Professional Documents
Culture Documents
2566 10477 1 PB
2566 10477 1 PB
2566 10477 1 PB
DOI:10.46223/HCMCOUJS. Một trong những yêu cầu đối với “nền giáo dục xuất sắc” đã
proc.vi.17.3.2566.2022 xác định các chuẩn mực của thời đại mới và khuôn mẫu của người
học hiện đại là vun đắp mối quan hệ với các tổ chức khác trên toàn
Ngày nhận: 19/10/2022 thế giới thông qua nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là một
quá trình có hệ thống áp dụng các phương pháp khoa học để giải
Ngày nhận lại: 12/11/2022
quyết các vấn đề quan trọng, thỏa mãn mong muốn của con người.
Duyệt đăng: 18/11/2022 Tuy nhiên, việc nghiên cứu khoa học ở đối tượng học viên sau đại
học vẫn đang còn nhiều hạn chế, đa phần do thiếu động lực nghiên
cứu. Do đó, thông qua nghiên cứu định tính, thảo luận nhóm 11 học
Từ khóa:
viên sau đại học, nghiên cứu này sẽ khám phá các động lực nghiên
động lực; học viên sau đại học; cứu khoa học của học viên sau đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh.
nghiên cứu khoa học; Thành Kết quả chỉ ra rằng có sáu yếu tố sẽ là động lực để thúc đẩy học viên
phố Hồ Chí Minh sau đại học thực hiện nghiên cứu khoa học. Từ đó, nghiên cứu cũng
đề xuất một số giải pháp cho nhà trường nhằm nâng cao sự nghiên
cứu khoa học của học viên sau đại học.
ABSTRACT
One of the requirements for “excellent education” that has
defined the norms of the new era and the stereotype of the modern
learner is cultivating ties and relationships with other institutions
worldwide through scientific research. Research is a systematic
process that applies the methods of scientific inquiry to solve
significant problems and satisfy human wants. However, scientific
research in graduate students is still limited, most of which do not
lack motivational research. Therefore, with qualitative research
information focus group discussion of 11 post-graduated learners,
this study will explore the scientific research activities of post-
Keywords: graduate students in Ho Chi Minh City. The results indicate that six
motivation; post-graduate factors will be the motivation to motivate students after university to
students; scientific research;
carry out scientific research. Since then, scientific research has also
Ho Chi Minh City
produced several solutions for the university to improve the
scientific research of post-graduate students.
1. Giới thiệu
Không nghi ngờ gì nữa, việc hình thành năng lực hoạt động Nghiên Cứu Khoa Học
(NCKH) trong trường đại học là một hoạt động rất quan trọng, tuy nhiên nó vẫn chưa được quan
6 Nguyễn Minh Hà và cộng sự. HCMCOUJS- Kỷ yếu, 17(3), 5-14
tâm đúng mức (Stoyanova, Savova, Peteva, & Yotova, 2018). Hiện tại, NCKH vẫn chủ yếu thực
hiện bởi các giảng viên, hoặc nghiên cứu viên tại các trường, trong khi đó, đối tượng sinh viên,
học viên sau đại học vẫn chưa thực sự quan tâm. Hoạt động NCKH là thành phần cơ bản của phát
triển giáo dục. Vì vậy, nhận thức thường xuyên về chủ đề này là một vấn đề chắc chắn quan trọng.
Thời đại của chúng ta đòi hỏi sự tò mò của con người, liên tục thích ứng với cuộc sống luôn thay
đổi và tích cực tham gia vào những thay đổi đang diễn ra trong xã hội. Trong trường hợp này, tính
sáng tạo, tư duy ban đầu, khả năng nghiên cứu là những phẩm chất cần thiết (Lamanauskas, 2012).
Đối với các nhà nghiên cứu trẻ, NCKH là một quá trình khá cụ thể, để qua đó phát triển
khả năng nghiên cứu (Fırat, 2016). Sự tiến bộ trong việc đạt được các khả năng trong hoạt động
NCKH tương quan chặt chẽ với việc phát triển tư duy phản biện, sự lựa chọn trong các chiến lược
giải quyết vấn đề và áp dụng chúng vào thực tế, sử dụng hiệu quả các nguồn thông tin khác nhau,
xử lý, phân tích, tổng hợp và diễn giải dữ liệu và đề xuất các giả thuyết và các giải pháp thay thế.
Về mặt giáo dục, một điểm quan trọng là sinh viên, hoặc học viên sau đại học không chỉ nên nhận
thức tốt hơn các hiện tượng, sự kiện và quy luật tự nhiên mà còn có thể gắn chúng với kinh nghiệm
hàng ngày và thích ứng với các tình huống khác nhau (Nikita, Elena, & Ulyana, 2015). Hoạt động
NCKH tạo điều kiện thích hợp cho một loại hình tích hợp tương tự. Hơn nữa, đây không chỉ là
kiến thức lý thuyết hay thực tế mà còn là những cảm nhận và những khám phá đáng chú ý mà
trước hết, là rất quan trọng đối với trẻ. Nói cách khác, hoạt động đó tích hợp và biểu hiện tích cực
một thành phần cảm xúc của nhân cách. Điều đáng nói là quá trình hoạt động NCKH bộc lộ đầy
đủ sở thích và năng lực cá nhân của sinh viên và học viên.
Đối với học viên sau đại học, những người đang bước dần vào con đường nghiên cứu,
NCKH là hoạt động bắt buộc và quan trọng. Giáo dục sau đại học, cấp học cao nhất trong hệ thống
giáo dục quốc gia của Việt Nam, có trách nhiệm cung cấp “nguồn cung cấp nhân tài cao cấp” của
đất nước và thúc đẩy “đổi mới khoa học và công nghệ”. Mục tiêu đào tạo sau đại học là giáo dục
theo hướng ‘hiểu biết khoa học’, tức là, giáo dục học viên sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên
bằng chứng khoa học để ra quyết định. Để đạt được nguồn cung cấp nhân tài và thúc đẩy đổi mới
khoa học và công nghệ, các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam cần cung cấp chương trình giáo
dục sinh viên sau đại học chất lượng cao. Tuy nhiên, nhu cầu cạnh tranh về các trường đại học
khiến điều này khó đạt được. Theo thống kê của Báo Sài Gòn giải phóng, số lượng cơ sở đào tạo
trình độ tiến sĩ trên cả nước là 140 cơ sở đào tạo, và có gần 180 cơ sở đào tạo trình độ Thạc sĩ, do
đó, có khoảng hơn 13,500 nghiên cứu sinh và hơn 105,000 học viên cao học (Thanh Hung, 2022).
Nhu cầu nghiên cứu sau đại học ngày càng tăng này, do các yếu tố xã hội và văn hóa, đòi hỏi sự
mở rộng nhanh chóng các bằng cấp sau đại học của các cơ sở đào tạo đại học Việt Nam trong một
khoảng thời gian ngắn, gây khó khăn cho việc giải quyết đồng thời cả nhu cầu tăng trưởng và chất
lượng, đặc biệt khả năng NCKH (Le & Bui, 2021).
Hiên tại, các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam tập trung vào nghiên cứu khoa của giảng
viên; chẳng hạn như Le và Bui (2021) đã nghiên cứu động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên
dựa trên lý thuyết nhu cầu mở rộng của Maslow, hoặc Kilakone (2015) đã xây dựng các giải pháp
tạo động lực nghiên cứu khoa học đối với giảng viên các trường đại học khối kinh tế, hoặc Le
(2020) đã tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường
Đại học Hà Nội. Trên thế giới, các nghiên cứu liên quan đến động lực nghiên cứu khoa học của
giảng viên (Yuan & ctg., 2015) và sinh viên (Al-Arifi, 2019; Potapov, Terentieva, & Semenov,
2016) cũng được thực hiện. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên quan đến động lực nghiên cứu khoa
học của học viên bậc sau đại học vẫn còn hạn chế; do đó, mục tiêu của bài báo này là khám phá
các yếu tố động lực NCKH của các học viên sau đại học tại các trường đại học, từ đó đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao động lực này. Nghiên cứu này bao gồm các nội dung như phần giới thiệu, cơ
sở lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu, và thảo luận cũng như kết luận.
2. Cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu về động lực bên ngoài của nhân viên được thực hiện chi tiết bởi Crucke,
Nguyễn Minh Hà và cộng sự. HCMCOUJS-Kỷ yếu, 17(3), 5-14 7
Kluijtmans, Meyfroodt, và Desmidt (2022). Động lực bên ngoài đề cập đến hành vi được thúc đẩy
bởi các phần thưởng bên ngoài như nhiệm kỳ, thăng chức, thù lao, phụ cấp công tác phí, chi phí
chuyên môn và các sở thích đặc biệt khác. Trong nghiên cứu của mình, Wilkesmann và Lauer
(2020) kết luận rằng động lực bên ngoài bao gồm việc tăng lương tốt hơn, có nhiệm kỳ và được
thăng chức. Tương tự, có thể thấy trong nghiên cứu của Henley và Nyaw (1987) rằng nhân viên
Trung Quốc đã nhấn mạnh đến các động lực vật chất, chẳng hạn như tăng lương và tiền thưởng,
hơn các kích thích phi vật chất, chẳng hạn như sự công nhận. Mallaiah và Yadapadithaya (2009)
đề cập rằng phần thưởng bên ngoài bao gồm tiền thưởng và quà tặng, lời khen ngợi, sự công nhận
của công chúng và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Olorunsola và Bamijoko (2005) cho rằng động
lực bên ngoài, chẳng hạn như lương được trả cao, trợ cấp hưu trí, phụ cấp làm thêm giờ và điều
kiện làm việc tốt, thường là những yếu tố quan trọng trong việc thu hút và giữ chân những người
giỏi nhất.
Nghiên cứu này sử dụng hai lý thuyết nền liên quan đến xây dựng động lực và động viên
con người, đó là lý thuyết nhu cầu (Maslow, 1943) cũng như lý thuyết nhu cầu mở rộng (Maslow,
1970), và lý thuyết tự quyết (Deci & Ryan, 1985).
2.1. Lý thuyết nhu cầu và nhu cầu mở rộng của Maslow (1943, 1970)
Hệ thống phân cấp nhu cầu của Maslow là một lý thuyết động lực trong tâm lý học bao
gồm một mô hình năm bậc về nhu cầu của con người, thường được mô tả là các cấp độ phân cấp
trong một kim tự tháp. Từ dưới cùng của thứ bậc trở lên, các nhu cầu bao gồm: sinh lý (thức ăn và
quần áo), an toàn (công việc đảm bảo), tình yêu và thuộc về (xã hội), được tôn trọng, và tự khẳng
định (Neher, 1991).
• Nhu cầu sinh lý (Physiological needs): là những yêu cầu sinh học đối với sự tồn tại của con
người, ví dụ như không khí, thức ăn, đồ uống, nơi ở, quần áo, sự ấm áp, tình dục, giấc ngủ.
• Nhu cầu an toàn (Safety needs): bao gồm bảo vệ khỏi bạo lực và trộm cắp, ổn định cảm
xúc và hạnh phúc, an ninh sức khỏe và an ninh tài chính.
• Nhu cầu tình yêu và thuộc về/nhu cầu xã hội (Love and belonging needs): đề cập đến nhu
cầu cảm xúc của con người đối với các mối quan hệ giữa các cá nhân, liên kết, kết nối và là một
phần của một nhóm.
• Nhu cầu được tôn trọng (Esteem needs): Maslow phân loại nhu cầu về lòng tôn trọng thành
hai loại: (i) lòng tự trọng đối với bản thân (phẩm giá, thành tích, khả năng làm chủ, độc lập) và (ii)
mong muốn danh tiếng hoặc sự tôn trọng từ người khác (ví dụ: địa vị, uy tín).
• Nhu cầu tự thể hiện (Self-actualization needs): là cấp độ cao nhất trong hệ thống phân cấp
của Maslow, và đề cập đến việc nhận ra tiềm năng của một người, tự hoàn thiện bản thân, tìm kiếm
sự phát triển cá nhân và trải nghiệm đỉnh cao.
có thể đáp ứng các nhu cầu cao hơn. Nhu cầu thiếu hụt phát sinh do thiếu thốn và được cho là động
lực thúc đẩy mọi người khi họ không được đáp ứng (Abbas, 2020). Ngoài ra, động lực để đáp ứng
những nhu cầu đó sẽ trở nên mạnh mẽ hơn trong thời gian chúng bị từ chối lâu hơn.
Maslow (1970) xác định nhu cầu nhận thức (cognitive needs) và thẩm mỹ (aesthetic needs)
là nhu cầu phát triển khác chủ yếu hơn là tự khẳng định; ngoài ra còn có một trạng thái động lực
cao hơn, siêu việt (transcendence needs) (Koltko-Rivera, 2006).
• Nhu cầu nhận thức bao gồm các hoạt động khác nhau liên quan đến sự tò mò vốn có của
con người và tình yêu kiến thức. Thông qua giáo dục, khám phá, phân tích và dự đoán, con người
đáp ứng nhu cầu này.
• Nhu cầu thẩm mỹ, thể hiện mong muốn đánh giá cái đẹp của con người. Ở đây, người ta
có thể đưa ra những ví dụ như sáng tạo và thẩm định nghệ thuật.
• Nhu cầu siêu việt có thể được định nghĩa là tìm kiếm lợi ích hoặc nguyên nhân ngoài bản
thân. Những người được thúc đẩy bởi sự tự siêu việt vượt lên trên nền văn hóa xung quanh và
những căng thẳng trong cuộc sống cá nhân của họ và đồng nhất với nhân loại nói chung.
2.2. Lý thuyết tự quyết của Deci và Ryan (1985)
Quyền tự quyết đề cập đến khả năng của một người trong việc lựa chọn và quản lý cuộc
sống của chính họ (Jansen in de Wal, van den Beemt, Martens, & den Brok, 2020). Tự quyết định
có nghĩa là một người cảm thấy kiểm soát nhiều hơn, trái ngược với việc không tự quyết định, điều
này có thể khiến họ cảm thấy cuộc sống của mình bị người khác kiểm soát (Vallerand, 2000). Lý
thuyết tự quyết định của tìm cách giải thích việc tự quyết định tác động đến động lực như thế nào
- rằng mọi người cảm thấy có động lực hơn để hành động khi họ nghĩ rằng những gì họ làm sẽ ảnh
hưởng đến kết quả (Ng & ctg., 2012).
Thuyết tự quyết cho rằng con người được thúc đẩy để phát triển và thay đổi bởi ba nhu cầu
tâm lý sẵn có (và phổ quát). Lý thuyết tự quyết cho rằng mọi người có thể trở nên tự quyết khi các
nhu cầu về năng lực, sự kết nối và quyền tự chủ của họ được đáp ứng.
• Quyền tự chủ: Mọi người cần cảm thấy kiểm soát được hành vi và mục tiêu của chính
mình. Cảm giác có thể thực hiện hành động trực tiếp dẫn đến thay đổi thực sự đóng một vai trò
quan trọng trong việc giúp mọi người cảm thấy tự quyết định.
• Năng lực: Mọi người cần phải thông thạo các nhiệm vụ và học các kỹ năng khác nhau. Khi
mọi người cảm thấy rằng họ có các kỹ năng cần thiết để thành công, họ có nhiều khả năng thực
hiện các hành động giúp họ đạt được mục tiêu của mình.
• Kết nối hoặc liên quan: Mọi người cần trải nghiệm cảm giác thân thuộc và gắn bó với
người khác.
ĐỘNG
Nhu cầu Nhu cầu Nhu cầu LỰC
tự chủ năng lực kết nối NỘI
SINH
nhóm với 11 học viên các ngành Quản trị kinh doanh, Tài chính ngân hàng, Công nghệ sinh học,
và Kinh tế học. Các học viên được lựa chọn có phân bổ ở các ngành kinh tế, kỹ thuật, và xã hội.
Các học viên này có độ tuổi từ 25 đến 34, và đang theo học chương trình sau đại học, bao gồm 09
học viên cao học, và 03 nghiên cứu sinh; thông tin đáp viên được thể hiện ở Bảng 1. Nội dung thảo
luận nhóm được gửi đến cho các đáp viên thông qua thư điện tử trước cuộc thảo luận 07 ngày.
Bảng 1
Thông tin các đáp viên tham gia thảo luận nhóm
“... hào hứng với công việc, yêu thích và đam mê với NCKH…”
“…khoảng thời gian nghiên cứu là khoảng thời gian có ý nghĩa trong cuộc sống…”
“…NCKH tạo ra một các chủ đề mới mẻ và thú vị trong cuộc sống…”
“…thực sự thích làm các NCKH để có thêm những trải nghiệm trong cuộc sống…”
Cuối cùng, thông qua NCKH, các học viên sau đại học có được sự cộng tác trong nghiên
cứu với giảng viên và bạn bè trong lớp. Các học viên sau đại học, đặc biệt bậc đào tạo tiến sĩ,
thường có các công bố cùng với giảng viên hướng dẫn. Ngoài ra, các học viên sau đại học có thể
cùng thực hiện các bài NCKH các bạn bè cùng khóa để xây dựng mối quan hệ nghiên cứu, đồng
thời để nhận được các chính sách khen thưởng từ phía nhà trường. Ngoài ra, thông qua kết quả
NCKH, các học viên sẽ thấy mình có ích và là một phần của đơn vị đào tạo khi tham gia đóng góp
một phần vào thành tích khoa học của đơn vị đào tạo.
“…cùng với giảng viên tạo ra các nghiên cứu thú vị…”
“…cảm nhận bản thân có ích trong tổ chức…”
“…hướng dẫn bạn bè cùng làm nghiên cứu…”
5. Thảo luận kết quả nghiên cứu, kết luận
5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu đã chỉ ra các yếu động được xem là động lực NCKH của các học viên sau đại
học bao gồm 06 yếu tố: củng cố và gia tăng kiến thức chuyên môn; quy định, quy chế NCKH; kết
nối với cộng đồng khoa học; chính sách khen thưởng và công nhận; sở thích, đam mê; sự cộng tác
trong nghiên cứu. Deemer, Martens, và Buboltz (2010) đã chỉ ra rằng có ba loại động lực ảnh
hưởng đến việc NCKH của 437 sinh viên từ các lĩnh vực sinh học, hóa học, vật lý và tâm lý học;
bao gồm, động lực bên trong, động lực bên ngoài, và sự lãng tránh thất bại trong học tập. Nghiên
cứu này cũng chỉ ra được các học viên sau đại học tham gia thực hiện các NCKH có thể do các
động lực bên trong (như sở thích, đam mê; sự cộng tác trong nghiên cứu; kết nối với cộng đồng
khoa học), động lực bên ngoài (chính sách khen thưởng, công nhận; quy định, quy chế NCKH),
hoặc để họ nâng cao trình độ chuyên môn để đạt được thành công trong công việc. Jing (2011)
cũng ủng hộ một số cấu trúc được chỉ ra bởi nghiên cứu này khi cho rằng các khía cạnh cấu trúc
của động lực NCKH được tập hợp dưới bốn yếu tố: động lực cá nhân, động lực xã hội, động lực
định hướng kết quả và động lực quá trình.
Đứng ở góc nhìn của Maslow (1943, 1970) và lý thuyết tự quyết của Deci và Ryan (1985),
nghiên cứu này đã chỉ ra được một số tương đồng trong các loại động lực dẫn đến hành vi NCKH
của học viên sau đại học. Việc các học viên mong muốn củng cố và gia tăng kiến thức chuyên môn
phù hợp với nhu cầu nhận thức và nhu cầu năng lực; việc thực hiện NCKH để đảm bảo các quy
định, quy chế NCKH sẽ giúp cho các nghiên cứu sinh đạt được nhu cầu an toàn và nhu cầu tự chủ
trong hoạt động học tập; kết nối với cộng đồng khoa học chính là nhu cầu xã hội và nhu cầu kết
nối; khi nhà trường hoặc xã hội có các chính sách khen thưởng và công nhận nhà nghiên cứu chính
là giúp cho họ đạt được nhu cầu được tôn trọng; việc thực hiện được sở thích, đam mê NCKH
chính là đáp ứng nhu cầu tự khẳng định của nhà NCKH; và cuối cùng sự cộng tác trong nghiên
cứu chính là nhu cầu cao nhất theo tháp siêu việt và nhu cầu kết nối. Trong nghiên cứu của Fırat
(2016) có phát hiện quan trọng liên quan đến động lực NCKH của các học giả trẻ, tác giả chỉ ra
các động lực của nhà nghiên cứu trẻ bao gồm đóng góp cho cuộc sống con người, sự tò mò khoa
học, sự nghiệp, đóng góp cho khoa học và uy tín. Ngoài ra, các học giả trẻ coi tiền là yếu tố động
lực thấp nhất cho NCKH. Tùy thuộc vào phát hiện này, có thể nói rằng tất cả năm yếu tố động lực
ngoại trừ tiền đều gần giống nhau. Bốn yếu tố động lực này có thể được coi là động lực nội tại.
5.2. Kết luận
12 Nguyễn Minh Hà và cộng sự. HCMCOUJS- Kỷ yếu, 17(3), 5-14
Khoa học khám phá nguyên nhân gốc rễ của hiện tượng để giải thích và dự đoán chúng
trong bối cảnh cuộc sống thích ứng với cơ sở kinh tế và xã hội mới, trong khi NCKH là một quá
trình có hệ thống, áp dụng các phương pháp tìm hiểu khoa học, giải quyết các vấn đề hệ quả, thỏa
mãn mong muốn của con người, để tận dụng các cơ hội quan trọng hoặc để đối phó với các mối
đe dọa từ môi trường. Hiện tại, việc NCKH tại Việt Nam nói chung, và các học viên sau đại học
nói riêng nhận được rất nhiều sự quan tâm. Nghiên cứu này chỉ ra những yếu tố được xem như là
động lực của các học viên sau đại học. Nghiên cứu này thông qua nghiên cứu định tính đã khám
phá ra được sáu yếu tố động lực NCKH của học viên sau đại học bao gồm: củng cố và gia tăng
kiến thức chuyên môn; quy định, quy chế NCKH; kết nối với cộng đồng khoa học; chính sách
khen thưởng và công nhận; sở thích, đam mê; sự cộng tác trong nghiên cứu.
Thông qua kết quả nghiên cứu, nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp để nâng cao động
lực NCKH của các học viên cao học như sau. Về phía đơn vị đào tạo, nhà trường cần xây dựng
các chính sách khen thưởng mang tính cách động viên và công nhận kết quả nghiên cứu của các
học viên sau đại học, đặc biệt các chính sách hỗ trợ tài chính, ghi nhận điểm cộng vào các môn
học liên quan. Ngoài ra, nhà trường cũng có thể thành lập các nhóm nghiên cứu cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh để họ có thể chia sẻ hoạt động nghiên cứu lẫn nhau, nhằm đáp ứng nhu
cầu cộng tác trong nghiên cứu. Bên cạnh đó, những quy định và quy chế NCKH đối với đối tượng
học viên cao học, đặc biệt là bậc nghiên cứu sinh cần phải rõ ràng và thực hiện một cách nghiêm
túc, có sự theo dõi đánh giá hằng năm. Nhà trường cũng cần thường xuyên tổ chức các buổi sinh
hoạt chuyên đề liên quan đến NCKH, đồng thời tổ chức các hội thảo từ cấp khoa, cấp trường, và
động viên sự tham gia của đối tượng học viên.
Nghiên cứu này được thực hiện một cách nghiêm túc, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế.
Thứ nhất, nghiên cứu chỉ thực hiện thông qua thảo luận nhóm tập trung, do đó, kết quả nghiên cứu
có thể chưa hoàn toàn mang tính khách quan. Các nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện thảo luận
nhóm tập trung kết hợp với phỏng vấn sâu để có thể thu thập nhiều dữ liệu khách quan hơn. Thứ
hai, hiện tại nghiên cứu chỉ nêu được các yếu tố thuộc về động lực NCKH, vì vậy việc kết hợp với
phương pháp nghiên cứu định lượng sẽ giúp cho nghiên cứu đánh giá được mức độ ảnh hưởng của
các yếu tố lên động lực NCKH.
ICT oriented young education researchers. Eğitim ve Bilim-Education and Science, 41(187),
221-237. doi:10.15390/EB.2016.448
Henley, J. S., & Nyaw, M. K. (1987). The development of work incentives in Chinese
industrialenterprises - Material versus non-material incentives. In M. Warner (Ed.),
Management reform in China (pp. 14-148). London, UK: Frances Printe.
Jansen in de Wal, J., van den Beemt, A., Martens, R. L., & den Brok, P. J. (2020). The relationship
between job demands, job resources and teachers’ professional learning: Is it explained by
self-determination theory? Studies in Continuing Education, 42(1), 17-39.
Jing, Z. (2011). Structural analysis on scientific research motivations of higher vocational college
libraries. Journal of Nantong Textile Vocational Technology College, 4(2011), 23-28.
Kilakone, S. (2015). Giải pháp tạo động lực nghiên cứu khoa học đối với giảng viên các trường đại
học khối kinh tế [Solutions to generate motivate scientific research for lecturers at universities
of economics] (Master’s thesis). Foreign Trade University, Hanoi, Vietnam.
Koltko-Rivera, M. E. (2006). Rediscovering the later version of Maslow’s hierarchy of needs: Self-
transcendence and opportunities for theory, research, and unification. Review of General
Psychology, 10(4), 302-317.
Lamanauskas, V. (2012). Development of scientific research activity as the basic component of
science education. Journal of Baltic Science Education, 11(3), 200-202.
Le, H. T. K., & Bui, K. T. (2021). Động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên: Góc nhìn lý thuyết
nhu cầu mở rộng của Maslow [Scientific research motivation of lecturer: A view of the
Maslow’s extended-demand theory]. Tạp chí Khoa học và Công nghệ - IUH, 46(4), 235-248.
doi:10.46242/jst-iuh.v46i04.706
Le, T. T. (2020). Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường
Đại học Hà Nội [Factors affecting scientific research motivation of lecturers of Hanoi
University]. VNU Journal of Science: Education Research, 36(3), 27-41. doi:10.25073/2588-
1159/vnuer.4433
Mallaiah, T., & Yadapadithaya, P. (2009). Intrinsic motivation of librarians in university libraries in
Karnataka. DESIDOC Journal of Library & Information Technology, 29(3), 36-42.
Maslow, A. H. (1943). A theory of human motivation. Psychological Review, 50(4), 370-396.
doi:10.1037/h0054346
Maslow, A. H. (1970). Motivation and personality. New York, NY: Harper & Row.
Neher, A. (1991). Maslow’s theory of motivation: A critique. Journal of Humanistic Psychology,
31(3), 89-112.
Ng, J. Y., Ntoumanis, N., Thøgersen-Ntoumani, C., Deci, E. L., Ryan, R. M., Duda, J. L., &
Williams, G. C. (2012). Self-determination theory applied to health contexts: A meta-analysis.
Perspectives on Psychological Science, 7(4), 325-340.
Nikita, V. M., Elena, S. S., & Ulyana, M. S. (2015). Motivation system of students and teaching staff
of higher educational institutions for research work accomplishment. Procedia-Social and
Behavioral Sciences, 166(2015), 265-269.
Olorunsola, R., & Bamijoko, S. (2005). Recruitment and retention of librarians in Nigeria: The
huddles ahead. Middle Belt Journal of Library and Information Science, 5(1), 9-15.
Potapov, K., Terentieva, P., & Semenov, V. (2016). About student’s scientific research motivation
14 Nguyễn Minh Hà và cộng sự. HCMCOUJS- Kỷ yếu, 17(3), 5-14
in technical institutions of higher education in Russia. Paper presented at the 2016 IEEE NW
Russia Young Researchers in Electrical and Electronic Engineering Conference
(EIConRusNW), St. Petersburg, Russia.
Stoyanova, D., Savova, E., Peteva, I., & Yotova, R. (2018). Academic research projects for students
support and motivation in university information environment. Paper presented at the 11th
annual International Conference of Education, Research and Innovation, Seville, Spain.
Thanh Hung (2022). Nâng chất đào tạo sau đại học - Bài 1: Thực trạng đáng báo động [Improving
the quality of graduate training - Part 1: The alarming situation]. Truy cập ngày 10/07/2022
tại https://www.sggp.org.vn/nang-chat-dao-tao-sau-dai-hoc-bai-1-thuc-trang-dang-bao-dong-
818978.html
Vallerand, R. J. (2000). Deci and Ryan’s self-determination theory: A view from the hierarchical
model of intrinsic and extrinsic motivation. Psychological Inquiry, 11(4), 312-318.
Wilkesmann, U., & Lauer, S. (2020). The influence of teaching motivation and new public
management on academic teaching. Studies in Higher Education, 45(2), 434-451.
Yuan, Z., Ping, X., Zhen-yu, W., Qian-qian, L., Yu, Z., & Guo-hua, F. (2015). The present situation
of the scientific research motivation and attitude of young teachers in Kunming Medical
University. Journal of Kunming Medical University/Kunming Yike Daxue Xuebao, 36(2), 160-
163.