Professional Documents
Culture Documents
Lão H C: Nam Cao
Lão H C: Nam Cao
Nam Cao
- Quê quán: làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà
Nam.
+ Năm 1941, ông có tập truyện đầu tay là Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái
lò gạch cũ rất được đón nhận, sau đó đã được dổi tên là Chí Phèo.
+ Tháng 4 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số
những thành viên đầu tiên
+ Đến năm 1946, ông ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc
+ Năm 1950 Nam Cao làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam và làm việc trong toà soạn
tạp chí Văn nghệ.
+ Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào
năm 1996.
+ Những tác phẩm tiêu biểu: Chí Phèo, Cái chết của con Mực, Con mèo…
+ Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập
và những người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ
- Lão Hạc là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người nông dân ở xã hội
phong kiến cũ, đăng báo lần đầu năm 1943
2. Tóm tắt
Lão Hạc là một người nông dân nghèo, sống cùng một con chó gọi là cậu Vàng. Lão
có một người con trai nhưng vì nghèo không có tiền lấy vợ nên đã bỏ đi làm đồn điền
cao su. Một mình lão phải tự lo liệu mưu sinh. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, nhà lão
không còn gì nữa, lão đành phải bán cậu Vàng - con chó mà lão hết mực thương yêu
như con trai mình. Lão mang hết số tiền bán chó và dành dụm được từ việc bán mảnh
vườn gửi nhờ ông giáo. Mấy hôm sau lão kiếm được gì ăn nấy. Một hôm lão xin Binh
Tư ít bả chó và nói dối là đánh bả con chó hay sang vườn để giết thịt ăn nhưng thực ra
là để tự tử. Cái chết của lão Hạc dữ dội, vật vã, chẳng ai hiểu vì sao lão chết ngoại trừ
ông giáo và Binh Tư.
- Qua đoạn trích tác giả đã thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau thương
của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất cao quí
của họ. Đồng thời cũng cho thấy sự yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với
những người nông dân như thế
- Nam Cao đã thể hiện tài năng nghệ thuật của mình trong việc miêu tả tâm lí nhân vật,
cách kể chuyện giản dị, tự nhiên chân thực, giọng điệu linh hoạt và tình huống đôc
đáo.
- Vài nét về tác giả Nam Cao: Nhà văn hiện thực xuất sắc
- Khái quát về tác phẩm Lão Hạc: thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau
thương của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất
cao quí của họ thông qua hình tượng nhân vật Lão Hạc
- Vì nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân thiết
của bản thân mình - và chọn con đường kết thúc cho mình.
b. Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh việc bán cậu Vàng
- Cậu Vàng là con chó của lão Hạc rất yêu quý :
+ Cho ăn trong một bát lớn như của nhà giàu ; ăn gì cũng gắp cho nó cùng ăn
- Quyết định bán đi con chó Vàng là một việc làm rất khó khăn, một việc hệ trọng ⇒
đắn đo, do dự, suy tính mãi
+ Mặt lão đột nhiên co rúm lại, vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, +
Đầu ngoẹo về một bên, miệng móm mém mếu như con nít
+ Lão hu hu khóc.
⇒ Sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh dày đặc, liên tiếp ⇒ vô cùng đau khổ đang
hối hận, xót xa, thương tiếc dâng trào.
⇒ Lão Hạc là một người nông dân sống có tình có nghĩa, thủy chung, rất mực trung
thực
⇒ Tấm lòng thương yêu con của một người cha nghèo khổ.
+ Trông nom hộ mảnh vườn, khi nào con trai lão về thì giao lại cho nó
+ Mang hết tiền giành dụm nhờ ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu lão
chết đi.
- Nguyên nhân: Ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, không có lối thoát của
mình.
- Mục đích: Bảo toàn tài sản cho con và không muốn phiền hà đến bà con hàng xóm.
- Vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, mắt long sòng sọc, lão tru
tréo, bọt mép sùi ra.... người lão chốc chốc lại giật mạnh....vật vã đến hai giờ đồng hồ
mới chết
⇒ Sử dụng dày đặc và liên tiếp các từ tượng hình, tượng thanh ⇒ Làm nổi bật cái chết
dữ dội, thê thảm đầy bất ngờ của lão Hạc
⇒ Là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống; một
người cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thực, thật thà, giàu lòng tự
trọng.
2. Nhân vật ông giáo
- Có cùng nỗi khổ của sự nghèo túng; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mà mình
yêu quí nhât
- Thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ lão.
- Ông là người hiểu đời hiểu người, có tấm lòng vị tha cao cả
⇒ Ông giáo là người trí thức chân chính, trọng nhân cách, không mất đi lòng tin vào
những điều tốt đẹp ở con người.
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm
- Liên hệ trình bày cảm nhận của bản thân thông qua truyện ngắn này
Các bài viết tham khảo về phân tích truyện ngắn “ Lão Hạc “
Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, từ đó rút ra
ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm.
Bài làm
Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp
cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão
Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão
Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương
đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật
này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái
nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có
những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì
nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng
là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái
đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức
hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất.
Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại
với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém
mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,...
Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được
món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau
má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để
ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn
đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự
tử...! Cái chết của
lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè
lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng
mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân
phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão.
Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng
quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa
nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình
phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão
chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn
cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng
vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến
mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn
quại, đau đớn,... là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó,
lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ
không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để
vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn.
Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu
thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy
tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có
thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay
người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự
giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần
như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả
để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi
ngờ: “"con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời
quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng,
sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách
mảnh vườn di. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà
chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất.
Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được
trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng
còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi
rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định
khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi
lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật
tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi
kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ
dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động,
ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.
Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt
Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh
chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết
của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu
thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa
xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính.
Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn
giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm:
“Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao
quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách
tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi
trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận
định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của
Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng
quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm
hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định
một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó
vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần
hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy
"nhục lắm" đã "phẫn chí" đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa
về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết
làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một
người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy
thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch
sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành
hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất
nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà
vẫn "đói". Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi
tiêu gần hết trong trận ốm!
''Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (...). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta
một tí gì đâu?". Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải
bán con chó. Cậu Vàng "ăn khỏe", mỗi ngày cậu ấy ăn "bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai
hào". Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng "lấy tiền đâu mà nuôi được?" Lão Hạc phải bán
cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục. Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống
đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ "tệ lắm", đã già mà còn "đánh lừa một
con chó". Đói khổ, cô đơn ngày một thêm nặng nề lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn
sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi
sự giúp đỡ của ông giáo một cách "gần như là hách dịch". Lão xem ông giáo là chỗ
dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn
thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra vật vã đến hai giờ
đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!
Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa
nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người
đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang
Rận thắt cổ chết... Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông
giáo: ''... nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?". Câu hỏi
ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.
Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn
vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm.... Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu
đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: "Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã
chụp rồi (...). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?". "Cao su đi dễ khó
về" (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi "bằn bặt" năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong
vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về "có chút vốn
mà làm ăn". Lão tự bảo: "Mảnh vườn là của con ta. Của mẹ nó tậu thì nó hưởng...". Đói
khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết,
thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì
to lớn!
Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người con
trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là "cận Vàng". Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà
giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn.
Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một
miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với
một người thân yêu ruột rà: "Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông
để cậu Vàng ông nuôi...". Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như
con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc
vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó
đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất
hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi
kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.
Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ
cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão
cười hồn hậu và khất "ông giáo cho để khi khác". Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ
chối "một cách gần như hách dịch". Bất đắc đĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau
đớn, lương tâm dằn vặt: "thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó".
Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: "Cái vườn
là của con ta (...). của mẹ nó tậu thì nó hưởng". Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo
mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc để "lỡ có chết gọi là của lão có tí chút...", vì
lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư,
một kẻ "làm nghề ăn trộm" ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm
nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm
thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm
chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão
Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu
tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống
thiết.
Phân tích nhân vật “Ông Giáo” trong truyện ngắn lão hạc
Có nhà phê bình từng nhận định: Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể
hiện một tư tưởng chung, nỗi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị
hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới. Trong truyện ngắn Lão Hạc, ta
bắt gặp những con người với số phận bất hạnh nhưng ở họ vẫn toát lên tấm lòng và
nhân cách cao đẹp, chứa chan tình yêu thương con người. Nhân vật ông giáo đã để lại
trong tâm trí chúng ta ấn tượng về một người tri thức nghèo trong xã hội.
Nhân vật ông giáo vừa đóng vai trò dẫn dắt câu chuyện, vừa làm người tham gia vào
câu chuyện của nhân vật chính, qua đó thể hiện những suy nghĩ, tâm tư của bản thân
ông trước những bão giông của cuộc đời. Không rõ tên họ là gì, nhưng hai tiếng “Ông
giáo” đã toát lên vị thế của ông – một con người nhiều chữ nghĩa và khiến mọi người
đều nể trọng. Lão Hạc mỗi khi nói về ông giáo đều thể hiện sự cung kính, trọng vọng
nhưng cũng thể hiện sự tin tưởng, thân tình “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!”; “Vâng
ông giáo dạy phải...”
Ông giáo có một hoàn cảnh sống đầy những khó khăn. Tuổi trẻ bôn ba, ông từng vào
Sài Gòn với niềm tin và khát khao cao đẹp nhưng cuộc sống không phải là ước mơ
màu hồng với người tri thức nghèo khó. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn về quần áo
bán gần hết, chỉ còn một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo
quí những quyển sách của mình bấy nhiêu. Cái nghèo cứ đeo đẳng mãi. Quý sách là
vậy mà ông giáo cứ phải bán sách dần đi, cuối cùng chỉ còn lại 5 quyển với lời nguyền:
“dù có phải chết cũng không bán”. Thế rồi, như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa
con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo phải bán nốt đi 5 quyển sách. Gia tài nhỏ
nhoi ấy nhưng ông giáo cũng không giữ lại được cho mình. Cuộc sống của ông cứ cùn
dần, mòn dần trước những khốn cùng của cuộc đời, ông phải hi sinh cả những ước
mơ, hạnh phúc của chính bản thân mình.
Thế nhưng, giữa những biến chuyển đầy khổ đau trong cuộc đời, ông vẫn giữ cho
mình nhân cách cao đẹp và là người có trái tim nhân hậu đáng quý. Trở về làng, ông là
chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi cho lão Hạc. Ông giáo luôn cảm thông với hoàn cảnh
của người cha nghèo, cô đơn và tội nghiệp. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ mọi
niềm vui, nỗi buồn. Lão có thể tâm sự mọi chuyện về mảnh vườn, về đứa con trai, san
sẻ nỗi đau khi phải bán cậu Vàng hay có lúc chỉ là sẻ chia một bát nước chè xanh hoặc
điếu thuốc lào… Khi lão Hạc rơi vào tình trạng khốn khổ, ông giáo đã ngấm ngầm giúp
đỡ cho lão, dù gia đình ông cũng rất khó khăn. Ông giáo cũng là chỗ tin tưởng để lão
hạc gửi gắm số tiền ít ỏi, lão dành dụm để để khi lão chết không phải phiền đến hàng
xóm. Có lẽ những đồng cảm về khó khăn trong cuộc sống đã xích họ lại gần nhau hơn,
cảm thông hơn. Một tình bạn giữa những con người khốn khổ thật ấm áp tình người.
Nếu như nhân vật người nông dân trong sáng tác của Nam Cao chịu những nỗi khổ
về vật chất, họ bị đẩy vào bước đường của cái đói, cái nghèo thì những nhân vật tri
thức trong trang văn của ông còn là những dằn vặt, đau đớn về tinh thần. Họ luôn phải
trăn trở trong những suy nghĩ. Chứng kiến cuộc sống của lão Hạc ngày càng khốn khó,
bi thương, ông giáo đã phải thốt lên: “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày trôi qua thật đáng
buồn”. Khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư, ông càng buồn hơn, phải chăng bản
năng đã chiến thắng nhân tính con người. Nhưng trước cái chết của lão Hạc, ông cảm
thấy cuộc đời không hẳn đáng buồn. Cái chết ấy đã chứng minh cho tấm lòng trong
sạch, của lòng tự trọng trước bờ vực của sự tha hóa. Ông giáo ngỡ ngàng nhận thấy
cuộc đời vẫn buồn theo một nghĩa khác, một người tốt như lão Hạc nhưng cuối cùng
vẫn phải tìm đến cái chết để giải thoát cho mình.. Trước cái chết dữ dội của lão Hạc,
ông giáo xót xa, khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành, tội nghiệp:
“Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn
của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão…” Ông cảm thấy bất lực trước những đau thương mà
chính ông và cà lão Hạc phải chịu đựng.
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sâu sắc và tinh tế, Nam Cao đã khắc
họa thành công những diễn biến trong tâm trạng của ông giáo. Có thể coi hình tượng
ông giáo chính là hình bóng của nhà văn Nam Cao. Thông qua nhân vật ông giáo,
người đọc như hiểu hơn về cuộc đời và số phận của lão Hạc, góp phần tô đậm giá trị
nhân đạo của truyện ngắn thấm đượm tình người.