Professional Documents
Culture Documents
CHƯƠNG 2. CHỦ THỂ CỦA TPQT
CHƯƠNG 2. CHỦ THỂ CỦA TPQT
CHƯƠNG 2. CHỦ THỂ CỦA TPQT
- Pháp luật của quốc gia sở tại sẽ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến phạm vi hoạt động
của pháp nhân, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của pháp nhân trên lãnh thổ của quốc gia đó.
Ví dụ, Công ti B mang quốc tịch Bỉ có chi nhánh tại Việt Nam, đối với các vấn đề liên
quan đến thành lập và quyền năng chủ thể của chi nhánh, tài sản của chi nhánh phải tuân theo
các quy định của pháp luật Bỉ, còn vi phạm hoạt động của chi nhánh, quyền và nghĩa vụ cụ thể
của chi nhánh tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra: khi pháp nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, địa vị pháp lí của pháp nhân
còn chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, như các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế trùng,
hiệp định thương mại… Hiện nay, khi thương mại ngày càng phát triển, hội nhập trở thành một
yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của các quốc gia thì số lượng các điều ước tế được kí kết
giữa các quốc gia để điều chỉnh các hoạt động kinh tế thương mại nói chung và các hoạt động
của các pháp nhân nói riêng ngày càng trở nên rất phổ biến và có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định địa vị pháp lí của pháp nhân tại quốc gia sở tại.
3.2.2. Xác định năng lực chủ thể của pháp nhân nước ngoài
Để tham gia vào các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi pháp
nhân phải có năng lực pháp luật dân sự (khả năng được hưởng quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật). Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng kí hoạt
động, thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm đăng kí. Năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt hoạt động của pháp nhân
Pháp luật của các nước khác nhau có các quy định khác nhau về năng lực chủ thể của pháp
nhân. Vấn đề đặt ra là năng lực chủ thể của pháp nhân nước ngoài được xác định theo hẹ thống
pháp luật nào khi pháp nhân tham gia vào các giao dịch dân sự? Để giải quyết vấn đề này, tư
pháp quốc tế của các nước thường áp dụng nguyen tắc chủ đạo là năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân được xác định theo pháp luật của nhà nước mà pháp nhân được thành lập. Ví dụ,
Điều 110 Tư pháp quốc tế Bỉ quy định : “Tổ chức có tư cách pháp nhân được điều chỉnh bởi
luật của nước nơi thành lập kể từ thời điểm hoạt động”.
Tại Việt Nam, khoản 2 Điều 676 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân; tên gọi của pháp nhân; đại diện theo pháp luật của pháp nhân; việc tổ chức, tổ
chức lại, giải thể pháp nhân; quan hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp nhân; trách
nhiệm của pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp nhân được
xác định theo pháp luật của nhà nước mà pháp nhân có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều này”. Theo quy định này, pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân và hàng loạt các nội dụng được liệt kê ở trên sẽ được xác định theo
pháp luật nước đó. Như vậy, để xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, tư pháp
quốc tế Việt Nam đã áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis). Quy định
này là hợp lí, bởi lẽ quốc tịch của pháp nhân là mối liên hệ mật thiết giữa pháp nhân với một
nhà nước nhất định, do vậy năng lực pháp nhân với một nhà nước nhất định, do vậy năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân (trực tiếp là quyền và nghĩa vụ của pháp nhân) phải được xác
định theo pháp luật của nước mà pháp nhân đó mang quốc tịch
Ví dụ, Công ti Song Long của Việt Nam kí kết một hợp đồng bán sản phẩm cho Công ti X
mang quốc tịch Singapore, hợp đồng được kí kết tại Lào. Nếu xảy ra tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng và được giải quyết tại cơ quan tài phân
của Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của Công ti X sẽ được xác định theo pháp luật của
Singapore.
Bên cạnh nguyên tắc chủ đạo là luật quốc tịch của pháp nhân, pháp luật Việt Nam quy định
trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam
(khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự 2015). Đây là quy phạm xung đột một chiều chỉ rõ pháp luật
được áp dụng là pháp luật của Việt Nam. Quy định này nhằm đảm bảo mọi hoạt động của pháp
nhân nước ngoài tại Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này pháp
nhân nước ngoài sẽ có các quyền và nghĩa vụ như pháp nhân Việt Nam ( trừ trường hợp ngoại
lệ).
Ví dụ, Công ty B mang quốc tịch Nhật Bản tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam,
năng lực pháp luật dân sự của Công ty B (quyền và nghĩa vụ) sẽ được xác định theo pháp luật
Việt Nam. Theo đó công ty B sẽ có các quyền và nghĩa vụ như các công ty của Việt Nam trong
các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự 2015 cho thấy để xác định năng
lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam, tư pháp quốc tế Việt Nam kết hợp
giữa hai hệ thuộc là luật nơi pháp nhân mang quốc tịch và pháp luật Việt Nam. Quy định này là
sự kế thừa có sửa đổi, bổ sung các nội dung được quy định tại Điều 765 Bộ luật dân sự 2005.
Cụ thể, Điều 676 Bộ luật dân sự 2015 đã thay vì áp dụng “pháp luật của nước nơi pháp nhân đó
được thành lập” bằng quy định áp dụng “pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch” để
xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân cũng như các nội dung pháp lí có liên quan.
Việc ghi nhận trực tiếp hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân trong trường hợp này tạo điều
kiện cho việc áp dụng và thực thi điều luật một các thuận lợi và chính xác trong thực tiễn.
Điểm giống nhau giữa Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 trong việc xác định
năng lực chủ thể của pháp nhân nước ngoài là cả hai đều không có quy định về việc xác định
năng lực hành vi dân sự của pháp nhân nước ngoài. Điều này có thể được lí giải là khá với thể
nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân cùng xuất hiện và cùng mất đi ở
cùng một thời điểm, do vậy việc xác định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đã bao gồm
cả năng lực hành vi của pháp nhân đó. Bên cạnh đó năng lực hành vi của pháp nhân được xác
định thông qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân, do vậy việc xác định năng lực hành vi
của pháp nhân thì không cần thiết phải xây dựng một điều luật riêng.
Nhìn chung các quy định về xác định năng lực chủ đề của pháp nhân nước ngoài theo quy
định của pháp luật Việt Nam vừa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân nước
ngoài, cũng như bảo đảm các hoạt động của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam luôn phù hợp
với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam.
Ngoài ra, việc xác định năng lực chủ thể của pháp nhân còn được quy định trong các
HĐTTTP mà Việt Nam kí kết với các nước. Ví dụ, khoản 2 Điều 2 HĐTTTP và pháp lí giữa
Việt Nam và Ba Lan quy định: “ Năng lực pháp lí và năng lực hành vi của pháp nhân được xác
định theo pháp luật của nước kí kết mà pháp nhân đặt trụ sở”. hoặc khoản 3 Điều 17 HĐTTTP
giữa Việt Nam và Lào quy định: “ Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân tuân theo pháp
luật của kí kết nơi pháp nhân đó được thành lập”.
3.2.3. Hoạt động của pháp nhân nước ngoài tai Việt Nam
Kể từ khi Việt Nam thi hành chính sách mở cửa, hội nhập với thể giới đặc biệt là khi Việt Nam
trở thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), pháp nhân nước ngoài đến
Việt Nam ngày càng nhiều và hoạt động tại hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Các
hoạt động của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam là tương đối đa dạng, tuy nhiên phổ biến
nhất là:
- Đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
- Đặt văn phòng đại diện, chi nhánh để tiến hành hoặc xúc tiến các hoạt động thương mại
tại Việt Nam.
3.2.3.1. Hoạt động đầu tư kinh doanh của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam
Tại Việt Nam, pháp nhân nước ngoài thuộc mọi quốc tịch, mọi thành phần kinh tế đều có
quyền đầu tư kinh doanh tại Việt Nam: “ Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư
để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn,
mua cổ phẩn, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thứ hợp đồng hoặc thực hiện
dự án đầu tư” (khoản 5 Điều 3 Luật đầu tư 2014). Theo quy định của Luật đầu tư 2014, pháp
nhân nước ngoài muốn hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam phải được cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp giấy chứng nhận đăng kí đầu tư “giấy chứng nhận đăng kí đầu tư là
văn bản, bản điện tử ghi nhận thông tiên đăng kí của nhà đầu tư về dự án đầu tư” (khoản 6 Điều
3). Pháp nhân nước ngoài có thể tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam theo
các hình thức sau:
- Thành lập tổ chức kinh tế bao gồm thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh (khoản 16 Điều 3 Luật đầu
tư 2014).
- Đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng, bao gồm:
+ Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tá công tư (hợp đồng PPP). Đây là hợp đồng được kí
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án
đầu tư theo quy định tại Điều 27 của Luật đầu tư (khoản 8 Điều 3 Luật đầu tư 2014).
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) là hợp đồng được kí giữa các nhà đầu tư
nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức
kinh tế (khoản 9 Điều 3 Luật đầu tư 2014).
- Thực hiện dự án đầu tư: Dự án đầu tư là tập hợp đề xuất bỏ vốn trung hạn hoặc dài hạn
để tiến hành các hoạt đồng đầu tư kinh doanh trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian
xác định (khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư 2014).
Như vậy, so với trước đây các hình thức đầu tư đã được mở rộng hơn rất nhiều. Điều này
cho thấy một nền kinh tế năng động, phát triển và các chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt
Nam đối với đầu tư nói chung và đầu nước nước ngoài nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Khi đầu tư và Việt Nam pháp nhân nước ngoài có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay, các quyền và
nghĩa cụ thể của pháp nhân nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực đầu tư được quy định cụ thể
trong Luật 2014. Trong một số lĩnh vực nhất định, để khuyến khích đầu tư nước ngoài, Luật
đầu tư quy định một số quyền mà chỉ dành riêng cho nhà đầu tư nước ngoài. Ví dụ, sau khi
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được
chuyển ra nước ngoài các khoản thu nhập hợp pháp của mình như: vốn đầu tư, các khoản thanh
lí đầu tư; thu nhập tư hoạt động đầu tư kinh doanh; tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp
của nhà đầu tư ( Điều 11 Luật đầu tư 2014).
3.2.3.2. Pháp nhân nước ngoài đặt văn phòng đại diện, chi nhánh để thục hiện hoặc xúc
tiễn các hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Hiện nay, có rất nhiều pháp nhân nước ngoài đặt văn phòng đại diện, lập chi nhánh tại Việt
Nam để tìm hiểu thị trường, giao dịch, kí kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ… với các
cá nhân, tổ chức Việt Nam. Theo quy định của Luật thương mại 2005, văn phòng đại diện, chi
nhánh của pháp nhân nước ngoài được thành lập tại Việt Nam để thực hiện hoặc xúc tiễn các
hoạt động thương mại sẽ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Pháp
nhân nước ngoài phải chịu trách nhiệm trước pháp luật Việt Nam về toàn bộ hoạt động của văn
phòng đại diện, của chi nhánh do pháp nhân nước ngoài mở tại Việt Nam (khoản 3 Điều 16
Luật thương mại Việt Nam).
a. Văn phòng đại diện của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 07/2016/NĐ-CP, để được đặt văn phòng đại diện tại
Việt Nam pháp nhân đó phải được sở công thương hoặc ban quản lí khu công nghiệp, khu chế
xuất… của Việt Nam cấp phép. Điều kiện để cấ phép là pháp nhân đó phải được thành lập hoặc
công nhân hpwj theo pháp luật của nước thanh gia điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên,
đã hoạt động không dưới 1 năm. Văn phòng đại diện của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam
có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 17, Điều 18 của Luật thương mại Việt Nam.
b. Chi nhánh của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 07/2016/ NĐ-CP, để dược chi nhánh tại Việt Nam
pháp nhân nước ngoài phải được Bộ Công Thương của Việt Nam cấp phép. Điều kiện để cấp
phép là pháp nhân đó phải được thành lập hoặc công nhận hợp pháp theo pháp luật của nước
mà nước đó và Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế, đã hoạt động không dưới 05
năm.
Trong thời gian hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh của pháp nhân nước ngoài có các quyền
và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 19, Điều 20 Luật thương mai 2005.
Theo Điều 23 Luật thương mại 2005, pháp nhân nước ngoài sẽ chấm dứt hoạt động tại Việt
Nam trong các trường hợp sau:
- Hết thời hạn hoạt động ghi trong giấy phép;
- Theo đề nghị của pháp nhân và được cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền chấp
nhận;
- Theo quyết định của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền do vi phạm pháp luật và
quy định của giấy phép;
- Pháp nhân bị tuyên bố phá sản;
- Pháp nhân nước ngoài chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật nước ngoài đối
với hình thức văn phòng đại diện, chi nhánh và tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh
với bên Việt Nam;
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Trước khi chấm dứt hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân nước ngoài có nghĩa vụ thanh toán
các khoản nợ và các nghĩa vụ khác với Nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan tại Việt Nam.
Tóm lại, pháp luật Việt Nam đã có các quy định tương đối toàn diện tạo cơ sơ pháp lí để
pháp nhân nước ngoài hoạt động thuận lợi, hiệu quả tại Việt Nam với nhiều hình thức khác
nhau. Nhìn chung các quy định đó là phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của quy
định đó là phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
4. QUỐC GIA
4.1. Tính chất đặc biệt của quốc gia trong quan hệ tư pháp quốc tế
Với sự phát triển mạnh mẽ của giao lưu dân sự quốc tế, các chủ thể tham gia vào các quan
hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế không chỉ có cá nhân và pháp nhân mà còn
có cả quốc gia. Ví dụ, Nhà nước Việt Nam tham gia vào các quan hệ tài chính quốc tế (phát
hành trái phiếu quốc tế tại nước ngoài); tham gia vào các quan hệ hợp đồng ( kí kết các hợp
đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư – PPP, kí kết hợp đồng mua sắm chính phủ với các
công ti nước ngoài,…) hoặc tham gia vào các quan hệ thừa kế (Nhà nước Việt Nam thừa kế di
sản không có người thừa kế của công dân Việt Nam ở nước ngoài…)
Tính chất đặc biệt của quốc gia trong quan hệ tư pháp quốc tế được thể hiện ở chỗ khi tham
gia vào các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, khác với cá nhân và pháp nhân, trong một số
trường hợp quốc gia sẽ được hưởng quyền miễn trừ tư pháp và quyền miễn trừ về tài sản (dưới
đây gọi chung là quyền miễn trừ tư pháp). Cụ thể, quốc gia không bị mang ra xét xử tại tòa án,
không bị áp dụng các biện pháp đảm bảo sơ bộ; không bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án; tài sản của quốc gia là bất khả xâm phạm.
Tính chất đặc biệt này của quốc gia xuất phát từ đặc điểm khi tham gia vào các quan hệ
quốc tế nói chung và quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nói riêng quốc gia
vẫn giữ nguyên thuộc tính chủ quyền của quốc gia và có toàn quyền quyết định cá vấn đề đối
nội và đối ngoài liên quan đến các hoạt động của quốc gia. Mặt khác, các quốc gia lại luôn luôn
bình đẳng với nhau về chủ quyền và nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia lại là nền tảng
trọng quan hệ quốc tế. Điều này đã dẫn đến một hệ quả là trong quan hệ hệ quốc tế ( bao gồm
cả các quan hệ dẫn sự có yếu tố nước ngoài) các quốc gia không có quyền xét xử lẫn nhau,
tranh chấp, bất đồng giữa các quốc gia sẽ được giải quyết thông qua thương lượng và hòa giải
theo các nguyên tắc của luật quốc tế.
Các quy định về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia nước ngoài được ghi nhận khá phổ
biến trong các hệ thống pháp luật trên thế giới. Cụ thể, một số nước ban hành Luật miễn trừ tư
pháp dành cho quốc gia nước ngoài ( Foreign States Immunities Act). Ví dụ, Luật miễn trừ
quốc gia dành cho quốc gia nước ngoài của Hoa Kỳ năm 1976, Anh năm 1978, Singapore năm
1979, Canada năm 1982, Australia năm 1985… Hầu hết các đạo luật trên đều ghi nhận nguyên
tắc cơ bản đó là quốc gia nước ngoài được miễn trừ đối với thẩm quyền của tòa án của quốc gia
sở tại. Tuy nhiên, một nội dung khác không kém phần quan trọng được ghi nhận trong các đạo
luật nêu trên là quy định các trường hợp loại trừ quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
(Exceptions to immunity). Đây là các trường hợp mà khi phát sinh các vụ kiện liên quan đến
quốc gia, quốc gia không được viện dẫn quyền miễn trừ tư pháp, điều đó đồng nghĩa là quốc
gia sẽ có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng như các chủ thể khác trong quan hệ mà quốc gia
tham gia. Xuất pháp từ sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… pháp luật của các
nước có những quy định khác nhau về các trường hợp loại trừ quyền miễn trừ tư pháp của quốc
gia, tuy nhiên điểm chung của các quy định là quốc gia sẽ không viện dẫn quyền miễn trừ tư
pháp khi quốc gia đã tự nguyện từ bỏ quyền miễn và chấp thuận thẩm quyền của các cơ quan
tài phán (bằng các quy định trong điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên, thỏa thuận
trong hợp đồng mà quốc gia đó là thành viên, thỏa thuận trong hợp đồng mà quốc gia đó kí
kết…); hoặc quốc gia tham gia vào các quan hệ kinh doanh, thương mại ( như tham gia các hợp
đồng mua bán hàng hóa; hợp đồng cung ứng dịch vụ); hoặc các vụ kiện về bồi thường thiệt hại
về tài sản, về thương tích cho cá nhân do quốc gia gây ra… Các quy định này là hết sức cần
thiết nhằm bảo đảm sự bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể, đặc biệt khi
quốc gia ngày càng tham gia rộng rãi vào các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài, qua đó góp phần thức đẩy giao lưu dân sự quốc tế phát triển.
Bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia, quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia còn
được ghi nhận trong các điều ước quốc tế đa phương và song phương, như Công ước Brussels
về thống nhất các quy định về quyền miễn trừ tàu thuyền nhà nước ngày 14/4/1926; Công ước
Viena 1961 về quan hệ ngoại giao; Công ước Vienna 1963 về quan hệ lãnh sự… Đặc biệt, các
quy định về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia đã được quy định cụ thể tại Công ước về
quyền miễn trừ tư pháp và miễn trừ tài sản của quốc gia của Liên hợp quốc được thông qua
ngày 2/12/2014 ( gọi tắt là Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ quốc gia)… Để
hiểu rõ hơn về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia, nội dung tiếp theo sẽ tập trung nghiên cứu
các quy định cơ bản của Công ước này.
4.2. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc
Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tư pháp và miễn trừ tài sản đối với quốc gia
gia được xem là một trong các cơ sở pháp lí quan trọng, đầy đủ và toàn diện khi nghiên cứu về
quyền miễn từ tư pháp và tài sản của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Theo điểm b khoản 1
Điều 2 của Công ước này thì “quốc gia” bao gồm các đơn vị cụ thể sau:
- Quốc gia và các cơ quan của chính phủ
- Các đơn vị hợp thành một quốc gia liên bang hoặc các đặc khu chính trị của quốc gia để
thực hiện chủ quyền quốc gia.
- Các cơ quan của quốc gia hoặc các chủ thể khác có quyền tiến hành hoặc đang tiến hành
các hoạt động thực tế để thực hiện chủ quyền của quốc gia.
- Các cơ quan đại diện cho quốc gia.
Quyền miễn trừ tư pháp và quyền miễn trừ tài sản của quốc gia theo quy định của Công ước
có các nội dung chính sau:
4.2.1. Quyền miễn trừ xét xử và miễn trừ về tài sản
Một trong các nội dung quan trọng của miễn trừ tư pháp của quốc gia là quyền miễn trừ xét
xử. Cụ thể, Điều 5 của Công ước đã quy định rõ: “ Quốc gia được hưởng quyền miễn trừ xét xử
đối với hoạt động của quốc gia cũng như tài sản của quốc gia tại tòa án của quốc gia khác ” .
Tương tự, Điều 6 của Công ước cũng đã khẳng định: “ Quốc gia cam kết không thực hiện
quyền tài phán tại tòa án của quốc gia mình để chống lại một quốc gia khác”. Theo giải thích
tại điểm a khoản 1 Điều 2 của Công ước, “tòa án” được hiểu là bất kì một cơ quan nào của nhà
nước có chức năng xét xử mà không phụ thuộc vào tên gọi của cơ quan đó.
Quyền miễn trừ xét xử của quốc gia luôn đi liền với quyền miễn trừ về tài sản. Theo đó, tài
sản của quốc gia do quốc gia tự định đoạt, không một chủ thể nào được chiếm đoạt hoặc xâm
phạm tài sản của quốc gia bằng bất cứ một hình thức nào. Tài sản của quốc gia không thể bị bắt
giữ, tịch thu khi không có sự đồng ý của quốc gia. Các quốc gia là thành viên của Công ước
phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền miễn trừ xét xử và quyền miễn trừ tài sản của quốc gia khác.
4.2.2. Quyền miễn trừ về áp dụng các biện pháp đảm bảo sơ bộ cho vụ kiện liên quan đến
quốc gia
Trong quá trình giải quyết các vụ kiện tụng, tranh chấp tại tòa án, đề cho vụ việc được giải
quyến nhanh chóng, khách quan, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự,
tòa án thường áp dụng các biện pháp bảo đảm nhất định như kê biên, tịch thu tài sản đang tranh
chấp, cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất như không được rời khỏi nơi cư
trú, khống được tiến hành các hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định…Các biện
pháp đó được gọi là biện pháp đảm bảo sơ bô cho vụ kiện.
Quyền miễn trừ về áp dụng các biện pháp đảm bảo sơ bộ cho vụ kiện liên quan đến quốc
gia được hiểu là các cơ quan tư pháo không được phép áp dụng bất cứ một biện pháp đảm bảo
sơ bộ nào cho vụ kiện liên quan đến quốc gia ( như bắt giữ, kê biên tài sản của quốc gia ). Các
cơ quan tư pháp chỉ được áp dụng các biện pháp này nếu được quốc gia đồng ý và cho phép.
Điều 18 Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ quốc gia cũng đã quy định rõ: “
Không có biện pháp cưỡng chế nào trước khi xét xử được thực hiện như tịch thu, chiếm giữ tài
sản trái pháp luật của quốc gia được áp dụng trong một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài”.
4.2.3 Quyền miễn trừ về thi hành án
Quyền này được hiểu là quốc gia được quyền miễn trừ đối với biện pháp cưỡng chế để thi
hành quyết định của tòa án. Đây cũng là một nội dung đã được quy định rõ tại Điều 19 Công
ước của Liên hơp quốc về quyền miễn trừ quốc gia: “ Không có biện pháp cưỡng chế nào sau
khi có phán quyết của tòa án được phép áp dụng đối với quốc gia, như tịch thu, bắt giữ tài sản
trái pháp luật của quốc gia..”
Mặc dù quyền miễn trừ tu pháp của quốc gia đều được các quốc gia thừa nhận, tuy nhiên
không phải trong mọi trường hợp đều đặt ra quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia. Xuất phát từ
tính chất của các quan hệ dân sự là thỏa thuận và bình đẳng, và để tạo điều kiện thức đẩy giao
lưu dân sự quốc tế phát triển, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong
quan hệ dân sự có yêu tố nước ngoài hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới ( như trên đã
nêu ) đều quy định một số trường hợp nhất định khi quốc gia tham gia các quan hệ tư pháp
quốc tế, quốc gia sẽ không được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Tương tự như vậy, tại Phần III,
Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ quốc gia đã quy định một số lĩnh vực nhất định
mà quyền miễn trừ tu pháp của quốc giá sẽ không thể được viện dẫn. Cụ thể, Điều 10 của
Công ước quy định: “ Nếu quốc gia tham gia giao dịch thương mại với một số cá nhân, pháp
nhân nước ngoài theo các nguyên tắc của tu pháp quốc tế, thuộc thẩm quyền của tòa án một
quốc gia khác, thì quốc gia không được viện dẫn quyền miễn trừ đối với các vụ kiện phát sinh
từ các giao dịch đó”. Tuy nhiên, Công ước cũng quy định rõ trường hợp này không áp dụng với
các giao dịch thương mại giữa các quốc gia với nhau hoặc khi tham gia giao dịch thương mại
đó các bên đã có các thỏa thuận khác. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 10 của Công ước đã quy định
rõ, đối với các doanh nghiệp nhà nước khi mua, sở hữu, hoặc định đoạt tài sản bao gồm cả tài
sản mà nhà nước cho phép doanh nghiệp sử dụng và quản lí thì quyền miễn trừ được hưởng từ
nhà nước không được áp dụng. Các quy định trên đây của Công ước đã thể hiện một xu hương
phát triển tất yếu của tư pháp quốc tế hiện đại trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh các nội dung trên, khi nói đến quyền miễn trừ tu pháp của quốc gia trong các quan
hệ tư pháp quốc tế thì cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của
quốc gia. Chính vì vậy, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể quốc gia có thể từ bỏ quyền miễn
trừ tư pháp của mình để bình đẳng như thể nhân và pháp nhân trong các quan hệ dân sự. Tuy
nhiên, do nội dung các quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia là độc lập với nhau, nên quốc gia
có quyền từ bỏ một hoặc tất cả quyền miễn trừ tư pháp của mình tùy thuộc vào từng mối quan
hệ cụ thể. Quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ này nhưng không có nghĩa là đương nhiên từ bỏ
quyền miễn trừ khác. Về nguyên tắc, việc từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp quốc gia (một phần
hoặc tất cả) phải được thể hiện rõ ràng, minh bạch. Cụ thể, theo quy dịnh tại Điều 7, Điều 18,
Điều 19 Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn miễn trừ quốc gia, quốc gia không thể
viện dẫn quyền miễn trừ xét xử, miễn trừ về áp dụng biện pháp cưỡng chế trước hoặc sau khi
xét xử, nếu quốc gia đã có sự đồng ý rõ ràng là tham gia vào quá trình xét xử và thực hiện các
biện pháp chế tài đó. Sự đồng ý rõ ràng này được thể hiện bằng các cách thức sau:
- Quy định rõ trong điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên.
- Thỏa thuận rõ trong hợp đồng bằng văn bản.
- Tuyên bố trước tòa án hoặc thể hiện rõ bằng văn bản.
Thứ hai, việc quốc gia được hưởng quyền miễn trừ tư pháp không có nghĩa là không có các
biện pháp khác để yêu cầu quốc gia thực hiện các nghĩa vụ/trách nhiệm của mình đối với các
giao dịch nói chung hoặc giao dịch dân sự nói riêng mà quốc gia đã tham gia. Ngoài việc được
giải quyết thông qua con đường ngoại giao, trên thực tế có nhiều biện pháp khác nhau có thể
được các chủ thể thực hiện để “gây sức ép” đòi hỏi quốc gia phải thực hiện các nghĩa vụ/trách
nhiệm mà quốc gia đã cam kết. Ví dụ, khi một quốc gia rơi vào khủng hoảng kinh tế, tuyên bố
vỡ nợ, để đòi lại khoản đầu tư của mình, các chủ đầu tư cho dù không khởi kiện quốc gia đó ra
các cơ quan tài phán, tuy nhiên họ có thể đòi lại khoản đầu tư của mình bằng những cách thức
riêng, như thông qua chính phủ nước mình để tham gia vào các chương trình đàm phán nợ hoặc
thông qua chính phủ của mình để phong tỏa hay tịch thu tài sản của quốc gia đó đang có tại
nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, việc một quốc gia từ chối không thực hiện các nghĩa
vụ/trách nhiệm mà mình đã cam kết (như tuyên bố vỡ nợ trong trường hợp trên) là không phổ
biến, bởi lẽ điều đó không những làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của quốc gia trong quan hệ
quốc tế mà lợi ích kinh tế của quốc gia còn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cụ thể, quốc gia đó sẽ
mất đi khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mất khả năng thâm nhập thị trường vốn quốc tế
và mất đi rất nhiều lợi ích khác trong quan hệ quốc tế…
4.3. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia theo quy định của pháp luật Việt Nam
Như trên đã nêu, hiện nay phần lớn các quốc gia đều thừa nhận quyền miễn trừ tư pháp của
quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế. Tuy nhiên, do sự khác biệt về điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hôi,… mức độ và phạm vi của quyền miễn trừ tư pháp cũng như cách thức
thực hiện quyền miễn trừ tư pháp ở các quốc gia là có sự khác nhau.
Khác với một số quốc gia trên thế giới, Việt Nam chưa có văn bản quy phạm riêng quy định
về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia nước ngoài, tuy nhiên nguyên tắc chung được ghi nhận
trong pháp luật Việt Nam là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được
hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật
Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì vụ
việc dân sự có liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được giải quyết bằng con đường
ngoại giao” (khoản 4 Điều 2 Bộ luật tố tụng dân sự 2015). Đây là quy định được thừa kế thừa
từ Bộ luật tố tụng dân sự 2004, với quy định này cho thấy tại Việt Nam quyền miễn trừ tư pháp
của quốc gia nước ngoài luôn được pháp luật Việt nam ghi nhận. Đối với nhân viên ngoại giao
và nhân viên lãnh sự, quyền miễn trừ của họ được thực hiện theo các quy định của Công ước
Vienna 1961, Công ước Vienna 1963 mà Việt Nam là thành viên.
Một vấn đề khác luôn được các đối tác nước ngoài quan tâm đó là tư cách pháp lí của Nhà
nước Việt Nam trong các quan hệ tư pháp quốc tế mà Nhà nước Việt Nam tham gia. Điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nước ngoài khi tham
gia các quan hệ đó. Bộ luật dân sự 2015 đã có các quy định khá cụ thể về vấn đề này.
Điều 97 Bộ luật dân sự 2015 khi quy định địa vị pháp lí của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự đã
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương,
ở địa phương khi tham gia quan hệ dân sự thì bình đẳng với các chủ thể khác và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định tại Điều 99 và Điều 100 của Bộ luật này”.
Về trách nhiệm dân sựu của nhà nước khi tham gia các quan hệ dân sự, Điều 99 Bộ luật dân
sự 2015 quy định rõ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung
ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của mình bằng tài sản mà mình là đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí, trừ trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho pháp
nhân. Đối với loại tài sản mà nhà nước đã chuyển giao cho pháp nhân, pháp nhân sẽ phải tự
chịu trách nhiệm. Các pháp nhân do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan
nhà nước ở trung ương, ở địa phương thành lập không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở
trung ương, ở địa phương. Tương tự vậy, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ
quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của các
pháp nhân do mình thành lập (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước), trừ trường hợp Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương bảo lãnh
cho nghĩa vụ dân sự của các pháp nhân này theo quy định của pháp luật. Quy định này của
pháp luật Việt Nam đã phân biệt một cách rạch ròi trách nhiệm của nhà nước và các chủ thể khi
tham gia vào các quan hệ dân sự, tạo ra sự yên tâm, chủ động cho các chủ thể khi xác lập các
giao dịch dân sự đối với nhà nước.
Về nguyên tắc, quyền miễn trừ tài sản của nhà nước chỉ đặt ra đối với tài sản do nhà nước là
chủ sở hữu và quản lí trực tiếp. Cụ thể, tài sản do Nhà nước Việt Nam đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lí theo Điều 197 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm: “đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lí”. Theo Nghị định số 23/2010/NĐ-CP ngày 12/3/2010 của
Chính phủ quy định việc quản lí, sử dụng tài sản nhà nước của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài,
tài sản thuộc quyền quản lí của Nhà nước Việt Nam ở nước ngoài bao gồm: Tài sản là đất đai,
trụ sở, cơ sở hoạt động sự nghiệp, nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện, trao đổi
theo hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ nước sở tại; bất động sản thuê theo hiệp
định, hoặc do cơ quan đại diện, cơ quan khác kí hợp đồng thuê là tài sản thuộc quyền quản lí và
sử dụng của Nhà nước Việt Nam trong thời gian hiệp định hoặc hợp đồng có hiệu lực. Ngoài ra,
tài sản của Nhà nước còn bao gồm cả các tài sản mà Nhà nước Việt Nam được thừa kế ở nước
ngoài, tài sản mà Nhà nước Việt Nam được tài trợ , viện trợ, được tặng cho từ các chính phủ
nước ngoài, tỏ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức phi chính phủ và các cá nhân, tổ chwusc
khác.
Quyền miễn trừ tài sản của nhà nước không đặt ra đối với tài sản của các doanh nghiệp (kể
cả doanh nghiệp nhà nước). Các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia các giao dịch dân sự với
các chủ thể nước ngoài bên cạnh việc phải nắm vững các quy định và thông lệ của quốc tế để
bảo vệ quyền lợi của chính doanh nghiệp. Thực tế hiện nay cho thấy, khi các doanh nghiệp Việt
Nam (kể cả doanh nghiệp nhà nước) tham gia vào các giao dịch dân sự theo nghĩa rộng với các
chủ thể nước ngoài, nếu vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết thì các chủ thể nước ngoài đều có thể
khởi kiện các doanh nghiệp đó ra tòa án nước ngoài và áp dụng các biện pháp bắt giữ, tịch thu
tài sản của doanh nghiệp Việt Nam để tại nước ngoài để bảo đảm cho vụ kiện.
Để khẳng định trách nhiệm dân sự của nhà nước khi tham gia quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài, khoản 1 Điều 100 Bộ luật dân sự 2015 quy định rõ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ
dân sự do mình xác lập với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài trong trường hợp sau
đây:
a) Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về
việc từ bỏ quyền miễn trừ;
b) Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ;
c) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa
phương từ bỏ quyền miễn trừ.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, hầu hết các điều ước quốc tế trong lĩnh ực dân sự, kinh tế -
thương mại mà Việt Nam tham gia kí kết (ví dụ, các hiệp định khuyến khích và đầu tư, hiệp
định thương mại…), Chính phủ Việt Nam đã tự nguyện khước từ quyền miễn trừ tư pháp bằng
việc cam kết sẽ giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa chính phủ, các cơ quan của chính phủ
với các đối tác nước ngoài thông qua các cơ quan tài phán, hoặc các thiết chế tương đương theo
quy định của điều ước quốc tế. Tương tự như vậy, đối với các tranh chấp phát sinh giữa các chủ
thể nước ngoài với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam, các bên có thể khởi
kiện ra tòa án hoặc trọng tài. Cụ thể, tại khoản 4 Điều 14 luật đầu tư 2014 của Việt Namđã quy
định rõ: “Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên
quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua trọng
tài Việt Nam hoặc tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng hoặc
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác”.
Trong trường hợp khước từ quyền miễn trừ tư pháp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương sẽ bình đẳng như các chủ thể khác và
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với nhà nước,
pháp nhân, các nhân nước ngoài. Điều này phù hợp với xu thế phát triển chung của tư pháp
quốc tế các nước, góp phần thúc đẩy các giao dic hj dân sự phát triển, đặc biệt là các giao dịch
dân sự mà một bên chủ thể là quốc gia.
Bên cạnh quy định trên, khoản 2 Điều 100 Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định rõ trách
nhiệm về nghĩa vụ dân sự của nhà nước, cơ quan nhà nước của nước ngoài khi tham gia quan
hệ dân sự với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương,
ở địa phương, pháp nhân, cá nhân Việt Nam. Trường hợp này áp dụng tương tự như khoản 1
Điều 100 Bộ luật dân sự 2015.
Nhìn chung, các quy định về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia theo quy định của pháp
luật Việt Nam là phù hợp với xu thế chung của thế giới và tinh thần của Công ước Liên hợp
quốc về quyền miễn trừ quốc gia.
5. TỔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN CHÍNH PHỦ
Tổ chức quốc tế liên chính phủ là thực thể liên kết các quốc gia có chủ quyền và các chủ thể
khác của luật quốc tế. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ là một trong các chủ thể khá phổ biến
của công pháp quốc tế, được thành lập dựa trên các điều ước quốc tế, có hệ thống các cơ quan
để duy trì hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức đó.
Hoạt động của các tổ chức quốc tế liên chính phủ rất đa dạng, phong phú và có nhiều tên
gọi khác nhau, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới, Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IFM)…
Trong quan hệ dân sự quốc tế, tổ chức quốc tế liên chính phủ hoạt động với tư cách chủ thể
của tư pháp quốc tế. Điều này được quy dịnh trong điều lệ của nhiều tổ chức quốc tế liên chính
phủ (Điều 39 Điều lệ của Tổ chức Lao động quốc tế, Điều 16 của Tổ chức Nguyên tử quốc tế,
Điều 9 Điều lệ của Quỹ Tiền tệ quốc tế…).
Trong đời sống thường nhật, tổ chức quốc tế liên chính phủ không thể tồn tại và hoạt động
nếu không tham gia vào quan hệ dân sự. Hoạt động theo pháp luật tư là nhu cầu khách quan tất
yếu của tổ chức quốc tế liên chính phủ. Mức độ và hình thức các hợp đồng dân sự có sự tham
gia của tổ chức quốc tế liên chính phủ hết sức đa dạng như mua, bán, thuê bất động sản, mua
thiết bị văn phòng, kí kết các hợp đồng dịch vụ (chuyên gia, phiên dịch, tư vấn), kí kết hợp
đồng lao động, hợp đồng thầu… Trên thực tế, không ít các hợp đồng giữa công ti kinh doanh
và tổ chức quốc tế liên chính phủ được kí kết thông qua đấu thầu, thi tuyển.
Trong pháp luật của nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Pháp… đều quy định rõ tổ chức quốc
tế liên chính phủ có thể hoạt động trên lãnh thổ của họ với tư cách pháp nhân. Ví dụ, trong luật
của Vương quốc Anh quy định trên lãnh thổ Vương quốc Anh, bất kì tổ chức quốc tế liên chính
phủ nào, kể cả những tổ chức quốc tế mà Vương quốc Anh không là thành viên đều có thể hoạt
động với tư cách pháp nhân. Kết quả do Ủy ban Pháp luật của Liên hợp quốc tiến hành nghiên
cứu thực tiễn xét xử của tòa án, trọng tài quốc tế và trong nước cho thấy tất cả các cơ quan áp
dụng pháp luật của các nước đều công nhận tổ chức quốc tế liên chính phủ có tư cách pháp
nhân.
Một điểm cần lưu ý là các tổ chức quốc tế liên chính phủ là pháp nhân đặc biệt. Bởi vì tư
cách pháp nhân của tổ chức quốc tế liên chính phủ chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở công pháp
quốc tế: Quy chế pháp nhân được quy định trong điều lệ (điều ước quốc tế) của tổ chức quốc tế
liên chính phủ.
Thực tiễn quốc tế cho thấy tổ chức quốc tế liên chính phủ là pháp nhân theo pháp luật của
nước nơi đặt trụ sở (Liên hợp quốc – pháp nhân theo pháp luật Hoa Kỳ, NATO – pháp nhân
theo pháp luật của Bỉ, Hội đồng châu Âu – pháp nhân theo pháp luật của Pháp…). Về nguyên
tắc, tổ chức quốc tế liên chính phủ có tư cách pháp nhân từ thời điểm đăng kí điều lệ hoặc từ
thời điểm đăng kí vào sổ đăng kí pháp nhân tại nước nơi đặt trụ sở.
Tổ chức quốc tế liên chính phủ - pháp nhân quốc tế khi tham gia vào các quan hệ dân sự có
các quyền và nghĩa vụ tài sản và phi tài sản, tham gia vào các tranh chấp dân sự với tư cách
nguyên đơn và bị đơn trước cơ quan tài phán. Đồng thời, khi tham gia vào quan hệ dân sự, tổ
chức quốc tế coi như tự khước từ quyền ưu đãi, miễn trừ của mình.
Tóm lược cuối bài
• Khái quát về chủ thể của Tư pháp quốc tế
• Người nước ngoài và địa vị pháp lý của người nước ngoài
• Pháp nhân nước ngoài và địa vị pháp lý của pháp nhân nước ngoài
• Quốc gia – chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế
• Tổ chức quốc tế liên chính phủ - chủ thể hạn chế của Tư pháp quốc tế
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
1. Khái niệm người nước ngoài và phân loại người nước ngoài?
2. Năng lực chủ thể của người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam như thế
nào?
3. Chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài được quy định như thế nào?
4. Quyền, nghĩa vụ dân sự của người nước ngoài tại Việt Nam được quy định như thế nào?
5. Phân tích khái niệm Pháp nhân nước ngoài?
6. Phân tích cách xác định quốc tịch của Pháp nhân nước ngoài?
7. Phân tích địa vị pháp lý của Pháp nhân nước ngoài?
8. Phân tích tính chất đặc biệt của Quốc gia trong Tư pháp Quốc tế?
9. Phân tích các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể của cá nhân
trong Tư pháp Quốc tế Việt Nam?
10. Phân tích các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể của pháp
nhân trong Tư pháp Quốc tế Việt Nam?