PPD KhThi - Ôn tập cuối kì

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

Nội dung

1. Cơ sở điều chỉnh phương pháp dạy học trẻ khiếm thị (Tỏ).....................................................2
2. Các chiến lược phát triển kĩ năng phân biệt xúc giác (Tỏ)......................................................3
3. Các chiến lược hình thành sự khéo léo và sức mạnh của bàn tay, ngón tay, cổ tay. (Tiến).......5
4. Các chiến lược phát triển các khái niệm cơ bản cho trẻ khiếm thị (Tiến)................................5
5. Trình bày các phương pháp dạy học chủ đạo cho trẻ khiếm thị (TIN)..................................14
6. Chiến lược/kĩ thuật hình thành kiến thức số học cho trẻ khiếm thị. (TIN)............................17
7. Chiến lược/ phương pháp dạy các yếu tố hình học cho trẻ khiếm thị (NHÂN)......................18
8. Điều chỉnh chủ yếu về phương pháp dạy tiếng Việt (NHÂN)................................................20
9. Đề xuất những điều chỉnh về nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học 01 giờ học bất kì
(NIÊN)....................................................................................................................................21

1
1. Cơ sở điều chỉnh phương pháp dạy học trẻ khiếm
thị (Tỏ)
+ Điều chỉnh là từ các chuẩn sẽ sự thay đổi về mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức dạy học,... nhằm đáp ứng các nhu cầu của học sinh
- Có 2 cơ sở điều chỉnh bao gồm:
1. Cơ sở sinh lý
-Trẻ khiếm thị bị lệch chuẩn về sinh lý do cơ quan phân tích thị giác bị tổn thương dẫn
đến lệch chuẩn về tâm lý
-Các tổn thương thị giác bao gồm:
+ Thị lực: tùy vào khả năng nhìn gần, nhìn xa để điều chỉnh kích thước hình ảnh, giáo
cụ trực quan
+ Thị trường: điều chỉnh vị trí ngồi học cho trẻ
+ Độ nhạy cảm sáng - tối: lưu ý tùy vào độ nhạy cảm sáng tối để xem xét hỗ trợ dụng
cụ trợ thị quang học: đèn bàn, hộp đèn...
+ Độ nhạy cảm tương phản: Điều chỉnh nền và hình theo màu tương phản trẻ nhìn
thấy được rõ nhất
+ Vận nhãn: theo dõi khả năng dõi mắt theo vật chuyển động, khả năng liếc mắt để
điều chỉnh hàng chữ khi đọc sách, hỗ trợ cây chặn dòng, chặn hàng
+ Thị giác chiều sâu: khi trẻ bị thiếu hụt chức năng này cần thay thế cho trẻ bằng cách
cho trẻ sờ đồ vật để biết được hình hay khối
+ Thị giác màu: xem xét trẻ nhìn thấy màu gì để điều đồ dùng có màu sắc trẻ có thể
nhìn được
->Tùy trẻ các tổn thương cũng sẽ khác nhau, cần tìm hiểu nguyên nhân, mức độ
khiếm thị để điều chỉnh cho phù hợp
2. Cơ sở tâm lý
Liên quan đến thị giác chức năng còn lại của trẻ: là khả năng sử dụng thị giác còn lại
trong sinh hoạt, học tập
Thị giác chức năng bao gồm các giai đoạn
Cảm giác thị giác -> Tri giác thị giác-> Tư duy -> Tưởng tượng
Khi 1 chức năng thị giác bị thiếu hụt sẽ dẫn đến các chức năng khác có vấn đề

2
Cần điều chỉnh bằng cách đưa ra các bài tập kích thích thị giác để bù đắp lại, giáo dục
khả năng sử dụng thị giác còn lại của trẻ.

2. Các chiến lược phát triển kĩ năng phân


biệt xúc giác (Tỏ)
Thao tác tay trong tay (tay GV làm chuẩn)
- Tay dưới tay: Tay giáo viên đặt dưới tay trẻ. Thao tác này được sử dụng khi lần
đầu cho trẻ quan sát đối tượng.
- Tay trên tay: Tay giáo viên đặt trên tay trẻ. Thao tác này được sử dụng khi trẻ
quan sát đối tượng ở lần 2, lần 3.
- Tay cạnh tay: Tay giáo viên đặt cạnh (hờ) bên tay trẻ. Thao tác này được sử
dụng khi trẻ đã quen với đối tượng quan sát, giúp trẻ có tự tin hơn khi quan sát
đối tượng.
- Để trẻ có thể sử dụng đôi bàn tay và các ngón tay hiệu quả giáo viên phải
hướng dẫn trẻ sử dụng đúng kỹ thuật. Theo 3 cách sờ sau:
- Sờ tĩnh: Là hành động đặt bàn tay vào một vật nào đó mà không cần vận động
của các ngón tay như xoa, bóp, sờ, nắn.
- Kỹ năng sờ tĩnh được sử dụng để nhận biết đặc điểm bề mặt (bề ngoài) của đối
tượng cần được quan sát: cứng, mềm, khô, ướt, gai gai, nhẵn, xù xì, trơn láng,
nóng lạnh.
Lưu ý: Chỉ có vật thật mới cho trẻ cảm giác chân thực về sự vật trong tự nhiên.
- Cách sờ này cũng giúp trẻ tri giác được những đặc điểm về hình dạng, độ lớn
và nặng nhẹ của những sự vật không quá phức tạp và có độ lớn vừa với tầm
kiểm soát của bàn tay trẻ.
- Kỹ năng này cũng có thể sử dụng khi GV muốn trẻ tái nhận biết các sự vật.
•Ưu điểm: Sờ tĩnh phù hợp với trẻ mù khi thời gian cho quan sát ngắn nhưng cũng đủ
cung cấp những thông tin cần thiết.
•Hạn chế: Sờ tĩnh không thể cung cấp đầy đủ thông tin về những sự vật phức tạp, có
kích thước lớn.

3
- Sờ động: Là cách sờ sử dụng một hoặc phối hợp cả hai bàn tay. Cách sờ này
mở rộng trường xúc giác và đồng thời nhận biết được nhiều thông tin như: hình
dạng, kích thước, độ lớn, kích thước, mối quan hệ, sự tương quan…
- Để nhận biết đầy đủ từng chi tiết những đặc điểm của sự vật, trẻ phải sử dụng
kỹ năng sờ vận động tích cực. GV hướng dẫn trẻ được thể hiện theo từng khâu:
+ Chuẩn bị tâm thế cho trẻ
+ Hướng đến sự chú ý của 2 bàn tay trẻ
+ Vật quan sát đặt trong trường xúc giác ở tư thế hợp lý (không đặt ngược hình,
ngược vị trí sự vật)
+ Chọn điểm đặt tay thích hợp
+ Bảo đảm sờ tịnh tiến bằng hai tay hay một tay
+ Sờ khép kín sự vật để nhận biết hình dạng hay độ lớn, bề mặt khái quát rồi mới
tìm hiểu từng chi tiết bộ phận
+ Kết hợp giữa sờ, tự phát hiện, mô tả với lời giải thích của GV
+ Kiểm tra mức độ nhận biết và hiểu sau khi sờ
+ Sờ lại để làm sáng tỏ và bổ sung
+ Khái quát kết quả sờ (mô tả toàn bộ những thông tin sờ được, gọi tên, nhận xét)
- Đối với vật có kích thước lớn đòi hỏi phải sờ bằng cả hai bàn tay. Có hai cách
sờ phối hợp hai bàn tay:
+ Cách thứ nhất: Hai bàn tay chuyển động cùng chiều, tay phải sờ trước, tay trái
sờ tiếp theo sau như sờ từ đầu đến đuôi, từ trên xuống dưới một con vật.
+ Trong khi trẻ sờ, GV có thể đưa ra câu hỏi như: chỗ tay em đang chạm vào là
bộ phận nào của con vật, bộ phận này có hình dạng ra sao, cảm giác tiếp xúc….
+ Cách thứ hai: Hai bàn tay chuyển động ngược chiều nhau.
+ Đối với những vật có kích thước nhỏ chỉ cần sờ bằng một tay hay bằng đầu các
ngón tay.
+ Sờ gián tiếp qua vật trung gian: Là cách sờ thông qua việc sử dụng gậy, bao
tay để nhận biết các đặc điểm của sự vật.

4
3. Các chiến lược hình thành sự khéo léo và sức
mạnh của bàn tay, ngón tay, cổ tay. (Tiến)
- Hình thành sự khéo léo và sức mạnh của bàn tay, ngón tay, cổ tay để hạn chế
sự mệt mỏi khi sử dụng bàn tay sờ quá nhiều, những trẻ sử dụng máy đánh chữ
braille thì cần sức mạnh của các cơ để giật chữ bằng máy đánh chữ nổi. Khi rèn
nhiều thì đôi tay sẽ khéo léo, uyển chuyển và sức mạnh của đôi bàn tay sẽ giúp
trẻ khiếm thị khi viết chữ braille cảm thấy không mệt và đọc được trong thời
gian dài.
- Hệ thống một số bài tập để rèn luyện sự khéo léo và sức mạnh của bàn tay,
ngón tay, cổ tay:
+ Lựa chọn ( nhặt lên ): Cho trẻ lựa chọn đổ vật, sử dụng ngón cái và ngón trỏ để
nhặt vật lên, nhất là những đồ vật nhỏ để rèn sự khéo léo của các ngón tay.
+ Lồng ( chồng ) lên nhau, xâu chuỗi hạt, đục lỗ trên giấy, mở nắp hộp, vặn ốc,
… là những hoạt động rèn sự khéo léo của cổ tay, ngón tay và rèn sức mạnh
của bàn tay, ngón tay, cổ tay.
+ Thao tác lật trang sách không chỉ rèn sự khéo léo của các ngón tay mà còn giúp
trẻ khiếm thị làm quen các thao tác đọc.
+ Mang vác theo khả năng trẻ sẽ tưới cây, xúc cát giống hoạt động thể dục nhưng
sẽ giúp rèn sức mạnh của bàn tay, giúp cho trẻ trở thành một người đọc chữ
Braille hiệu quả và dẻo dai.
+ Kéo, đẩy cho trẻ đẩy xe đẩy, kéo co, các bài tập kéo dây cao su để tăng trương
lực cơ tốt hơn, cơ khớp cũng được luyện tập
+ Sử dụng các loại bảng ghép tăng sự khéo léo của đôi tay.

4. Các chiến lược phát triển các khái niệm


cơ bản cho trẻ khiếm thị (Tiến)
- Phát triển khái niệm đề cập đến sự hiểu biết cơ bản cần thiết để hiểu được thế
giới của một người. Điều này bao gồm các ý tưởng về bản thân và người khác,

5
đồ vật và môi trường. Sự hiểu biết nền tảng là rất quan trọng đối với giao tiếp,
du lịch và sự độc lập. Trong khi trẻ em bình thường/bình thường thường phát
triển sự hiểu biết về các khái niệm cơ bản thông qua học tập ngẫu nhiên, thì trẻ
em bị mất thị lực và thính giác kết hợp thường phải được dạy những khái niệm
tương tự này thông qua việc tiếp xúc nhiều lần một cách có chủ đích
*Các khái niệm tiền đề:
- Chỉ không gian
- Các khái niệm cơ bản, tiền đọc viết:
+ Thô ráp, trơn láng
Để dạy thô hoặc nhẵn, hãy bắt đầu bằng cách thu thập các đồ vật thô và mịn rồi đặt
chúng vào hộp đựng. Nhiều đồ vật thô hoặc nhẵn có thể được tìm thấy xung quanh
nhà hoặc trường học và không phải là những món đồ cần phải mua.
Các mặt hàng thô:
- Miếng chà rửa cho nồi, chảo
- Len thép
- Vải có kết cấu như vải canvas hoặc một số loại vải bọc
- Giấy dán tường họa tiết
- Giấy nhám
- Cạnh của một chiếc chìa khóa
Bạn cũng có thể sử dụng các vật phẩm có trong lớp học:
- Thảm
- Tường bê tông
- Đá trong bể cá lớp học
- Viền bảng thông báo sóng
Bạn cũng có thể đi ra ngoài:
- vỏ cây
- cát trên sân chơi
- vỉa hè ở bãi đậu xe
- gạch xây dựng trường học
Các mặt hàng mịn:
- mảnh nỉ

6
- ruy băng sa tanh
- móc khóa
- nến
- cốc nhựa
- đĩa ăn tối
Trong lớp học:
- đầu một cái bàn, Cửa, bên cạnh tủ hồ sơ, mặt trước của một cuốn sách
Ngoài:
- bên cạnh một chiếc ô tô, cầu trượt trên sân chơi, một chiếc lá rời khỏi cây
Để dạy khái niệm này:
+ Bắt đầu bằng cách giới thiệu ý tưởng thô. Cho học sinh của bạn xem tất
cả những đồ vật thô trong túi của bạn.
+ Đối với mỗi món đồ, hãy nói về cảm giác gập ghềnh và trầy xước của
nó. Sử dụng nhiều từ mô tả.
+ Sau khi cho học sinh thấy phần thô, hãy giới thiệu một cách mượt mà.
+ Cho học sinh xem tất cả các đồ vật trơn tru. Nói về cảm giác trơn trượt
của đồ vật khi chạm vào và cách ngón tay của bạn lướt trên đồ vật mà
không bị kẹt.
+ Sau khi bạn đã giới thiệu cả phần thô và phần mịn một cách riêng biệt,
hãy trộn lẫn các mục và trình bày từng mục một và yêu cầu học sinh xác
định các mục là thô hoặc mịn.
Mềm và cứng
Ý tưởng đằng sau việc dạy cứng hay mềm là trẻ có thể cảm nhận được sự khác biệt
giữa thứ cứng và thứ mềm. Trẻ cần hiểu rằng khi chúng ta ấn vào vật cứng thì nó
không chịu tác dụng còn khi ấn vào vật mềm thì không. Dạy nhẹ hay cứng thường liên
quan đến việc trẻ đập, tát hoặc đánh vào một đồ vật. Trước khi bắt đầu mạnh hay nhẹ,
hãy giải thích cho trẻ rằng chúng ta cần cẩn thận với cách đánh, đập hoặc tát một đồ
vật vì nó có thể làm hỏng đồ vật đó nhưng quan trọng hơn là nó có thể khiến chúng ta
bị thương. Dùng hết sức đập vào một vật cứng sẽ khiến bạn bị thương, thậm chí có thể
bị gãy xương.
Những nội dung khó:

7
đĩa ăn tối
một cái nĩa, dao phết bơ hoặc thìa
cốc đo lường hoặc thìa
điều khiển từ xa cho tivi hoặc âm thanh nổi
một cai khung tranh
Bạn cũng có thể sử dụng các vật phẩm (và các hành động liên quan) có trong lớp
học:
đập vào đầu bàn
đập vào đầu kệ sách của lớp
cố gắng nghiền nát một cuốn sách thư viện
đập cửa vào lớp
đứa trẻ yêu quý
dậm chân xuống sàn
Bạn cũng có thể đi ra ngoài:
dẫm lên vỉa hè bãi đậu xe
đập vào mui xe hoặc cửa xe
đập vào cầu trượt ở sân chơi hoặc thanh khỉ
Các mặt hàng mềm:
một cái gối
một con thú nhồi bông
Cái chăn
một quả bóng nerf
một chiếc áo khoác mùa đông
đệm đi văng
miếng bọt biển dùng để rửa xe hoặc rửa chén
Trong lớp học:
đệm
gối ở trung tâm đọc sách
ghế lười
thảm ngủ trong lớp học mẫu giáo
Ngoài:

8
bất kỳ tấm thảm nhào lộn nào được sử dụng trong phòng tập thể dục
lá trên cây
những chiếc ghế trong ô tô
những cái đệm trên băng ghế
cát xung quanh cầu trượt hoặc thiết bị sân chơi
Để dạy khái niệm này:
+ Bắt đầu bằng cách giới thiệu ý tưởng về sự chăm chỉ. Cho học sinh
của bạn xem tất cả những mục khó mà bạn có thể nghĩ ra.
+ Đối với mỗi mục hãy nói về cảm giác của nó. Sử dụng nhiều từ mô
tả. Chẳng hạn, khi chúng ta đánh nó, nó đau. Nó không di chuyển
khi chúng ta chống lại nó. Khó vì khi ta chạm vào nó không chịu
nhường bước.
+ Sau khi cho học sinh thấy cứng rắn, hãy giới thiệu nhẹ nhàng.
+ Cho học sinh xem tất cả các món đồ mềm mà bạn có thể nghĩ ra.
Nói về cảm giác của đồ vật. Một lần nữa sử dụng các từ mô tả. Nói
về việc nó khác với khó như thế nào. Khi chúng ta cảm thấy vật gì
đó mềm thì rất dễ bị đẩy vào. Nó cho khi chúng ta nằm trên nó hoặc
đánh nó. Nó cũng không đau khi chúng ta đánh nó.
+ Sau khi bạn đã giới thiệu cả phần cứng và phần mềm riêng biệt, hãy
trộn lẫn các mục và trình bày cho học sinh cả hai khái niệm và yêu
cầu các em xác định các mục là cứng hoặc mềm.

+ Nhỏ và to:
Khi bạn lần đầu tiên bắt đầu dạy nhỏ hay lớn, hãy đảm bảo rằng sự khác biệt về quy
mô là cực kỳ khác nhau. Ví dụ: dùng ô tô bao diêm để trưng bày nhỏ rồi ra ngoài
chạm vào ô tô thông thường để trưng bày lớn. Khi học sinh hiểu khái niệm và kỹ năng
chiến thuật của mình được cải thiện, học sinh của bạn sẽ có thể phân biệt được sự
khác biệt giữa các đồ vật có kích thước khá gần nhau. Điều quan trọng cần đề cập là
kích thước có liên quan, đặc biệt khi so sánh các đồ vật. Nếu bạn hỏi một đứa trẻ xem
chiếc ghế dài hay chiếc ghế nhỏ hơn, trẻ sẽ nói rằng chiếc ghế đó nhỏ mặc dù nhiều
chiếc ghế trong nhà lại rất lớn.

9
Những vật dụng lớn trong nhà:
một giá sách
xe hơi
đi văng
một cái ghế đá
truyền hình
cái bàn ăn
Những vật dụng lớn trong lớp học:
tủ hồ sơ
bàn của giáo viên
ghế giáo viên
một tủ đựng đồ
một cái bàn
tấm thảm khu vực bọn trẻ ngồi trong thời gian vòng tròn
Các hạng mục lớn bên ngoài xung quanh khuôn viên trường học:
tìm một cái cây quá lớn để trẻ có thể với tới và bảo trẻ ôm nó
đi dạo quanh bên ngoài trường và xem mất bao lâu
dạo quanh khu vui chơi
Những vật dụng nhỏ trong nhà:
đĩa DVD
một bộ điều khiển từ xa hệ thống trò chơi
điều khiển từ xa tới tivi hoặc âm thanh nổi
chìa khóa xe
một cái bánh quy
một gói đồ ăn nhẹ trái cây
Những vật dụng nhỏ trong lớp học:
một quyển sách
các mặt hàng từ trung tâm cuộc sống hoặc ngôi nhà
chơi đồ ăn
một chiếc điện thoại di động
máy ảnh, máy quay

10
một túi sách
các thùng chứa khác nhau từ khắp lớp
ghế trẻ em cho lớp học
Những vật dụng nhỏ bên ngoài xung quanh trường:
một cái cây hoặc một bông hoa
một container cho một nhà máy
tay nắm cửa của tòa nhà
một viên gạch duy nhất ở bên ngoài tòa nhà
Để dạy khái niệm này:
+ Bắt đầu bằng cách giới thiệu ý tưởng lớn. Cho học sinh của bạn xem tất
cả các mục lớn mà bạn có thể nghĩ ra.
+ Đối với mỗi mục nói về kích thước. Nói về việc vòng tay (ôm) một thứ
gì đó to lớn khó khăn như thế nào và phải mất nhiều thời gian để đi vòng
quanh một thứ gì đó to lớn.
+ Tiếp theo giới thiệu những điều nhỏ nhặt. Đây là trường hợp có thể đồng
thời trình bày những món đồ nhỏ và những món đồ lớn (khi trẻ hiểu
được món lớn). Một trong những cách dễ nhất để trẻ hiểu nhỏ là so sánh
nó với một đồ vật mà chúng biết là lớn.
+ Khi trẻ hiểu được sự khác biệt giữa lớn và nhỏ, hãy bắt đầu hoàn thiện
khái niệm này bằng cách đưa ra những đồ vật có kích thước khác nhau
nhỏ hơn.
+ Hãy nhớ thỉnh thoảng xem lại khái niệm này và tiếp tục hoàn thiện khả
năng của trẻ trong việc phân biệt giữa các đồ vật có sự khác biệt về kích
thước ngày càng nhỏ hơn. Đây là một kỹ năng cực kỳ quan trọng vì sự
khác biệt về kích thước giữa đồng xu và đồng xu có thể được đo bằng
milimét và học sinh của bạn sẽ cần có khả năng phân biệt được điều đó
nếu các em định tự mình mua hàng một cách đáng tin cậy.
+ Phân loại bởi một đặc điểm
Nếu bạn đã dạy các khái niệm thô/mịn, cứng/mềm và lớn/nhỏ thì bạn đã làm được hầu
hết công việc cho lĩnh vực này. Khi chúng ta sắp xếp theo một đặc điểm cụ thể, chúng
ta chỉ yêu cầu trẻ xếp một đống đồ vật dựa trên đặc điểm mà chúng ta mong muốn. Ở

11
trẻ sáng mắt, chúng tôi yêu cầu chúng sắp xếp đồ vật dựa trên màu sắc. Đối với một
đứa trẻ đang nỗ lực nâng cao nhận thức bằng xúc giác, chúng ta có thể yêu cầu chúng
sắp xếp các đồ vật dựa trên việc chúng là giấy hay nhựa.
Ý tưởng sắp xếp đồ vật theo đặc điểm cụ thể:
giấy hoặc nhựa, giấy, kim loại, nhựa, gỗ, hình dạng, cân nặng, chiều dài, mềm hay
cứng, lớn hay nhỏ, cứng hay mềm, thô hoặc mịn
Để dạy khái niệm này:
+ Làm một chiếc túi hoặc hộp đựng với nhiều đồ vật có đặc điểm chung
nhưng không giống nhau. Ví dụ, trong túi giấy hoặc kim loại của bạn,
hãy có nhiều vật dụng là giấy như giấy gói, giấy xây dựng, khăn giấy,
khăn giấy, khăn giấy vệ sinh và Kleenex. Sau đó thêm một số kim loại
như lá nhôm, ốc vít, đai ốc và bu lông, thìa đo lường và thìa. Bạn có thể
đặt nhiều món đồ giống nhau vào túi. Thay vì cắt một hình vuông khăn
giấy, hãy dùng 3 hoặc 4 ô giấy lụa.
+ Đưa cho học sinh một mẫu vật bằng cả giấy và kim loại. Nói về sự khác
biệt giữa cảm giác của họ.
+ Yêu cầu học sinh thò tay vào túi và lấy ra một vật. Yêu cầu họ xác định
vật đó là giấy hoặc kim loại.
+ Mặc dù bạn có thể có 50 món đồ trong cặp nhưng hãy bắt đầu bằng việc
yêu cầu học sinh xác định 10 đến 15 món đồ cùng một lúc.
+ Vì học sinh của bạn có thể sắp xếp các mục một cách nhất quán theo
một đặc điểm thành 2 nhóm, hãy thêm một đặc điểm bổ sung để sắp xếp
theo. Ví dụ, yêu cầu học sinh sắp xếp các đồ vật thành giấy, kim loại
hoặc nhựa.

+ Giống và khác
Ý tưởng này khác với việc sắp xếp theo một đặc điểm cụ thể mặc dù nó có vẻ giống
nhau. Để sắp xếp theo một đặc điểm, học sinh sắp xếp các mục có đặc điểm chung
nhưng không giống nhau. Ví dụ: họ có thể lấy đồ ra khỏi túi và xác định xem món đồ
đó là giấy hay kim loại. Các vật dụng bằng giấy trong túi sẽ không giống nhau. Chúng

12
sẽ là tất cả các loại sản phẩm giấy. Khi dạy giống nhau và khác nhau, các đồ vật mà
học sinh sắp xếp cần phải là đồ vật chính xác giống nhau.
Bạn có thể sử dụng nhiều vật dụng khác nhau để dạy giống nhau và khác nhau. Vì
nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc nắm bắt khái niệm khác nhau nên hãy bắt đầu
bằng cách dạy khái niệm giống nhau. Dần dần giới thiệu ý tưởng giống nhau và không
giống nhau. Sau đó đi đến giống và khác nhau. Bắt đầu với các đối tượng 3D (chiều).
Sau đó dần dần chuyển sang các đồ vật được dán vào giấy.
Có nhiều chương trình khác nhau để chuyển từ vật thể thật sang giấy và bản vẽ xúc
giác. Tất cả các chương trình này đều yêu cầu học sinh xác định các hình vẽ xúc giác
của các hình dạng hình tròn, hình tam giác và hình vuông. Nếu bạn chưa dạy những
hình dạng này thì bây giờ là thời điểm tốt để bắt đầu.
Để dạy khái niệm này:
1. Bắt đầu bằng cách sắp xếp các đồ vật rất khác nhau như đếm gấu và các khối.
Yêu cầu chúng đặt những con gấu vào một thùng và các khối vào một thùng
khác.
2. Việc sắp xếp các đối tượng ở dạng 3D dễ dàng hơn so với các đối tượng trên
giấy. Đừng nói về ý tưởng giống và khác nhau vào lúc này mà hãy dựa trên ý
tưởng rằng chúng đang sắp xếp các đồ vật vì chúng giống nhau. Nhiều lớp học
mẫu giáo có bồn đựng dụng cụ. Sử dụng một số vật phẩm đó trong giai đoạn
này.
3. Đưa cho học sinh một đồ vật, sau đó đặt 2 đồ vật trước mặt học sinh và yêu cầu
các em chọn đồ vật giống nhau. Nếu học sinh gặp khó khăn trong việc xác định
đồ vật nào giống nhau, hãy cho trẻ sờ vào đồ vật đó và nói về việc các đồ vật
giống nhau như thế nào. Cả hai đều là…. Cả hai bọn họ đều có …. Vật này
không giống hoặc nó không giống với 2 vật kia vì nó là….
4. Khi học sinh của bạn bắt đầu xác định một cách nhất quán các đồ vật giống
nhau, bạn có thể bắt đầu đưa cho chúng một đồ vật và yêu cầu chúng xác định
đồ vật nào khác với 2 đồ vật còn lại.
5. Để dạy khác nhau, hãy đưa cho học sinh 3 đồ vật (2 trong số đó giống nhau) và
hỏi trẻ xem đồ vật nào không giống với 2 đồ vật còn lại.
6. Bắt đầu thay đổi ngôn ngữ của bạn từ “Không giống nhau” thành “Khác biệt”.

13
7. Dần dần, bạn có thể đưa cho học sinh cả một túi đựng đồ và chúng sẽ có thể
ghép tất cả các đồ vật trong túi giống nhau và khác nhau.
8. Khi học sinh của bạn liên tục xác định được điểm giống và khác nhau, bạn có
thể chọn sử dụng một số chương trình có sẵn để dạy nhận thức và nhận thức
xúc giác.

Lời khuyên để dạy giống nhau hoặc khác nhau:


1. Đến tủ thủ công lấy 15 đến 20 món rồi dán vào thẻ ghi chú để làm thẻ xúc giác
mà học sinh có thể ghép lại.
2. Sử dụng đồ vật và nói về đặc điểm, thuộc tính của từng đồ vật. Nói những điều
này giống nhau vì cả hai đều…
3. Cách tốt duy nhất để dạy ý tưởng này là ôn lại khái niệm này hàng ngày.

5. Trình bày các phương pháp dạy học chủ đạo


cho trẻ khiếm thị (TIN)
- Tất cả các phương pháp dạy học phổ thông đều có thể áp dụng để dạy học sinh
khiếm thị, tùy vào khả năng và nhu cầu của từng trẻ. Tuy nhiên, do những đặc
điểm đặc thù trong phương thức tiếp cận, thu thập, lĩnh hội thông tin nên việc
nhận thức thông qua các phương tiện dạy học trực quan trở nên quan trọng hơn,
ưu tiên hơn so với trẻ bình thường.
- Việc sử dụng lời nói mô tả, giảng giải kết hợp với tay sờ vẫn là phương pháp
dạy học hiệu quả đối với trẻ khiếm thị.
- Với trẻ nhìn kém, việc tận dụng phần thị lực còn lại kết hợp với tay sờ và sự
giải thích, mô tả, giảng giải của GV là lựa chọn ưu tiên.
pp thuyết trình
- ngắn gọn, không dài dòng, lan man
- sử dụng ngôn ngữ mang hình tượng xúc giác, khứu giác và âm thanh
pp Giảng giải
- giải thích đi kèm với minh họa trực quan
- sử dụng biện pháp suy diễn (suy từ con Mèo ra con hổ)

14
Pp hỏi đáp
- những câu hỏi phát hiện
- câu hỏi yêu cầu kể lại cảm tưởng, cảm giác
- câu hỏi yêu cầu trẻ mô tả, giải thích bằng ngông ngữ của mình
- những câu hỏi gợi ý, dẫn dắt
- thay đổi câu hỏi cho phù hợp
- sử dụng những câu hỏi giống như với trẻ bình thường
Pp luyện tập, thực hành
- Làm mẫu
- Cầm tay chỉ việc
- Cho trẻ đủ thời gian
- Cho trẻ tham gia vào toàn bộ quá trình
- Chia nhỏ nhiệm vụ
Pp trực quan
- Vật thật, người thật
- Mô hình, hình nổi cho HS mù
- Trang ảnh điều chingr cho HS nhìn kém
- Hướng dẫn phương pháp quan sát
Pp sắm vai
- Chuẩn bị sẵn dụng cụ
- Nói rõ yêu cầu đối với vai diễn
- Nhân vật không phải di chyuển quãng đường xa
- Nhân vật không có nhiều động tác phức tạp
- Lồng tiếng
Pp hợp tác nhóm
- Nhóm có HS nhìn kém và HS mù
- Yêu cầu tất cả HS giơ tay và chờ đến khi được gọi tên mới nói
- HS biết mình ngồi cạnh ai
- Gọi tên HS

15
- Tóm tắt ý kiến đã trình bày (GV hoặc HS)
Pp tham quan dã ngoại
- Khảo sát trước địa điểm
- Lên kế hoạch chi tiết, tỉ mỉ
- Cung cấp trước thông tin
- Căng biển hiệu trước nơi đến tham quan (nếu được)
- Lưu ý với những đồ vật không được phép sờ
- Tổ chức thảo luận sau buổi tham quan
- Viết bài văn, đoạn văn mô tả
Pp mô tả tranh hình
- Mô tả những nét đặc trưng nhất của tranh hình, làm nổi bật nội dung
chính của bức tranh, chú ý mô tả chính xác hành động trong tranh
- Chú ý: Với HS nhìn kém nên đặt cau hỏi định hướng cho việc quan sát
Sử dụng bảng lớp
- Bảng lúc nào cũng được lau sạch sẽ, dùng phấn trắng hoặc vàng trên
bảng đen
- Trình bày rõ ràng, chữ viết rõ nét, đủ lớn để HS nhìn kém đọc được
- Chỉ viết những nội dung quan trọng, cần nhớ
- Đọc và nhắc lại những gì viết trên bảng
- Mô tả tranh minh họa (vẽ hoặc treo lên bảng)
- Gọi hs nhắc lại các nội dung đã ghi trên bảng
PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC TRỰC QUAN
Vật thật
- Hình dạng
- Màu sắc
- Cấu tạo (tổng thể và từng bộ phận)
- Kích thước, độ lớn
- Sự vận động, biến đổi
- Tỉ lệ tương quan giữa các bộ phận và giữa các sự vật

16
- Các đặc điểm tính chất khác (âm thanh, mùi vị, bề mặt)
Mô hình
- Mô hình là những vật giả, phản ánh khái quát hình dạng, cấu tạo cà tỷ lệ
tương quan giữa các bộ phận của sự vật hiện tượng
- Các nội dung có thể sử dụng mô hình:
+Chủ đề thực vật: mô hình cây lá, hoa quả
+Chủ đề động vật: mô hình con ốc, con cua, con giun, con cá..
+Chủ đề cơ thể người: mô hình cấu tạo ngoài của cơ thể người, mô hình các cơ
quan nội tạng
Hình nổi
- Nằm trong trường xúc giác của hs
- Minh họa xúc giác rõ ràng, hợp lý
- Màu sắc tương phản để hs nhìn kém dễ nhìn
- Có chỉ hướng
Tranh ảnh phóng lớn
- Tranh ảnh hình vẽ phải có kích thước lớn hơn bình thường
- Nét vẽ đậm hơn, màu sắc tương phản
- Bỏ qua những chi tiết thứ yếu, tránh gây rối mắt. tốt nhất là sử dụng hình
đơn với màu sắc rõ ràng và chỉ nên sử dụng một mẫu hình nhất định

6. Chiến lược/kĩ thuật hình thành kiến thức số


học cho trẻ khiếm thị. (TIN)
- Dạy các khái niệm số học: tận dụng tất cả các hoạt động trong cuộc sống hàng
ngày để HS được khám phá, so sánh, sắp xếp thứ tự và giải quyết vấn đề liên
quan đến số học
+ Tạo nhiều cơ hội để HS khám phá, tìm hiểu các nhóm đồ vật bằng một hoặc 2
tay và so sánh chúng với nhau
+ tạo nhiều cơ hội để HS được đếm các nhóm đồ vật có số lượng khác nhau, từ đó
phát triển khái niệm về số lượng

17
+ Hướng dẫn HS ghép số đồ vật với số ngón tay
+ Tập cho HS quen với các thuật ngữ: thêm (cộng), bớt (trừ), nhiều hơn, ít hơn,
bao nhiêu? Hơn bao nhiêu, kém bao nhiêu? Cần thêm bao nhiêu nữa..
+ Dạy Toán ở mọi lúc, mọi nơi nếu có thể được (trong giờ định hướng di chuyển,
tự phục vụ…)
- Tạo mọi cơ hội để các em khám phá, so sánh và sắp xếp các tập hợp đồ vật cụ
thể ở lớp và ở nhà.
Ví dụ:
+ Hình thành khái niệm số 1: HS được khám phá những nhóm 1 đồ vật: 1
cây bút, 1 cục gôm, 1 viên phấn, 1 bảng viết, 1 dùi viết (trên lớp). Ở nhà,
các em được làm quen với số 1 qua các tập hợp: 1 cái chén, 1 cái
muỗng, 1 cái tô,..
+ Hình thành khái niệm số 2: HS được khám phá những nhóm 2 đồ vật: 2
cây bút, 2 viên phấn, 2 cuốn tập, 2 ngón tay.

7. Chiến lược/ phương pháp dạy các yếu tố hình


học cho trẻ khiếm thị (NHÂN)
a. Phương pháp trực quan
- Giúp học sinh dễ tiếp cận và lĩnh hội kiến thức vì trẻ được học qua tiếp xúc
trực tiếp với các phương tiện trực quan như vật thật, mô hình, tranh nổi, hình
nổi, tranh ảnh phóng lớn
Ví dụ: Dạy cho trẻ khiếm thị hoàn toàn mà bị bẩm sinh về hình tam giác, nếu
giáo viên chỉ nói giới thiệu và chỉ giảng giải bằng lời nói mà không cho các bé
sờ trực tiếp hình tam giác nổi hoặc mô hình hay vật thật có hình tam giác thì trẻ
sẽ không thể nào hiểu được hình dạng của hình đó và cũng sẽ không thể nào
lĩnh hội được một cách trọn vẹn về hình đó
- Trẻ khiếm thị hạn chế cơ hội học ngẫu nhiên vì thế phương pháp trực quan, đặc
biệt phương pháp sử dụng vật thật trong môi trường tự nhiên sẽ giúp trẻ được
trải nghiệm, thực hành, thực tế cũng như hệ thống kiến thức.

18
b. Phương pháp dùng lời và chữ
❖ Phương pháp giảng giải - minh họa
- Những khái niệm hình học rất trừu tượng nên các em khiếm thị khó có thể
hiểu về nó. Vì thế, giáo viên sử dụng phương pháp này để giảng giải giúp
học sinh hiểu được kiến thức.
Ví dụ: Dạy về diện tích hình bình hành, diện tích hình thoi
● Phương pháp này giúp truyền đạt được khá nhiều thông tin trong
một đơn vị thời gian
● Giúp hệ thống hóa kiến thức mà học sinh đã lĩnh hội được
❖ Phương pháp gợi mở vấn đáp
- Kích thích học sinh tìm tòi những tri thức mới, rút ra những kiến thức đã
được học, tổng kết những tri thức mà học sinh đã thu lượm được, củng
cố ôn tập đào sâu những tri thức đã học, kiểm tra việc nắm những tri
thức của các em.
- Kích thích học sinh suy nghĩ để giải quyết vấn đề và tập cách diễn đạt,
từ đó giúp học sinh hiểu kĩ và nhớ lâu hơn
c. Phương pháp sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu khác
- Sách giáo khoa thể hiện nội dung chương trình mà giáo viên cần truyền tải đến
cho học sinh
- Học sinh có thể theo dõi bài giảng của giáo viên thông qua sách giáo khoa, làm
bài tập về nhà và học bài ở nhà thông qua sách giáo khoa
d. Phương pháp thực hành luyện tập
- Rèn những kĩ năng, kỹ xảo giải những bài toán về hình học
Ví dụ: Dạy học bài diện tích hình bình hành, sau khi giới thiệu xong công thức, S= a.h
( trong đó S là diện tích hình bình hành, a là cạnh đáy và h là chiều cao), giáo viên tiến
hành làm mẫu cho trẻ. Sau đó, cho trẻ luyện tập tính diện tích hình bình hành.
- Việc luyện tập không chỉ hình thành và phát triển những kĩ năng, kĩ xảo từng
môn học mà còn rèn những kĩ năng, kỹ xảo chung như về tư duy logic, tổ chức
lao động, học tập một cách khoa học.

19
8. Điều chỉnh chủ yếu về phương pháp dạy
tiếng Việt (NHÂN)
Ưu tiên phương pháp kết hợp lời nói ngắn gọn rõ ràng có biểu tượng chính xác
kết hợp với giác quan xúc giác.
❖ Đối với phân môn tập đọc:
- Có đủ sách chữ nổi cho học sinh mù
- Sách phóng to và các phương tiện hỗ trợ thị giác cho trẻ nhìn kém
- Chuẩn bị đồ dùng:
+ Vật thật: Cho tất cả các học sinh
+ Mô hình, tranh, hình nổi: Cho học sinh mù
+ Tranh, ảnh thường có điều chỉnh phù hợp (Tăng độ tương phản, phóng to,...)
- Giải nghĩa từ: Sử dụng đồ vật trực quan, yêu cầu học sinh giải nghĩa theo ngôn ngữ
của mình. Kiểm tra các khái niệm thường xuyên
- Luyện đọc: Học sinh khiếm thị đọc nhát gừng, xem các kỹ năng sờ đọc của học sinh.
Với HS nhìn kém, xem mắt ưu tiên, rung giật nhãn cầu, trường thị giác, tăng cường
tập luyện các kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng lấp chỗ trống thị giác
❖ Điều chỉnh trong dạy học Tập làm văn
Thể loại: quan sát tranh và kể lại câu chuyện
- Rất nhiều tranh ảnh trong sách giáo khoa không thể chuyển thành tranh, hình nổi.
Vậy nên giáo viên có thể mô tả tranh, hình ảnh đó và yêu cầu học sinh nói lại ý hiểu
của mình.
- Mô tả chi tiết, tuần tự những nội dung chủ yếu trong tranh để HS có thể kể lại câu
chuyện.
- Với HS nhìn kém, cho các em quan sát, đặt câu hỏi để dẫn dắt, gợi ý giúp các em
hiểu được nội dung của từng bức tranh
Thể loại: miêu tả (người, đồ vật, con vật, cây cối)
- Dạy trẻ một số gam màu cố định
+ Màu xanh của lá cây vào mùa xuân, mùa hè, thu, đông
+ Màu tóc người: lúc trẻ, lúc già
+ Màu lá cờ tổ quốc

20
+ Màu xanh của da trời vào những ngày nắng hạ
+ Màu trời vào những ngày mưa giông
+ Màu của những bãi ngô, thảm cỏ
- Khuyến khích trẻ sử dụng ngôn ngữ chỉ âm thanh, xúc giác, khứu giác nhiều hơn
+ Người: giọng nói, tiếng bước chân đi, cử chỉ dịu dàng, chạm vào tay em như
thế nào?
+ Đồ vật: xù xì, nhẵn, trơn, thô ráp, sắc nhọn, mịn màng,...

9. Đề xuất những điều chỉnh về nội dung,


phương pháp, phương tiện dạy học 01 giờ
học bất kì (NIÊN)
Để tạo ra một giờ học hiệu quả cho trẻ khiếm thị, có một số điều chỉnh về nội
dung, phương pháp và phương tiện dạy học có thể áp dụng:
a. Nội dung:
- Sử dụng các tài liệu và sách học được viết bằng chữ Braille hoặc có phiên bản
âm thanh để trẻ khiếm thị có thể tiếp cận thông tin một cách dễ dàng.
- Đảm bảo rằng nội dung học được trình bày một cách rõ ràng, cụ thể và có hình
ảnh mô phỏng để trẻ có thể hình dung và hiểu rõ hơn.
Ví dụ: Khi dạy tập làm văn, chọn các đề tài gần gũi, dễ hiểu và dễ tưởng tượng như
môi trường xung quanh, gia đình, bạn bè, sở thích, hoặc những kỷ niệm đặc biệt. Sử
dụng các hình ảnh mô tả chi tiết để trẻ dễ hình dung và viết văn.
b. Phương pháp:
- Sử dụng phương pháp học tương tác, trong đó trẻ khiếm thị được tham gia
hoạt động thực hành, ví dụ như: sử dụng các bảng chữ cái Braille để học đọc và
viết, hướng dẫn từng bước cụ thể, minh họa và mô phỏng để trẻ dễ dàng tiếp
cận và thực hành trong phân môn tập làm văn.
- Sử dụng phương pháp giảng dạy đa giác quan, bao gồm việc sử dụng âm thanh,
mô phỏng, và cảm giác để trẻ khiếm thị có thể tiếp thu thông tin một cách toàn
diện (trẻ có thể hiểu rõ nội dung và tạo ra bài văn sáng tạo trong phân môn tập
làm văn).
21
c. Phương tiện dạy học:
- Sử dụng các phần mềm và ứng dụng công nghệ hỗ trợ, như một máy tính có
phần mềm đọc màn hình hoặc các ứng dụng di động dành riêng cho trẻ khiếm
thị. Ví dụ: Sử dụng các phần mềm hỗ trợ đọc văn bản cho trẻ khiếm thị để giúp
trẻ tiếp cận nội dung và tạo văn bản một cách dễ dàng.
- Cung cấp các công cụ học tập hỗ trợ như bảng chữ cái Braille, bút đánh chấm
Braille, hoặc các hình ảnh mô phỏng để trẻ khiếm thị có thể tương tác và học
tập. Ví dụ: Sử dụng sách vở in ấn có kích thước lớn, chữ in đậm, hình ảnh rõ
nét để trẻ dễ đọc và tham khảo.
Ngoài ra, quan trọng nhất là tạo môi trường học tập thoải mái và hỗ trợ cho trẻ khiếm
thị, đồng thời đảm bảo rằng giáo viên và nhân viên hỗ trợ có đủ kiến thức và kỹ năng
để làm việc với trẻ khiếm thị.
❖ Đây là những gợi ý chung cho việc điều chỉnh cho bất kì phân môn nào. Tùy
vào nội dung bài học (tiết học) của đề bài mà chúng ta áp dụng, phân tích,
dòm ngó chi tiết để trình bày cho phù hợp nhé!

22

You might also like