Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VIỆN SƯ PHẠM KỸ THUẬT

BÁO CÁO MÔN HỌC


LÝ THUYẾT HỌC TẬP VÀ MÔ HÌNH DẠY HỌC

Chủ đề: HỌC TẬP VÀ TRẢI NGHIỆM CỦA JONH DEWEY


(Theory of experience or learning by doing )
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Họ và tên học viên: CHU MINH THU

Tháng 12 năm 2016


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH

MỤC LỤC .

Mục lục………………………………………………………………………………… 1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………….….. 2
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………………. 2
I. TÁC GIẢ ……………………………………………………………………….. 2
1.1 TÁC GIẢ JOHN DEWEY _ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP ...…………… 2
a. TÁC GIẢ JOHN DEWEY……………………………………………. 2
b. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP………………………………………… 3
c. NHỮNG TÁC PHẨM NỔI BẬT..……………………………………. 4
1.2 TỪ KHOÁ (KEYWORD)………………………………………………….. 6
II. NỘI DUNG CỦA THUYẾT ……...…………………………………………… 6
2.1 Bối cảnh giáo dục của nước Mỹ và sự xuất hiện triết học giáo dục J.Dewey 6
2.2 Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Triết học của J.Dewey…. 7
2.3 Triết học và Triết lý giáo dục của Jonh Dewey……………………………. 11
a) Triết học của Jonh Dewey……………………………………………….. 11
b) Triết lý giáo dục của Jonh Dewey……………………………….……… 16
III. ỨNG DỤNG CỦA THUYẾT TRONG HOẠT ĐỘNG DH & GD…………… 18
IV. NHẬN XÉT…………………………………………………….………………. 19
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………….….……... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….…..……… 20

Học viên CHU MINH THU Trang 1


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
John Dewey là một triết gia, nhà tâm lý học, nhà giáo dục, nhà phê bình xã hội và
nhà hoạt động chính trị người Mỹ. Ông là người sáng lập của phong trào triết học được gọi
là chủ nghĩa thực dụng, một người tiên phong trong lĩnh vực tâm lý học chức năng, và một
nhà lãnh đạo của phong trào tiến bộ trong giáo dục tại Hoa Kỳ [4][7]. Các ý tưởng của ông
có ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và cải cách xã hội. Ông là một đại diện tiêu biểu của trào
lưu tân giáo dục (progressive education) và chủ nghĩa tự do. Với việc ủng hộ cho dân chủ,
Dewey coi hai thành tố nền tảng - nhà trường và xã hội dân sự - là hai chủ đề cần được quan
tâm và xây dựng lại nhằm khuyến khích trí thông minh trải nghiệm (experimental
intelligence) [7].

B. NỘI DUNG
I. TÁC GIẢ
1.1 Tác giả John Dewey _ Cuộc đời và sự nghiệp
a. Tác giả John Dewey [5].

Họ tên: John Dewey


Ngày sinh: Ngày 20 tháng 10 năm 1859, Burlington, Vermont, Hoa Kỳ
Ngày mất: Ngày 01 tháng 6 năm 1952 (92 tuổi), New York, Hoa Kỳ
Học vấn: Đại học Vermont (1879), Đại học Johns Hopkins
Tôn giáo: Chủ nghĩa nhân văn thế tục
Lĩnh vực: Triết học phương Tây
Trường phái: Chủ nghĩa thực dụng
Tổ chức: Đại học Michigan, Đại học Chicago, Phòng học thí nghiệm trường Đại
học Chicago, Đại học Columbia
Sở thích: Triết học giáo dục, nhận thức luận, báo chí, đạo đức
Đáng chú ý : Tư duy phản chiếu
Chịu ảnh hưởng: William James, Jean-Jacques Rousseau
Ảnh hưởng bởi: Plato, Locke, Rousseau, Kant, Hegel, Peirce, James, Ladd,
George · Ward, Wundt, Parker.
Chịu ảnh hưởng: Veblen, B.R. Ambedkar, Santayana, Kaplan, HuShih , Hook, Greene,
Richard McKeon, Putnam, Chomsky, Habermas, Rorty, West , Park ,
Durkheim, Herbert Schneider
Bạn đời : Harriet Alice Chipman và Roberta Lowitz Grant

Học viên CHU MINH THU Trang 2


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
b. Cuộc đời và sự nghiệp
J.Dewey sinh ngày 20 tháng 10 năm 1859 trong một gia đình bình thường tại thành phố
Burlington, Vermont. Tại đây, Dewey đã phải trải qua một nền văn hóa Thánh giáo New
England nghiêm khắc cùng với lối giáo dục chuyên chế, mà sau này ông mô tả là " cảm giác
bị đàn áp đau đớn" [7].
John Dewey theo học trường công Burlington, như một học sinh xuất sắc. Khi mới 15
tuổi ông được giáo dục tại Đại học Vermont, nơi ông đặc biệt thích học triết học dưới sự
giám hộ của H.A.P. Torrey. Bốn năm sau đó, Dewey tốt nghiệp Đại học Vermont xếp thứ
hai trong lớp học của mình [8]. Ông nhận bằng cử nhân năm 1879. Sau 2 năm làm giáo viên
ở một trường trung học thuộc Oil City, Pennsylvania và 1 năm tại một trường tiểu học ở một
xã thuộc bang Vermont.
Năm 1882, J.Dewey khi nhận ra là việc làm không thích hợp với mình. Được giáo sư
H. A. Torrey của Đại học Vermont khuyến khích, J.Dewey vay hai nghìn đô la để vào học
tại Trường Johns Hopkins, ông tiếp tục theo học cao học tại Đại học Jonhs Hopkins.
J.Dewey chịu ảnh hưởng rất nhiều từ người thầy này [2].

Vào năm 1884 sau khi nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Johns Hopkins với luận văn Tâm lý
học của Kant [14]. Được sự giới thiệu của George Sylvester Morris, ông bắt đầu giảng dạy
triết học và tâm lý học tại Đại học Michigan, ông đã giảng dạy ở đó 1884-1888 và 1889-
1894, trừ một năm tại Đại học Minnesota vào năm 1888 [7][12][2].

Tại đó, quan tâm của ông dần dần chuyển từ triết lý của Georg Wilhelm Friedrich
Hegel đến tâm lý học thực nghiệm mới được tiến hành tại Hoa Kỳ bởi G. Stanley Hall và
nhà triết học thực dụng và tâm lý học William James. Nghiên cứu sâu hơn về tâm lý trẻ em
thúc đẩy Dewey phát triển một triết lý giáo dục mà sẽ đáp ứng nhu cầu của một xã hội dân
chủ thay đổi. [12].

Năm 1894 tới năm 1904, ông tham gia giảng dạy triết học tại Đại học Chicago. Ông trở
thành trưởng khoa triết học, tâm lý học, và phương pháp sư phạm tại Đại học Chicago [7].
Nơi ông phát triển thêm các phương pháp sư phạm tiến bộ của mình trong trường phòng thí
nghiệm của trường đại học [12]. Trong 10 năm làm Trưởng khoa và sống ở Chicago.

Năm 1904 Dewey rời Chicago tới Đại học Columbia ở thành phố New York, nơi ông
đã dành phần lớn sự nghiệp của mình và viết nổi tiếng nhất triết lý công việc, kinh nghiệm
và Thiên nhiên(1925) của ông. Các chủ đề chung cơ bản triết lý của Dewey là niềm tin của
ông rằng một xã hội dân chủ của người tìm hiểu thông tin và tham gia là phương tiện tốt
nhất thúc đẩy quyền lợi của con người [12].

Năm 1899, John Dewey được bầu làm chủ tịch của Hiệp hội tâm lý Mỹ và ông trở
thành chủ tịch của Hiệp hội Triết học Mỹ vào năm 1905. Dewey giảng dạy tại Đại học
Columbia từ năm 1905 cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1929, và thỉnh thoảng dạy như
giáo sư danh dự cho đến năm 1939 [4].

Học viên CHU MINH THU Trang 3


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Dewey đóng góp đến hầu hết mọi lĩnh vực và chủ đề trong triết học và tâm lý học.
Bên cạnh vai trò của mình như là một khởi đầu của cả hai chức năng luận và tâm lý học
hành vi, Dewey là một nguồn cảm hứng lớn cho một số phong trào liên minh đã hình thành
tư tưởng thế kỷ 20, trong đó có chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa tự
nhiên, ngữ cảnh, và quá trình triết lý. Trong hơn 50 năm Dewey là tiếng nói cho một nền
dân chủ tự do và tiến bộ đó đã định hình số phận của nước Mỹ và thế giới. Dewey sánh
ngang với các nhà tư tưởng vĩ đại nhất của giáo dục học, triết học của tâm trí, nhận thức
luận, logic, triết học của khoa học, và lý thuyết xã hội và chính trị. Phương pháp tiếp cận
thực dụng của ông với đạo đức, thẩm mỹ, và tôn giáo cũng vẫn có ảnh hưởng. Tầm vóc của
Dewey được đảm bảo là một trong những nhà triết học hàng đầu thế kỷ 20, cùng với James,
Bradley, Husserl, Russell, Wittgenstein, Heidegger, Sartre, Carnap, và Quine [4].

Ngày 01 tháng sáu năm 1952, John Dewey, một người ủng hộ lâu dài của cải cách
giáo dục và bảo vệ quyền lợi cho ngày đàn ông, chết vì viêm phổi ở tuổi 92 trong căn hộ của
thành phố New York của vợ chồng ông [9]. Dewey đã xuất bản hơn 1.000 mảng của các tác
phẩm trong suốt cuộc đời của mình [8].

c. Những tác phẩm của ông

Mặc dù Dewey được biết đến với những ấn phẩm của ông về giáo dục, ông cũng đã
viết về nhiều chủ đề khác, bao gồm cả nhận thức luận, siêu hình, thẩm mỹ, nghệ thuật,
logic, lý thuyết xã hội và đạo đức. Ông là một nhà cải cách giáo dục lớn trong thế kỷ 20 [5].

Một số tác phẩm nổi bật của John Dewey [4]:


1. Psychology (New York: Harper, 1887; revised, 1889; revised, 1891).
Tâm lý học (New York: Harper, 1887; sửa đổi năm 1889; sửa đổi, 1891).
2. Applied Psychology: An Introduction to the Principles and Practice of
Education, by Dewey and James Alexander McClellan (Boston: Educational Publishing
Company, 1889).
Tâm lý học ứng dụng: Giới thiệu về các nguyên tắc và thực hành Giáo dục, bởi Dewey
và James Alexander McClellan (Boston: Công ty xuất bản Giáo dục, 1889).
3. The Study of Ethics: A Syllabus (Ann Arbor, Mich.: Inland, 1894).
Các nghiên cứu về Đạo đức: Một chương trình học (Ann Arbor, Mich .: nội địa, 1894).
4. The Psychology of Number and Its Applications to Methods of Teaching
Arithmetic, by Dewey and McClellan, International Education Series, volume 33 (New
York: Appleton, 1895; London: Edward Arnold, 1895).

Học viên CHU MINH THU Trang 4


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Tâm lý của số và ứng dụng của nó để Phương pháp giảng dạy Số học, bởi Dewey và
McClellan, International Education Series, khối lượng 33 (New York: Appleton, 1895;
London: Edward Arnold, 1895).
5. The School and Society: Being Three Lectures by John Dewey, Supplemented by a
Statement of the University Elementary School (Chicago: University of Chicago Press,
1899; London: P. S. King, 1900; revised and enlarged edition, Chicago: University of
Chicago Press, 1915; Cambridge: Cambridge University Press, 1915).
Các trường và xã hội: Ba bài giảng hiện nay của John Dewey, Bổ sung bởi một báo cáo
của Trường tiểu học Đại học (Chicago: University of Chicago Press, 1899; London: PS
King, 1900; sửa đổi và phiên bản mở rộng, Chicago: University of Chicago Press, năm
1915; Cambridge: Cambridge University Press, 1915).
6. The Child and the Curriculum (Chicago: University of Chicago Press, 1902).
Các trẻ em và chương trình giảng dạy (Chicago: University of Chicago Press, 1902).
7. Ethics, by Dewey and James H. Tufts (New York: Holt, 1908; London: Bell, 1909;
revised edition, New York: Holt, 1932).
Đạo đức, bởi Dewey và James H. Tufts (New York: Holt, 1908; London: Bell, 1909;
bản sửa đổi, New York: Holt, 1932).
8. How We Think (Boston: Heath, 1910; London: Harrap, 1910); revised as How We
Think, a Restatement of the Relation of Reflective Thinking to the Educative
Process (Boston, New York & London: Heath, 1933; London: Harrap, 1933).
Chúng tôi suy nghĩ như thế nào (Boston: Heath năm 1910; London: Harrap, 1910); sửa
đổi như thế nào Chúng tôi nghĩ, trình bày lại những quan hệ của tư duy phản quang để tiến
trình giáo dục (Boston, New York và London: Heath, 1933; London: Harrap, 1933).
9. Schools of To-Morrow, by John Dewey and Evelyn Dewey (New York: Dutton,
1915; London: Dent, 1915).
Trường học của ngày mai, John Dewey và Evelyn Dewey (New York: Dutton, 1915;
London: Dent, 1915).
10. Democracy and Education: An Introduction to the Philosophy of Education (New
York: Macmillan, 1916; New York: Free Press / London: Collier-Macmillan, 1944).
Dân chủ và giáo dục: Giới thiệu về Triết học Giáo dục (New York: Macmillan, 1916,
New York: Free Press / London: Collier-Macmillan, 1944).

Học viên CHU MINH THU Trang 5


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
11. Experience and Nature (Chicago & London: Open Court, 1925; revised edition,
New York: Norton, 1929; London: Allen & Unwin, 1929).
Kinh nghiệm và Thiên nhiên (Chicago và London: Open Court, năm 1925, phiên bản
sửa đổi, New York: Norton, 1929; London: Allen & Unwin, 1929).
12. Art and Education, by Dewey, Albert C. Barnes, Laurence Buermeyer, and others
(Merion, Pa.: Barnes Foundation Press, 1929; revised and enlarged, 1947; revised and
enlarged, 1954).
Nghệ thuật và Giáo dục, bởi Dewey, Albert C. Barnes, Laurence Buermeyer, và những
người khác (merion, Pa .: Barnes Foundation Press, 1929; sửa đổi và mở rộng năm 1947 đã
được sửa đổi và mở rộng, năm 1954).
13. The Quest for Certainty: A Study of the Relation of Knowledge and Action (New
York: Minton, Balch, 1929; London: Allen & Unwin, 1930).
Tìm kiếm sự chắc chắn: Một nghiên cứu về các quan hệ của kiến thức và hành động
(New York: Minton, Balch, 1929; London: Allen & Unwin, 1930).
14. Art as Experience (New York: Minton, Balch, 1934; London: Allen & Unwin,
1934).
Nghệ thuật cũng như kinh nghiệm (New York: Minton, Balch, 1934, London: Allen &
Unwin, 1934).
15. Knowing and the Known, by Dewey and Arthur F. Bentley (Boston: Beacon, 1949)
Biết và biết đến, bởi Dewey và Arthur F. Bentley (Boston: Beacon, 1949)

1.2 Từ khoá (keyword)


- Experience and Education
- Education philosophy
- Jonh Dewey
- John Dewey's Theories of Education
- Theory of experience
II. NỘI DUNG CỦA THUYẾT
2.1. Bối cảnh giáo dục của nước Mỹ và sự xuất hiện triết học giáo dục J.Dewey.
Nước Mỹ được hình thành từ làn sóng di dân của nhiều nước châu Âu. Sự ra đời của
nước Mỹ được đánh dấu bởi sự kiện công bố bản Tuyên ngôn độc lập–1776. Mỹ là một

Học viên CHU MINH THU Trang 6


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá, đa tôn giáo, đa ngôn ngữ ngay từ buổi đầu lập quốc. Được
dân nhập cư gọi tên là “vùng đất hứa” để thực hiện mục tiêu đổi đời, vì thế, “người Mỹ
mới” tự nhận mình là đã cởi trói khỏi những ràng buộc cha truyền con nối của châu Âu để
trở thành những người tự do, được quyền “tự cai trị” bản thân theo tinh thần “con người tự
lập thân”. Ngay từ thời kỳ thuộc địa, người Mỹ đã đặt kỳ vọng và chú trọng phát triển giáo
dục. Không có một hệ thống giáo dục thống nhất toàn liên bang, giáo dục được xem là lĩnh
vực thuộc về chính quyền địa phương. Tính phi tập trung hoá và trình độ độc lập cao của hệ
thống giáo dục Mỹ tạo cơ hội cho việc phát triển giáo dục phù hợp với yêu cầu của mỗi
cộng đồng. Sự bế tắc của lý thuyết giáo dục “lấy nội dung dạy học là trung tâm” (do
W.T.Harris dẫn đầu) và trào lưu cải cách lãng mạn (do S.Hall khởi sướng) đặt ra một vấn
đề là, tìm ra một phương cách nhằm sửa chữa các khuyết điểm của giáo dục truyền thống
Mỹ. Trong bối cảnh ấy, Dewey nhận thấy, chủ nghĩa nhị nguyên triết học là cơ sở của việc
tháo rời giữa nhà trường và đời sống, người dạy và người học, nội dung tri thức và đời sống
hiện thực. Vì thế, khắc phục chủ nghĩa nhị nguyên là cốt lõi của việc cải cách giáo dục mà
Dewey đã dành nhiều công sức để sáng tạo, thử nghiệm, vận dụng và đúc kết thành hệ
thống triết học giáo dục [2].
2.2. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Triết học của J.Dewey
Về quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết học giáo dục John Dewey, có
thể tóm tắt thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1:
Thời kỳ 1879 - 1884 có thể coi là thời kỳ bắt đầu sự nghiệp triết học của J.Dewey.
Ban đầu ông có dự định theo đuổi sự nghiệp triết học, J.Dewey đã gửi một tiểu luận triêt
học tới W, T. Harris khi đó là biên tập của Journal of Speculative Philosophy (Tập san
Triết học tư biện) và được đăng tại đây. Ông học triết và tâm lý học dưới sự kèm cặp
hướng dẫn của hai giáo sư có ảnh hưởng lớn lâu dài tới John Dewey: George Sylvester
Morris, một chuyên gia về Hegel từng được đào tạo trong nhiều năm tại Đức và G. Stanley
Hall, một trong những nhà tâm lý học thực nghiệm xuất sắc của Mỹ, chủ tịch đầu tiên của
Hiệp hội Tâm lý học Mỹ (American Psychological Association) [2].
Thời kỳ này, dưới sự dẫn dắt của Geogre S.Morris, nhà triết học đã lý tưởng hóa
thuyết Hêghen mới, sau khi đã đọc rất nhiều trước tác triết học, chịu nhiều ảnh hưởng của
Tạp chí Triết học tư biện theo trường phái Saint Louis Mỹ, lại được cổ vũ bởi luận văn triết

Học viên CHU MINH THU Trang 7


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
học Giả định siêu hình học của chủ nghĩa duy vật đăng trên tạp chí này, J.Dewey đã quyết
định theo đuổi sự nghiệp triết học. Khi làm nghiên cứu sinh, J.Dewey cũng chịu ảnh hưởng
sâu sắc tư tưởng triết học của C.Peirce từ các bài giảng và lôgíc học của ông. Trong những
năm làm công việc giảng dạy ở Đại học Michigan, quan điểm triết học của J.Dewey, về cơ
bản, gần với chủ nghĩa Hêghen mới, song cũng đã bắt đầu hình thành những tư tưởng thực
dụng [14].
Ảnh hường ngày càng tăng của sinh học và tâm lý học tiến hóa lên tư duy của ông
khiến ông từ bỏ triết học Hegel - triết học xem ý tưởng phần nào đó phản chiếu trật tự hợp
lý của vũ trụ.
J.Dewey không chỉ say mê nghiên cứu triết học mà còn say mê nghiên cứu tâm lý
học dưới ảnh hưởng Nguyên lý tâm lý học của W.James. Tác phẩm này của W.James đã
buộc ông phải suy nghĩ lại về lôgíc học và đạo đức học bằng cách hướng ông tới chức năng
thực hành của các ý tưởng và khái niệm. Nghiên cứu tâm lý học đã thúc đẩy J.Dewey
nghiên cứu giáo dục học, khi nhận thấy hầu hết các trường học ở Hoa Kỳ khi đó đều đi theo
đường hướng giáo dục đã được thiết định bởi những truyền thống cũ kỹ và không có sự điều
chỉnh theo những khám phá mới nhất của tâm lý học trẻ em và những nhu cầu của một trật
tự xã hội đang biến đổi. Việc tìm kiếm một triết lý giáo dục có thể sửa chữa những khiếm
khuyết ấy đã trở thành mối bận tâm chính đối với J.Dewey và là một chiều kích mới thêm
vào tư duy của ông. Suy tư về vấn đề này, J.Dewey cho rằng, biện pháp sửa chữa tốt nhất là
lấy thực nghiệm giáo dục làm nội dung của việc vận dụng triết học vào đời sống thực tế
[14].
Giai đoạn 2:
Sau 1890, J.Dewey dần chuyển từ chủ nghĩa lý tưởng tuyệt đối của phái Hêghen mới
sang chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa tự nhiên kinh nghiệm. Chịu ảnh hưởng học thuyết
tiến hóa sinh học của Đarwin và tư tưởng thực dụng của W.James, J.Dewey bắt đầu xây
dựng và phát triển lý thuyết về nhận thức luận bỏ qua sự đối lập giữa vật chất và ý thức, tư
duy và hành động và vấn đề cơ bản của triết học trong triết học truyền thống của phương
Tây. Dựa vào tâm lý học chức năng, J.Dewey cho rằng, tư duy không phải là một loạt
những ấn tượng của tri giác hay một “đồ tạo tác” từ cái gọi là “ý thức”, cũng không phải là
biểu hiện của tinh thần tuyệt đối, mà là một phương tiện trung gian được phát triển nhằm
duy trì những lợi ích sống còn của xã hội và lợi ích của con người [14].

Học viên CHU MINH THU Trang 8


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Khẳng định lý thuyết mới về tri thức luôn nhấn mạnh “sự cần thiết phải dùng hành
động để thử nghiệm ý nghĩ, để biến ý tưởng thành tri thức”, J.Dewey tin chắc rằng, lý thuyết
về tri thức của ông cũng không nằm ngoài phạm vi của lý thuyết đó [14].
Hoạt động của J.Dewey trong lĩnh vực giáo dục, một phần nhằm khảo sát những hệ
quả sâu xa của thuyết giáo dục học chức năng mà ông đề xuất và một phần để kiểm nghiệm
những tư tưởng triết học của ông bằng thực nghiệm [14].
J.Dewey đã đề xuất những tư tưởng cơ bản của Thuyết công cụ như những nguyên
lý, khái niệm thực dụng làm nền tảng cho học thuyết về giáo dục và đã bắt đầu hình dung ra
mô hình trường học phù hợp với những nguyên lý đó [14].
Thời kỳ này, J.Dewey đã tập hợp quanh mình một số người cùng chí hướng (bao
gồm cả những người ở Trường Đại học Michigan) đã hình thành nên trường phái Chicago
của Chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Ông gọi đó là “Tuyên ngôn số 1” của Chủ nghĩa công cụ. Đây
là tiêu chí chứng tỏ J.Dewey đã dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa Hêghen trẻ, chuyển sang chủ
nghĩa thực dụng. Năm 1903, W.James đã nồng nhiệt chào mừng sự kiện này, khi ông đọc
tập khảo luận của J.Dewey và các trợ giảng của J.Dewey - Các khảo cứu trong lý thuyết
lôgic, bằng lời tuyên bố: “Một trường phái triết học mới - Trường phái Chicago - đã chính
thức ra đời” [14].
Từ lý thuyết công cụ, J.Dewey và các đồng nghiệp đã tiến hành các chương trình
nghiên cứu và họ đã đi xa hơn W.James ở chỗ coi các ý tưởng, khái niệm như là những
dụng cụ, công cụ để biến sự băn khoăn vì những vấn đề thành sự thỏa mãn vì tìm ra các biện
pháp hay làm sáng tỏ vấn đề [14].
Cũng trong thời kỳ này, tháng Giêng năm 1896, J.Dewey cùng vợ và các đồng
nghiệp đã thành lập Trường Thực nghiệm giáo dục thuộc Đại học Chicago (Chicago
Laboratory School of Education) do chính ông làm hiệu trưởng. Tại đây, ông đã thử nghiệm
một bầu không khí học tập khoáng đạt và sáng tạo, loại bỏ phương pháp học tập theo lối
truyền thống và khuyến khích sự tham gia sáng tạo của học sinh theo những kế hoạch xác
định.
Đây là trường học đầu tiên của Mỹ xác định “Trẻ em là trung tâm” và lấy đó làm chủ
trương cho hoạt động giáo dục của nhà trường. Điểm khác biệt của trường này là trong
chương trình giáo dục không quá coi trọng lý thuyết, mà coi trọng việc tiếp cận với đời sống
thực tế, không chú trọng kiến thức lý luận, mà chú trọng rèn luyện kỹ năng với tinh thần:

Học viên CHU MINH THU Trang 9


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
trong quá trình hoạt động, những kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức sẽ hình thành. Hai khẩu
hiệu: “Giáo dục là đời sống, chứ không phải chuẩn bị cho đời sống” và “Vừa làm vừa học”
mà J.Dewey đưa ra cho trường này đã được khái quát thành phương pháp dạy học của ông
[14].

Hoạt động của Trường Thực nghiệm giáo dục đã giúp cho J.Dewey có được những
tư liệu cần thiết để viết nên những tác phẩm quan trọng về giáo dục, đầu tiên là “Trường học
và xã hội” (The School and Society, 1899) và sau đó là Trẻ em và chương trình học (1902).
Đây là hai tác phẩm đã trình bày và chứng minh cho những nguyên lý chủ yếu của triết lý
giáo dục do ông khởi xướng. Theo những nguyên lý này, chương trình giáo dục phải bắt đầu
bằng và được xây dựng theo những lợi ích của trẻ; phải tạo ra và củng cố sự tương tác giữa
tư duy và hoạt động thực tiễn trong lớp học của trẻ; thầy giáo phải là người hướng dẫn, là
người cộng tác với học sinh thay vì làm người đốc công thường xuyên đưa đến cho học sinh
một đống bài học và bài học thuộc lòng có sẵn; và mục tiêu của trường học là sự trưởng
thành của trẻ em trên mọi phương diện [14].
Giai đoạn 3:
Về sau, những ý tưởng này đã được J.Dewey triển khai sâu hơn, khái quát hơn
trong Dân chủ và giáo dục (Democracy and Education, 1916) - tác phẩm được chính ông
khẳng định là cuốn sách tổng kết đầy đủ nhất “toàn bộ quan điểm triết học” của mình.
Năm 1904, do một số mâu thuẫn trong nội bộ ban quản lý nhà trường, một số người đã đấu
tranh đòi quyền quản lý trường Thực nghiệm giáo dục do J.Dewey làm hiệu trưởng. Xét cho
cùng, ngôi trường này cũng không phải của J.Dewey và đồng nghiệp của ông, mà thuộc Đại
học Chicago. Trước sự kiện này, J.Dewey đã từ chức và ngay lập tức về làm việc tại Đại
học Columbia, New York để tiếp tục sự nghiệp giáo dục của mình cho đến cuối đời. Trường
thực nghiệm bị đóng cửa. Năm 1929, ông về hưu. Năm 1931, ông được phong chức danh

Học viên CHU MINH THU Trang 10


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Giáo sư danh dự của Đại học Columbia. Hoạt động sau đó của J.Dewey vẫn lấy Đại học
Columbia làm trung tâm. Đây là thời kỳ chủ nghĩa thực dụng hưng thịnh nhất [2].
Về những đóng góp của J.Dewey về triết học, chúng ta có thể coi ông là người đã
hoàn thiện và đưa Chủ nghĩa thực dụng vào đời sống thực tiễn của nước Mỹ một cách phổ
biến. Báo The New York Times ngày 3 tháng 3 năm 1925, trong mục điểm sách, khi giới
thiệu tác phẩm Kinh nghiệm và tự nhiên (Experience and Nature) của J.Dewey đã khẳng
định: “Không phải ai cũng có thể hiểu được triết học của ông, nhưng hầu như ai cũng ắt
phải thực hành triết học của ông trong một chừng mực nào đó” [6].
2.3. Triết học và Triết lý giáo dục của Jonh Dewey
a) Triết học của Jonh Dewey
Thực dụng luận, nền triết học đặc biệt của Hoa Kỳ là sản phẩm của một xã hội được
đặc trưng không chỉ bởi tính dân chủ mà còn bởi một nền kinh tế tự do chưa từng có trong
lịch sử, … trong khi nó vẫn gắn liền với truyền thống duy lý phương Tây. Chính những đặc
điểm này, bằng cách nào đó, đã thúc đẩy Charles Peirce và Wiliam James và sau đó là Jonh
Dewey từ bỏ siêu hình học và việc đề cao sự hữu ích và tính hiệu quả - nhứng ý tưởng chính
của Thực dụng luận. Thực dụng luận được thể hiện một cách xuất sắc qua triết lý giáo dục
của Jonh Dewey với nhiều tác phẩm: Trường học và xã hội, Cách chúng ta nghĩ, Kinh
nghiệm và giáo dục, Dân chủ và giáo dục… trong đó, ông chủ trương một nền giáo dục gắn
liền lý thuyết với thực tiễn [2].
Theo John Dewey “Giáo dục chính là bản thân cuộc sống” (Education is life itself)
Xuất phát từ quan điểm sự sống được khôi phục bằng truyền dạy, Dewey nhận thức
rằng một xã hội sẽ không thể tồn tại nếu không có quá trình dạy và học. Ông cho rằng nhà
trường chỉ là phương tiện nếu đem so sánh với các môi trường học tập khác thì nó tương đối
hời hợt. Ống viết: Chỉ khi nào chúng ta hiểu được rằng, ngoài nhà trường ra, còn có những
phương thức học tập khác – chúng có tính cơ bản và diễn ra liên tục hơn – khi đó chúng ta
mới có thể đánh giá đúng vai trò của các phương thức học tập thông qua nhà trường
Ông khẳng định xã hội đang tồn tại trong tiến trình truyền dạy, trong sự truyền đạt.
Nếu không có hệ thống giáo dục thì con người không thể lưu truyền các tri thức khoa học.
Có hai phương thức giáo dục: Giáo dục ngoài nhà trường (quan sát bắt chước) và giáo dục
trong nhà trường (dễ trở thành viển vông, khô cứng).

Học viên CHU MINH THU Trang 11


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Ông kết luận: “Một trong những vấn đề lớn nhất của triết lý giáo dục là phải tìm ra
cách duy trì sự cân bằng giữa giáo dục không chính thức và giáo dục chính thức - tức là
giữa phương thức giáo dục mang tính ngẫu nhiên và phương thức giáo dục có chủ đích rõ
ràng.” [2].
Jonh Dewey đã nhìn nhận tính giáo dục trong môi trường xã hội và môi trường đặc
biệt là nhà trường. Thông qua môi trường xã hội con người có được sự hiểu biết nhất định
nhưng chỉ dừng ở cấp độ thấp. Thông qua môi trường đặc biệt là nhà trường tính giáo dục
diễn ra liên tục, ở đó người lớn kiểm soát được kiểu giáo dục đối với trẻ thông qua kiểm
soát môi trường hoạt động và môi trường suy tư cảm xúc của trẻ [2].
Theo ông một chức năng quan trọng của nhà trường là điều hoà các ảnh hưởng của
môi trường xã hội khác nhau ở bên trong xu hướng nhân cách của mỗi cá nhân khi cá nhân
ấy tham gia vào các môi trường đó. Ông cho rằng: “khi trẻ tham gia dần dần vào hoạt động
của các nhóm xã hội khác nhau, khi đó vô tình xuất hiện sự đào tạo có tính giáo dục sâu sắc
và mật thiết hơn tới tính cách của chúng” [2].
Ông phê phán cách giáo dục hấp thu thụ động đang xảy ra trên thế giới lúc bấy giờ và
khẳng định nguyên lý giáo dục là một quá trình năng động và kiến tạo[2]. Jonh Dewey nêu
ra minh chứng cho lý do thất bại của nguyên lý coi giáo dục là sự chuẩn bị cho tương lai.
[2].
Nhà trường không phải là nơi được xây dựng để làm chỗ cho trẻ em đến đó học. Nhà
trường chính là môi trường sống của ngày hôm nay. Không có sự tháo rời giữa nhà trường
và cuộc đời thực bên ngoài. Ông viết: "Nếu tôi được yêu cầu đặt tên cần thiết nhất của tất cả
các cải cách theo tinh thần giáo dục tôi nên nói: “ Chấm dứt thụ thai về giáo dục như chỉ để
chuẩn bị cho cuộc sống sau này, và làm cho nó đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống hiện tại" (The
Philosophical Review, Vol.2, No.6, 1893: Tạp chí Triết học, Tập 2, Số 6, Tháng 11 năm
1983) [2].
Khi viết về giáo dục xét ở góc độ bộc lộ, Jonh Dewey đã chỉ ra những thiếu sót trong
quan niệm của Hegel và Foebel về nguyên lý trọn vẹn: Phát triển được coi là sự làm bộc lộ
dần và thể hiện ra bên ngoài cái đuọc bọc bên trong. Ông có đề cập tới khái niệm cơ thể
sống và kết luận “một lần nữa, trong lĩnh vực giáo dục, đây lại là một khái niệm đồng nghĩa
với việc áp đặt từ bên ngoài thay vì tăng trưởng” [2].

Học viên CHU MINH THU Trang 12


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Khi viết về giáo dục ở góc độ huấn luyện các khả năng Jonh Dewey phê phán quan
niệm của Locke, ông minh chứng rằng:
- Huấn luyện không thể làm cho các hành động mang đặc tính trí tuệ.
- Huấn luyện được đồng nhất với phản ứng có chọn lọc
- Sự điều chỉnh lẫn nhau giữa phản ứng và kích thích càng chuyên biệt hoá
thì việc huấn luyện càng cứng nhắc
- Điểm hạn chế của thuyết nhị nguyên: tách hoạt động và năng lực ra khỏi
nội dung.
- Các năng lực là các kết quả có tổ chức của việc các khuynh hướng bẩm
sinh năng động đã chiếm lĩnh các nội dung nào đó.
Ông viết: “Quan niệm coi kết quả của quá trình giáo dục là khả năng tiếp tục giáo
dục nhiều hơn nữa, là quan niệm tương phản với một số quan niệm khác từng làm ảnh
hưởng sâu sắc tới thực tiễn (giáo dục)” [2].
Bên cạnh đó Jonh Dewey vạch ra khiếm khuyết trong lý luận của Hegel ở chỗ cố tình
bỏ qua sự tồn tại của các hoạt động năng động cụ thể ở một con người – chúng hình thành
trong qua trình người ấy tái điều khiển và kết hợp các hoạt động của mình trước sự ảnh
hưởng của môi trường. Theo ông sự đào tạo không chỉ là một sự đào tạo của các hoạt động
bản năng, nó còn diễn ra dựa vào các hoạt động bản năng. Nó là quá trình kiến tạo, tái tạo tổ
chức. Ông đưa ra một định nghĩa mang tính chuyên môn về giáo dục: “Sự tái kiến tạo hoặc
tái tổ chức lại kinh nghiệm để làm tăng thêm ý nghĩa cho kinh nghiệm, và nâng cao năng
lực điều khiển tiến trình của kinh nghiệm xảy ra sau đó” [2].
Ông liên tục khẳng định trong các lập luận của mình về vấn đề giáo dục là quá trình
kiến tạo, phân biệt với các khái niệm: giáo dục là sự chuẩn bị cho tương lai xa vời, là sự bộ
lộ, là sự đào tạo từ bên ngoài và là sự lặp lại quá khứ.
Jonh Dewey phát biểu một số đặc trưng trong mục tiêu của giáo dục:
- Mục tiêu giáo dục phải được căn cứ trên hoạt động và nhu cầu bên trong (
bao gồm cả các bản năng bẩm sinh và các thói quen tập nhiễm) của cá nhân cụ thể đang
chịu sự giáo dục.
- Mục tiêu giáo dục phải được chuyển thành phương pháp hợp tác với các
hoạt động của người học

Học viên CHU MINH THU Trang 13


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
- Người làm giáo dục cần cảnh giác trước những mục đich được cho là
mang tính tổng quát và cơ bản
Một mục tiêu đích thực thì bao giờ cũng khác hẳn với một mục tiêu được áp đặt từ
bên ngoài lên tiến trình hành động [2].
Như vậy Dewey đã nhấn mạnh tới vị trí, vai trò của người được giáo dục ngay trong
mục tiêu giáo dục.
Khi xem xét đến bản chất và tư duy, về bản chất của kinh nghiệm Jonh Dewey rút ra
hai kết luận:
- Trên hết, kinh nghiệm là sự việc mang tính chủ động – thụ động, nó trước
hết không mang tính nhận thức.
- Song, thước đo giá trị của một kinh nghiệm lại nằm ở việc nhận ra các
mối quan hệ hoặc tính liên tục mà kinh nghiệm nhắm tới. Việc nhận thấy
này có thể biến thành sự nhận thức nếu như nó mang tính kế thừa hoặc
hoàn hoàn thành một điều gì đó xảy ra trước đó, tức sự nhận ra đó mang ý
nghĩa gì.
Dewey cũng đưa ra những phân tích của mình về thuyết nhị nguyên khi tách rời thể
xác với tinh thần. Ông đưa ra các bước tư duy:
Phán đoán vấn đề  Quan sát các điều kiện  Dùng lý trí để hình thành và
xây dựng một kết luận đề xuất  Chủ động thực hiện để thử nghiệm kết luận đó.
Từ đó ông tiếp tục đưa ra các yếu tố thiết yếu của phương pháp:
Một là, kinh nghiệm
Hai là, để giải quyết khó khăn cụ thể khi nó xuất hiện buộc phải có những dữ kiện
trợ giúp cho suy nghĩ.
Ba là, trong tư duy, cái tương quan với sự kiện, dữ liệu, kiến thức đã học là ý niệm.
Bốn là, ý niệm dù đó là những phỏng đoán tầm thường hay những lý luận có giá trị
đều là những dữ liệu về các giải pháp có thể xảy ra.
Từ đây ông đưa ra 5 phương diện của tư duyquy trình sư phạm:
- Học sinh phải được giới thiều một tình huống có thực của kinh nghiệm
- Học sinh phải được giới thiệu một vấn đề có thực đang diễn ra bên trong
tình huống
- Học sinh phải sở hữu kiến thức và thực hiện những quan sát cần thiết

Học viên CHU MINH THU Trang 14


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
- Học sinh phải tìm ra những giải pháp gợi ý và phải chịu trách nhiệm khai
triển các giải pháp ấy một cách có trình tự
- Học sinh phải có cơ hội và lý do để thử thách các khái niệm dựa vào sự
vận dụng để làm rõ ý nghĩa của từng khái niệm ấy và tự mình khám phá
tính căn cứ vững chắc của chúng.
Như vậy, đối với giáo dục trong nhà trường ông tiếp tục nhấn mạnh vị trí của học
sinh trong quy trình sư phạm của mình hay nói khác đi là vai trò trung tâm của học sinh đã
trở nên rõ ràng hơn. Với ông việc đưa học sinh đối mặt với một vấn đề có thực trong xã hội
buộc họ giải quyết vấn đề đó bằng mọi khả năng của mình để đạt được kết quả chính là việc
học. Thông qua các hoạt động của mình họ đã lĩnh hội tri thức một cách tự nhiên – Đây
chính là việc học thông qua trải nghiệm.
Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống, nhà trường không thể tách rời khỏi hoạt
động thực tiễn, và kiến thức không thể được áp đặt từ bên ngoài. Vì giáo dục chính là bản
thân cuộc sống, không thể có một thứ giáo dục chung cho tất cả mọi người. Người thầy phải
có ý thức rõ và tôn trọng sự khác biệt giữa các học sinh. Vì giáo dục chính là bản thân cuộc
sống, nó phải là quá trình của người học chứ không phải của người dạy. Giáo dục là quá
trình mà người học là trung tâm [2].
Ông cho rằng học tập là hoạt động và sự giáo dục ở nhà trường rất dài và hạn chế. Ý
tưởng của ông là để trẻ em đến trường làm việc và sống trong một cộng đồng thật mà đã cho
họ kinh nghiệm, hướng dẫn bồi dưỡng năng lực của mình để đóng góp cho xã hội. Triết lý
giáo dục của Dewey đã giúp các phong trào "giáo dục tiến bộ", và sinh ra sự phát triển của
các chương trình và các thí nghiệm "giáo dục thực nghiệm" [17].
Theo ông nhà trường chính là môi trường sống, là đời sống cộng đồng, cho
nên không được tháo rời giữa nhà trường và xã hội, ông viết “sản phẩm cao quý nhất của
nhà trường là ở chỗ nhà trường tạo ra khuynh hướng học hỏi từ bản thân đời sống và nó
cung cấp điều kiện sống nào đó để tất cả mọi người sẽ học trong quá trình họ đang sống”
[2].
Bàn luận về các khía cạnh nghề nghiệp của giáo dục, ông viết: vấn đề không phải
biến nhà trường thành một cái thêm vào nền sản xuất và thương mại, mà vấn đề là sử dụng
các yếu tố của nền công nghiệp để làm đời sống của nhà trường trở nên năng động hơn,
mang ý nghĩa trực tiếp hơn, có liên hệ mật thiết hơn với kinh nghiệm bên ngoài nhà trường.

Học viên CHU MINH THU Trang 15


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
Như vậy Dewey chỉ rõ sự liên hệ cần thiết giữa một xã hội đang vận động chuyển mình với
giáo dục trong nhà trường.
Đối với Dewey, điều quan trọng sống còn là giáo dục không phải là truyền dạy
những sự kiện đã chết, mà là những kỹ năng và kiến thức mà sinh viên tiếp nhận được hòa
trộn hoàn toàn vào đời sống của họ với tư cách một công dân và một con người. Tại
Trường Sư phạm Thực hành đo Dewey và Alice vợ ông quản lý, trẻ em được học nhiều về
hóa học, vật lý và sinh vật học cơ bản bằng cách xem xét những tiến trình tự nhiên xảy ra
trong khi nấu bữa điểm tâm - một hoạt động mà bọn trẻ tiến hành trong lớp học của chúng.
Yếu tố thực hành này - học bằng cách làm - bắt nguồn từ sự tán thành trường phái triết học
thực dụng [3].
Dewey bị hấp dẫn bởi các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Vững cam kết về một
triển vọng dân chủ, trường học của ông được coi là một trường học trong phòng thí nghiệm
để thử nghiệm ý niệm của ông rằng giáo dục có thể tích hợp học tập với kinh nghiệm.
Trường tiểu học, đại học hoặc trường học trong phòng thí nghiệm được thiết lập bởi Dewey
đã tăng một cách nhanh chóng. Cha mẹ bị thu hút bởi một chương trình giảng dạy nhấn
mạnh các con thay vì đối tượng, nơi mà quá trình học tập đã được ít nhất cũng quan trọng
như những gì đã học, và nơi mà sự tò mò đã được khuyến khích [13].
Giáo dục thông qua kinh nghiệm hình thành nền tảng của chương trình học trong
phòng thí nghiệm. Học sinh học được các kỹ năng thực tế từ dệt cho đến chế biến gỗ cho
đến điêu khắc. Khoa học đã làm chủ trong vườn cũng như làm tốt trong các lớp học, nơi hố
cát cung cấp cơ hội cho các thí nghiệm cá nhân trong địa hình và xói mòn [13].
Triết học giáo dục của John Dewey chỉ ra được những hạn chế của thuyết nhị nguyên
trong giáo dục truyền thống; xem hoạt động học tập là một quá trình năng động có kiến tạo
của người học trên cơ sở thực nghiệm khoa học và kinh nghiệm; đề cao vai trò của nhà
trường trong việc đào tạo ra những chủ thể có tri thức, kỹ năng sống, năng lực làm việc, biết
phán đoán cơ hội và có phản ứng chủ động, tích cực trước hoàn cảnh sống; xem xét mục
tiêu giáo dục trong mối quan hệ với các quá trình, giá trị xã hội. [16].

b) Triết lý giáo dục của Jonh Dewey


Theo Jonh Dewey quan niệm: “Giáo dục được thấy như là một quá trình khôi phục
các ý nghĩa của kinh nghiệm dựa vào một quá trình truyền dạy, quá trình này phần nào xảy
ra ngẫu nhiên trong các mối quan hệ thân thiện hoặc trao đổi bình thường giữa ngừoi lớn

Học viên CHU MINH THU Trang 16


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
và trẻ em, phần nào được tổ chức một cách có chú tâm nhằm duy trì tính liên tục của xã hội.
Quá trình này được quan niệm là bao hàm sự kiểm soát và tăng trưởng của cá nhân non nớt
lẫn nhóm mà nó là thành viên” mang tính hình thức ở chỗ nó không tính đế đặc tính của
nhóm xã hội tức loại xã hội tự duy trì sự tồn tại của nó dựa vào giáo dục. Theo ông các
nhóm xã hội mang tính tiến bộ một cách có chủ đích nhắm tới những mối quan tâm được
chia sẻ chung ngày càng đa dạng, tương phản lại với nhóm xã hội nhắm tới sự duy trì các
tập quán cố định. Các nhóm xã hội đó đuọc coi là mang đặc tính dân chủ , bởi nó cho phép
nhiều quyền tự do hơn cho các thành viên, và nó ý thức được sự đòi hỏi phải duy trì trong
các cá nhân một mối hứng thú hữu phù hợp với đời sống liên kết, thay vì phó mặc chủ yếu,
thay vì phó mặc chủ yếu cho sức mạnh của tập quán vận hành dưới sự kiểm soát của một
giai cấp ưu việt.
Sự phân tích về giáo dục dựa vào tiêu chí trên được thấy là bao hàm lý tưởng về một
sự liên tục tái tạo và tái tổ chức lại kinh nghiệm theo cách nào đấy để tăng năng lực hành
động của các cá nhân xét như những người bảo vệ mang tính điều khiển của quá trình tái tổ
chức này. Nó còn được dùng để xác định tính thống nhất giữa nội dung và phương pháp, bởi
dựa trên cơ sở này phương pháp nghiên cứu và học tập chỉ là quá trình tái tổ chức lại được
điều khiển một cách hữu thức của nội dung của kinh nghiệm.
Một triết lý thừa nhận nguồn gốc, vị trí, chức năng của trí óc bên trong một hoạt động
kiểm soát môi trường, là sự đòi hỏi cần thiết.
Triết lý được định nghĩa là lý luận chung của giáo dục. Triết học được tuyên bố là
một hình thức của tư duy, nó xuất hiện khi không xác quyết về nội dung của kinh nghiệm,
nó nhắm tới việc định vị tính chất của tính rắc rối và nêu các giả thuyết nhằm làm sáng tỏ
rắc rối đó cho tới kho được chứng minh bằng hành động.
Triết lý giáo dục không phải là sự áp dụng các tư tưởng có sẵn bên ngoài vào một hệ
thống thực hành có nguồn gốc và mục đích khác biệt về cơ bản: triết lý giáo dục chỉ đơn
giản là sự phát biểu rõ ràng về các vấn đề của sự đào tạo các thói quen tinh thần và đạo đức
đúng đắn trong mối liên quan đến những trở ngại nằm trong đời sống xã hội đương thời.
Vậy thì có thể định nghĩa “triết lý” một cách sâu sắc nhất như sau: triết lý là lý luận giáo dục
xét trên các phương diện phổ biến nhất.
Bởi vì giáo dục là quá trình có thể đem lại sự thay đổi cần thiết, chứ giáo dục không
tiếp tục tồn tại đơn thuần như một giả thuyết về điều nó khát khao, cho nên chúng ta có lý

Học viên CHU MINH THU Trang 17


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
do để cho rằng phát biểu sau đây là đúng:“Triết lý là lý luận giáo dục xét như một thực tiễn
được thực hiện một cách có chủ tâm” [2].

III. ỨNG DỤNG CỦA THUYẾT TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC
John Dewey là một người ủng hộ mạnh mẽ cho cải cách giáo dục tiến bộ. Ông tin
rằng giáo dục phải dựa trên các nguyên tắc của việc học thông qua làm.
Vào năm 1894, Dewey và vợ Harriet bắt đầu học tiểu học thực nghiệm của mình, các
trường tiểu học Đại học tại Đại học Chicago. Mục tiêu của ông là để kiểm nghiệm lý thuyết
giáo dục của mình, nhưng Dewey từ chức khi chủ tịch trường đại học bắn Harriet.
Năm 1919, John Dewey, cùng với các đồng nghiệp của ông Charles Beard, Thorstein
Veblen, James Harvey Robinson và Wesley Clair Mitchell, thành lập Trường mới cho
nghiên cứu xã hội. The New School là một trường thực nghiệm tiến nhằm nhấn mạnh sự tự
do trao đổi ý tưởng trí tuệ trong nghệ thuật và khoa học xã hội.
Trong thập niên 1920, Dewey giảng về cải cách giáo dục tại các trường học trên toàn
thế giới. Ông đặc biệt ấn tượng bởi các thí nghiệm trong hệ thống giáo dục Nga và chia sẻ
những gì ông học được với các đồng nghiệp của ông khi ông trở về Hoa kỳ: rằng giáo dục
nên tập trung chủ yếu vào sự tương tác của sinh viên với hiện tại. Tuy nhiên Dewey không
bỏ qua những giá trị cũng tìm hiểu về quá khứ.
Trong những năm 1930, sau khi ông nghỉ việc, Dewey đã trở thành một thành viên
tích cực của nhiều tổ chức giáo dục, bao gồm giáo viên New York Guild và Liên đoàn Quốc
tế về Tự do học thuật [8].

Trong tranh luận khoa học ngày nay có


rất nhiều xu hướng khác nhau của lý thuyết kiến
tạo. Điều cơ bản đối với việc học tập theo thuyết
kiến tạo là tính độc lập của HS (học tập tự điều
chỉnh trong nhóm). Nhưng các xu hướng khác
nhau của thuyết kiến tạo không nhất trí về mức
độ của tính độc lập này và ảnh hưởng của GV.
Có thể phác họa khái quát ba xu hướng cơ bản
sau:
• Thuyết kiến tạo nội sinh là quan điểm đi xa nhất. Các đại diện của nó chỉ muốn tạo
ra những điều kiện học tập (môi trường học tập có tính khuyến khích), sao cho nhờ những
kinh nghiệm mới cũng như kiến thức và kỹ năng đã có từ trước đến nay HS trong nhóm học

Học viên CHU MINH THU Trang 18


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
tập có thể mở rộng và thiết kế lại tri thức của mình mà không cần sự giúp đỡ quan trọng của
GV.
• Những người theo thuyết kiến tạo ngoại sinh ủng hộ sự tác động mạnh của GV, GV
sẽ tác động như mô hình theo nghĩa của sự học tập mang tính xã hội. Người học sẽ quan sát
GV trong hành động và tư duy và tìm cách tiếp nhận các hành động và tư duy đó. Thông
qua những thử nghiệm tiếp nhận này, những kinh nghiệm cũ từ trước đến nay và những kiến
thức mới sẽ được kết hợp và định hướng vào sự hiểu biết của bản thân. Mô hình do GV đưa
ra sẽ không chỉ được tiếp nhận mà còn được điều chỉnh cho phù hợp với sự hiểu biết của
bản thân HS.
• Thuyết kiến tạo biện biện chứng nằm giữa thuyết kiến tạo nội sinh và thuyết kiến
tạo ngoại sinh. Những người theo thuyết kiến tạo biện chứng biện chứng cho rằng nếu chỉ
có sự học tập độc lập theo tinh thần của thuyết kiến tạo nội sinh thì ít có hiệu quả học tập.
Họ ủng hộ sự giảng dạy mà trong đó GV cung cấp các trợ giúp, nhưng từ chối việc truyền
đạt các cấu trúc và chiến lược có sẵn cũng như việc học tập theo mô hình một cách cứng
nhắc. Mục đích của chúng là làm cho học viên ngày càng trở nên độc lập hơn.
Thuyết kiến tạo ngày càng được chú ý trong những năm gần đây. Thuyết kiến tạo
thách thức một cách cơ bản tư duy truyền thống về dạy học. Không phải người dạy, mà là
người học trong sự tương tác với các nội dung học tập sẽ nằm trong tâm điểm của quá trình
dạy học. Nhiều quan điểm dạy học mới bắt nguồn từ thuyết kiến tạo: học tập tự điều chỉnh,
học tập với những vấn đề phức hợp, học theo tình huống, học theo nhóm, học qua sai lầm,
nhấn mạnh nhiều hơn vào dạy học định hướng quá trình thay cho định hướng sản phẩm [1].

IV. NHẬN XÉT


Ưu điểm:
- Đưa vai trò của người được giáo dục lên một tầm cao mới, ở đó họ học tập thông qua
các hoạt động cụ thể, nói cách khác là thông qua hoạt động họ lĩnh hội được tri thức cho bản
thân.
- Người thầy giáo đóng vai trò là người định hướng quan trọng.
- Khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường và xã hội, mối quan hệ mật thiết
giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp và đối tượng trong quá trình giáo dục.
- Chỉ ra được mối liên kết giữa nhà trường và xã hội.
- Triết học giáo dục của John Dewey bổ sung một số thiếu sót của thuyết nhị nguyên
trong giáo dục truyền thống.
- Dewey đã gắn việc giáo dục cá nhân với môi trường
- Chú trọng tính cá thể trong quá trình giáo dục
Bên cạnh đó còn có các mặt tích cực [15]:

Học viên CHU MINH THU Trang 19


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
- Triết học giáo dục của Dewey chống lại những mục tiêu giáo dục làm cho thày và trò
bị “đứng im một chỗ” thay vì cùng chuyển động
- Tính đạo đức của một nền giáo dục theo Dewey là ở chỗ nó giúp học sinh phát triển
các năng khiếu cá nhân và có năng lực thực hiện được những trách nhiệm cá nhân trước xã
hội.
- Xem hoạt động học tập là một quá trình năng động có kiến tạo của người học trên cơ
sở thực nghiệm khoa học và kinhnghiệm
- Đề cao vai trò của nhà trường trong việc đào tạo ra những chủ thể có tri thức, kỹ
năng sống, năng lực làm việc, biết phán đoán cơ hội và có phản ứng chủ động, tích cực
trước hoàn cảnh sống; xem xét mục tiêu giáo dục trong mối quan hệ với các quá trình, giá
trị xã hội

2. Hạn chế [1]:


- Quá đề cao hoạt động cá nhân của người học
- Quan điểm cực đoan trong thuyết kiến tạo phủ nhận sự tồn tại của tri thức khách
quan là không thuyết phục.
- Việc đưa các kỹ năng cơ bản vào các đề tài phức tạp mà không có luyện tập cơ bản
có thể hạn chế hiệu quả học tập.
- Việc nhấn mạnh đơn phương việc học trong nhóm cần được xem xét. Năng lực học
tập cá nhân vẫn luôn luôn đóng vai trò quan trọng.
- Dạy học theo lý thuyết kiến tạo đòi hỏi thời gian lớn và yêu cầu cao về năng lực của
giáo viên

C. KẾT LUẬN
Triết học giáo dục của Jonh Dewey nói riêng và triết học phương tây nói chung đã có
những đóng góp không nhỏ cho các nước trên thế giới trong công cuộc cải cách giáo dục.
Đối với Việt Nam hiện nay, công cuộc đổi mới giáo dục đang trên đà chuyển mình mạnh
mẽ, và triết học giáo dục của Jonh Dewey cũng từng bước có ảnh hưởng tới nền giáo dục
của nước ta để hướng đến phát triển con người theo phương châm dân chủ, hiệu quả, nhân
bản.

Học viên CHU MINH THU Trang 20


GVHD: PGS. TS DƯƠNG THỊ KIM OANH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier. LÝ LUẬN DẠY HỌC HIỆN ĐẠI. Potsdam - Hà nội.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2012
2. John Dewey (2008), Dân chủ và Giáo dục, Nxb Tri Thức
3. http://bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4323-00-633759034029375000/101-Triet-
gia/John-Dewey.htm
4. http://dewey.pragmatism.org/
5. https://en.wikipedia.org/wiki/John_Dewey
6. http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Phuong-Tay/John-Dewey-nha-
giao-duc-hoc-nha-triet-hoc-thuc-dung-My-640.html
7. https://vi.wikipedia.org/wiki/John_Dewey
8. http://www.biography.com/people/john-dewey-9273497#early-life
9. http://www.biography.com/people/john-dewey-9273497#later-life-and-death
10. http://www.biography.com/people/john-dewey-9273497#education-reform
11. http://www.biography.com/people/john-dewey-9273497#synopsis
12. https://www.britannica.com/biography/John-Dewey
13. https://www.lib.uchicago.edu/projects/centcat/fac/facch08_01.html
14. http://www.maxreading.com/sach-hay/danh-nhan-triet-hoc/john-dewey-nha-giao-duc-hoc-
nha-triet-hoc-thuc-dung-my-38593.html
15. http://www.sachhay.org/sach/chitiet/6489/john-dewey-ve-giao-duc
16. http://www.sachhay.org/diem-sach/ChiTiet/173/triet-hoc-giao-duc-cua-john-dewey
17. http://www.wilderdom.com/experiential/JohnDeweyPhilosophyEducation.html

Học viên CHU MINH THU Trang 21

You might also like