Professional Documents
Culture Documents
Bài KT sở hữu tài sản
Bài KT sở hữu tài sản
Anh/chị hãy trình bầy hiểu biết của mình về các hình thức sở hữu theo pháp luật
Việt Nam hiện hành?
Bài làm :
1. Khái niệm hình thức sở hữu
Hình thức sở hữu là cách thức chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong một
chế độ sở hữu.
Trong chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng
với mỗi hình thức sở hữu có những chủ sở hữu nhất định. Mỗi hình thức sở hữu
có những đặc trưng riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng thích hợp
với mỗi loại hình thức sở hữu cụ thể.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những
cách thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong
những giới hạn và phạm vi khác nhau.
2.1 Sở hữu toàn dân (từ Điều 197 đến Điều 204 Bộ Luật DS 2015)
Sở hữu toàn dân là hình thức cao nhất của sở hữu xã hội chủ nghĩa, trong đó các
tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và tài sản khác thuộc về nhà
nước – người đại diện chính thức của nhân dân.
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng
trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là
tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý đảm bảo đúng mục đích sử dụng
Sở hữu toàn dân chúng ta hiểu đơn giản đó là tài sản chung của toàn bộ người
dân Việt Nam như khoáng sản, lãnh thổ, đất đai…
Và nhà nước là đại diện pháp lý có trách nhiệm bảo vệ, quản lý các tài sản này
Về quyền sở hữu toàn dân khi được giao cho doanh nghiệp, đơn vị vũ trang, cơ
quan nhà nước hoặc đơn vị cá nhân đều phải tuân thủ thực hiện nghĩa vụ đầy đủ
với nhà nước đồng thời nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quản lý sử
dụng tài sản đó (điều 200 đến 204 Bộ Luật DS 2015)
Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định:
"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nồng dân và đội ngũ trí thức".
Theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước là người đại diện cho toàn dân, được
nhân dân trao cho những quyền lực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng,
ngoại giao... để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả là: xây dựng và bảo
vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước đại diện cho nhân dân nắm toàn bộ các tư liệu sản xuất chủ yếu trong
tay để thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của mình. Hiến pháp năm 2013 đã tiếp
tục khẳng định tại Điều 53:
"Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng
trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lí là tài
sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thong nhất
quản lí”.
Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ Việt Nam về vùng biển cũng có ghi:
"Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về thăm
dò, khai thác, bảo vệ và quản lí tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa
Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài
nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thểm lục địa Việt Nam. Thềm lục địa Việt
Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển...".
Như vậy, toàn bộ những tư liệu sản xuất chủ yếu như đất đai, tài nguyên trên
mặt biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa Việt Nam... cùng với
những tài sản khác theo quy định của pháp luật đều thuộc quyền quản lí, khai
thác và sử dụng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người đại diện cho nhân dân
quản lí, nắm giữ những tư liệu sản xuất, là chủ sở hữu đối với tài sản được quy
định tại Điều 197 BLDS và Nhà nước là đại diện thực hiện quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt đối với các tài sản đó. Điều 198 bộ luật dân sự năm 2015 quy
định:
"1. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện thực hiện quyền
của chủ sở hữu đổi với tài sản thuộc sở hữu toàn dân ".
2. Chính phủ thống nhất quản lí và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và
tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân".
Trước đây, sở hữu toàn dân quy định tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 được hiểu
như là một phạm trù kinh tế thì ngày nay sở hữu toàn dân còn được hiểu là một
phạm trù pháp lí, do vậy, tài sản của toàn dân phải có chủ sở hữu đích thực để
thực hiện quyền sở hữu trong việc phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội,
bảo vệ an ninh, quốc phòng của đất nước.
Để sử dụng tài sản của nhân dân có hiệu quả, cần phải trao quyền đại diện cho
Nhà nước, cho người có thẩm quyền định đoạt tài sản của nhân dân theo quy
định của pháp luật, do vậy, trong BLDS năm 2015, Điều 201 quy định Nhà nước
là đại diện thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn
dân.
Quyền sở hữu toàn dân, hiểu theo nghĩa khách quan (hay theo nghĩa rộng) là
tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm:
- Xác nhận việc chiếm hữu toàn dân (gồm cả chiếm hữu pháp lí và chiếm hữu
thực tế) đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, quan trọng nhất;
- Quy định về nội dung và trình tự thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân;
- Xác định phạm vi, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp do
Nhà nước thành lập để quản lí những tài sản được giao theo quy định của pháp
luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh, quản lí nhà nước hoặc hoạt
động công ích...
Các doanh nghiệp được giao vốn, tư liệu sản xuất để thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ kinh doanh hoặc hoạt động công ích do Nhà nước giao. Các doanh
nghiệp có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản, được quyền
quản lí, trừ những thiết bị, nhà xưởng quan trọng theo quy định của Chính phủ
phải được cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền cho phép trên nguyên tắc
bảo toàn và phát triển vốn (Điều 200 BLDS).
Như vậy, Nhà nước giao tài sản cho các doanh nghiệp, đồng thời cho phép
doanh nghiệp được thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản đó
trong một phạm vi theo quy định của pháp luật. Quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt của các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước được gọi là “quyền sở hữu
hạn chế”. Nhà nước thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu theo quy định tại
Điều 201 BLDS).
Theo nghĩa chủ quan (hay nghĩa hẹp), quyền sở hữu toàn dân được hiểu là toàn
bộ những hành vi mà với tư cách đại diện cho chủ sở hữu, Nhà nước cũng như
các chủ sở hữu khác thực hiện các quyền năng cụ thể về chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với các tài sản của mình. Nhà nước "là chủ" đối với các tư liệu sản
xuất chủ yếu nhưng không ai quy định cho Nhà nước phạm vi từng quyền hạn
đối với những tư liệu sản xuất đó. Nhà nước tự quy định cho mình các quyền
năng và trình tự để thực hiện các quyền năng nhưng điều đó không có nghĩa là
quyền hạn của Nhà nước là vô tận đối với các tài sản mà Nhà nước là chủ sở
hữu. Cũng như các chủ thể khác, Nhà nước chỉ được thực hiện quyền của chủ sở
hữu trong phạm vi pháp luật cho phép. Nói cách khác, các quyền năng đó cũng
được thực hiện theo quy định của pháp luật.
2.2 Sở hữu riêng (Điều 205 và Điều 206 Bộ Luật DS 2015)
Điều 205 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Sở hữu riêng là sở hữu của
một cá nhân hoặc một pháp nhân. 2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không
bị hạn chế về số lượng, giá trị.”
Sở hữu riêng là hình thức sở hữu của một chủ thể là cá nhân hoặc một pháp
nhân đối với tài sản của mình. Với tư cách là một chủ sở hữu, cá nhân, pháp
nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu riêng.
Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tài sản còn được hiểu là một quan
hệ pháp luật dân sự về sở hữu riêng có đầy đủ 3 yếu tố: chủ thể, khách thể và nội
dung quyền sở hữu riêng. Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân được pháp luật
công nhận và bảo vê. Đây là quyền bất khả xâm phạm, không ai có thể bị hạn
chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình.
Theo khoản 1 Điều 205 Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ thể của hình thức sở hữu
riêng chỉ có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Nếu một tổ chức không có tư cách
pháp nhân sở hữu tài sản thì không thể là coi đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của
tổ chức đó. Chúng ta có thể xem việc sở hữu của các tổ chức không có tư cách
pháp nhân là sở hữu chung của các thành viên tổ chức đó (ví dụ: sở hữu của Hộ
gia đình, Hợp tác xã,…)
Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị. Tài
sản thuộc sở hữu riêng có thể là thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác
của cá nhân hoặc pháp nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu riêng.
Công dân thực hiện quyền làm chủ, chi phối tài sản qua các quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt tài sản. Cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc
sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (khoản 2 điều 206 BLDS 2015).
Việc chiếm hữu, sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng gây thiệt hại đến lợi ích
chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Tại Điều 205 và 206 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định như sau:
“Điều 205. Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng
1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.
Điều 206. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng
1. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các
mục đích khác không trái pháp luật.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được
gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”
Đây là những điều cơ bản nhất về sở hữu riêng, chế độ sở hữu này đã tạo ra một
nền kinh tế nhiều thành phần và vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý
của nhà nước.
2.3 Sở hữu chung (từ Điều 207 đến Điều 220 Bộ Luật DS 2015)
Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với khối tài sản. Sở hữu chung
bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Tài sản thuộc Sở
hữu chung là tài sản chung. Những người có quyển sở hữu chung được gọi là
các đồng sở hữu chủ.
Họ có quyền ngang nhau (sở hữu chung hợp nhất) hoặc có phần quyền sở hữu
xác định (sở hữu chung theo phần) trên toàn bộ tài sản hoặc khối tài sản.
Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy
định của pháp luật hoặc theo tập quán
Quyền sở hữu là quyền chi phối tài sản của một chủ thể nhất định. Quyền của
chủ sở hữu đối với tài sản gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
của mình theo quy định cùa pháp luật. Trong thực tế, có những trường hợp một
tài sản nhưng lại thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người, nói cách khác đó
là trường hợp hai hay nhiều người có chung tài sản. Pháp luật dân sự gọi đó là
sở hữu chung. Điều 207 bộ luật dân sự năm 2015 quy định: "Sở hữu chung là sở
hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản ".
Như vậy, khi hai hoặc nhiều người cùng có chung tài sản thì những người đó
được gọi là đồng sở hữu. Các công dân với nhau, các hợp tác xã với nhau, hoặc
công dân với hợp tác xã... đều có thể ttở thành đồng chủ sở hữu đối với tài sản
chung. Các đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung có quyền chung nhau cùng
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.
Sở hữu chung trong pháp luật dân sự có đặc điểm là:
* Khách thể của sở hữu chung là thống nhất, đó là một tài sản hoặc một tập hợp
tài sản mà nếu đem chia tách về mặt vật lí, tức là chia ra các phần khác nhau...
thì sẽ không còn giá trị sử dụng như ban đầu; các chủ sở hữu sẽ không khai thác
được công dụng vốn có của nó. Ví dụ: Một xe ô tô thuộc sở hữu chung của các
đồng sở hữu. Nếu đem chia tách ra thành các phần nhỏ thì trở thành phụ tùng mà
không còn công dụng để chở hàng hoá hoặc chuyên chở hành khách. Ngoài ra,
trong thực tế còn có trường hợp do tập quán hoặc do kết cấu xây dựng, tính chất,
công dụng mà khách thể chỉ có thể là tài sản chung. Điều này còn tuỳ thuộc vào
sự thoả thuận hoặc thói quen của tập quán.
* Về chủ thể: Mỗi đồng chủ sở hữu chung khi thực hiện các quyền năng chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất
cả các đồng chủ sở hữu khác. Tuy nhiên, mỗi đồng chủ sở hữu trong sở hữu
chung có vị trí độc lập và tham gia quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một
chủ sở hữu độc lập.
* Việc thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản
chung của các đồng chủ sở hữu cũng có những đặc diêm riêng. Tuy rằng, địa vị
của mỗi đồng chủ sở hữu có tính chất độc lập nhưng các quyền năng của mỗi
chủ sở hữu lại thống nhất đối với toàn bộ khối tài sản chung mà không phải chỉ
riêng với phần giá trị tài sản mà họ có. Nếu quyền năng của mỗi đồng chủ sở
hữu mà tách ra theo phạm vi phần giá trị tài sản mà họ có thì các đồng chủ sở
hữu không thể sử dụng được tài sản và do vậy, sở hữu chung ấy sẽ không có ý
nghĩa. Từ đặc điểm này nên việc sử dụng, định đoạt tài sản phải được các đồng
chủ sở hữu thoả thuận dựa ưên tính chất, công dụng của tài sản và dựa vào hoàn
cảnh cụ thể của các đồng chủ sở hữu chung.
Đối với việc sử dụng tài sản (Điều 217 BLDS). Các đồng chủ sở hữu có thể thoả
thuận và lựa chọn một ttong những hình thức: Cùng sử dụng để khai thác công
dụng của tài sản; thay phiên nhaú sử dụng (nếu tài sản chung không thể phân
chia thành nhiều phần để sử dụng. Ví dụ: trâu, bò mua chung để khai thác sức
kéo thường được thay phiên nhau sử dụng theo thoả thuận); hoặc nếu tài sản
gồm nhiều vật khác nhau, các chủ sở hữu có thể thay phiên nhau sử dụng từng
vật, tức là mỗi người sử dụng một phần tài sản mà vẫn bảo đảm dược nhu cầu sử
dụng. Trường hợp các chủ sở hữu mua chung tài sản để cho thuê thì căn cứ vào
phần quyền tài sản của mỗi chủ sở hữu để xác định quyền lợi và trách nhiệm của
mỗi người.
Đối với việc định đoạt tài sản (Điều 218 BLDS). về nguyên tắc, mỗi đồng chủ
sở hữu chung là một chủ thể độc lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu
chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất
được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu
của mình thì các chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Sau thời hạn
03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là
động sản mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền
bán phần quyền sở hữu chung của mình cho người khác (khoản 3 Điều 218
BLDS). Nếu một chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc chủ sở hữu chết
mà không có người thừa kế thì phần quyền tài sản đó sẽ thuộc quyền sở hữu của
Nhà nước. Trường hợp này không áp dụng Điều 228 BLDS - Xác lập quyền sở
hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu. Trường hợp trên,
vật đang có chủ sở hữu nhưng chủ sở hữu không muốn sở hữu nữa vì vậy sẽ có
nhiều chủ thể muốn được sở hữu, cho nên sẽ xảy ra tranh chấp giữa người biết
được chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu và những người đồng sở hữu. Theo Điều
228 BLDS thì người phát hiện tài sản đó là trong tình trạng không có ai chiếm
giữ, do vậy, nếu vật là động sàn thì thuộc quyền sở hữu của người phát hiện
được, nếu là bất động sản thì thuộc quyền sở hữu của nhà nước.