Professional Documents
Culture Documents
Văn 12 GKI
Văn 12 GKI
BÀI LÀM
"Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp" và "quy luật của cái đẹp là quy luật của
tình cảm". Vậy tình cảm chứ không phải bất kì yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái
đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của
người nghệ sĩ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm
đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa,
đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của
người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời
gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc
ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: "Tây Tiến" - bài thơ mang
chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.
Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được viết ra từ
nỗi nhớ da diết thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội
thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách
tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp
nhau. Nếu đoạn thơ trước bằng những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo Quang Dũng đã vẽ lên bức
tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội hiểm trở thì ở đoạn thơ gồm tám câu này bằng
những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, bút pháp lãng mạn, tài hoa nhà thơ đã tái hiện những kỉ
niệm đẹp trong cuộc đời người chiến binh và vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến duyên dáng,
mĩ lệ và lãng mạn:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là kỉ niệm về một đêm liên hoan trong doanh trại:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
"Hội đuốc hoa" là một sáng tạo từ độc đáo của Quang Dũng. Trong cách nhìn của người
nghệ sĩ "mang một cốt cách hào hoa, phong nhã và một thi tài hiếm có", từng bó đuốc cứ thế rực
cháy lên như những bông hoa rực rỡ, lấp lánh, lay động trong màn đêm đen. Có lẽ chính những
bó đuốc ấy đã xua đi cái giá lạnh của đêm đen, đã thổi hơi ấm tới những trái tim đầy tài hoa
nhưng mỏi mệt kia một luồng sống mới đầy hi vọng và hạnh phúc. "Hội đuốc hoa" ấy được miêu
tả "bừng lên". Chữ "bừng" ở đây vừa tả ánh sáng bập bùng huyền ảo của đuốc, vừa chỉ những âm
thanh tiếng nói, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng vang vọng giữa núi rừng Tây Bắc. Và giữa
không gian nhộn nhịp ấy, tiếng "Khèn" vang lên như chắp cánh cho tâm hồn người lính Tây Tiến
thăng hoa, họ đắm chìm vào những "man điệu" - những điệu múa hoang sơ tự nhiên thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn phóng khoáng, đầy sức sống của những con người sống ở đại ngàn. Thơ của Quang
Dũng quả thực "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc". từng âm thanh, từng ánh đuốc bập bùng
cùng tiếng nhạc cụ dập dìu tưởng như hiện ra thật lung linh trước mắt, vang lên thật rộn rã bên
tai, khiến lòng người như rạo rực, như say đắm trong khung cảnh náo nhiệt.
Trên nền không gian ấy, "em" xuất hiện và lập tức trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn.
Cụm từ "kìa em" vang lên như một lời trầm trồ thán phục, thể hiện cái nhìn chiêm ngưỡng, mê
say của người lính trước những cô gái dân tộc trong những bộ xiêm y lộng lẫy như những nàng
tiên bước ra từ truyện cổ, dáng điệu e ấp thẹn thùng lại rất tình tứ mê say. Chỉ hai chữ "kìa em"
thôi, nhưng Quang Dũng như lột tả được hết sự say mê cái đẹp, chất tài hoa, hào hoa trong cốt
cách người lính. Đoàn quân ấy dù có "mỏi" về thể xác, nhưng tâm hồn họ vẫn luôn là những
người trí thức trẻ Hà Nội đầy lạc quan yêu đời và lãng mạn.
Cuối cùng, đoạn thơ kết thúc bằng câu thơ toàn vần bằng:
"Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Câu thơ diễn tả biết bao mộng ước mê say phơi phới của tuổi trẻ. Tiếng nhạc đang thúc
đẩy những người lính trên con đường hành quân gian khổ, nâng bước họ về Viên Chăn xây mộng
hoà bình. Như vậy, trong bốn câu đầu với các yếu tố ánh sáng, âm thanh, không gian, con người,
tác giả đã vẽ ra khung cảnh đêm liên hoan lung linh huyền ảo, nơi con người trở thành trung tâm
của bức tranh thơ.
Tiếp nối mạch phát triển của đoạn trích, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và con người
miền Tây được khám phá từ một buổi sáng sương giăng mắc khắp núi rừng Châu Mộc:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bên bờ."
Không gian nghệ thuật được miêu tả với những hình ảnh thiên nhiên như "chiều sương",
"sông nước", "lau sậy",... vừa là đặc trưng của buổi chiều tà bảng lảng sương khói, vừa có màu
sắc riêng với cảm giác xa vắng đậm đà màu sắc cổ tích huyền thoại. Trong không gian núi rừng
mơ màng giữa sương khói, Quang Dũng với thư pháp nhân hoá đã thổi hồn vào những câu lau vô
tri vô giác, gợi tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc với linh hồn cỏ cây tạo vật cũng như phảng phất
trong gió trong mây. Hình ảnh "hồn lau" dễ khiến ta liên tưởng tới "ngàn lau" của tác giả Chế
Lan Viên:
"Ngàn lau cười trong nắng"
Nếu hình ảnh cỏ lau trong thơ Chế Lan Viên mang một sức sống căng tràn với vô vàn
những bó lau phất phơ cùng gió, tạo thành những "sóng lau" xào xạc bên tai thì vẻ đẹp "hồn lau"
của Quang Dũng lại phảng phất chút buồn, chút tĩnh lặng, mang cả chút tâm linh rừng núi.
Không gian nghệ thuật ấy đã làm nền cho trung tâm thơ xuất hiện:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Điệp từ "có thấy", "có nhớ" tạo nên một giọng thơ buồn man mác, bâng khuâng đầy lưu
luyến, từng vần thơ như đưa bạn đọc vào một khoảng không mong nhớ da diết khôn nguôi. Giữa
nỗi buồn ấy, hình ảnh con người nổi bật lên trên dòng sông lặng tờ trong một buổi chiều tà yên ả
thanh bình. "Dáng người độc mộc" ở đây có thể hiểu là hình ảnh người con gái với dáng vẻ mềm
mại uyển chuyển trên chiếc thuyền độc mộc mỏng manh hay tư thế hào hùng, anh dũng như
những chiến sĩ Tây Tiến đang chèo lái con thuyền vượt sông tiến về phía trước. Dù hiểu theo
cách nào thì những hình ảnh ấy cũng luôn là một miền kí ức đẹp, để lại ấn tượng khó phai trong
lòng Quang Dũng.
Câu thơ cuối khép lại đoạn thơ với nghệ thuật tương phản:
"Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Thiên nhiên Tây Tiến vốn hoang sơ hiểm trở với dòng sông Mã hùng vĩ dữ dội nhưng
trong thơ Quang Dũng ta lại thấy một sông Mã khác, êm đềm và hiền hoà đến kì lạ. Những cánh
hoa trên sông Mã không bị vùi dập bởi nước lũ, mà còn đong đưa trong gió như đang làm dáng
làm duyên giữa dòng nước lũ cuồn cuộn. Một bức tranh thuỷ mặc với chiếc thuyền độc mộc trên
sông và bao quanh là những cánh hoa duyên dáng mềm mại đã được phác hoạ thật lãng mạn và
tinh tế như thế. Có thể nói, chất nhạc, chất thơ đã hoà quyện vào nhau để vẽ nên một bức tranh
đẹp, một bức tranh thuỷ mặc chấm phá đầy ấn tượng được toát ra bởi một hồn thơ "như ngậm
nhạc trong miệng".
Có thể thấy, bao trùm đoạn thơ trên là cảm hứng lãng mạn sâu sắc. Trước tiên, cảm hứng
lãng mạn được hiểu là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng và cái
đẹp khác lạ phi thường độc đáo. Trong 30 năm kháng chiến cam go ác liệt, nguồn cảm hứng lãng
mạn này đã trở thành đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam nâng đỡ con người vượt lên chiến
tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng. Cảm hứng lãng mạn trong "Tây Tiến" được thể
hiện đậm nét qua cách tác giả miêu tả hình tượng đoàn binh Tây Tiến trên nền cảnh bức tranh
thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng. Cảm hứng lãng mạn ấy trước tiên được kết tinh qua phương
tiện nội dung với cái nhìn say đắm của tác giả trước vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và con người
miền Tây. Bức tranh thiên nhiên ấy qua ngòi bút lãng mạn được hiện lên với vẻ đẹp đa chiều,
vừa hoang sơ, dữ dội lại ấm áp, lay động lòng người. Trong bức tranh thơ ấy, ta thấy nổi bật lên
là hình ảnh cái tôi trữ tình, tài hoa của Quang Dũng trước nỗi nhớ chơi vơi bao trùm cả không
gian và thời gian cũng như vẻ đẹp tâm hồn trẻ trung, hồn nhiên thơ mộng của người lính Tây
Tiến. Không chỉ vậy, cảm hứng lãng mạn còn được tô đậm qua phương diện nghệ thuật: tác giả
đã sử dụng bút pháp lãng mạn, thủ pháp cường điệu, tô đậm cái phi thưởng, vẻ hào hùng và tuyệt
mĩ của con người và thiên nhiên. Đồng thời phát huy cao độ thủ pháp đối lập, tương phản và hơn
nữa là tìm đến cách diễn đạt độc đáo, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ. Có thể
thấy, cảm hứng lãng mạn đã chi phối bài thơ Tây Tiến từ các phương diện nội dung đến nghệ
thuật, từ ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu đến cái tôi tác giả, hình tượng người lính.
Với ngôn ngữ, giọng điệu có sự đan xen hoà quyện rất tài hoa giữa chất nhạc và chất hoạ,
cùng cảm hứng lãng mạn bay bổng, Quang Dũng đã vẽ lên một thiên nhiên Tây Bắc mĩ lệ nên
thơ, làm sống dậy cả miền kí ức sâu thẳm về một đoàn binh Tây Tiến với vẻ đẹp tâm hồn hào
hoa yêu đời. Vượt lên mọi hiện thực cay đắng, nghiệt ngã, họ vẫn giữ trong mình một cốt cách
hào hoa, thanh lịch và một tâm hồn lãng mạn sâu sắc, để rồi tập thể những con người anh hùng
ấy đã trở thành một hình tượng bất tử gắn liền với kháng chiến trường kì gian lao nhưng vinh
quang của dân tộc.
"Thơ là sự bộc lộ tận cùng của người nghệ sĩ". Với sự bộc lộ ấy, Quang Dũng đã dùng
hết những cảm xúc, những kỉ niệm còn sót lại để miêu tả cho chính xác nhất vẻ đẹp hào hoa, lãng
mạn của người lính. Địa danh Tây Tiến sẽ trường tồn mãi trong lịch sử và kí ức mỗi người. Nó
như một nét son vàng trong thơ ca Việt Nam, như một viên ngọc sáng trong tâm hồn, tấm lòng
của mỗi bạn trẻ ngày nay khi được dạy, được đọc về lịch sử nước nhà.
ĐỀ 1: PHÂN TÍCH ĐOẠN 1 BÀI "TÂY TIẾN" (14 CÂU ĐẦU)
BÀI LÀM
"Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp" và "quy luật của cái đẹp là quy luật của
tình cảm". Vậy tình cảm chứ không phải bất kì yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái
đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của
người nghệ sĩ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm
đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa,
đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của
người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời
gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc
ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thới gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: "Tây Tiến" - bài thơ mang
chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.
Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được viết ra từ
nỗi nhớ da diết thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội
thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách
tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp
nhau. Nổi bật trong bài thơ này là mười bốn câu thơ đầu tiên với những kí ức của binh đoàn trên
những chặng đường hành quân gian khổ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
...
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỉ niệm của một đời chiến binh, ta chợt nhận
ra, "Tây Tiến" được bắt đầu bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến như thế:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác.
Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha "Tây tiến ơi!" Đó cũng chính là cách
mà Quang Dũng mở đầu bài thơ của mình. Nỗi nhớ trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và
làm nên cấu trúc của thi phẩm. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng
đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng
gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả thời
đại, của cả dân tộc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của
núi rừng, của địa bàn hoạt động gắn với một đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây
Tiến cũng đã xa rồi, tất cả chỉ còn lại trong hồi ức. Có thể thấy từ "xa rồi" cũng chính là điểm rơi
thấp nhất của câu thơ này, nó giống như một khoảng hụt hẫng khi những kỉ niệm chỉ giống như
những thước phim trôi qua để lại biết bao cảm xúc đong đầy. Giữa khoảng không gian Tây Bắc
quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho
phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: "nhớ chơi vơi". Chỉ với hai câu thơ đầu tiên,
những kí ức gắn với binh đoàn đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành quay
về những kí ức, nhà thơ Quang Dũng thêm một lần đi lại những con đường đã qua:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đậm kỉ
niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao
nhớ lại những kỉ niệm bao chặng đường hành quân vất vả. Và ở câu thơ tiếp theo này, hình ảnh
"đoàn quân mỏi" giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của
hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực
của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song
cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong khung cảnh đẹp huyền ảo
của thiên nhiên. Những tiếng "sương lấp", "hoa về", "đêm hơi" khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt
nhoà đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Không gian được liên tưởng tới
là địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm
ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề nhưng nay lại được tiếp thêm sức
mạnh.
Bối cảnh thiên nhiên tiếp tục hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi
của sự trái ngược:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của một bài thơ tứ tuyệt, đặc tả bước hành quân gian lao
của người lính vệ quốc. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập ghềnh cũng được vẽ ra một cách
chân thực ở đoạn thơ này. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian
lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Những
con dốc được miêu tả bằng từ láy tượng hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm" khiến người đọc dễ
dàng liên tưởng tới địa hình gấp gãy, hiểm trở. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con
đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Đường hành quân dài thăm thẳm muôn
trùng, có khoảnh khắc đi lên cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là nguyên
cớ cho hình ảnh nhân hoá "súng ngửi trời". Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong
chất thơ của Quang Dũng. Ta nhớ tới hình ảnh liên tưởng trong thơ của Chính Hữu:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa
như kích thích họ đi tới, dẫn tới sự chinh phục. Cảnh rứng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu,
với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước
xuống", khiến người đọc dường như đang chơi một trò chơi bấp bênh chóng mặt. Núi cao thì cao
vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp
từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ
đe doạ bởi địa hình, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những
nếp nhà Pha Luông - đó cũng chính là những nét vẽ nhẹ nhàng đối lập với những gì gân guốc
trước đó của thiên nhiên Tây Bắc:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những
chặng đường hành quân vất vả. Trong giây phút được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy,
người chiến binh Tây Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình?
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính trên chặng đường hành
quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã,
Quang Dũng không hề giấu diếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại trong những vần
thơ của mình:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối ngày,
đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thống mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ "gục" có phần
nặng nề nhưng bị xoá nhoà đi và cân bằng trở lại, bằng hình ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với
người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Kết cấu đan xen giữa thiên nhiên và con
người tạo nên một sự đối chiếu thầm lặng để từ đó tôn vinh sức mạnh của con người, dù cho có
nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe doạ họ từ mọi phía, mọi nơi.
Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe doạ bởi
thác dữ, núi rừng:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
"Chiều chiều" và "đêm đêm" diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này
chứng tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào
cũng như vậy. Sự đe doạ dường như bủa vây từ mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống
chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước độc qua
con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những
khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp"
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có tên nghe thật mềm
mại, êm ái, gới ra sự bình yên "Mai Châu". Đặc biệt, ở trong câu thơ cuối có một danh từ nghe
rất lạ, đó là "mùa em". Đất trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của
nhà thơ lại có một mùa thật lạ đó là "mùa em". Mùa em là mùa "con ong đi lấy mật, mủa con voi
xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương", mùa ta gặp nhau, mùa trao yêu thương,
mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự
đủ đầy, mùa của tình quân dân.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút
pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho
nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi
nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những
thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên
thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ là bên cạnh những
nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ nhưng góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng
trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng
đài bằng thơ về hình ảnh người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến dũng cảm mà cũng đầy
chất thơ của nhân dân ta.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn phía sau của
"đoàn binh không mọc tóc" và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận
chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha thiết trong lòng người đọc khi biết về
binh đoạn Tây Tiến qua vần thơ của Quang Dũng. Xin được mượn lời thơ của Giang Nam để
thay lời kết cho bài viết này, có lẽ Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người yêu mến
nhà thơ và bài "Tây Tiến":
"Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông."