Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

------------------

BÁO CÁO THẢO LUẬN


ĐỀ TÀI

Đối tượng nghiên cứu của kế toán

Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Lê Thị Thanh Hải


Mã lớp học phần : 2326FACC0111
Nhóm thực hiện : Nhóm 6

HÀ NAM - 2023
1
LỜI CẢM ƠN

Trước hết, nhóm chúng em muốn gửi lời cảm ơn đến cô Lê Thị Thanh Hải.
Trong quá trình học tập mặc dù đã gặp không ít khó khăn, tuy nhiên nhờ có sự giúp
đỡ và hướng dẫn tận tình của cô, nhóm chúng em đã lĩnh hội được những kiến thức
bổ ích, mới mẻ và có hướng đi đúng đắn trong bài thảo luận này.
Ngoài ra, cũng muốn gửi lời cảm ơn đến các các bạn trong nhóm luôn giúp
đỡ và hỗ trợ nhau trong quá trình tìm kiếm nguồn tài liệu, cố gắng làm việc đúng
tiến độ và nhiệm vụ được phân chia để hoàn thành tốt bài thảo luận này.
Do còn hạn chế, thiếu hiểu biết chuyên sâu về kiến thức và các kỹ năng, bài
thảo luận của nhóm chúng em khó tránh khỏi những sai sót. Với tinh thần cầu tiến,
mong muốn tiến bộ, nhóm chúng em rất mong nhận được những lời nhận xét, góp
ý tận tình từ cô để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.
Xin cảm ơn Cô và các bạn!

2
LỜI CAM ĐOAN
Nhóm 6 chúng em xin cam đoan:

Dưới sự hướng dẫn của giảng viên Lê Thị Thanh Hải, những nội dung trong
bài thảo luận đều do các thành viên trong nhóm thực hiện.

Các kiến thức trình bày do chúng em thu nhập nhờ sự hỗ trợ, tham khảo từ
các tư liệu, giáo trình liên quan đến đề tài nghiên cứu. Không có sự sao chép y
nguyên các tư liệu trước đó.

3
BIÊN BẢN HỌP NHÓM

Thời gian: 20h ngày 20/02/2023

Hình thức: trực tiếp

Địa điểm: Kí túc xá Trường đại học Thương Mại cơ sở Hà Nam

Số lượng: 09 (Nguyễn Thị Hương bảo lưu)

Chủ trì: nhóm trưởng Đoàn Chí Hưng

Nội dung: Phân công công việc, lên đề cương cho đề tài: “Đối tượng nghiên cứu
của kế toán”

- Đoàn Chí Hưng: Đối tượng nghiên cứu của kế toán (phần II)

- Lê Thị Thu Hương: Giới thiệu chung về kế toán (Phần I)

- Đoàn Thị Hồng Kiều: Đối tượng nghiên cứu của kế toán (phần II)

- Đinh Thị Thanh Lan: Kết luận (Phần IV)

- Dương Thị Linh: Giới thiệu chung về kế toán (Phần I)

- Đặng Thị Khánh Linh: Đối tượng nghiên cứu của kế toán (phần II)

- Ngô Diệu Linh: Sự khác biệt về đối tượng kế toán giữa các loại hình doanh
nghiệp (Phần III)
- Nguyễn Cao Duy Linh: Sự khác biệt về đối tượng kế toán giữa các loại hình
doanh nghiệp (Phần III)
- Nguyễn Đỗ Phương Linh: Đối tượng nghiên cứu của kế toán (phần II)

4
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
Tự
Chức Nhóm Kết
STT Họ tên Công việc đánh
trách đánh giá luận
giá
Đoàn Chí Nhóm
51 Phần II, Powerpoint
Hưng trưởng
Lê Thị Thu Thành
52 Phần I
Hương viên
Đoàn Thị Thành
54 Phần II, Word
Hồng Kiều viên
Lời mở đầu, lời cảm
Đinh Thị Thành
55 ơn, lời cam đoan,
Thanh Lan viên
phần IV
Dương Thị Thành
56 Phần I
Linh viên
Đặng Thị Thành
57 Phần II
Khánh Linh viên
Ngô Diệu Thành
58 Phần III
Linh viên
Nguyễn Cao Thành
59 Phần III
Duy Linh viên
Nguyễn Đỗ
Phần II, biên bản họp
60 Phương Thư ký
nhóm
Linh

5
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 8
I. Giới thiệu chung về kế toán 9
1. Khái niệm và vai trò của kế toán trong quản lý kinh tế 9
1.1. Khái niệm và phân loại kế toán 9
1.2. Vai trò của kế toán trong quản lý kinh tế 9
2. Chức năng và nhiệm vụ của kế toán 10
2.1. Chúc năng của kế toán 10
2.2. Nhiệm vụ của kế toán 10
II. Đối tượng nghiên cứu của kế toán 10
1. Tài sản và nguồn hình thành tài sản 10
1.1. Định nghĩa 10
1.2. Đặc điểm 11
1.3. Phân loại 12
1.4. Vai trò của tài sản trong việc định hướng, đánh giá và quản lý hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp 15
2. Sự vận động của tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh 16
2.1. Quá trình cung cấp 16
2.2. Quá trình sản xuất 16
2.3. Quá trình tiêu thụ 17
3. Mối quan hệ kinh tế - pháp lý ngoài tài sản của đơn vị 17
3.1. Quan hệ kinh tế - pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình 17
3.2. Quan hệ kinh tế - pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
xã hội 17

6
3.3. Quan hệ kinh tế - pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
người lao động 18
III. Sự khác biệt về đối tượng kế toán giữa các loại hình doanh nghiệp 19
1. Tài sản 19
1.1. Tiền và các khoản tương đương tiền 19
1.2. Các khoản phải thu ngắn hạn 20
1.3. Hàng tồn kho 20
1.4. Tài sản cố định hữu hình 21
1.5. Tài sản cố định vô hình 21
2. Nguồn vốn 22
2.1. Nợ phải trả 22
2.2 Nguồn vốn chủ sở hữu 23
IV. Kết luận 24
1. Vai trò của đối tượng nghiên cứu trong kế toán 24
2. Tổng kết những nội dung quan trọng của đối tượng nghiên cứu trong kế toán 25
3. Đưa ra những nhận định, khuyến nghị về quản lý đối tượng nghiên cứu kế toán
trong thực tế 26
Tài liệu tham khảo 27

7
LỜI MỞ ĐẦU
Kế toán là một công cụ quan trọng phục vụ đắc lực cho công tác quản lý các
hoạt động của doanh nghiệp, thông qua các số liệu trên sổ sách kế toán mà người
quản lý có thể nắm bắt được tình hình hoạt động của doanh nghiệp như thế nào.
Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, kế toán đã và đang cần có sự đổi mới không
chỉ dừng lại ở việc ghi chép và lưu trữ các dữ liệu mà quan trọng hơn là thiết lập
một hệ thống thông tin quản lý. Do đó, kế toán về mặt bản chất là hệ thống đo
lường xử lý và truyền đạt những thông tin có ích làm căn cứ cho các quyết định
kinh tế cho nhiều đối tượng khác nhau ở bên trong và cả bên ngoài doanh nghiệp.
Hầu như trong bất cứ doanh nghiệp nào thì đối tượng nghiên cứu của kế toán
đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối tượng
của kế toán nói chung là tài sản, sự biến động của tài sản và các quá trình hoạt
động kinh tế, tài chính của đơn vị.
Trong các doanh nghiệp hiện nay, việc nghiên cứu nội dung cụ thể đối tượng
kế toán trong doanh nghiệp là cơ sở để tổ chức khoa học và hợp lý công tác kế toán
nhằm phát huy vai trò của kế toán trong công tác quản lý kinh tế, tài chính.

8
I. Giới thiệu chung về kế toán
1. Khái niệm và vai trò của kế toán trong quản lý kinh tế
1.1. Khái niệm và phân loại kế toán
1.1.1. Khái niệm kế toán
Kế toán là môn khoa học thu nhận, xử lý, và cung cấp toàn bộ thông tin về tình
hình tài sản trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức sự nghiệp và các cơ
quan nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính của
các đơn vị đó.
Theo điều 4, Luật Kế toán Việt Nam: “Kế toán là việc thu nhập, xử lý, kiểm
tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện
vật và thời gian lao động”
1.1.2. Phân loại kế toán
a, Phân loại theo cách ghi chép, thu nhận thông tin
Kế toán ghi đơn: ghi chép thu nhận thông tin về các nghiệp vụ kinh tế một
cách độc lập, riêng biệt.
Kế toán ghi kép: ghi chép, thu nhận các thông tin về các nghiệp vụ kinh tế theo
đúng nội dung, sự vận động biện chứng giữa các đối tượng kế toán.

b, Phân loại theo mức độ, tính chất của thông tin
Kế toán tổng hợp: là loại kế toán mà thông tin kế toán được ghi chép thu nhận
theo những chỉ tiêu kinh tế được tổng hợp bằng thước đo giá trị.
Kế toán chi tiết: là loại kế toán mà thông tin được thu nhận, xử lý và cung cấp
theo dạng chi tiết, cụ thể về 1 chỉ tiêu tổng hợp do kế toán tổng hợp thực hiện.
1.2. Vai trò của kế toán trong quản lý kinh tế
Kế toán có vai trò quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị.
Thông tin do kế toán cung cấp là nguồn thông tin quan trọng, trung thực, khách
quan, chiếm tỷ trọng lớn giúp cho các nhà quản lý thực hiện tốt chức năng quản lý
của mình. Kế toán còn giúp phân tích và xử lý thông tin, giúp cho nhà quản lý đánh

9
giá chính xác mức độ hoàn thành của các chỉ tiêu kinh tế (về sản lượng tiêu thụ, về
doanh thu, về lợi nhuận...)

2. Chức năng và nhiệm vụ của kế toán


2.1. Chúc năng của kế toán
Chức năng đầu tiên của kế toán là thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho
các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp để từ đó có các quyết định đúng đắn
và kịp thời cho doanh nghiệp, cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như: cơ
quan quản lý Nhà nước, ngân hàng, tổ chức tín dụng, khách hàng của doanh
nghiệp, các nhà cung ứng cho doanh nghiệp… để các đối tượng nắm giữ đúng tình
hình kinh tế của doanh nghiệp.
Chức năng thứ hai của kế toán là kiểm sát, giám sát các hoạt động kinh tế tài
chính. Từ bảng kế toán nhà quản lý có thể kiểm tra tình hình sử dụng tài sản tại
đơn vị, giúp cục quản lý, kiểm toán, giám sát kế toán có thể kiểm tra việc chấp
hành đúng các chế độ tài chính do Nhà nước và Bộ Tài chính quy định như thuế,
các loại phí…
2.2. Nhiệm vụ của kế toán
Kế toán có bốn nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng, nội dung công việc
kế toán và theo chế độ, chuẩn mực kế toán.
- Cung cấp các số liệu, tài liệu theo quy định của pháp luật.
- Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu nộp, thanh
toán nợ, kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản.
- Phân tích thông tin, số liệu kế toán; tham mưu đề xuất các giải pháp phục vụ
các yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.

10
II. Đối tượng nghiên cứu của kế toán
1. Tài sản và nguồn hình thành tài sản
1.1. Định nghĩa
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 01) định nghĩa “Tài sản là nguồn lực do
doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai”.
Định nghĩa này cho thấy có sự khác biệt giữa quy định của luật pháp và quy
định của kế toán về tài sản. Trên phương diện pháp lý, tài sản của một doanh
nghiệp phải thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp đó, tuy nhiên trên phương diện
kế toán, tài sản được báo cáo trên bảng cân đối kế toán của một doanh nghiệp
không nhất thiết phải thuộc quyền sở hữu mà chỉ cần thuộc quyền kiểm soát của
doanh nghiệp do đó nhằm đáp ứng yêu cầu “coi trọng bản chất hơn hình thức” của
kế toán.

1.2. Đặc điểm


Xét trên phương diện là tài sản tài chính của doanh nghiệp, tài sản có các đặc
điểm chính: tính thanh khoản, tính rủi ro, tính sinh lời
- Tính thanh khoản: là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt trong thời gian
ngắn. Khác với tài sản thông thường, yếu tố thanh khoản là đặc điểm bắt buộc phải
có của tài sản tài chính.
Để đảm bảo tính thanh khoản, tài sản phải đáp ứng hai yêu cầu: việc chuyển
đổi thành tiền phải được thực hiện nhanh chóng và chi phí chuyển đổi phải thấp.
Tài sản tài chính nào càng có thời gian và chi phí chuyển đổi càng thấp nghĩa là
tính thanh khoản càng cao và ngược lại. Nó tùy thuộc vào 2 yếu tố: thời gian từ lúc
bán các tài sản tài chính để lấy lại tiền lâu hay mau và tùy theo chi phí giao dịch
gồm tiền phí tổn trả cho các trung gian và sai biệt giá mua vào và giá bán ra.
- Tính rủi ro: là những đe dọa về an toàn vốn và thu nhập đối với các nhà đầu tư
vào tài sản tài chính. Tính rủi ro của tài sản tài chính thường cao hơn so với các
loại tài sản thông thường. Rủi ro này thường đe dọa sự an toàn về vốn và thu nhập.
Một số loại rủi ro mà các doanh nghiệp có thể gặp phải thường bao gồm:

11
+ Rủi ro thanh toán xuất phát từ sự phá sản của các chủ thể phát hành các tài
sản tài chính. Như vậy, các trái phiếu kho bạc, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng
thường ít rủi ro không thanh toán hơn so với trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty.
+ Rủi ro thị trường liên quan đến sự tăng giảm giá trị thị trường của các tài
sản tài chính. Giá của các cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường có thể lên xuống vì
những thay đổi trong các dự đoán về lạm phát, về tình hình kinh doanh và những
yếu tố khác.
+ Rủi ro lạm phát hay rủi ro về sức mua, xuất hiện trong giá trị của dòng tiền
của các tài sản tài chính do lạm phát khi đo lường giá sức mua.
- Tính sinh lợi: là khả năng có thu nhập từ các tài sản tài chính mang lại cho nhà
đầu tư. Khác với các loại tài sản thông thường có thể sinh lợi hoặc không, tài sản
tài chính luôn có khả năng sinh lợi cho nhà đầu tư. Ví dụ như vàng bạc, bất động
sản được kỳ vọng mang đến nhiều lợi nhuận cho các nhà đầu tư khi giá cả tăng lên.
Hay khi họ đầu tư vào cổ phiếu, khách hàng không chỉ được hưởng lợi khi giá cổ
phiếu thị trường tăng cao mà còn được hưởng cổ tức. lợi nhuận khi hoạt động kinh
doanh của công ty tăng.
Ngoài ra, tài sản tài chính còn mang các đặc điểm như tính tiền tệ - thực hiện
chức năng của tiền tệ là trung gian trao đổi và thanh toán các giao dịch tiền tệ; tính
chuyển đổi; tính hối đoái - giá trị của tài sản tài chính có thể biểu hiện bằng nhiều
loại tiền tệ khác nhau; tính phức hợp - có thể có cấu trúc phức tạp, tài sản tài chính
này là phức hợp của nhiều tài sản tài chính đơn giản khác và tính chịu thuế - các tài
sản tài chính có tính sinh lời, vì thế trong một số trường hợp, có thể là đối tượng
chịu thuế.

1.3. Phân loại


a. Theo kết cấu
- Tài sản ngắn hạn: là những tài sản được dự tính để bán hoặc sử dụng trong
khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp hoặc được nắm
giữ chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc mục đích ngắn hạn và dự kiến thu hồi
hoặc thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán. Ngoài ra,

12
tài sản ngắn hạn còn được hiểu là tiền hoặc tài sản tương đương tiền mà việc sử
dụng không gặp 1 hạn chế nào. Tài sản ngắn hạn gồm có:

 Tiền: bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, kho bạc và tiền đang chuyển
 Đầu tư tài chính ngắn hạn: là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục đích sinh
lời có thời gian thu hồi gốc và lãi trong vòng 1 năm như góp vốn liên doanh
ngắn hạn, cho vay ngắn hạn, đầu tư chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo
hạn…
 Các khoản phải thu ngắn hạn: là lợi ích của đơn vị hiện đang bị các đối tượng
khác tạm thời chiếm dụng như phải thu khách hàng, phải thu nội bộ, trả trước
ngắn hạn cho người bán, phải thu về thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
 Hàng tồn kho: là các loại tài sản được dự trữ cho sản xuất hoặc kinh doanh
thương mại, bao gồm hàng mua đang đi đường, nguyên vật liệu, công cụ dụng
cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa và hàng gửi đi bán
 Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm tạm ứng, chi phí trả trước ngắn hạn và thế
chấp, nhận ký quỹ, ký cược ngắn hạn

- Tài sản dài hạn: là những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát
của đơn vị, thường có giá trị lớn, có thời gian luân chuyển, thu hồi, sử dụng trên 1
năm, hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh. Tài sản dài hạn bao gồm:

 Tài sản cố định: là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng
lâu dài. Theo quy định hiện hàng, tài sản cố định phải thoả mãn đồng thời ít
nhất 2 điều kiện là có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị từ 30
triệu VNĐ trở lên. Theo hình thái biểu hiện, tài sản cố định được chia thành
tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Tài sản cố định hữu hình
là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm nhà cửa, vật
kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, truyền dẫn thiết bị chuyên
dùng cho quản lý, cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm. Còn tài sản
cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất cụ thể,
thể hiện một số tiền mà đơn vị đã đầu tư, chi phí nhằm thu được các lợi ích
13
kinh tế trong tương lai như quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng phát sinh
sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy tính, giấy phép khai thác và
nhượng quyền…
 Đầu tư tài chính dài hạn: là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục đích sinh
lời có thời gian thu hồi gốc và lãi trên 1 năm như đầu tư vào công ty con, đầu
tư vào công ty liên kết, góp vốn liên doanh dài hạn, cho vay dài hạn.
 Các khoản phải thu dài hạn: là lợi ích của đơn vị hiện tại đang bị đối tượng
khác tạm thời chiếm dụng, có thời hạn thu hồi trên 1 năm như phải thu khách
hàng dài hạn, trả trước dài hạn cho người bán.
 Bất động sản đầu tư: là bất động sản bao gồm quyền sử dụng đất, nhà hoặc
một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc
người đi thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu
lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản
xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hoặc sử dụng cho mục đích quản lý hoặc để
bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông thường. Bất động sản đầu tư khác
với bất động sản chủ sở hữu sử dụng và hàng hóa bất động sản.
 Tài sản dài hạn khác: bao gồm chi phí trả trước dài hạn, chi phí đầu tư xây
dựng cơ bản dở dang và ký cược, ký quỹ dài hạn.

b. Theo nguồn hình thành


- Nợ phải trả: là nghĩa vụ hiện tại của đơn vị phát sinh từ các giao dịch và sự
kiện đã qua mà đơn vị phải thanh toán từ các nguồn lực của mình. Nợ phải trả gồm
2 loại là nợ phải trả ngắn hạn và nợ phải trả dài hạn.

+ Nợ ngắn hạn: là các khoản nợ có thời hạn thanh toán dưới 1 năm hoặc 1 chu
kỳ kinh doanh. Ví dụ như vay ngắn hạn, phải trả người bán ngắn hạn, tiền đặt trước
ngắn hạn của người mua, các khoản phải trả, phải nộp ngân sách Nhà nước, các
khoản phải trả công nhân viên, các khoản nhận ký quỹ, ký cược ngắn hạn…

14
+ Nợ dài hạn: là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm hoặc trên 1 chu
kỳ kinh doanh như vay dài hạn, nợ dài hạn, nợ do mua tài sản trả góp dài hạn, phải
trả người bán dài hạn, tiền đặt trước dài hạn của người mua…

- Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có quyền sử dụng lâu dài mà không phải cam kết thanh toán. Với những
loại hình doanh nghiệp khác nhau, vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau và
bao gồm 3 loại:

Vốn đầu tư của chủ sở hữu: là số tiền do các chủ sở hữu đóng góp ban đầu
khi thành lập đơn vị kế toán hoặc được bổ sung trong quá trình hoạt động. Cần
phân biệt sự khác nhau giữa vốn góp, vốn pháp định và vốn điều lệ. Vốn pháp định
là số vốn tối thiểu cần có do pháp luật quy định đối với một số lĩnh vực hoạt động
nhất định. Vốn điều lệ là số vốn mà các thành viên sáng lập cam kết trước pháp
luật sẽ huy động vào hoạt động kinh doanh và được ghi trong điều lệ của đơn vị.

Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối: là kết quả hoạt động của đơn vị kế toán,
trong khi chưa phân phối được sử dụng cho hoạt động của đơn vị và là một nguồn
vốn chủ sở hữu.

Vốn chủ sở hữu khác: bao gồm các nguồn vốn và quỹ chuyên dùng của đơn
vị kế toán được hình thành chủ yếu từ việc phân phối lợi nhuận, bao gồm quỹ đầu
tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi, nguồn vốn đầu tư
xây dựng cơ bản, chênh lệch tỷ giá hối đoái…

1.4. Vai trò của tài sản trong việc định hướng, đánh giá và quản lý hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
Tài sản là cơ thể sống của doanh nghiệp. Chúng có thể sinh sôi, đến và đi, và
liên tục di chuyển xung quanh nơi làm việc. Điều này làm cho việc theo dõi tài sản
theo thời gian thực trở thành một phần quan trọng trong việc định hướng, đánh giá
và quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nắm rõ được tình hình và

15
sự vận động của tài sản và nguồn hình thành tài sản, doanh nghiệp có thể hoạch
định các chiến lược để hoạt động hiệu quả hơn. Hiểu vai trò của từng tài sản trong
từng lĩnh vực của doanh nghiệp, điều đó bao gồm khả năng của họ, cách chúng có
thể được vận hành theo cách hiệu quả nhất, lợi tức đầu tư (ROI) chi tiết và thậm
chí nếu chúng nên được xử lý để tiết kiệm tiền.
Theo dõi tài sản và nguồn vốn để dự báo chi tiêu và ngân sách trong tương
lai. Có một lịch sử đầy đủ của một tài sản, từ khi mua đến khi kết thúc vòng đời, là
cơ sở để đánh giá chính xác việc thu được tài sản trong tương lai. Nó cũng có thể
giúp cấu trúc ngân sách và chi tiêu kinh doanh trong tương lai. Nó còn giúp doanh
nghiệp xác định các xu hướng trong kinh doanh. Điều này cực kỳ hữu ích để hiểu
vòng đời của tài sản. Khi biết điều này, doanh nghiệp có thể lên lịch bảo trì và sửa
chữa hiệu quả hơn - cho phép doanh nghiệp xác định và phản hồi trước khi chúng
gây ra những vấn đề lớn.
Ngoài ra, việc theo dõi sát sao tài sản còn giúp doanh nghiệp xác định tài sản
ma. Đây có thể là thứ bị mất hoặc bị đánh cắp, hoặc thậm chí được ghi lại không
chính xác, nhưng vẫn nằm trong hệ thống. Với các tính năng hiệu quả như theo dõi
thời gian thực, hệ thống quản lý tài sản có thể giúp xác định và loại bỏ các tài sản
ma khó chịu.

2. Sự vận động của tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh
Trong quá trình kinh doanh, các hoạt động tài chính, kinh tế phát sinh gây nên
sự biến động, chuyển hóa của tài sản, nguồn hình thành tài sản tạo thành các quá
trình kinh tế khác nhau và được diễn ra liên tục kế tiếp nhau. Trong các doanh
nghiệp, quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm:
2.1. Quá trình cung cấp
Quá trình cung cấp là khâu khởi đầu của quá trình sản xuất kinh doanh, là quá
trình doanh nghiệp sử dụng tài sản bằng tiền mua máy móc, thiết bị, vật tư, hàng
hóa, tài sản của doanh nghiệp chuyển hóa từ tiền sang hàng, doanh nghiệp nhận
quyền sở hữu về hàng và mất quyền sở hữu về tiền hoặc có trách nghiệm thanh
toán cho người cung cấp. Kế toán phải ghi chép phản ánh số tài sản là máy móc,

16
thiết bị, vật tư, hàng hóa mà doanh nghiệp đã nhận được và số tiền đã thanh toán
hoặc công nợ phải trả người cung cấp.

2.2. Quá trình sản xuất


Quá trình sản xuất là quá trình doanh nghiệp sử dụng lao động kết hợp với
máy móc, thiết bị tác động vào các đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ theo nhu cầu của người tiêu dùng, là quá trình doanh nghiệp tiêu hao
các nguồn lực (chi phí bỏ ra) và thu được kết quả (sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thu
được). Quản lý quá trình sản xuất doanh nghiệp phải biết được chi phí đã bỏ ra và
kết quả đã thu được, do đó kế toán phải ghi chép, phản ánh toàn bộ chi phí và kết
quả thu được.

2.3. Quá trình tiêu thụ


Quá trình tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là quá
trình tài sản từ hình thái sản phẩm, hàng hóa chuyển sang hình thái tiền tệ. Đơn vị
mất quyền sở về hàng hóa nhưng được quyền sở hữu về tiền tệ hoặc được quyền
đòi tiền từ người mua.
Như vậy, trong quá trình hoạt động tài sản và nguồn hình thành tài sản biến
động, thay đổi, chuyển hóa hình thái tạo nên các quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nghiên cứu sự biến động của tài sản trong doanh nghiệp phải
nghiên cứu nó trong các giai đoạn, các quá trình sản xuất kinh doanh hay nói cách
khác sự biến động của tài sản trong các quá trình cung cấp - sản xuất - bán hàng là
đối tượng của kế toán trong doanh nghiệp.

3. Mối quan hệ kinh tế - pháp lý ngoài tài sản của đơn vị


3.1. Quan hệ kinh tế - pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài các quan hệ
kinh tế liên quan đến tài sản sở hữu thuộc đơn vị còn phát sinh các quan hệ kinh tế
liên quan đến tài sản không thuộc sở hữu của đơn vị như quan hệ hàng hóa nhận

17
giữ hộ, quan hệ về tài sản cố định thuê ngoài, quan hệ về các hợp đồng,... Các quan
hệ đó thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp, cần nhận thức đầy đủ
đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đúng, có hiệu quả, kế toán trong doanh
nghiệp phải ghi chép phản ánh. Do đó, các quan hệ kinh tế pháp lý ngoài tài sản
của doanh nghiệp phát sinh trong quá trình hoạt động là đối tượng của kế toán.
3.2. Quan hệ kinh tế - pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
xã hội
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, theo chuyên gia của Ngân hàng thế giới
được hiểu là “Cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền
vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới,
an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển
nhân viên, phát triển cộng đồng,… theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như
phát triển chung của xã hội”.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách đạt
một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ quy tắc ứng xử (Code of Conduct –
COC). Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải thực hiện đối với
xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác dụng tích cực và
giảm tới tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
3.3. Quan hệ kinh tế - pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
người lao động
Trong bộ môn nguyên lý kế toán, quan hệ kinh tế - pháp lý giữa doanh nghiệp
và người lao động được xem là một trong những lĩnh vực quan trọng cần được
quan tâm và tuân thủ đầy đủ. Điều này đảm bảo rằng doanh nghiệp sẽ có trách
nhiệm đối với nhân viên của mình và đảm bảo quyền lợi của họ.
Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động bao gồm các nội dung
sau:
- Trả lương và các khoản chi trả khác đầy đủ, đúng hạn và đúng quy định
pháp luật.

18
- Cung cấp các điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh, đảm bảo sức khỏe và
tính mạng của nhân viên.
- Đảm bảo các quyền lợi và chế độ phúc lợi đối với nhân viên, bao gồm các
quyền lợi về bảo hiểm, nghỉ phép, nghỉ lễ, nghỉ thai sản, và các khoản trợ cấp khác.
- Thực hiện các quy định pháp luật về lao động, bao gồm quy định về giờ làm
việc, nghỉ ngơi, lưu trữ hồ sơ, và các điều kiện khác liên quan đến lao động.
Ngoài ra, trong kế toán doanh nghiệp, việc quản lý và sử dụng tài sản của
doanh nghiệp cũng có liên quan đến quan hệ kinh tế - pháp lý với người lao động.
Việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi của nhân viên, bao
gồm cung cấp các thiết bị, vật liệu và nơi làm việc hiện đại và tiện nghi, cũng như
việc quản lý tài sản một cách minh bạch và công khai, đều là những yêu cầu đối
với doanh nghiệp trong quan hệ kinh tế - pháp lý với người lao động.

III. Sự khác biệt về đối tượng kế toán giữa các loại hình doanh nghiệp
1. Tài sản
1.1. Tiền và các khoản tương đương tiền
Tiền và các khoản tương đương tiền (tiền mặt và các khoản đầu tư ngắn hạn có
thể chuyển đổi ngay thành tiền mặt) là tài sản quan trọng của bất kỳ doanh nghiệp
nào, bao gồm doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp
dịch vụ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này có thể có sự khác nhau về cách họ sử
dụng tiền và các khoản tương đương tiền của mình.

Doanh nghiệp sản xuất dành chi phí lớn cho nghiên cứu và phát triển sản
phẩm, mua nguyên vật liệu đầu vào, cũng như chi trả cho các chi phí sản xuất
khác: điện, nước... Tuy nhiên, khi sản phẩm được bán ra, doanh nghiệp sản xuất sẽ
nhận được các khoản phải thu từ khách hàng và trả tiền cho các nhà cung cấp và
nhân viên.

Doanh nghiệp thương mại thường có các giao dịch bán lẻ hàng ngày và được
trả tiền mặt hoặc bằng thẻ tín dụng. Tuy nhiên, các khoản phải thu của doanh
nghiệp thương mại cũng có thể cao do khách hàng thường được phép trả tiền sau
19
khi mua hàng. Doanh nghiệp thương mại có thể sử dụng tiền và các khoản tương
đương tiền của mình để thanh toán cho các nhà cung cấp và nhân viên, mua hàng
hoặc đầu tư vào các dự án mới.

Doanh nghiệp dịch vụ thường không có các chi phí sản xuất lớn như doanh
nghiệp sản xuất. Họ có thể nhận được các khoản phải thu từ khách hàng và trả tiền
cho nhân viên hoặc các chi phí khác. Tuy nhiên, các khoản phải thu của doanh
nghiệp dịch vụ cũng có thể cao do khách hàng thường được phép trả tiền sau khi
sử dụng dịch vụ. Doanh nghiệp dịch vụ có thể sử dụng tiền và các khoản tương
đương tiền để trả lương cho nhân viên, mua thiết bị, đầu tư vào nâng cấp hệ thống
hoặc chi trả các chi phí khác trong hoạt động kinh doanh.

1.2. Các khoản phải thu ngắn hạn


Doanh nghiệp sản xuất thường có các khoản phải thu từ việc bán hàng hoặc
cung cấp dịch vụ cho khách hàng, bao gồm cả các khoản phải thu từ đối tác hoặc
nhà cung cấp. Các khoản phải thu này có thể liên quan đến các đơn đặt hàng hoặc
hợp đồng cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong tương lai. Doanh nghiệp sản xuất
cũng có thể có các khoản phải thu từ việc thu tiền trả trước hoặc trả sau từ khách
hàng.

Doanh nghiệp thương mại thường có các khoản phải thu từ việc bán hàng
hoặc cung cấp dịch vụ cho khách hàng, tương tự như doanh nghiệp sản xuất. Tuy
nhiên, doanh nghiệp thương mại có thể có mức độ tương tác với khách hàng cao
hơn, vì vậy các khoản phải thu của họ có thể liên quan đến việc cung cấp các sản
phẩm tiêu dùng hàng ngày hoặc các dịch vụ gia đình.

Doanh nghiệp dịch vụ thường có các khoản phải thu từ việc cung cấp các dịch
vụ chuyên môn hoặc chuyên ngành cho khách hàng, chẳng hạn như các dịch vụ tư
vấn, dịch vụ tài chính, dịch vụ kỹ thuật hoặc dịch vụ giáo dục. Các khoản phải thu
này thường liên quan đến các hợp đồng cung cấp dịch vụ trong tương lai hoặc các
khoản phải thu từ việc thu tiền trả sau từ khách hàng.

20
1.3. Hàng tồn kho

Cùng có chức năng sản xuất nhưng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất
thường là sản phẩm hữu hình, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cấu thành nên thực
thể sản phẩm cụ thể và chiếm tỷ trọng nhất định trong giá thành sản phẩm. Vì
vậy, hàng tồn kho trong doanh nghiệp sản xuất chủ yếu là nguyên vật liệu, sản
phẩm dở dang và thành phẩm. Trong khi đó, doanh nghiệp dịch vụ có quá trình
sản xuất đồng thời là quá trình tiêu thụ, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường
chiếm tỷ trọng thấp mà chủ yếu là chi phí nhân công trực tiếp (nhân công thực
hiện dịch vụ). Do vậy, hàng tồn kho trong các doanh nghiệp dịch vụ hầu như
không có.

1.4. Tài sản cố định hữu hình


Tài sản cố định bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương
tiện truyền dẫn, thiết bị, dụng cụ quản lý: máy vi tính phục vụ quản lý, thiết bị
điện tử, dụng cụ đo lường, phương tiện vận tải.
Do đặc trưng của doanh nghiệp sản xuất là sử dụng nguyên vật liệu đầu vào,
máy móc thiết bị, sức lao động để tạo ra sản phẩm. Do vậy tài sản cố định hữu
hình chủ yếu của doanh nghiệp sản xuất là nhà xưởng, kho bãi, dây chuyền sản
xuất. Khác với doanh nghiệp thương mại với chức năng chính là lưu thông, phân
phối hàng hóa đến tay người tiêu dùng nên tài sản cố định của doanh nghiệp
thương mại không bao gồm dây chuyền sản xuất, nhà xưởng mà chủ yếu là hệ
thống kho bãi phục vụ cho việc lưu trữ hàng hoá và phương tiện vận tải. Với
doanh nghiệp dịch vụ, tài sản cố định bao gồm văn phòng, trụ sở, thiết bị, máy
móc,... do sản phẩm doanh nghiệp dịch vụ mà chủ yếu là sản phẩm vô hình,
không thể lưu trữ được nên tài sản cố định không bao gồm hệ thống kho bãi.
Ví dụ: Rạp chiếu phim thuộc loại hình doanh nghiệp dịch vụ, tài sản cố định
hữu hình của họ là mặt bằng, phòng chiếu phim, hệ thống màn hình, âm thanh,
ánh sáng.

21
1.5. Tài sản cố định vô hình
Tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại
và doanh nghiệp dịch vụ có những điểm khác nhau và giá trị sử dụng khác nhau
trong hoạt động kinh doanh của từng loại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sản xuất có thể có nhiều tài sản cố định vô hình như bằng sáng
chế, tên thương hiệu, giấy phép sử dụng công nghệ và phần mềm sản xuất. Những
tài sản này rất quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất, giúp tăng cường khả
năng cạnh tranh và tạo ra sản phẩm và dịch vụ tốt hơn.
Doanh nghiệp thương mại có thể có những tài sản cố định vô hình như tên
thương hiệu, giấy phép kinh doanh, bản quyền và các quyền sở hữu trí tuệ khác.
Những tài sản này có thể giúp doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận thị trường, tạo
nên thương hiệu mạnh mẽ và thu hút được khách hàng.
Doanh nghiệp dịch vụ cũng có thể có những tài sản cố định vô hình như bản
quyền, giấy phép sử dụng phần mềm, tên thương hiệu và các quyền sở hữu trí tuệ
khác. Những tài sản này giúp doanh nghiệp dịch vụ có thể cung cấp các dịch vụ
chất lượng cao và tăng cường độ tin cậy của khách hàng đối với doanh nghiệp.

2. Nguồn vốn
2.1. Nợ phải trả
2.1.1. Nợ phải trả ngắn hạn
Doanh nghiệp sản xuất:
 Khoản nợ phải trả của doanh nghiệp sản xuất thường có quy mô lớn hơn so với
doanh nghiệp thương mại và dịch vụ, bởi vì sản xuất đòi hỏi chi phí vốn, máy
móc và nguyên liệu.
 Tuy nhiên, tần suất phải trả của các khoản nợ này có thể thấp hơn so với các
doanh nghiệp khác, bởi vì sản xuất thường có chu kỳ dài hơn trong quá trình
bán hàng và thu tiền.
 Khoản nợ phải trả chủ yếu của doanh nghiệp sản xuất bao gồm các khoản nợ
phải trả cho nhà cung cấp nguyên liệu, khoản nợ tiền lương và các khoản nợ
thuế.

22
Doanh nghiệp thương mại:
 Khoản nợ phải trả của doanh nghiệp thương mại thường có quy mô trung bình,
bởi vì các doanh nghiệp này có thể phụ thuộc vào việc mua hàng từ các nhà
cung cấp hoặc nhà sản xuất khác.
 Tần suất phải trả của các khoản nợ này có thể cao hơn so với doanh nghiệp sản
xuất, bởi vì doanh nghiệp thương mại thường phải thanh toán nhanh chóng để
duy trì quy trình kinh doanh.
 Khoản nợ phải trả chủ yếu của doanh nghiệp thương mại bao gồm các khoản
nợ phải trả cho nhà cung cấp, khoản nợ tiền lương và các khoản nợ thuế.

Doanh nghiệp dịch vụ:


 Khoản nợ phải trả của doanh nghiệp dịch vụ thường có quy mô nhỏ hơn so với
doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương mại, bởi vì các doanh nghiệp
dịch vụ thường không cần nhiều nguyên liệu và thiết bị đắt tiền.
 Tần suất phải trả của các khoản nợ này có thể cao hơn so với doanh nghiệp sản
xuất, bởi vì doanh nghiệp dịch vụ thường không có sản phẩm lưu kho.
 Khoản nợ phải trả chủ yếu

2.1.2. Nợ phải trả dài hạn


Các khoản nợ phải trả dài hạn của doanh nghiệp sản xuất thường bao gồm các
khoản vay ngân hàng hoặc các khoản vay từ các tổ chức tài chính khác để đầu tư
vào việc mua các thiết bị, máy móc, công nghệ sản xuất mới hoặc các dự án nghiên
cứu và phát triển. Điều này giúp cho doanh nghiệp sản xuất tăng cường năng suất,
tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra lợi nhuận.
Các khoản nợ phải trả dài hạn của doanh nghiệp thương mại bao gồm các
khoản vay ngân hàng hoặc các khoản vay từ các tổ chức tài chính khác để mở rộng
kinh doanh, mua hàng hóa, xây dựng hoặc sửa chữa cơ sở hạ tầng của doanh
nghiệp. Các khoản nợ phải trả dài hạn của doanh nghiệp thương mại có thể còn bao
gồm các khoản nợ để mua lại cổ phần hoặc đầu tư vào các công ty con hoặc các
công ty liên kết.

23
Các khoản nợ phải trả dài hạn của doanh nghiệp dịch vụ bao gồm các khoản nợ
phải trả cho các hoạt động kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp như xây dựng,
bảo trì, cung cấp dịch vụ vận chuyển, dịch vụ marketing, dịch vụ tư vấn và các
khoản nợ phải trả liên quan đến việc mua sắm hoặc thuê các thiết bị, công cụ phục
vụ cho hoạt động sản xuất dịch vụ.

2.2 Nguồn vốn chủ sở hữu


Doanh nghiệp sản xuất: Thường có nguồn vốn chủ sở hữu lớn hơn so với các
doanh nghiệp thương mại và dịch vụ. Lý do là doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu
đầu tư nhiều vào trang thiết bị, máy móc, công nghệ và nhân lực để sản xuất hàng
hóa. Đây là những khoản đầu tư tốn kém và cần phải được tài trợ bởi nguồn vốn
chủ sở hữu.
Doanh nghiệp thương mại: Thường có nguồn vốn chủ sở hữu trung bình hoặc
thấp hơn so với doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ. Lý do là các doanh nghiệp
thương mại có ít nhu cầu đầu tư vào trang thiết bị và máy móc so với doanh nghiệp
sản xuất. Thay vào đó, chúng tập trung vào việc mua bán hàng hóa, quản lý kho và
các hoạt động liên quan đến thương mại.
Doanh nghiệp dịch vụ: Thường có nguồn vốn chủ sở hữu thấp nhất so với các
loại doanh nghiệp khác. Lý do là các doanh nghiệp dịch vụ thường chỉ cần đầu tư
vào trang thiết bị cơ bản và không cần đầu tư vào máy móc và công nghệ như
doanh nghiệp sản xuất. Ngoài ra, các doanh nghiệp dịch vụ thường không có nhu
cầu đầu tư vào kho hàng, vì các sản phẩm của họ thường là dịch vụ và không phải
là hàng hóa.

IV. Kết luận


1. Vai trò của đối tượng nghiên cứu trong kế toán
Như vậy, nghiên cứu đối tượng kế toán là nghiên cứu các nội dung, các bộ
phận của quá trình tái sản xuất xã hội mà kế toán phản ánh và giám đốc. Đối tượng
của kế toán giúp doanh nghiệp biết được sự biến động của tài sản qua quá trình
hoạt động kinh tế, tài chính. Trong quá trình hoạt động của đơn vị giúp đơn vị quản
lý tài sản, biết được tài sản hiện có mặt khác phải biết được sự biến động của tài

24
sản thông qua các quá trình hoạt động kinh tế, tài chính. Việc nghiên cứu nội dung
cụ thể của đối tượng kế toán trong doanh nghiệp một cách khoa học là cơ sở để xác
định nội dung cụ thể của đối tượng kế toán trong các đơn vị thuộc lĩnh vực khác.
Tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh
nghiệp hoặc làm giảm bớt những khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra. Đối
tượng của kế toán là các quan hệ kinh tế pháp lý ngoài tài sản của doanh nghiệp
phát sinh trong quá trình hoạt động, các quan hệ đó thể hiện trách nhiệm và nghĩa
vụ của doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện
đúng có hiệu quả kế toán trong doanh nghiệp phải ghi chép phản ánh. Tóm lại, đối
tượng kế toán nói chung là tài sản, sự biến động của tài sản và các quá trình hoạt
động kinh tế, tài chính của đơn vị thuộc các lĩnh vực, các ngành, các thành phần
kinh tế khác nhau. Nội dung cụ thể của đối tượng là kế toán cũng khác nhau. Về
nghiên cứu nội dung cụ thể của đối tượng kế toán trong các doanh nghiệp là cơ sở
để tổ chức khoa học và hợp lý công tác kế toán nhằm phát huy vai trò của kế toán
trong công tác quản lý kinh tế tài chính.
2. Tổng kết những nội dung quan trọng của đối tượng nghiên cứu trong kế toán
Tóm lại, đối tượng của kế toán là tài sản, nguồn hình thành tài sản, sự biến
động của tài sản trong các quá trình hoạt động kinh tế, tài chính, các quan hệ kinh
tế pháp lý ngoài tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Mỗi đơn vị tổ chức khi
thành lập và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhất định đều cần một
lượng tài sản nhất định. Trong quá trình hoạt động các đơn vị phải quản lý chặt chẽ
và sử dụng có hiệu quả mọi tài sản hiện có. Kế toán là công cụ quản lý cùng với
việc phản ánh các quan hệ kinh tế liên quan đến tài sản của đơn vị phải phản ánh
cả các quan hệ kinh tế liên quan đến tài sản không thuộc quyền sở hữu của đơn vị,
do đó quan hệ kinh tế pháp lý và tài sản của đơn vị là đối tượng của hạch toán kế
toán. Đối tượng kế toán cần đi siêu nghiên cứu nội dung cụ thể của đối tượng kế
toán trong đơn vị thuộc lĩnh vực cụ thể, đơn vị sản xuất kinh doanh, một đơn vị cơ
sở của nền kinh tế. Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu
được lợi ích kinh tế trong tương lai, tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn tiền và các

25
khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt những khoản tiền mà
doanh nghiệp phải chi ra. Như vậy, trong quá trình hoạt động tài sản và nguồn hình
thành tài sản biến động, thay đổi, chuyển hóa hình thái, tạo nên các quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu sự biến động của tài sản trong
doanh nghiệp phải nghiên cứu nó trong các giai đoạn, các quá trình sản xuất kinh
doanh hay nói cách khác sự biến động của tài sản trong các quá trình cung cấp -
sản xuất - bán hàng là đối tượng có kế toán cho doanh nghiệp. Luôn vận động qua
các giai đoạn khác nhau nhưng theo một trật tự xác định và khép kín sau một chu
kỳ nhất định (tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp). Luôn có tính
đa dạng trên mỗi nội dung cụ thể. Mỗi loại đối tượng cụ thể của kế toán đều gắn
liền đến lợi ích kinh tế, quyền lợi và trách nhiệm của nhiều phía khác nhau.
3. Đưa ra những nhận định, khuyến nghị về quản lý đối tượng nghiên cứu kế
toán trong thực tế
Người quản lý tài sản cần thiết phải biết được tài sản của đơn vị hiện có là
bao nhiêu, nó bao gồm các loại gì, số lượng của từng loại, đồng thời phải biết được
tài sản của đơn vị được hình thành từ nguồn nào. Quản lý tài sản phải biết được tài
sản hiện có mặt khác phải biết được sự biến động của tài sản qua các quá trình hoạt
động kinh tế, tài chính diễn ra. Đơn vị phải có trách nhiệm quản lý bảo quản quan
hệ kinh tế pháp lý ngoài tài sản của đơn vị ví dụ quan hệ vật tư, hàng hóa nhận gửi
hộ, bán hộ, quan hệ tài sản cố định thuê ngoài, quan hệ hợp đồng kinh tế… Khi
quản lý tài sản cho doanh nghiệp cách nhà quản lý cần biết rõ các loại tài sản
nguồn hình thành tài sản để sử dụng hợp lý có hiệu quả các loại tài sản và khai thác
huy động triệt để nguồn vốn có nghĩa là cần phải phân loại tài sản theo kết cấu và
theo nguồn hình thành. Để quản lý chặt chẽ và đảm bảo sử dụng tài sản có hiệu quả
cần phải nghiên cứu có các giải pháp, quyết định sao cho kết cấu tài sản của đơn vị
hợp lý nhất. Hạch toán kế toán phản ánh tài sản của đơn vị không chỉ phản ánh
tổng số tài sản mà phản ánh cụ thể từng loại tài sản. Cần nhận biết nguồn hình
thành tài sản nguồn vốn để có biện pháp khai thác huy động đảm bảo nhu cầu về

26
vốn nhằm thúc đẩy hoạt động của đơn vị có hiệu quả. Do đó hạch toán kế toán phải
phản ánh giám đốc nguồn hình thành tài sản của đơn vị.

Tài liệu tham khảo


1. PGS.TS Đỗ Minh Thành (2017), Giáo trình nguyên lý kế toán, Trường Đại học
Thương Mại
2. Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS)
3. Tài sản là gì và cách phân loại tài sản
4. Tài sản tài chính (Financial Assets) là gì? Đặc điểm
5. 8 Lợi ích của việc quản lý tài sản để nâng cao hoạt động kinh doanh

27

You might also like