Professional Documents
Culture Documents
Chu Minh Thu - Hoc Tap Va Trai Nghiẹm Của Jonh Dewey
Chu Minh Thu - Hoc Tap Va Trai Nghiẹm Của Jonh Dewey
MỤC LỤC .
Mục lục………………………………………………………………………………… 1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………….….. 2
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………………. 2
I. TÁC GIẢ ……………………………………………………………………….. 2
1.1 TÁC GIẢ JOHN DEWEY _ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP ...…………… 2
a. TÁC GIẢ JOHN DEWEY……………………………………………. 2
b. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP………………………………………… 3
c. NHỮNG TÁC PHẨM NỔI BẬT..……………………………………. 4
1.2 TỪ KHOÁ (KEYWORD)………………………………………………….. 6
II. NỘI DUNG CỦA THUYẾT ……...…………………………………………… 6
2.1 Bối cảnh giáo dục của nước Mỹ và sự xuất hiện triết học giáo dục J.Dewey 6
2.2 Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Triết học của J.Dewey…. 7
2.3 Triết học và Triết lý giáo dục của Jonh Dewey……………………………. 11
a) Triết học của Jonh Dewey……………………………………………….. 11
b) Triết lý giáo dục của Jonh Dewey……………………………….……… 16
III. ỨNG DỤNG CỦA THUYẾT TRONG HOẠT ĐỘNG DH & GD…………… 18
IV. NHẬN XÉT…………………………………………………….………………. 19
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………….….……... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….…..……… 20
B. NỘI DUNG
I. TÁC GIẢ
1.1 Tác giả John Dewey _ Cuộc đời và sự nghiệp
a. Tác giả John Dewey [5].
Vào năm 1884 sau khi nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Johns Hopkins với luận văn Tâm lý
học của Kant [14]. Được sự giới thiệu của George Sylvester Morris, ông bắt đầu giảng dạy
triết học và tâm lý học tại Đại học Michigan, ông đã giảng dạy ở đó 1884-1888 và 1889-
1894, trừ một năm tại Đại học Minnesota vào năm 1888 [7][12][2].
Tại đó, quan tâm của ông dần dần chuyển từ triết lý của Georg Wilhelm Friedrich
Hegel đến tâm lý học thực nghiệm mới được tiến hành tại Hoa Kỳ bởi G. Stanley Hall và
nhà triết học thực dụng và tâm lý học William James. Nghiên cứu sâu hơn về tâm lý trẻ em
thúc đẩy Dewey phát triển một triết lý giáo dục mà sẽ đáp ứng nhu cầu của một xã hội dân
chủ thay đổi. [12].
Năm 1894 tới năm 1904, ông tham gia giảng dạy triết học tại Đại học Chicago. Ông trở
thành trưởng khoa triết học, tâm lý học, và phương pháp sư phạm tại Đại học Chicago [7].
Nơi ông phát triển thêm các phương pháp sư phạm tiến bộ của mình trong trường phòng thí
nghiệm của trường đại học [12]. Trong 10 năm làm Trưởng khoa và sống ở Chicago.
Năm 1904 Dewey rời Chicago tới Đại học Columbia ở thành phố New York, nơi ông
đã dành phần lớn sự nghiệp của mình và viết nổi tiếng nhất triết lý công việc, kinh nghiệm
và Thiên nhiên(1925) của ông. Các chủ đề chung cơ bản triết lý của Dewey là niềm tin của
ông rằng một xã hội dân chủ của người tìm hiểu thông tin và tham gia là phương tiện tốt
nhất thúc đẩy quyền lợi của con người [12].
Năm 1899, John Dewey được bầu làm chủ tịch của Hiệp hội tâm lý Mỹ và ông trở
thành chủ tịch của Hiệp hội Triết học Mỹ vào năm 1905. Dewey giảng dạy tại Đại học
Columbia từ năm 1905 cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1929, và thỉnh thoảng dạy như
giáo sư danh dự cho đến năm 1939 [4].
Ngày 01 tháng sáu năm 1952, John Dewey, một người ủng hộ lâu dài của cải cách
giáo dục và bảo vệ quyền lợi cho ngày đàn ông, chết vì viêm phổi ở tuổi 92 trong căn hộ của
thành phố New York của vợ chồng ông [9]. Dewey đã xuất bản hơn 1.000 mảng của các tác
phẩm trong suốt cuộc đời của mình [8].
Mặc dù Dewey được biết đến với những ấn phẩm của ông về giáo dục, ông cũng đã
viết về nhiều chủ đề khác, bao gồm cả nhận thức luận, siêu hình, thẩm mỹ, nghệ thuật,
logic, lý thuyết xã hội và đạo đức. Ông là một nhà cải cách giáo dục lớn trong thế kỷ 20 [5].
Hoạt động của Trường Thực nghiệm giáo dục đã giúp cho J.Dewey có được những
tư liệu cần thiết để viết nên những tác phẩm quan trọng về giáo dục, đầu tiên là “Trường học
và xã hội” (The School and Society, 1899) và sau đó là Trẻ em và chương trình học (1902).
Đây là hai tác phẩm đã trình bày và chứng minh cho những nguyên lý chủ yếu của triết lý
giáo dục do ông khởi xướng. Theo những nguyên lý này, chương trình giáo dục phải bắt đầu
bằng và được xây dựng theo những lợi ích của trẻ; phải tạo ra và củng cố sự tương tác giữa
tư duy và hoạt động thực tiễn trong lớp học của trẻ; thầy giáo phải là người hướng dẫn, là
người cộng tác với học sinh thay vì làm người đốc công thường xuyên đưa đến cho học sinh
một đống bài học và bài học thuộc lòng có sẵn; và mục tiêu của trường học là sự trưởng
thành của trẻ em trên mọi phương diện [14].
Giai đoạn 3:
Về sau, những ý tưởng này đã được J.Dewey triển khai sâu hơn, khái quát hơn
trong Dân chủ và giáo dục (Democracy and Education, 1916) - tác phẩm được chính ông
khẳng định là cuốn sách tổng kết đầy đủ nhất “toàn bộ quan điểm triết học” của mình.
Năm 1904, do một số mâu thuẫn trong nội bộ ban quản lý nhà trường, một số người đã đấu
tranh đòi quyền quản lý trường Thực nghiệm giáo dục do J.Dewey làm hiệu trưởng. Xét cho
cùng, ngôi trường này cũng không phải của J.Dewey và đồng nghiệp của ông, mà thuộc Đại
học Chicago. Trước sự kiện này, J.Dewey đã từ chức và ngay lập tức về làm việc tại Đại
học Columbia, New York để tiếp tục sự nghiệp giáo dục của mình cho đến cuối đời. Trường
thực nghiệm bị đóng cửa. Năm 1929, ông về hưu. Năm 1931, ông được phong chức danh
III. ỨNG DỤNG CỦA THUYẾT TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC
John Dewey là một người ủng hộ mạnh mẽ cho cải cách giáo dục tiến bộ. Ông tin
rằng giáo dục phải dựa trên các nguyên tắc của việc học thông qua làm.
Vào năm 1894, Dewey và vợ Harriet bắt đầu học tiểu học thực nghiệm của mình, các
trường tiểu học Đại học tại Đại học Chicago. Mục tiêu của ông là để kiểm nghiệm lý thuyết
giáo dục của mình, nhưng Dewey từ chức khi chủ tịch trường đại học bắn Harriet.
Năm 1919, John Dewey, cùng với các đồng nghiệp của ông Charles Beard, Thorstein
Veblen, James Harvey Robinson và Wesley Clair Mitchell, thành lập Trường mới cho
nghiên cứu xã hội. The New School là một trường thực nghiệm tiến nhằm nhấn mạnh sự tự
do trao đổi ý tưởng trí tuệ trong nghệ thuật và khoa học xã hội.
Trong thập niên 1920, Dewey giảng về cải cách giáo dục tại các trường học trên toàn
thế giới. Ông đặc biệt ấn tượng bởi các thí nghiệm trong hệ thống giáo dục Nga và chia sẻ
những gì ông học được với các đồng nghiệp của ông khi ông trở về Hoa kỳ: rằng giáo dục
nên tập trung chủ yếu vào sự tương tác của sinh viên với hiện tại. Tuy nhiên Dewey không
bỏ qua những giá trị cũng tìm hiểu về quá khứ.
Trong những năm 1930, sau khi ông nghỉ việc, Dewey đã trở thành một thành viên
tích cực của nhiều tổ chức giáo dục, bao gồm giáo viên New York Guild và Liên đoàn Quốc
tế về Tự do học thuật [8].
C. KẾT LUẬN
Triết học giáo dục của Jonh Dewey nói riêng và triết học phương tây nói chung đã có
những đóng góp không nhỏ cho các nước trên thế giới trong công cuộc cải cách giáo dục.
Đối với Việt Nam hiện nay, công cuộc đổi mới giáo dục đang trên đà chuyển mình mạnh
mẽ, và triết học giáo dục của Jonh Dewey cũng từng bước có ảnh hưởng tới nền giáo dục
của nước ta để hướng đến phát triển con người theo phương châm dân chủ, hiệu quả, nhân
bản.