Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 17

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP


------

BÀI THU HOẠCH


HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Họ và tên: Phạm Thị Thu Hà
MSSV: 0023410650
SỐ THỨ TỰ: 30
Lớp HP: GE4091-FR15

Đồng Tháp, 12/2023


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG

1. Sự khác nhau giữa Chủ nghĩa Duy vật và Chủ nghĩa Duy tâm
khi giải quyết nội dung thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học? Lấy ví dụ
chứng minh.

1.1. Vấn đề cơ bản của Triết học.

1.2. Mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của Triết học.

1.3. Sự khác nhau giữa Chủ nghĩa Duy vật và Chủ nghĩa Duy tâm.

2. Thế nào là nguyên tắc toàn diện? Vận dụng nguyên tắc toàn
diện và đưa ra đánh giá những thuận lợi và khó khăn mà nền kinh tế Việt
Nam (Lào) trong năm 2024.

2.1. Khái niệm về nguyên tắc toàn diện.

2.2. Đánh giá về khó khăn và thuận lợi của nền kinh tế Việt Nam 2024.

3. Vận dụng nội dung về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ


tầng và kiến trúc thượng tầng vào phân tích quá trình đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay?

3.1. Khái niệm

3.2. Mối quan hệ biện chứng

3.3. Phân tích quá trình đổi mới nền kinh tế và chính trị ở Việt Nam.

C. KẾT LUẬN

1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về
thế giới; về tự nhiên xã hội và tư duy; về vị trí, vai trò của con người trong
thế giới đó.
Vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN, triết học bắt đầu hình thành
và ra đời tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ Đại (kể cả ở
phương Đông lẫn phương Tây). Ý thức triết học xuất hiện không ngẫu nhiên, mà
có nguồn gốc thực tế từ xã hội với một trình độ nhất định của sự phát triển văn
minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu cầu về
nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết
chung nhất, có tính hệ thống phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính
con người. Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các
loại hình lý luận của nhân loại.
Dưới sự tồn tại và phát triển trên hai ngàn năm lịch sử, ở mỗi thời kỳ lịch
sử khác nhau, triết học đều có đối tượng nghiên cứu khác nhau. Song, khi đã đúc
kết lại toàn bộ bề mặt lịch sử ,Ph. Ăngghen đã khái quát được rằng: “Vấn đề cơ
bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại”.
Đây được coi là vấn đề quan trọng cần được giải quyết trong xuyên suốt
quá trình nghiên cứu về thế giới triết học bởi vì: Thứ nhất, nó nảy sinh cùng với
sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất cả các trường phái triết học cho tới tận
ngày nay; Thứ hai, giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề
triết học khác còn lại và là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của
các nhà triết học cũng như các học thuyết của họ.

2
B. NỘI DUNG
1. Sự khác nhau giữa Chủ nghĩa Duy vật và Chủ nghĩa Duy tâm khi giải
quyết nội dung thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học.
1.1. Vấn đề cơ bản của triết học.
Vấn đề mà triết học muốn đề cập đến chính là: Mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức. Thông qua vấn đề này mà các nhà triết học cần phải
trả lời hai câu hỏi lớn.
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau?
Cái nào quyết định cái nào? Cái gì là bản chất của mọi tồn tại trong
thế giới? (vật chất hay ý thức?)
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được (hiểu được) thế giới
đúng như nó tồn tại hay không?
1.2. Mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của Triết học.
Trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại từ thời cổ đại đến nay
đã có những lời giải đáp khác nhau và đối lập nhau đối với hai câu
hỏi đó. Đây là xuất phát điểm của sự khác biệt và đối lập giữa các
trường phái triết học lớn trong lịch sử:
 Chủ nghĩa duy vật: là những người cho rằng vật chất, giới tự
nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người. Học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau, giải thích
mọi hiện tượng của thế giới này bằng các nguyên nhân vật
chất - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế giới này
là nguyên nhân vật chất.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình
thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
 Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh
thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước thế giới tự nhiên. Các học

3
thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau, song, chủ trương
giải thích toàn bộ thế giới này bằng các nguyên nhân tư tưởng,
tinh thần - nguyên nhân tận cùng của mọi vận động của thế
giới này là nguyên nhân tinh thần.
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
1.3. Sự khác nhau giữa Chủ nghĩa Duy vật và Chủ nghĩa Duy tâm.
Đối với mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học: Giữa vật chất và ý
thức: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
Cái gì là bản chất của mọi tồn tại trong thế giới? (vật chất hay ý
thức?).
Khi nghiên cứu về vấn đề này, chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy
tâm đã có sự khác nhau rõ rệt, cụ thể:
 Chủ nghĩa duy vật cho rằng thực tại tồn tại độc lập và không
phụ thuộc vào ý thức. Thực tại vật chất, vật chất tồn tại trước
và độc lập với ý thức. Ý thức và nhận thức của con người chỉ
là một phản ánh của thực tại vật chất. Chủ nghĩa duy vật coi
thực tại là nguồn gốc, cơ sở của ý thức và tác động lên ý thức.

Ví dụ: Ta coi rằng tồn tại của bàn là do nó có hình dạng, kích
thước, và chất liệu riêng biệt. Bàn tồn tại độc lập với ý thức của
chúng ta. Người ta có thể nhìn thấy, chạm vào và sử dụng bàn
mà không cần phụ thuộc vào ý thức.
 Chủ nghĩa duy tâm thì ngược lại, cho rằng ý thức là nguồn
gốc của thực tại. Ý thức và ý niệm được coi là hiện thực cơ bản
và thực tại. Thực tại được tạo nên và tồn tại thông qua ý thức.
Ý thức là một lực tạo nên thực tại và có quyền ảnh hưởng lên
thực tại.

4
Ví dụ: Ta coi rằng tồn tại của bàn là do ý thức của chúng ta. Ý
thức của chúng ta tạo ra hình dạng, kích thước và chất liệu của
bàn. Nếu không có ý thức, bàn không thể tồn tại. Điều này có
nghĩa là thực tại của bàn phụ thuộc vào ý thức và được tạo ra
bởi ý thức.
2. Thế nào là nguyên tắc toàn diện? Vận dụng nguyên tắc toàn diện và
đưa ra đánh giá những thuận lợi và khó khăn mà nền kinh tế Việt
Nam (Lào) trong năm 2024.
2.1. Nguyên tắc toàn diện
V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải
nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và “quan
hệ gián tiếp” của sự vật đó” (1)

Có thể nói, nguyên tắc toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận hết
sức quan trọng. Nó giúp con người nhận thức được sự vật với tất cả
các thành tố, trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người
và để cải tạo được sự vật thì phải bằng hoạt động thực tiễn biến đổi
những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như các mối liên hệ qua lại
của sự vật đó với các sự vật khác. Từ đó, phải sử dụng đồng bộ nhiều
biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi
những hiện tượng tương ứng.

Khi áp dụng nguyên tắc toàn diện vào thức tiễn, không những có thể
giúp chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến diện, siêu
hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải
quyết các tình huống thực tiễn, mà còn tạo ra khả năng nhận thức
đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có
hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.

5
Theo đó cơ sở lý luận của nguyên tắc là dựa theo quan điểm phương
pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên
hệ giữa sự phát triển và sự phổ biến dùng để cải tạo hiện thực và
nhận thức.
2.2. Đánh giá về khó khăn và thuận lợi của nền kinh tế Việt Nam
2024.
 Thực trạng nền kinh tế thế giới 2023.
Trong bối cảnh nền kinh tế chịu sự tác động tiêu cực chồng chéo do
đại dịch Covid-19 và xung đột chính trị căng thẳng giữa Ucraina –
Nga, kèm theo đó là chính sách tiền tệ thắt chặt hơn để giảm lạm
phát thì công cuộc khôi phục nền kinh tế toàn cầu vào những tháng
đầu năm 2023 sẽ suy
giảm vào những
tháng cuối năm.
Chính vì lẽ đó mà
hoạt động nền kinh tế
toàn cầu 2023 chậm
lại, giảm tốc một các
rõ rệt.
 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam 2023.
Ngày 23/10/2023, kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XV đã đưa ra
những đánh giá tổng quan cho nền kinh tế Việt Nam vào 3 quý đầu
năm 2023. Nhìn chung, nền kinh tế vẫn đang tăng trưởng một cách
đáng trân trọng, mặc dù đã chịu không ít ảnh hưởng tiêu cực từ bên
ngoài (quốc tế, khu vực trên nhiều linh vực cả kinh tế, chính trị, quân
sự) và bên trong (những khó khăn lớn của một nền kinh tế mở phụ
thuộc bởi bên ngoài, mới trải qua giai đoạn khủng hoảng nghiêm
trọng bởi đại dịch Covid-19), có ảnh hưởng tiêu cực đến chuỗi cung
ứng, giá cả, an ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe doạ:

6
Tốc độ tăng trưởng GDP: đạt
4,24%, và có xu hướng tăng
dần theo thời gian.
Tốc độ tăng trưởng giá trị
tăng thêm (VA): đạt tới 3,43%,
cao nhất so với cùng kỳ kể từ
2011 đến nay và đóng góp
9,16% tăng trưởng chung, cao hơn mức Kế hoạch đặt ra đối với
ngành nông nghiệp 2023 (3%).
Tình hình lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng bình quân:
tăng 3,16% so với cùng kỳ, ước cả năm tăng 3,5%, đạt mục tiêu Quốc
hội đề ra.

Với bối cảnh nhiều thách thức, khó khăn hơn là thuận lợi ở trong và
ngoài nước trong năm 2023 thì nền kinh tế Việt Nam năm 2024 cũng
có những thuận lợi và trở ngại không kém:
 Khó khăn:
Tình hình chính trị thế giới: Chiến tranh giữa Nga và Ucraina vẫn
căng thẳng kéo dài, đến nay vẫn không có dấu hiệu ngừng chiến.
Điều này làm cho môi trường chính trị trở nên bất ổn, có nhiều rủi
ro nếu như đầu tư hoặc phát triển kinh tế.
Nền kinh tế toàn cầu: gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư từ
những quốc gia khác, do chịu sự ảnh hưởng của “địa chính trị” dẫn
đến biến động không ngừng, không có sự đảm bảo, chắc chắn. Không
những thế, nền kinh tế chịu phải rủi ro khủng hoảng, toàn cầu hay
tình trạng doanh nghiệp phá sản tăng cao, gia tăng nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng.

7
Tình trạng “thiếu điện” ở trong nước cũng là một trong điểm nghẽn
làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp và đời sống của người dân; chậm hoàn thuế.
Thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu: có chiều hướng diễn biến
phức tạp, trái quy luật, khó dự báo hơn. Nếu tình trạng kéo dài có
thể đe dọa đến nền khôi phục kinh tế, kèm theo là chịu sự tổn thất
cao.
Nguồn – kĩ năng lao động: Còn yếu, không có sự gắn kết lâu dài với
doanh nghiệp, Nhà nước,...
Chính sách tài chính – tiền tệ: tất cả ngân hàng trung ương đều điều
hành chính sách theo hướng “dò đường” với tự tin rất thấp, khả năng
mắc sai lầm rất cao, kể cả Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Hiện trạng,
“công nợ” ở trong và ngoài nước vẫn còn tăng cao, vô tình làm áp lực
lên nền kinh tế.
 Thuận lợi:

Vị trí địa lý: nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, tiếp giáp 4 nước
đất liền và giáp biển Đông. Tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình
giao thương giữa các nước trong khu vực.
GDP bình quân trên một người: có thể đạt tới 4700 đến 4730 đô la
Mỹ (USD).
Chính phủ ban hành nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy
nền kinh tế trong nhiều lĩnh vực như: y tế; thị trường vốn; đất đai;
bất động sản; xây dựng;...
Chính sách tài khóa: hoãn thuế, giảm thuế, thúc đẩy đầu tư công,...
Chính sách tiền tệ: giảm lãi suất, cho phép cấu nợ, giãn nợ, hoãn nợ,
nới lỏng điều khoản cho vay,....
Dịch vụ: duy trì và tăng trưởng không ngừng, tăng 6.32% (đóng góp
2,78 điểm % và 65,6% trong mức tăng trưởng chung (4,24%))

8
Đầu tư nước ngoài: xây dựng chính sách thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, FDI có thể tăng trưởng trong thời gian trung – dài hạn khi tận
dụng tốt việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với nhiều FTAs
được ký kết và có hiệu lực (dòng vốn FDI trong quá trình định hình
lại đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu.)
Cơ sở hạ tầng: phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng
bộ, hiện đại, nhất là hệ thống đường cao tốc, nâng cấp các sân bay,
bến cảng, hạ tầng đô thị, liên vùng… Hoàn thành một số dự án hạ
tầng giao thông quan trọng, trong đó có dự án mở rộng cảng hàng
không Điện Biên. Tạo điều kiện thuận lợi trong việc lưu thông hàng
hóa và dịch vụ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ ở trong và
ngoài nước.
Khoa học – kĩ thuật: tiếp thu sự tiến bộ từ công nghệ 4.0 trên thế giới,
góp phần đổi mới và sáng tạo khoa học – kĩ thuật, tạo ra những thiết
bị hiện đại phục vụ cho lao động và sản xuất ngày càng hiệu quả.

Nhìn chung, nếu bối cảnh thế giới trở nên thuận lợi và trong nước
có thể phát huy tốt hết tất cả những điểm mạnh từ năng lực truyền
thống đến sự đổi mới cải tiến, nắm bắt chính xác sự biến động kinh
tế trên thế giới, khắc phục những điểm yếu thì nền kinh tế Việt Nam
trong năm 2024 – 2025 có thể khôi phục và phát triển mạnh mẽ, tốc
độ tăng trưởng có thể lên tới mức 6 – 6.5%.

3. Vận dụng nội dung về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở


hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào phân tích quá trình đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay?
3.1. Khái niệm
Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.

9
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội,
những tiết chế tương ứng, và những quan hệ nội tại của chúng được
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
3.2. Mối quan hệ biện chứng
Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng thể hiện qua:
 Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với nó.
 Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng
thay đổi theo. Quá trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai
đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái
kinh tế – xã hội khác,mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi
hình thái kinh tế – xã hội.

Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở
hạ tầng:

 Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có
tác động đến cơ sở hạ tầng.
 Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
diễn ra theo hai chiều.
 Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự
phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến
trình phát triển khách quan của xã hội.

3.3. Phân tích quá trình đổi mới nền kinh tế và chính trị ở
Việt Nam.
Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng chúng ta có thể thấy rõ quy luật này là cơ sở
khoa học của việc nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị. Có thể nói, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối

10
quan hệ cơ bản nhất, trọng yếu nhất, bao trùm nhất chi phối các
quan hệ khác trong đời sống xã hội; hai yếu tố này đều tác động
qua lại lẫn nhau một cách rất mạnh mẽ, chúng ta không thể tách rời
hay tuyệt đối hóa một trong hai mặt nhận thức cùng thực tiễn của
kinh tế - chính trị.
Nhận thức được ý nghĩa sâu sắc trong mối quan hệ biện
chứng kinh tế và chính trị, Đảng và Nhà nước đã không ngừng đề
ra những chủ trương, chính sách nhằm đổi mới nền kinh tế chính
trị của Việt Nam. Tiền đề quan trọng là lấy “đổi mới kinh tế” làm
trung tâm, song chính trị cũng phải từng bước thận trọng cải cách
bằng những hình thức thích hợp nhằm tạo nên nền móng vững
chắc, góp phần đưa Việt Nam vươn tầm thế giới.
Vào những năm 1986, trong bối cảnh có sự “giảm sút của sản xuất
vào những năm 70 cùng với những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh
tế, nhất là bố trí đầu tư và xây dựng cơ bản của 5 năm 1976-1980,
đã để lại hậu quả ặng nề”. Đại hội Đại hội VI của Đảng đề ra hai
nhiệm vụ chính: Đổi mới nền kinh tế và Đổi mới chính trị, cụ thể là
tập trung cải cách chính trị “PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ
CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA” (đề cao vai trò kiến trúc thượng
tầng), dùng chính trị làm tiền đề để quyết định về kinh tế cũng như
tất cả những lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Sau hơn 35 năm không ngừng đổi mới và hội nhập với thế
giới, ngày nay Đảng và Nhà nước ta hết sức tập trung vào việc “đổi
mới kinh tế”, lấy kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là: “đổi
mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm,
trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh

11
thần của xã hội”. Nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân
dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ
sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng
thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng
tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Ở mỗi thời kỳ, hình thức đổi mới khác nhau, song mục đích
và kết quả đạt được đều giống nhau. Kết quả sau những công cuộc
đổi mới, nước ta từ một nước có nền kinh tế một phần, cơ chế hóa
tập trung về quan liêu và bao cấp; thành một nước có nền kinh tế
nhiều phần và được quản lý bởi Nhà nước cùng sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng. Đây được cho là một bước ngoặc vĩ đại của nền kinh
tế - chính trị Việt Nam, không những tạo được sự công bằng trong
xã hội mà còn đẩy mạnh công cuộc “công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, tăng trưởng nền kinh tế không ngừng. Biến Việt Nam từ
một nước có nền kinh tế “khép kín” - tự cung tự cấp thành nước có
nền kinh tế “mở” - không ngừng giao lưu và phát triển rộng khắp
Năm Châu. Trong đó, Việt Nam cũng đã đạt không ít các thành tựu,
cụ thể:
Năm 2011, tại đại hội XI của Đảng, đánh dấu sự kiện 20 năm
tuân thủ và thực hiện tốt theo Cương lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, ần đầu Đảng ta đặt vấn đề phải nghiên cứu các mối quan hệ
lớn gắn với tổng kết việc thực hiện các mối quan hệ đó trong thực
tiễn nhằm bảo đảm thực hiện được tám phương hướng xây dựng
CNXH, phấn đấu “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn đảng, toàn dân
ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong những

12
mối quân hệ đó, có cả mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị: Vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để có thể đạt
được mục tiêu, Đảng và Nhà nước đã không ngừng “Kiên trì và
quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi
mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao
nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”.
Năm 2016, tại Đại hội XII của Đảng cũng đã một lần nữa
nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi
phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”. Chính
vì lẽ đó, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nhiều chủ trương lớn được
Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện; về kinh tế có 3 đột
phá chiến lược: cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới. Về chính trị, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
tạo bước tiến và thành quả rõ rệt trong chống quan liêu, tham
nhũng. Mục đích để đẩy mạnh quá trình tập trung đổi mới thể chế
phát triển cả kinh tế và chính trị
Tuy nhiên, để cân bằng tốt trong việc vừa đổi mới kinh tế,
vừa đổi mới chính trị là việc làm rất khó. Mặc dù Việt Nam không
ngừng cải thiện và có thể hội nhập với thế giới, song việc cân bằng

13
nền kinh tế - chính trị vẫn còn mặt hạn chế, cụ thể: “Đổi mới chính
trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Để khắc
phục những hạn chế này, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ
trương mới, đó chính là:
Về đổi mới chính trị, “tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn
diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư
tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội
bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”;
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì
nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực
gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước
và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn
xã hội”.
Về đổi mới kinh tế, “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo
môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;

14
tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển
kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn
lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số
trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài
hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”
Tất cả những thành tựu trên đã chứng minh được rằng: Sự
nghiệp đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, phù hợp với xu thế tất yếu
của thời đại, trong đó có thành tựu nhất định trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Nhìn vào
thực tiễn cho thấy, Đảng và Nhà nước nắm vững mối quan hệ biện
chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không những
thế còn ứng dụng một cách rất khéo léo, thông minh, thiết thực
cùng hiệu quả. Vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương mà Đảng
đã đề ra, trong đó đã luôn tuân thủ thực hiện tốt Cương lĩnh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, thế giới không ngừng phát triển
và tiến bộ, để Việt Nam có thể sánh ngang với các cường quốc,
chúng ta phải không ngừng nổ lực, tìm kiếm những phướng pháp,
đề án mới; quan trọng nhất là phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ,
nhận thức đúng đắn, nhất là vấn đề xây dựng đồng bộ thể chế kinh
tế và thể chế chính trị.

15
C. KẾT LUẬN
Triết học có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội con người.
Không những giúp chúng ta có cái nhìn khoa học, đúng đắn với sự
vật hiện tượng mà còn giúp cải thiện đời sống, sinh hoạt con người
ngày càng tiến bộ, nhất là giúp cho Đảng có thể đề ra những chính
sách, chủ trương, đường lối đúng đắn, giúp Việt Nam xây dựng xã
hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chính vì thế, ngày nay thế hệ trẻ phải liên tục trau dồi kiến
thức, nắm vững tất cả các yêu tố quan trọng trong Triết học, góp
phần xây dựng đất nước vững mạnh, đưa vị thế Việt Nam lên cao, có
thể sánh ngang các cường quốc.
Cảm ơn thầy Phùng Ngọc Tiến đã giúp em hiểu biết sâu hơn
về môn Triết học, em mong thế hệ trẻ mai sau có thể nghe – học hỏi
từ những bài giảng hay và quý báu của thầy. Em xin chân thành biết
ơn với những nổ lực của thầy.

16

You might also like