I. Tìm hiểu chung

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

Mộ

(Chiều tối – Hồ Chí Minh)

I. Tìm hiểu chung


1. Tác giả
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác

Ngày 29/8/1942, với tư cách là đại diện cho Cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc sang Trung
Quốc để tìm sự ủng hộ của Lực lượng đồng minh tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh dân tộc ta
sớm giành thắng lợi. Vừa đến huyện Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, Bác đã bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Đó là một hành vi sai trái nên để bưng bít dư luận, cắt đứt
mọi liên lạc của Bác, chúng liên tục chuyển Bác sang các nhà lao khác nhau và giải đi vào lúc
đêm khuya cho đến tối hôm sau vẫn còn lưu lạc trên đường. Nhưng chính những lần giải đi như
thế người được ngắm cảnh thiên nhiên và cuộc sống khơi nguồn cảm hứng cho Bác viết nên
những vẫn thơ phảng phất phong vị cổ điển mà vẫn nổi bật chất hiện đại mang đậm dấu ấn
phong cách của chủ thể trữ tình nhà thơ chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. “Mộ” (Chiều tối) được
sáng tác trên đoạn đường dài 100 km khi người bị giải lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Đây là bài
thơ số 31 trong 134 bài của tập “Nhật kí trong tù".

b. Ý nghĩa nhan đề
- Trong ngục trung nhật kí, Bác có hàng chục bài thơ viết về thời gian và sự vận động của
thời gian. Điều này chứng tỏ thời gian là mối quan tâm lớn thường trực trong cuộc sống
hàng ngày của Bác, đặc biệt là thời gian bị giam cầm tù tội.
- Về thời gian chiều tối luôn là thời điểm có nhiều duyên nợ với thơ ca, bao tâm sự bao
nỗi niềm được mở ra khi ánh sáng ban ngày sắp tắt. Nó là thời điểm không gian thường
rơi vào tĩnh lặng, ánh sáng ban ngày gần tắt, đẩy con người vào tâm trạng hướng nội,
đặc biệt những kẻ tha phương lữ thứ, lòng thường dậy lên bao nỗi cảm hoài. Hồ Chí
Minh không chỉ giống các thi nhân khác ở những xúc cảm thời gian buổi chiều mà còn
khác biệt vì Bác đang chịu đựng một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt nhưng dù phải cất bước
trên con đường lưu đày vất vả, người vẫn mở rộng tâm hồn để đón nhận bao vẻ đẹp của
thiên nhiên.

II. Phân tích


Có ai đó khi nghĩ về thơ Bác đã nói rằng: “Dù phân tích khéo léo đến đâu cũng không làm nổi
bật được hồn thơ cũng tựa như có gượng nhẹ tay bóc từng lớp cánh hoa hồng cũng chưa dễ
tìm thấy bí quyết hương thơm". "Mộ" (Chiều tối) là một đóa hoa thơm như thế. Bài thơ để lại
rung động sâu xa đẹp đẽ nhưng không dễ diễn tả. Thật chẳng khác nào ta vẫn khó nắm bắt bí
ẩn hương thơm của cánh hồng và “Chiều tối” đủ giúp người đọc hiểu được phần nào một tâm
hồn với phong cách thơ văn độc đáo.

1. Bức tranh thiên nhiên (hai câu đầu)

Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng
yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất
nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị
đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một
tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ "Chiều tối" nằm trong tập
thơ "Nhật kí trong tù" đã thế hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản
là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự
do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.

Chỉ bằng 1 vài nét chấm phá: hai câu đầu của bài thơ đã để lại một bức tranh nhỏ về cảnh
thiên nhiên vùng sơn cước vào thời điểm chiều tối, hai nét vẽ mà gợi ra cảnh ngày tàn: cánh
chim mỏi mệt bay về rừng tìm nơi trú ẩn, một áng mây lẻ loi chậm chậm nặng nề trôi.

"Quyện điều quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không"

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)

Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn.
Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ
trong tâm hồn mỗi chúng ta. Cấu trúc hai câu thơ đăng đối, âm điệu nhè nhẹ, thoáng buồn vừa
tái hiện thời gian vừa thể hiện không gian, hai câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển tả ít gợi nhiều chỉ
cần hai nét phác họa mà gợi cả các hồn của cảnh vật. Ngày tàn đêm xuống, lấy động tả tĩnh
được thi nhân vận dụng sáng tạo, nhìn chim bay mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn,
không gian tĩnh lặng hơn.

Trên đường giải tù là một tình huống bi đát mà Bác không bỏ lỡ dịp mở lòng ra với thiên
nhiên vạn vật. Nhờ vào tình yêu thiên nhiên của người khiến bài thơ không bị ngược sáng bởi
cái nhìn u tối dù Người biết đợi mình phía trước chỉ là những xà lim. Đằng sau những câu thơ
phảng phất không khí cổ kính là một đoạn đời đầy ải cho ta hiểu lúc tự chủ cũng như niềm yêu
đời của Bác. Người tù đang bị xiềng xích, trói buộc mệt mỏi, cô đơn nên người đồng cảm với sự
mệt mỏi của cánh chim, sự cô lẻ của chòm mây và cao hơn cả sự đồng cảm ấy là ánh nhìn trìu
mến của tình cảm nhân đạo đầy sâu nặng từ trái tim của Người. Người đã dành tình yêu thương
sâu nặng cho mọi sự sống chân chính ở trên đời. Người đã quên đi những khốn khổ đầy ải của
chính mình để nhận ra các uể oải của một sinh linh yếu ớt, cái đơn độc của một sự vật bình
thường. Đó là một là hai trong muôn ngàn biểu hiện của sự sống mà Bác luôn trân trọng nâng
niu. Cánh chim với chòm mây như có linh hồn nhuốm đầy trân trọng, chúng đang chuẩn bị để
tiếp tục nhịp tuần hoàn cho ngày mới. Đúng như Tố Hữu đã từng viết "Bác ơi tim Bác mênh
mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người". Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù
dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một
ngày đày ải. Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn
tượng, dư ba.

Nếu dựa vào bản dịch, có thể cảm nhận cảnh thiên nhiên trong chiều tối là cảnh vực nhưng
thực chất đây là một bức tranh đẹp và buồn. Câu thơ thứ nhất được dịch khá sát sao với
nguyên tác. Đến câu hai từ “cô vân" chỉ đám mây cô đơn lẻ loi nhưng dịch là chòm mây khiến
sự vật hoàn toàn không có tâm trạng. Từ “mạn mạn" nghĩa là chậm chậm, nặng nề chất chứa
tâm trạng nhưng được dịch là xà nhẹ thể hiện trạng thái thanh thản bình yên. Câu thơ dịch dễ
khiến người đọc nhớ đến cái nhìn của một du khách đang thưởng ngoan thiên nhiên. Nó làm
mất đi sắc thái phong lưu nhân tản, gợi sự cô đơn thanh cao trong bản nguyên tác. Toàn câu
thơ trong nguyên văn chữ Hán đẹp như một câu thơ Đường danh thống nên muốn hiểu "Chiều
tối" sâu sắc phải năm được thần thái bản phiên âm. Nỗi buồn của bài thơ phải chăng là tâm
trạng thi nhân đang thấm sâu vào cảnh vật hay bởi lòng buồn nên bắt gặp cảnh buồn. Vì trời
chiều đã muộn mà người tù Hồ Chí Minh vẫn lê nặng những bước chân xiềng xích. Cánh chim,
chòm mây trong ánh mắt ngước nhìn lên nghĩa là cái nhìn hữu hồn đã soi vào những cái vô hồn
để chúng lồng vào nhau kín đảo giải bày một tâm trạng, một nỗi buồn thầm kín. Trong đôi mắt
dõi nhìn lên trời cao ẩn chứa niềm khát khao tự do, mong muốn thoát khỏi xà lim, xiềng xích để
tiếp tục con đường cách mạng vẫn còn dang dở của Người qua hơi thở của thời gian, không
gian và vạn vật còn toát lên một bản lĩnh Cách mạng phi thường. Khi Người vượt lên mọi khổ
đau thử thách giữ vững tinh thần lạc quan của một người biết làm chủ bản thân, làm chủ hoàn
cảnh. Người đang bị cầm tù về thân thể nhưng tự do tuyệt đối về mặt tinh thần bởi:

“Tự do lãm thưởng vô nhân cấm"

(Tự do thưởng ngoạn ai ngăn được)

("Trên đường" Hồ Chí Minh)

Hay như lời tựa của tập thơ “Ngục trung nhật kí” vốn được xem như một tuyên ngôn của Hồ
Chí Minh:
"Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao"

Đó chính là bức chân dung tinh thần tự họa của Người.

So sánh liên hệ: Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ
thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài
thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết:

"Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn

(Chim trời bay đi mất

Mây lẻ trôi một mình)"

Hình ảnh chim và chòm mây có ý nghĩa báo hiệu thời gian chiều tối. Ngay từ trong ca dao đã có
hình ảnh:

"Chim bay về núi tối rồi"

Hay cánh chim cô lẻ trong thơ ca trung đại:

"Con chim lạc gió lạc loài kêu sương”

(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)

Một cánh chim mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà

"Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa, khách bước dồn"

(“Chiều hôm nhớ nhà" Bà huyện Thanh Quan)

Cho đến những cánh chim buồn bã trong thơ mới:

“Mây vần tầng không chim bay đi"

(“Đây mùa thu tới" Xuân Diệu)

"Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa"

(“Tràng Giang - Huy Cận)


Đây là những vần thơ đẹp chỉ có điều cánh chim ấy tự bay về chốn vô tận vô cùng gợi cảm giác
xa xăm phiêu bạt còn cánh chim trong thơ Hồ Chí Minh ôm về sự sống riêng ngày say mãi miết
để về với rừng xanh quen thuộc. Cánh chim trong thơ ca cách mạng xác định được điểm đến
cho riêng mình. Hình ảnh chùm mây cũng được xuất hiện nhiều trong thơ cũ:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"

(Nguyễn Khuyến)

Đến ngàn mây của Thôi Hiệu:

"Ngàn năm mây trắng bảy giờ còn bay"

Nhìn chung, hai cầu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng
người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Th.s Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng "Những
buổi chiều như vậy, đầu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cành ấy qua cái nhìn của
một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở
đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng "Mộ" là bài thơ của thời Thịnh Đường”

2. Bức tranh đời sống (2 câu sau)

Từ cảnh vật thiên nhiên, tác giả chuyển sang miêu tả bức tranh một cảnh bình dị sống động
trong lao động đời thường

"Sơn thôn thiều nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Câu chuyện trong thơ tứ tuyệt thường bất ngờ mà rất tự nhiên hợp lý, Khi bức tranh thiên
nhiên quanh vắng, trong hai câu trên đã làm nền đế nổi bật bức tranh đời sống trong hai câu
cuối. Trước hết, người tiếp nhận cần đối chiếu nguyên tác và bản dịch để thẩu hiểu ý tình của
tác giả “Sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em xóm núi". Đứng trên bình diện nghĩa thì không sai
nhưng câu thơ dịch đã làm mất đi thái độ trân trọng của nhân vậy trữ tình. Người dịch đã thêm
chữ "tối" ở cuối câu ba làm lộ ý thợ của tác già. Nguyên văn không nói tối mà để thời gian trôi
theo cảnh chim vòng quay của cối xay và khi cối xay dừng lại lò than rực hồng thì người đọc tự
cảm nhận trời đã tối. Nguyên văn câu cuối, nhịp 4/3 đã chấm dứt quá trình vận động nên nhịp
2/5 của bản dịch làm giảm đi tấm lòng nâng niu trìu mến, chút reo vui trong cuộc sống bình
thường.
Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân
lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ
"thiếu nữ" gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên
vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lạo động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô
quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa. Có lẽ cũng chính vì vậy mà có
một nhà phê bình nào đó từng nhận xét rằng "Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một "sơn thôn
thiếu nữ" thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng
việc đặt hình ảnh "sơn thôn thiếu nữ” ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã
làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người". Hình ảnh trong bức
tranh thơ chiều tối là sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. Hình ảnh người phụ nữ đã
xuất hiện nhiều lần trong thơ chữ Hán nhưmg phần lớn họ thuộc giới thượng lưu hoặc gần gũi
với giới thượng lưu. Người phụ nữ cũng trở đi trở lại trong thơ chữ Việt nhưng thường là với
cuộc sống thôn nữ gắn liền công việc đồng áng hay đi dự hội làng, có lẽ đển Hồ Chí Minh mới
xuất hiện hình ảnh sơn thôn thiếu nữ. Việc đặt hình ảnh cô gái ở trong tâm bức tranh đã thể
hiện khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan niệm nhân sinh của Bác. Tuy bất cử
hoàn cành nàdo, Hồ Chí Minh vẫn luôn gắn bó với cuộc sống con người nói trần thể và đặc biệt
là cuộc sống của nhân dân lao động. Sự xuất hiện của cô gái không hề ngẫu nhiên, nó không là
kết quả của một quan sát thuần tuý là thị giác mà nó là kết quả của mối quan tâm thường trực
đến cuộc sống con người trong thơ Hồ Chí Minh. Nhà văn Nam Cao đã viết: "Khi người ta đau
chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được", để nói rằng, con người ta
thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ – một người lúc
nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ
nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

Sinh thời Hồ Chí Minh chỉ có một ao ước lớn:"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về
nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao
trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của Quốc tế cộng sản. Trong thơ Bác, con
người luôn là trung tâm là điểm sáng cho cảnh vật. Đó không phải là những kiểu người khuôn
mẫu trong thơ ca trung đại như ngư - tiều – canh - mục mà là con người lao động cụ thể gắn với
đẹp chiều hôn thêm hài hoà phong phú. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đã làm cho thơ liền
mạch và có về nhạc điệu. Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên
như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cổ
điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe
khoắn của con người trong đó. Đức tính cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và trân
trọng.
Bài thơ mở đầu bằng cái nhìn bao quát toàn cảnh và kết thúc bằng bếp lửa hồng rực sáng
điểm hội tụ lung linh vẻ đẹp của bài thơ. Hai nét vẽ thiếu nữ và lò ngô bình dị hòa hợp giữa màu
sắc cổ điển và chất hiện đại trẻ trung. Trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ có thể dùng xa để nói
cao, dùng động để nói tiếng, dùng sáng để nói tối và Chiều tối một trong những bài thơ như
thế. Dù thời gian trong bài thơ vận động từ chiều đến tối, từ ngày đến đêm nhưng hình tượng
thơ vận vận động theo xu thế phát triển hướng về sự sống và ánh sáng. Đây là điểm độc đáo
trong thơ Bác. Vòng quay của cối xay ngô chấm dứt, công việc kết thúc thì lò than cũng vừa đó
bất ngờ tỏa sáng vào ban đêm tối. Bóng tối vừa toả lên vạn vật, thu hết trường nhìn, điểm nhìn
lên ánh mắt nhà thơ dừng lại ở đóm lửa hồng nơi căn nhà xóm núi. Nhờ vậy bóng tối ngày tàn
nhưng không gian không tăm tối lời con người đã thắp lên ánh sáng đã thắp lên ngọn lửa. Phải
chăng có một thoáng ước mơ thầm kín về mái ấm quê hương trên con đường đi đày xa xứ của
Người. Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả
cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả
bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ
để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm
nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay
xong thì trời đã tôi. Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) "ma bao túc – bao túc ma hoàn" đã cho
ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô.
Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian?

Từ “hồng” trở thành nhãn tự của bài thơ. Nó không chỉ là sắc màu của bếp lửa mà còn là
màu của bình minh ấm áp của tương lai sáng lạn của niềm tin rực cháy mà Bác đặt vào độc lập
tự do cho dân tộc Việt Nam. Đó còn là màu hồng của niềm tin của tinh thần lạc quan của Bác
lạn tỏa sang người đọc thắp sáng cả không gian. Tứ thơ vận động đến chữ cuối cùng thì bật
sáng. Năng lượng thơ được dồn nén trong 27 chữ đến chữ 28 thì tỏa sáng hắt ngược lại bài thơ
cải biến âm điều trầm buồn thành âm điều mạnh mẽ tin tưởng một chữ “hồng” mà đủ sức cân
bằng tất cả những khó khăn vất vả nhọc nhằn. Từ đó, người đọc liên tưởng đến chủ thể trữ tình
đang trên đường chiến đấu, gặp gỡ buổi gian nan nhưng vẫn giữ vững lập trường bản lĩnh cách
mạng của người cộng sản. Màu hồng có thể là biểu tượng của ngọn cờ tự do độc lập mà Bác
Phải đầu tranh để nó sớm trở thành hiện thực tung bay trên mọi miền tổ quốc. Hoài Thanh đã
nhận xét: “Giữa nơi tối tăm dày đặc, ánh sáng vẫn ngời lên, ánh sáng của một tấm lòng thương
người và yêu đời vô hạn". Hình tượng thơ luôn vận động và hướng về ánh sáng. Trong bài thơ
Tảo giải, chữ Hồng ấy cũng đã từng xuất hiện:

"Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”


Chữ hồng ấy với chữ hồng trong Chiều tối có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui,
sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô
lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang.

" Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi."

Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường khổ ải, lưu đày người chiến sĩ cách mạng
trong "Nhật ký trong tù" tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc
quan yêu đời. Trong cảnh hoàng hôn gió rét căm, vượt lên gian khổ. Người xúc động hướng tới
một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước:

"Gió sắc tựa gươm mài đá núi,

Rét như dùi nhọn chích cành cây

Chùa xa chuông giục người nhanh bước,

Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay".

Có lúc trong cảnh bị cùm trói "Thừa cơ rét rệp xông vào đánh" mà Người vẫn "thoát ngục" tìm
được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: "Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần" (Đêm
ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và
con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp, bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà
Bác gắn bó, mến yêu suốt đời. Nếu hai câu đầu Bác ngước nhìn lên thì hai câu sau là cái nhìn
ngang đầy nhân ái và đã có một nhà phê bình nhận định như sau: "Cái nhìn vút lên vào vô tận
chạm vào cánh chim lướt trên chòm mây nhưng lòng buồn nên rơi trở xuống. Cái vô tận không
ngăn được nỗi buồn vô tận. Chỉ khi nhìn xuống hướng vào cảnh đời thường thì nỗi buồn mới
được chặn đứng bởi cảnh nhân sinh". Lời bình ấy có thể không hoàn toàn chính xác nhưng nó
đã thể hiện đặc điểm độc đáo trong thơ Bác.

Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ
và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm
nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất
khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày về thể xác để
đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút. Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh
tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ
Tố Hữu thay cho lời kết:

"Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc

Mười bốn trăng tê tái gồng cùm Mà thơ bay cánh hạc ung dung"

You might also like