Professional Documents
Culture Documents
Tiểu Luận Ck- Quan Hệ Vn-tq
Tiểu Luận Ck- Quan Hệ Vn-tq
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU.......................................................................................................4
III. CHIẾN LƯỢC CỦA MALAYSIA VÀ VIỆT NAM NHẰM TĂNG CƯỜNG
HỢP TÁC KINH TẾ VỚI TRUNG QUỐC..............................................................7
6. Xu hướng và tác động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với
Trung Quốc..........................................................................................................13
TÓM TẮT
Kể từ khi triển khai chiến lược Toàn cầu hóa và tham gia Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào năm 2001, Trung Quốc đã thành công trong việc hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là thông qua đầu tư nước ngoài. Sự
hòa nhập này được củng cố với việc Trung Quốc triển khai Sáng kiến Vành đai
và Con đường (BRI) vào năm 2013, một dự án cơ sở hạ tầng lớn để nâng cao sự
kết nối của Trung Quốc với gần 140 quốc gia trong việc phối hợp chính sách, cơ
sở hạ tầng, thương mại, tài chính và kết nối giữa người dân. Thông qua sự hỗ trợ
của một số cơ quan tài chính tập trung vào Trung Quốc, BRI đã cung cấp các cơ
hội kinh tế khác nhau đặc biệt là cho các nước đang phát triển đòi hỏi đầu tư cơ
sở hạ tầng đáng kể. Trong bối cảnh của Malaysia và Việt Nam, sự phát triển này
đặt ra câu hỏi về sự tự chủ và năng lực của hai quốc gia này để nâng cao sự hợp
tác kinh tế với Trung Quốc để tận dụng sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
nói chung và BRI nói riêng. Dựa trên bối cảnh trên, bài viết này đưa lập luận
Malaysia và Việt Nam có chính sách và khả năng để nâng cao sự hợp tác kinh tế
với Trung Quốc, mặc dù hai quốc gia có năng lực khác nhau. Bài viết cũng chỉ
ra rằng sự tự chủ quốc gia và năng lực nhà nước của Malaysia và Việt Nam bị
hạn chế trong việc quản lý các xu hướng và tác động phát sinh từ sự hợp tác
kinh tế với Trung Quốc để tạo ra một tình thế đôi bên cùng có lợi.
Từ khóa: Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam, Sáng kiến Vành đai và Con đường
(BRI), tự chủ quốc gia, năng lực nhà nước.
I. GIỚI THIỆU
Kể từ khi triển khai chiến lược Toàn cầu hóa và tham gia Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, Trung Quốc đã thành công trong việc hội
nhập sâu hơn nữa nền kinh tế của mình vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là
thông qua việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (OFDI). Chiến lược này đã giúp
Trung Quốc trở thành quốc gia thương mại lớn nhất thế giới vào năm 2013, trở
thành nguồn đầu tư lớn thứ hai thế giới vào năm 2016, chỉ sau Hoa Kỳ ,và là
một trong những nhà cung cấp tài chính phát triển hàng đầu thế giới . Xu hướng
này được củng cố thêm với việc Trung Quốc triển khai Sáng kiến Vành đai và
Con đường (BRI) vào năm 2013, một dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ bao gồm
Vành đai Kinh tế Con đường tơ lụa trên đất liền và Con đường tơ lụa trên biển
thế kỷ 21. Tính đến tháng 7 năm 2019, Chính phủ Trung Quốc đã ký kết 195
thỏa thuận hợp tác chính phủ BRI với 136 quốc gia và 30 tổ chức quốc tế nhằm
nâng cao năm loại kết nối bao gồm phối hợp chính sách, cơ sở hạ tầng, thương
mại, tài chính và mối quan hệ giữa người với người.
Để hiện thực hóa các mục tiêu của BRI, Trung Quốc đã thiết lập một số cơ chế
tài chính mới bao gồm Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB) và Quỹ
Đường Vành đai với vốn khởi đầu lần lượt là 100 tỷ USD và 40 tỷ USD. Trước
đó, Trung Quốc cùng với các quốc gia BRICS khác gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và
Nam Phi đã thành lập Ngân hàng Phát triển Mới (NDB) với vốn khởi đầu là 50
tỷ USD. Sáng kiến này cũng được hỗ trợ bởi các tổ chức tài chính Trung Quốc
hiện có đặc biệt là Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Xuất
nhập khẩu Trung Quốc (CHEXIM). Ước tính Trung Quốc đã chi khoảng 200 tỷ
USD cho tất cả các dự án BRI. Theo Morgan Stanley, tổng chi phí của Trung
Quốc trong suốt giai đoạn BRI sẽ đạt từ 1,2 đến 1,3 nghìn tỷ USD vào năm 2027
(CFR, ngày 28 tháng 1 năm 2020).
Được hỗ trợ bởi một số tổ chức tài chính lấy Trung Quốc làm trung tâm trên,
BRI đã mang lại các cơ hội kinh tế và thương mại đặc biệt cho các nước đang
phát triển, bao gồm cả Malaysia và Việt Nam, những nước đang cần đầu tư vào
cơ sở hạ tầng. Theo Global Infrastructure Outlook (2020), từ năm 2007 đến
2040, Malaysia và Việt Nam yêu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng ước tính là 460 tỷ
USD và 605 tỷ USD. Trong giai đoạn này, khoảng cách giữa nhu cầu đầu tư với
các đầu tư hiện tại ở Malaysia và Việt Nam đạt 77 tỷ USD (Malaysia) và 102 tỷ
USD (Việt Nam).
Dựa trên các thiết lập trên, liệu Malaysia và Việt Nam có quyền tự chủ và khả
năng tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc hay không? Xu hướng và tác
động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc là gì? Để
trả lời những câu hỏi này, bài viết này được tổ chức thành năm phần bao gồm (i)
Giới thiệu; (ii) Toàn cầu hóa và vai trò của nhà nước; (iii) Hợp tác kinh tế giữa
Malaysia và Việt Nam hợp tác kinh tế với Trung Quốc; (iv) Xu hướng và tác
động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc; và (v) Kết
luận. Do hạn chế về không gian, hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam với
Trung Quốc chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại và đầu tư từ năm 2000 đến
2019, trong khi thảo luận về hợp tác đầu tư giữa Malaysia và Trung Quốc được
giới hạn đến ngày 9 tháng 5 năm 2018, trước khi chính phủ Barisan Nasional
(BN) rơi vào thất bại trong cuộc tổng tuyển cử lần thứ 14.
Để giúp trả lời các câu hỏi trên, phần này sẽ thảo luận về một số cách tiếp cận
trong lý thuyết toàn cầu hóa – siêu toàn cầu hóa, những người hoài nghi và
những người theo chủ nghĩa biến đổi - đặc biệt nhấn mạnh vào vai trò của nhà
nước trong phát triển. Theo những người ủng hộ siêu toàn cầu hóa, toàn cầu hóa
đề cập đến sự xuất hiện của một nền kinh tế toàn cầu thống trị thế giới. Những
nhóm này tự hào về sự ưu việt của hệ thống thị trường tự do và bác bỏ các chiến
lược của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế quốc gia. Họ lập luận rằng toàn
cầu hóa là tất yếu và mang tính tổng thể, và các quốc gia- dân tộc không còn
hoạt động và lỗi thời nữa . Khác với những người ủng hộ chủ nghĩa siêu toàn
cầu hóa, những người hoài nghi như Hirst và Thompson (1996) lập luận rằng
toàn cầu hóa là một truyền thuyết ẩn dụ thực tế của nền kinh tế quốc tế đang
được chia thành ba khối thương mại lớn là Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương
và Bắc Mỹ. Theo những người hoài nghi, nền kinh tế quốc tế hiện tại vẫn chưa
hình thành một thị trường toàn cầu hội nhập hoàn toàn, và nó ít hội nhập hơn so
với những năm 1890. Họ lập luận rằng những gì đang xảy ra không phải là toàn
cầu hóa mà là sự gia tăng mức độ quốc tế hóa giữa các nền kinh tế quốc gia
chiếm ưu thế được hỗ trợ bởi vai trò được củng cố của nhà nước (Abdul Rahman
2001).
Trái với những người hoài nghi, những người theo chủ nghĩa biến đổi như
Rosenau (1997) lập luận rằng toàn cầu hóa thực sự tồn tại vì nó phản ánh mức
độ kết nối toàn cầu chưa từng có khi thế giới không còn phân biệt rõ ràng giữa
các vấn đề quốc tế và nội bộ. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa biến đổi
không đồng ý với những người ủng hộ toàn cầu hóa về vai trò của nhà nước
trong phát triển. Thay vào đó, dưới sự toàn cầu hóa, vai trò của nhà nước được
tái cơ cấu để quản lý những tác động bất lợi chỉ tạo ra những người chiến thắng
trong số các quốc gia mạnh mẽ và giàu có, cũng như các nhóm ít quyền lực và
giàu có trong xã hội trong khi những người bị thiệt thòi bao gồm các quốc gia
nhỏ và yếu, cũng như phần lớn dân số, đặc biệt là tầng lớp lao động (Abdul
Rahman 2001).
Để giải quyết những tác động tiêu cực đó, điều quan trọng cho các nước đang
phát triển là tăng cường sự tự chủ của nhà nước và không gian chính sách. Dưới
những điều kiện nhất định, theo Abdul Rahman (2005), các nước đang phát triển
vẫn có sự tự chủ để đối phó với toàn cầu hóa theo trường phái tự do thị trường
và tiếp tục thúc đẩy chương trình phát triển của họ. Những quốc gia đang phát
triển này có thể theo đuổi mô hình 'nhà nước trong quá trình phát triển' tức là can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Để đạt được điều đó, những quốc gia này cần có chính sách và sự tự chủ để cho
phép họ thực hiện quyết định kinh tế và tránh bị chi phối bởi các lợi ích tổ chức
đặc biệt từ bên ngoài.
Tuy nhiên, quyền tự chủ của nhà nước thôi chưa đủ để thực hiện chính sách
một cách hiệu quả. Mượn ý kiến của Abdul Rahman và Weiss và Hobson , tự
chủ của nhà nước phải đi đôi với sự tồn tại của một 'nhà nước mạnh' được trang
bị cơ sở hạ tầng bốn chiều, bao gồm: xâm nhập (khả năng tiếp cận và tương tác
trực tiếp với người dân), khai thác (khai thác tài nguyên vật chất hoặc con
người), đàm phán (khả năng đàm phán, thiết lập ,phối hợp hợp tác với các nhóm
khác nhau), và quản trị (khả năng giải quyết một cách hiệu quả với các vấn đề
của hệ thống quản trị mới như trách nhiệm, minh bạch và quản trị tốt). Kết hợp
với tư tưởng phát triển mà mục đích huy động các lực lượng khác nhau trong xã
hội và tạo cơ sở cho tính hợp pháp của nhà nước, mô hình nhà nước phát triển
dù ở dạng sửa đổi vẫn có thể được thực hiện.
Dựa trên cuộc thảo luận trước đó, bài viết này áp dụng phương pháp biến đổi
vì nó nhấn mạnh vai trò của các quốc gia nhỏ hơn trong việc nắm bắt toàn cầu
hóa – trong trường hợp này, là toàn cầu hóa phương Đông – bằng cách tăng
cường hợp tác kinh tế với trung tâm của nó, Trung Quốc. Ba khái niệm đã được
thảo luận ở trên, bao gồm tự chủ của nhà nước (và không gian chính sách), khả
năng đàm phán/phối hợp và khả năng quản trị cũng sẽ được áp dụng. Các quyền
tự chủ của nhà nước đo lường sự vắng mặt tương đối của nền kinh tế Trung
Quốc ảnh hưởng ở Malaysia và Việt Nam trong khi không gian chính sách đo
lường khả năng của hai nước trong việc xây dựng và thực hiện chương trình
nghị sự phát triển của họ. Khả năng đàm phán hoặc điều phối đảm bảo rằng sự
hợp tác giữa hai quốc gia sẽ mang lại lợi ích kinh tế chung trong khi năng lực
quản trị đo lường sự tuân thủ của hai quốc gia trong việc duy trì trách nhiệm,
minh bạch và quản trị tốt. Các khái niệm này sẽ được áp dụng để xem xét khả
năng của hai quốc gia trong việc tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc và
quản lý các tác động tiêu cực phát sinh từ việc hợp tác kinh tế với Trung Quốc.
Phần này thảo luận về không gian chính sách và năng lực phối hợp của
Malaysia và Việt Nam nhằm tăng cường các chương trình hợp tác kinh tế với
Trung Quốc. Năm chiến lược sẽ được thảo luận ở đây là các chuyến thăm cấp
cao, thành lập các thể chế đặc biệt, các chương trình xúc tiến xuất khẩu và đầu
tư, đặc khu kinh tế và cung cấp các ưu đãi đầu tư.
6. Xu hướng và tác động của hợp tác kinh tế giữa Malaysia và Việt Nam
với Trung Quốc
Thương mại là khía cạnh quan trọng nhất của hợp tác kinh tế Malaysia-Trung
Quốc. Từ năm 2009, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Malaysia và
Malaysia là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc ở
Đông Nam Á. Về xu hướng thương mại, Hình dưới cho thấy xuất khẩu của
Malaysia sang Trung Quốc tăng nhanh từ 3,03 tỷ USD lên 19,02 tỷ USD từ năm
2000 đến năm 2008 trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc vào Malaysia luôn lớn
hơn xuất khẩu trong giai đoạn này và tăng từ 3 USD. 0,24 đến 20,05 USD.
Những kết quả đáng khích lệ này có được nhờ việc Trung Quốc gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới ( WTO) năm 2001 và việc hình thành Khuôn khổ
Hợp tác Kinh tế Toàn diện ASEAN-Trung Quốc năm 2002, đặt nền móng cho
việc thành lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc ( ACFTA)
trong vòng 10 năm.
Mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) năm 2008,
xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn tăng trưởng dương trong khi nhập khẩu từ
Trung Quốc giảm nhẹ trong năm 2009. Từ năm 2009 đến 2011, xuất khẩu sang
Trung Quốc có xu hướng tăng mạnh hơn so với nhập khẩu từ Trung Quốc,
Malaysia ghi nhận thặng dư thương mại từ 1,86 tỷ USD đến 5,11 tỷ USD.
Những kết quả tích cực này được góp phần nhờ sự phục hồi của thị trường Hoa
Kỳ và Châu Âu sau GFC và việc thực thi đầy đủ ACFTA vào năm 2010. Tuy
nhiên, từ năm 2012 đến năm 2019, nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng cao hơn
xuất khẩu của Malaysia sang Trung Quốc, do đó góp phần vào Thâm hụt thương
mại của Malaysia với Trung Quốc tăng từ 0,98 tỷ USD lên 8,67 tỷ USD.
Dựa trên các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra, bài viết này có ba phát hiện chính:
Thứ nhất, Malaysia và Việt Nam có thể nắm bắt được Toàn cầu hóa phương
Đông ở một mức độ nào đó bằng cách tăng cường không gian chính sách và
năng lực phối hợp trong chiến lược tăng cường hợp tác kinh tế với Trung Quốc.
Trong 5 chiến lược được thảo luận, Malaysia có năng lực phối hợp cao hơn Việt
Nam trong việc ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế trong các chuyến thăm cấp
cao, các chương trình xúc tiến xuất khẩu, đầu tư và ưu đãi đầu tư trong khi Việt
Nam có năng lực phối hợp cao hơn Malaysia trong việc thành lập các cơ chế đặc
biệt. các tổ chức và đặc khu kinh tế. Các cuộc thảo luận cũng cho thấy cả hai
nước đều có không gian chính sách để xây dựng và thực hiện các chiến lược
kinh tế đối với Trung Quốc.
Thứ hai, xét về xu hướng hợp tác kinh tế với Trung Quốc, xuất khẩu của
Malaysia và Việt Nam sang Trung Quốc nhìn chung có xu hướng ngày càng
tăng. Điều này chứng tỏ tính hiệu quả của các chương trình xúc tiến xuất khẩu
do hai nước tổ chức tại Trung Quốc. Tuy nhiên, nhập khẩu từ Trung Quốc sang
cả hai nước có xu hướng tăng cao hơn xuất khẩu, do đó làm tăng thâm hụt
thương mại của Malaysia và Việt Nam với Trung Quốc. Bài viết cũng chỉ ra
rằng xuất khẩu hàng hóa sản xuất của cả hai nước nhìn chung đang ở thế bất lợi
so sánh song phương ở Trung Quốc. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng hóa thô và
nguyên liệu nông nghiệp thô của cả hai nước nhìn chung có lợi thế so sánh song
phương trong khi chỉ có xuất khẩu tất cả các mặt hàng thực phẩm của Việt Nam
có lợi thế so sánh ở Trung Quốc. Cả hai nước – đặc biệt là Việt Nam – cũng cho
thấy sự phụ thuộc ngày càng tăng vào đầu vào của Trung Quốc để xuất khẩu
trong nước. Về hợp tác đầu tư, Trung Quốc không phải là nhà đầu tư hàng đầu ở
cả Malaysia và Việt Nam. Tuy nhiên, dòng vốn FDI của Trung Quốc vào cả hai
nước nhìn chung có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt là sau khi BRI ra mắt vào
năm 2013 và sau cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kể từ đầu năm 2018. Mặc dù
hoàn cảnh bên ngoài đóng vai trò quan trọng nhưng năng lực thu hút FDI của
Trung Quốc của cả hai nước được củng cố bằng việc thành lập các đặc khu kinh
tế.
Thứ ba, cả Malaysia và Việt Nam đều có quyền tự chủ và năng lực hạn chế
trong việc quản lý các xu hướng và tác động tiêu cực do hợp tác kinh tế với
Trung Quốc. Đối với Việt Nam, những tác động tiêu cực này bao gồm gia tăng
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, dòng sản phẩm tiêu dùng chất lượng thấp
của Trung Quốc tràn vào thị trường Việt Nam, ô nhiễm môi trường, gia tăng
cạnh tranh giữa các công ty trong nước và Trung Quốc và gia tăng cạnh tranh
giữa các tỉnh để thu hút FDI của Trung Quốc. Đối với Malaysia, những tác động
tiêu cực này bao gồm xói mòn chủ quyền và an ninh, suy thoái môi trường và
sinh kế của cộng đồng địa phương. Bài viết này cho thấy Malaysia và Việt Nam
có không gian chính sách và năng lực để tăng cường hợp tác kinh tế với Trung
Quốc nhưng có quyền tự chủ và năng lực hạn chế trong việc quản lý các xu
hướng và tác động tiêu cực do hợp tác kinh tế với Trung Quốc gây ra.
Tài liệu tham khảo