được quản lý trực tiếp bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(MPI) và thông qua hai cơ chế trên là SCBC và CETC. Điều này cho thấy cả
Malaysia và Việt Nam đều có không gian chính sách để thành lập các thể chế đặc
biệt nhằm tăng cường và quản lý các chương trình hợp tác kinh tế với Trung Quốc.
Tuy nhiên, Việt Nam dường như có năng lực phối hợp cao hơn trong lĩnh vực này
khi ngày càng có nhiều cơ chế tham gia trực tiếp với Trung Quốc ở mức độ cao
hơn so với Malaysia.

3. Chương trình xúc tiến xuất khẩu và đầu tư


Để tăng xuất khẩu sang Trung Quốc, Malaysia đã tăng cường năng lực điều phối
thông qua vai trò của MATRADE nhằm điều phối và tạo điều kiện kết nối kinh
doanh giữa các nhà xuất khẩu Malaysia và khách hàng nước ngoài, đặc biệt thông
qua các hội chợ thương mại quốc tế cũng như các phái đoàn thương mại và đầu tư
tới Trung Quốc. Vai trò của MATRADE được hỗ trợ bởi năm văn phòng
MATRADE tại Trung Quốc đặt tại Bắc Kinh, Thành Đô, Quảng Châu, Hồng
Kông và Thượng Hải. Trong số các hội chợ thương mại lớn do MATRADE điều
phối tại Trung Quốc có Hội chợ triển lãm ASEAN Trung Quốc (CAEXPO) hàng
năm.
Về chương trình xúc tiến đầu tư, năng lực điều phối của Malaysia đã được nâng
cao thông qua vai trò của Phòng Xúc tiến Đầu tư Nước ngoài của MIDA cũng như
ba văn phòng MIDA tại Trung Quốc là Thượng Hải, Quảng Châu và Bắc Kinh.
Sự hỗ trợ của ba văn phòng này đã cho phép MIDA thực hiện các chương trình
thu hút FDI từ Trung Quốc bao gồm hội thảo, hội nghị bàn tròn và thăm các công
ty nước ngoài kết hợp với chuyến thăm chính thức cấp cao của Malaysia tới Trung
Quốc và tham gia triển lãm quốc tế tại Trung Quốc. Ngoài ra, MIDA cũng tổ chức
5 đoàn dự án đặc biệt tới Trung Quốc trong năm 2017 và 2018 nhằm thúc đẩy các
lĩnh vực được lựa chọn như lĩnh vực công nghệ thực phẩm và các ngành công
nghiệp dựa vào tài nguyên; công nghệ xây dựng và lối sống; máy móc và kim loại;
cũng như dịch vụ kinh doanh và đổi mới chuỗi cung ứng.
Cùng với Malaysia, Việt Nam cũng tăng cường năng lực điều phối để tăng xuất
khẩu sang Trung Quốc thông qua vai trò của VIETRADE và 3 văn phòng thương
mại tại Trung Quốc là Bắc Kinh, Hồng Kông và Trùng Khánh. Ba văn phòng
thương mại này có chức năng giúp TELADE điều phối các công ty Việt Nam tham
gia các hội chợ thương mại tại Trung Quốc, đặc biệt là Hội chợ triển lãm Trung
Quốc-ASEAN (CAEXPO). Tổng cộng có 137 công ty Việt Nam tham gia
CAEXPO lần thứ 15 với việc khai trương 235 gian hàng trong khi có tổng cộng
150 công ty Việt Nam tham gia CAEXPO lần thứ 16 với việc khai trương 250
gian hàng. Vì Trung Quốc là một thị trường rộng lớn đối với Việt Nam nên
VIETRADE cử từ hai đến ba đại biểu tham gia ba hội chợ thương mại lớn nhất
tại Trung Quốc và một phái đoàn thương mại tham gia các phiên kết nối kinh
doanh tại Trung Quốc mỗi năm (Phỏng vấn, ngày 14 tháng 1 năm 2020). Khác
với Malaysia, Việt Nam không có văn phòng xúc tiến đầu tư tại Trung Quốc dù
có 11 văn phòng đại diện tại 9 quốc gia. Tuy nhiên, nỗ lực thu hút đầu tư từ Trung
Quốc lại do Cục Đầu tư nước ngoài (FIA) trực tiếp thực hiện. Trực thuộc Bộ Kế
hoạch và Đầu tư (MPI) thông qua việc tham gia các hội chợ thương mại quốc tế
tại Trung Quốc. Mặc dù cả hai nước đều có dư địa chính sách để tổ chức các
chương trình xúc tiến tại Trung Quốc nhưng Malaysia có năng lực điều phối cao
hơn Việt Nam vì có nhiều đại diện thương mại và đầu tư tại Trung Quốc trong khi
Việt Nam không có đại diện đầu tư.

4. Đặc khu kinh tế


Malaysia tiếp tục nâng cao năng lực điều phối bằng cách hình thành hợp tác kinh
tế với Trung Quốc thông qua việc thành lập Khu công nghiệp Kuantan Malaysia-
Trung Quốc (MCKIP) vào năm 2013, một trong những dự án BRI chính ở
Malaysia. MCKIP được phát triển như một khu công nghiệp song sinh với Khu
công nghiệp Khâm Châu Trung Quốc-Malaysia (CMQIP) ở Trung Quốc, nơi cả
hai khu đều được đặt tên là 'Khu công nghiệp quốc gia' ở cả hai quốc gia. MCKIP,
có diện tích 3.500 mẫu Anh, nhắm mục tiêu đầu tư vào thép và kim loại màu, sản
xuất máy móc và thiết bị, linh kiện ô tô, công nghệ năng lượng sạch và tái tạo,
dầu, khí đốt và dầu mỏ, linh kiện điện và điện tử cũng như R&D.
Để tăng cường mạng lưới thương mại giữa MCKIP và CMQIP, chính phủ hai
nước đã nhất trí tăng cường kết nối hàng hải giữa Cảng Kuantan và Cảng Qinzhou
ở Trung Quốc. Những nỗ lực thúc đẩy đầu tư của Trung Quốc vào MCKIP và
Cảng Kuantan được tăng cường với dự án Đường sắt Bờ Đông (ECRL) được hồi
sinh, đóng vai trò là cầu nối trên bộ giữa Cảng Kuantan và Cảng Klang trên Bờ
Tây của Bán đảo. Khi ECRL kết nối MCKIP và các khu công nghiệp lớn dọc theo
Bờ Đông với Cảng Kuantan, ECRL cũng sẽ hỗ trợ tăng trưởng sản lượng tại Cảng
Kuantan. So với Malaysia, Việt Nam đã nâng cao năng lực phối hợp phát triển
đặc khu kinh tế với Trung Quốc sớm hơn nhiều so với Malaysia thông qua khuôn
khổ hội nhập kinh tế khu vực thông qua Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS).
Trong khuôn khổ GMS, có ba hành lang kinh tế được phát triển từ năm 2002 là
Hành lang kinh tế Bắc-Nam (NSEC), Hành lang kinh tế Đông-Tây (EWEC) và
Hành lang kinh tế phía Nam (SEC). Trong NSEC, Việt Nam và Trung Quốc cùng
tham gia phát triển hai tiểu hành lang là Côn Minh-Hà NộiHaiPhong (NSEC3) và
Nam Ninh-Hà Nội (NSEC4-I) và Nam NinhFang Chenggang-MongCai-HaLong-
HaiPhong (NSEC4-II). Trong mỗi hành lang kinh tế, mục tiêu đầu tư là phát triển
9 lĩnh vực chính là nông nghiệp, năng lượng, môi trường, y tế và phát triển nguồn
nhân lực, công nghệ thông tin và truyền thông, du lịch, vận tải, vận tải và tạo thuận
lợi thương mại cũng như phát triển đô thị.
Ngoài việc thành lập các BEZ và CBEZ, còn có ba khu công nghiệp ở Việt Nam
do Trung Quốc sở hữu và quản lý là Khu công nghiệp Long Giang ở tỉnh Tiền
Giang, Khu công nghiệp Yun Zhong ở tỉnh Bắc Giang và Khu Hợp tác Kinh tế
Thương mại Thâm Quyến ở Hải Phòng. Theo Phó Viện trưởng Viện Kinh tế và
Chính trị Thế giới, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (VASS), Nguyễn Bình Giang,
ba khu công nghiệp do Trung Quốc hậu thuẫn này có hiệu quả trong việc thu hút
đầu tư của Trung Quốc trong khi các BEZ và CBEZ không hiệu quả do vị trí chiến
lược của trước đây (Phỏng vấn, ngày 20 tháng 10 năm 2020). Mô tả trên cho thấy
trong khi cả hai nước đều có không gian chính sách để thành lập các đặc khu kinh
tế với Trung Quốc, thì Việt Nam có năng lực phối hợp cao hơn Malaysia vì nước
này đã phát triển nhiều đặc khu kinh tế hơn với Trung Quốc trong khi Malaysia
chỉ có một MCKIP.
5. Ưu đãi đầu tư đặc biệt
Để thúc đẩy hơn nữa dòng vốn FDI của Trung Quốc, Malaysia đã tăng cường
khả năng đàm phán trong việc điều chỉnh các ưu đãi nhằm đáp ứng nhu cầu của
các nhà đầu tư Trung Quốc. Chính phủ Malaysia đưa ra các ưu đãi tùy chỉnh cho
các dự án do Trung Quốc hậu thuẫn bao gồm MCKIP, Bandar Malaysia, Forest
City, East Coast Rail Link (ECRL), Đường ống khí đốt Trans Sabah (TSGP),
Đường ống đa sản phẩm (MPP) và Cảng Kuantan.
Ngược lại với Malaysia, Việt Nam không đưa ra ưu đãi đầu tư tùy chỉnh cho bất
kỳ nhà đầu tư nào. Cả các công ty trong và ngoài nước tại Việt Nam thường phải
chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) ở mức 20% bắt đầu từ năm 2016. Tuy
nhiên, các ưu đãi đầu tư hấp dẫn được dành cho các công ty dựa trên lĩnh vực, địa
điểm, quy mô đầu tư và cơ cấu công việc được khuyến khích chẳng hạn như phụ
nữ hoặc người dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy Malaysia có nhiều không gian
chính sách và năng lực đàm phán hơn Việt Nam vì nước này có nhiều dư địa hơn
để tùy chỉnh và đàm phán các biện pháp khuyến khích nhằm phục vụ nhu cầu của
Trung Quốc.

6. Xu hướng và tác động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam
với Trung Quốc
Thương mại là khía cạnh quan trọng nhất của hợp tác kinh tế Malaysia-Trung
Quốc. Từ năm 2009, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia và
Malaysia là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc ở Đông
Nam Á. Về xu hướng thương mại, Hình dưới cho thấy xuất khẩu của Malaysia
sang Trung Quốc tăng nhanh từ 3,03 tỷ USD lên 19,02 tỷ USD từ năm 2000 đến
năm 2008 trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc vào Malaysia luôn lớn hơn xuất
khẩu trong giai đoạn này và tăng từ 3 USD. 0,24 đến 20,05 USD. Những kết quả
đáng khích lệ này có được nhờ việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới ( WTO) năm 2001 và việc hình thành Khuôn khổ Hợp tác Kinh tế Toàn
diện ASEAN-Trung Quốc năm 2002, đặt nền móng cho việc thành lập Khu vực
Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc ( ACFTA) trong vòng 10 năm.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) năm 2008,
xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn tăng trưởng dương trong khi nhập khẩu từ Trung
Quốc giảm nhẹ trong năm 2009. Từ năm 2009 đến 2011, xuất khẩu sang Trung
Quốc có xu hướng tăng mạnh hơn so với nhập khẩu từ Trung Quốc, Malaysia ghi
nhận thặng dư thương mại từ 1,86 tỷ USD đến 5,11 tỷ USD. Những kết quả tích
cực này được góp phần nhờ sự phục hồi của thị trường Hoa Kỳ và Châu Âu sau
GFC và việc thực thi đầy đủ ACFTA vào năm 2010. Tuy nhiên, từ năm 2012 đến
năm 2019, nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng cao hơn xuất khẩu của Malaysia sang
Trung Quốc, do đó góp phần vào Thâm hụt thương mại của Malaysia với Trung
Quốc tăng từ 0,98 tỷ USD lên 8,67 tỷ USD.

IV. KẾT LUẬN

Dựa trên các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra, bài viết này có ba phát hiện chính:
Thứ nhất, Malaysia và Việt Nam có thể nắm bắt được Toàn cầu hóa phương
Đông ở một mức độ nào đó bằng cách tăng cường không gian chính sách và năng
lực phối hợp trong chiến lược tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Trong
5 chiến lược được thảo luận, Malaysia có năng lực phối hợp cao hơn Việt Nam
trong việc ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế trong các chuyến thăm cấp cao, các
chương trình xúc tiến xuất khẩu, đầu tư và ưu đãi đầu tư trong khi Việt Nam có
năng lực phối hợp cao hơn Malaysia trong việc thành lập các cơ chế đặc biệt. các
tổ chức và đặc khu kinh tế. Các cuộc thảo luận cũng cho thấy cả hai nước đều có
không gian chính sách để xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh tế đối với
Trung Quốc.
Thứ hai, xét về xu hướng hợp tác kinh tế với Trung Quốc, xuất khẩu của
Malaysia và Việt Nam sang Trung Quốc nhìn chung có xu hướng ngày càng tăng.
Điều này chứng tỏ tính hiệu quả của các chương trình xúc tiến xuất khẩu do hai
nước tổ chức tại Trung Quốc. Tuy nhiên, nhập khẩu từ Trung Quốc sang cả hai
nước có xu hướng tăng cao hơn xuất khẩu, do đó làm tăng thâm hụt thương mại
của Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc. Bài viết cũng chỉ ra rằng xuất khẩu
hàng hóa sản xuất của cả hai nước nhìn chung đang ở thế bất lợi so sánh song
phương ở Trung Quốc. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng hóa thô và nguyên liệu nông
nghiệp thô của cả hai nước nhìn chung có lợi thế so sánh song phương trong khi
chỉ có xuất khẩu tất cả các mặt hàng thực phẩm của Việt Nam có lợi thế so sánh
ở Trung Quốc. Cả hai nước – đặc biệt là Việt Nam – cũng cho thấy sự phụ thuộc
ngày càng tăng vào đầu vào của Trung Quốc để xuất khẩu trong nước. Về hợp tác
đầu tư, Trung Quốc không phải là nhà đầu tư hàng đầu ở cả Malaysia và Việt Nam.
Tuy nhiên, dòng vốn FDI của Trung Quốc vào cả hai nước nhìn chung có xu
hướng ngày càng tăng, đặc biệt là sau khi BRI ra mắt vào năm 2013 và sau cuộc
chiến thương mại Mỹ-Trung kể từ đầu năm 2018. Mặc dù hoàn cảnh bên ngoài
đóng vai trò quan trọng nhưng năng lực thu hút FDI của Trung Quốc của cả hai
nước được củng cố bằng việc thành lập các đặc khu kinh tế.
Thứ ba, cả Malaysia và Việt Nam đều có quyền tự chủ và năng lực hạn chế trong
việc quản lý các xu hướng và tác động tiêu cực do hợp tác kinh tế với Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, những tác động tiêu cực này bao gồm gia tăng tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia, dòng sản phẩm tiêu dùng chất lượng thấp của Trung Quốc
tràn vào thị trường Việt Nam, ô nhiễm môi trường, gia tăng cạnh tranh giữa các
công ty trong nước và Trung Quốc và gia tăng cạnh tranh giữa các tỉnh để thu hút
FDI của Trung Quốc. Đối với Malaysia, những tác động tiêu cực này bao gồm xói
mòn chủ quyền và an ninh, suy thoái môi trường và sinh kế của cộng đồng địa
phương. Bài viết này cho thấy Malaysia và Việt Nam có không gian chính sách
và năng lực để tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc nhưng có quyền tự chủ
và năng lực hạn chế trong việc quản lý các xu hướng và tác động tiêu cực do hợp
tác kinh tế với Trung Quốc gây ra.
Tài liệu tham khảo

Abdul Rahman Embong. 2001. Wacana Globalisasi. In Norani Othman & Mandal,
S.K. (ed.), Malaysia Menangani Globalisasi: Peserta atau Mangsa? (pp. 23-45).
Bangi: Penerbit Universiti Kebangsaan Malaysia.
Abdul Rahman Embong. 2003. Pembangunan dan Kesejahteraan: Agenda
Kemanusiaan Abad Ke-21. Syarahan Perdana Profesor. Bangi: Universiti
Kebangsaan Malaysia.
Abdul Rahman Embong. 2005. Development and Wellbeing. Humanity’s Agenda
for the 21st Century. Professorial Inaugural Lecture (Trans., original in Malay
2003). Bangi: UKM Press.
Council on Foreign Relations (CFR). 2020. China’s massive Belt and Road
Initiative, 28 January. https://www.cfr.org/ backgrounder/chinas-massive-belt-
and-roadinitiative [Accessed 14 May 2020].
Le Hong Hiep. 2017. Living Next to the Giant: The Political Economy of
Vietnam’s Relations with China under Doi Moi. Singapore: ISEAS Publishing.
Malaysia External Trade Statistics Online. 2020. https://metsonline.stats.gov.my/
[Accessed 15 October 2020].
Nguyen Thi Bich Ngoc. 2016. Vietnam-China economic relations and
recommendations for ASEAN-China co-operation. In Kim, Yong Chan (ed.),
Chinese Global Production Network in ASEAN. London: Springer.
OECDTiVA.2020.https://stats.oecd.org/Index.aspx?datasetcode=TIVA_2018_
C1[Accessed 15 October 2020].

You might also like