Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

ĐỀ 2: PHÂN TÍCH ĐOẠN 2 BÀI TÂY TIẾN (8 CÂU SAU)

BÀI LÀM
"Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp" và "quy luật của cái đẹp là quy luật của
tình cảm". Vậy tình cảm chứ không phải bất kì yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái
đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của
người nghệ sĩ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm
đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa,
đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của
người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời
gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc
ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: "Tây Tiến" - bài thơ mang
chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.
Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được viết ra từ
nỗi nhớ da diết thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội
thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách
tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp
nhau. Nếu đoạn thơ trước bằng những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo Quang Dũng đã vẽ lên bức
tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội hiểm trở thì ở đoạn thơ gồm tám câu này bằng
những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, bút pháp lãng mạn, tài hoa nhà thơ đã tái hiện những kỉ
niệm đẹp trong cuộc đời người chiến binh và vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến duyên dáng,
mĩ lệ và lãng mạn:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"
Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là kỉ niệm về một đêm liên hoan trong doanh trại:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
"Hội đuốc hoa" là một sáng tạo từ độc đáo của Quang Dũng. Trong cách nhìn của người
nghệ sĩ "mang một cốt cách hào hoa, phong nhã và một thi tài hiếm có", từng bó đuốc cứ thế rực
cháy lên như những bông hoa rực rỡ, lấp lánh, lay động trong màn đêm đen. Có lẽ chính những
bó đuốc ấy đã xua đi cái giá lạnh của đêm đen, đã thổi hơi ấm tới những trái tim đầy tài hoa
nhưng mỏi mệt kia một luồng sống mới đầy hi vọng và hạnh phúc. "Hội đuốc hoa" ấy được miêu
tả "bừng lên". Chữ "bừng" ở đây vừa tả ánh sáng bập bùng huyền ảo của đuốc, vừa chỉ những âm
thanh tiếng nói, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng vang vọng giữa núi rừng Tây Bắc. Và giữa
không gian nhộn nhịp ấy, tiếng "Khèn" vang lên như chắp cánh cho tâm hồn người lính Tây Tiến
thăng hoa, họ đắm chìm vào những "man điệu" - những điệu múa hoang sơ tự nhiên thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn phóng khoáng, đầy sức sống của những con người sống ở đại ngàn. Thơ của Quang
Dũng quả thực "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc". từng âm thanh, từng ánh đuốc bập bùng
cùng tiếng nhạc cụ dập dìu tưởng như hiện ra thật lung linh trước mắt, vang lên thật rộn rã bên
tai, khiến lòng người như rạo rực, như say đắm trong khung cảnh náo nhiệt.
Trên nền không gian ấy, "em" xuất hiện và lập tức trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn.
Cụm từ "kìa em" vang lên như một lời trầm trồ thán phục, thể hiện cái nhìn chiêm ngưỡng, mê
say của người lính trước những cô gái dân tộc trong những bộ xiêm y lộng lẫy như những nàng
tiên bước ra từ truyện cổ, dáng điệu e ấp thẹn thùng lại rất tình tứ mê say. Chỉ hai chữ "kìa em"
thôi, nhưng Quang Dũng như lột tả được hết sự say mê cái đẹp, chất tài hoa, hào hoa trong cốt
cách người lính. Đoàn quân ấy dù có "mỏi" về thể xác, nhưng tâm hồn họ vẫn luôn là những
người trí thức trẻ Hà Nội đầy lạc quan yêu đời và lãng mạn.
Cuối cùng, đoạn thơ kết thúc bằng câu thơ toàn vần bằng:
"Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Câu thơ diễn tả biết bao mộng ước mê say phơi phới của tuổi trẻ. Tiếng nhạc đang thúc
đẩy những người lính trên con đường hành quân gian khổ, nâng bước họ về Viên Chăn xây mộng
hoà bình. Như vậy, trong bốn câu đầu với các yếu tố ánh sáng, âm thanh, không gian, con người,
tác giả đã vẽ ra khung cảnh đêm liên hoan lung linh huyền ảo, nơi con người trở thành trung tâm
của bức tranh thơ.
Tiếp nối mạch phát triển của đoạn trích, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và con người
miền Tây được khám phá từ một buổi sáng sương giăng mắc khắp núi rừng Châu Mộc:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bên bờ."
Không gian nghệ thuật được miêu tả với những hình ảnh thiên nhiên như "chiều sương",
"sông nước", "lau sậy",... vừa là đặc trưng của buổi chiều tà bảng lảng sương khói, vừa có màu
sắc riêng với cảm giác xa vắng đậm đà màu sắc cổ tích huyền thoại. Trong không gian núi rừng
mơ màng giữa sương khói, Quang Dũng với thư pháp nhân hoá đã thổi hồn vào những câu lau vô
tri vô giác, gợi tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc với linh hồn cỏ cây tạo vật cũng như phảng phất
trong gió trong mây. Hình ảnh "hồn lau" dễ khiến ta liên tưởng tới "ngàn lau" của tác giả Chế
Lan Viên:
"Ngàn lau cười trong nắng"
Nếu hình ảnh cỏ lau trong thơ Chế Lan Viên mang một sức sống căng tràn với vô vàn
những bó lau phất phơ cùng gió, tạo thành những "sóng lau" xào xạc bên tai thì vẻ đẹp "hồn lau"
của Quang Dũng lại phảng phất chút buồn, chút tĩnh lặng, mang cả chút tâm linh rừng núi.
Không gian nghệ thuật ấy đã làm nền cho trung tâm thơ xuất hiện:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Điệp từ "có thấy", "có nhớ" tạo nên một giọng thơ buồn man mác, bâng khuâng đầy lưu
luyến, từng vần thơ như đưa bạn đọc vào một khoảng không mong nhớ da diết khôn nguôi. Giữa
nỗi buồn ấy, hình ảnh con người nổi bật lên trên dòng sông lặng tờ trong một buổi chiều tà yên ả
thanh bình. "Dáng người độc mộc" ở đây có thể hiểu là hình ảnh người con gái với dáng vẻ mềm
mại uyển chuyển trên chiếc thuyền độc mộc mỏng manh hay tư thế hào hùng, anh dũng như
những chiến sĩ Tây Tiến đang chèo lái con thuyền vượt sông tiến về phía trước. Dù hiểu theo
cách nào thì những hình ảnh ấy cũng luôn là một miền kí ức đẹp, để lại ấn tượng khó phai trong
lòng Quang Dũng.
Câu thơ cuối khép lại đoạn thơ với nghệ thuật tương phản:
"Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Thiên nhiên Tây Tiến vốn hoang sơ hiểm trở với dòng sông Mã hùng vĩ dữ dội nhưng
trong thơ Quang Dũng ta lại thấy một sông Mã khác, êm đềm và hiền hoà đến kì lạ. Những cánh
hoa trên sông Mã không bị vùi dập bởi nước lũ, mà còn đong đưa trong gió như đang làm dáng
làm duyên giữa dòng nước lũ cuồn cuộn. Một bức tranh thuỷ mặc với chiếc thuyền độc mộc trên
sông và bao quanh là những cánh hoa duyên dáng mềm mại đã được phác hoạ thật lãng mạn và
tinh tế như thế. Có thể nói, chất nhạc, chất thơ đã hoà quyện vào nhau để vẽ nên một bức tranh
đẹp, một bức tranh thuỷ mặc chấm phá đầy ấn tượng được toát ra bởi một hồn thơ "như ngậm
nhạc trong miệng".
Có thể thấy, bao trùm đoạn thơ trên là cảm hứng lãng mạn sâu sắc. Trước tiên, cảm hứng
lãng mạn được hiểu là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng và cái
đẹp khác lạ phi thường độc đáo. Trong 30 năm kháng chiến cam go ác liệt, nguồn cảm hứng lãng
mạn này đã trở thành đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam nâng đỡ con người vượt lên chiến
tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng. Cảm hứng lãng mạn trong "Tây Tiến" được thể
hiện đậm nét qua cách tác giả miêu tả hình tượng đoàn binh Tây Tiến trên nền cảnh bức tranh
thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng. Cảm hứng lãng mạn ấy trước tiên được kết tinh qua phương
tiện nội dung với cái nhìn say đắm của tác giả trước vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và con người
miền Tây. Bức tranh thiên nhiên ấy qua ngòi bút lãng mạn được hiện lên với vẻ đẹp đa chiều,
vừa hoang sơ, dữ dội lại ấm áp, lay động lòng người. Trong bức tranh thơ ấy, ta thấy nổi bật lên
là hình ảnh cái tôi trữ tình, tài hoa của Quang Dũng trước nỗi nhớ chơi vơi bao trùm cả không
gian và thời gian cũng như vẻ đẹp tâm hồn trẻ trung, hồn nhiên thơ mộng của người lính Tây
Tiến. Không chỉ vậy, cảm hứng lãng mạn còn được tô đậm qua phương diện nghệ thuật: tác giả
đã sử dụng bút pháp lãng mạn, thủ pháp cường điệu, tô đậm cái phi thưởng, vẻ hào hùng và tuyệt
mĩ của con người và thiên nhiên. Đồng thời phát huy cao độ thủ pháp đối lập, tương phản và hơn
nữa là tìm đến cách diễn đạt độc đáo, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ. Có thể
thấy, cảm hứng lãng mạn đã chi phối bài thơ Tây Tiến từ các phương diện nội dung đến nghệ
thuật, từ ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu đến cái tôi tác giả, hình tượng người lính.
Với ngôn ngữ, giọng điệu có sự đan xen hoà quyện rất tài hoa giữa chất nhạc và chất hoạ,
cùng cảm hứng lãng mạn bay bổng, Quang Dũng đã vẽ lên một thiên nhiên Tây Bắc mĩ lệ nên
thơ, làm sống dậy cả miền kí ức sâu thẳm về một đoàn binh Tây Tiến với vẻ đẹp tâm hồn hào
hoa yêu đời. Vượt lên mọi hiện thực cay đắng, nghiệt ngã, họ vẫn giữ trong mình một cốt cách
hào hoa, thanh lịch và một tâm hồn lãng mạn sâu sắc, để rồi tập thể những con người anh hùng
ấy đã trở thành một hình tượng bất tử gắn liền với kháng chiến trường kì gian lao nhưng vinh
quang của dân tộc.
"Thơ là sự bộc lộ tận cùng của người nghệ sĩ". Với sự bộc lộ ấy, Quang Dũng đã dùng
hết những cảm xúc, những kỉ niệm còn sót lại để miêu tả cho chính xác nhất vẻ đẹp hào hoa, lãng
mạn của người lính. Địa danh Tây Tiến sẽ trường tồn mãi trong lịch sử và kí ức mỗi người. Nó
như một nét son vàng trong thơ ca Việt Nam, như một viên ngọc sáng trong tâm hồn, tấm lòng
của mỗi bạn trẻ ngày nay khi được dạy, được đọc về lịch sử nước nhà.
ĐỀ 1: PHÂN TÍCH ĐOẠN 1 BÀI "TÂY TIẾN" (14 CÂU ĐẦU)
BÀI LÀM
"Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp" và "quy luật của cái đẹp là quy luật của
tình cảm". Vậy tình cảm chứ không phải bất kì yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái
đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của
người nghệ sĩ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm
đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa,
đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của
người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời
gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc
ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thới gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: "Tây Tiến" - bài thơ mang
chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.
Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được viết ra từ
nỗi nhớ da diết thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội
thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách
tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp
nhau. Nổi bật trong bài thơ này là mười bốn câu thơ đầu tiên với những kí ức của binh đoàn trên
những chặng đường hành quân gian khổ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
...
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỉ niệm của một đời chiến binh, ta chợt nhận
ra, "Tây Tiến" được bắt đầu bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến như thế:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác.
Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha "Tây tiến ơi!" Đó cũng chính là cách
mà Quang Dũng mở đầu bài thơ của mình. Nỗi nhớ trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và
làm nên cấu trúc của thi phẩm. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng
đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng
gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả thời
đại, của cả dân tộc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của
núi rừng, của địa bàn hoạt động gắn với một đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây
Tiến cũng đã xa rồi, tất cả chỉ còn lại trong hồi ức. Có thể thấy từ "xa rồi" cũng chính là điểm rơi
thấp nhất của câu thơ này, nó giống như một khoảng hụt hẫng khi những kỉ niệm chỉ giống như
những thước phim trôi qua để lại biết bao cảm xúc đong đầy. Giữa khoảng không gian Tây Bắc
quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho
phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: "nhớ chơi vơi". Chỉ với hai câu thơ đầu tiên,
những kí ức gắn với binh đoàn đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành quay
về những kí ức, nhà thơ Quang Dũng thêm một lần đi lại những con đường đã qua:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đậm kỉ
niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao
nhớ lại những kỉ niệm bao chặng đường hành quân vất vả. Và ở câu thơ tiếp theo này, hình ảnh
"đoàn quân mỏi" giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của
hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực
của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song
cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong khung cảnh đẹp huyền ảo
của thiên nhiên. Những tiếng "sương lấp", "hoa về", "đêm hơi" khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt
nhoà đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Không gian được liên tưởng tới
là địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm
ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề nhưng nay lại được tiếp thêm sức
mạnh.
Bối cảnh thiên nhiên tiếp tục hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi
của sự trái ngược:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của một bài thơ tứ tuyệt, đặc tả bước hành quân gian lao
của người lính vệ quốc. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập ghềnh cũng được vẽ ra một cách
chân thực ở đoạn thơ này. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian
lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Những
con dốc được miêu tả bằng từ láy tượng hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm" khiến người đọc dễ
dàng liên tưởng tới địa hình gấp gãy, hiểm trở. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con
đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Đường hành quân dài thăm thẳm muôn
trùng, có khoảnh khắc đi lên cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là nguyên
cớ cho hình ảnh nhân hoá "súng ngửi trời". Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong
chất thơ của Quang Dũng. Ta nhớ tới hình ảnh liên tưởng trong thơ của Chính Hữu:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa
như kích thích họ đi tới, dẫn tới sự chinh phục. Cảnh rứng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu,
với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước
xuống", khiến người đọc dường như đang chơi một trò chơi bấp bênh chóng mặt. Núi cao thì cao
vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp
từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ
đe doạ bởi địa hình, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những
nếp nhà Pha Luông - đó cũng chính là những nét vẽ nhẹ nhàng đối lập với những gì gân guốc
trước đó của thiên nhiên Tây Bắc:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những
chặng đường hành quân vất vả. Trong giây phút được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy,
người chiến binh Tây Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình?
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính trên chặng đường hành
quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã,
Quang Dũng không hề giấu diếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại trong những vần
thơ của mình:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối ngày,
đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thống mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ "gục" có phần
nặng nề nhưng bị xoá nhoà đi và cân bằng trở lại, bằng hình ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với
người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Kết cấu đan xen giữa thiên nhiên và con
người tạo nên một sự đối chiếu thầm lặng để từ đó tôn vinh sức mạnh của con người, dù cho có
nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe doạ họ từ mọi phía, mọi nơi.
Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe doạ bởi
thác dữ, núi rừng:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
"Chiều chiều" và "đêm đêm" diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này
chứng tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào
cũng như vậy. Sự đe doạ dường như bủa vây từ mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống
chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước độc qua
con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những
khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp"
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có tên nghe thật mềm
mại, êm ái, gới ra sự bình yên "Mai Châu". Đặc biệt, ở trong câu thơ cuối có một danh từ nghe
rất lạ, đó là "mùa em". Đất trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của
nhà thơ lại có một mùa thật lạ đó là "mùa em". Mùa em là mùa "con ong đi lấy mật, mủa con voi
xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương", mùa ta gặp nhau, mùa trao yêu thương,
mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự
đủ đầy, mùa của tình quân dân.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút
pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho
nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi
nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những
thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên
thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ là bên cạnh những
nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ nhưng góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng
trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng lên bức tượng
đài bằng thơ về hình ảnh người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến dũng cảm mà cũng đầy
chất thơ của nhân dân ta.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn phía sau của
"đoàn binh không mọc tóc" và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận
chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha thiết trong lòng người đọc khi biết về
binh đoạn Tây Tiến qua vần thơ của Quang Dũng. Xin được mượn lời thơ của Giang Nam để
thay lời kết cho bài viết này, có lẽ Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người yêu mến
nhà thơ và bài "Tây Tiến":
"Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông."

ĐỀ 5: PHÂN TÍCH BỨC TRANH TỨ BÌNH TRONG BÀI VIỆT BẮC


BÀI LÀM
Văn học là tấm gương phản chiếu thời đại, thời đại nào thì văn học ấy, và văn học giai
đoạn những năm 1045-1954 tập trung phản chiếu thời kì kháng chiến chống Pháp oai hùng của
quân và dân ta. Không chỉ dừng lại ở đó, văn học còn phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ
thuật, chính con đường độc đáo này đã tạo ra nhiều khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc. Bởi thế,
khoái cảm thẩm mỹ làm cho giới độc giả lưu luyến mãi không nguôi - đó là bài thơ Việt Bắc của
Tố Hữu. Không gân guốc, làm nổi bật hình tượng người lính, không hoa mỹ tạo ấn tượng riêng
biệt mà Tố Hữu gây xúc động bởi vẻ đẹp của cảnh vật chiến khu Việt Bắc, vẻ đẹp tình nghĩa
cách mạng, tình quân dân thắm thiết. Tất cả được thể hiện qua những vần thơ đậm hồn dân tộc
nhưng vô cùng tinh tế và điêu luyện. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua bức tranh bốn mùa tươi
đẹp.
Tố Hữu là nhà thơ chính trị, là lá cờ đầu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tổ Hữu
thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người cách mạng, thơ ông đậm đà tính dân tộc trong
nội dung và hình thức thể hiện. Chính những điều ấy đã làm rung động nhà phê bình văn học
Hoài Thành với nhận định: "Thái độ toàn tâm, toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm
nên thành công của thơ Tố Hữu". "Việt Bắc" là một bài thơ ra đời được ví như một bài thơ không
viết không được. Sau 9 năm kháng chiến, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, nửa đất nước đã
được tự do, cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới. Qua một sự việc cụ thể, lúc bấy giờ,
những người kháng chiến từ miền núi trở về đồng bằng, miền xuôi; trung ương, chính phủ từ
chiến khu Việt Bắc trở lại thủ đô. Tố Hữu đã xây dựng một bài thơ nói lên tình nghĩa đối với quê
hương cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người không quên đi chặng đường gian khổ, đầy
tình nghĩa đã trải qua cùng nhau ấy.
Trước khi vén mở những cảnh sắc tuyệt đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc, Tố
Hữu khéo léo khơi gợi xúc cảm trong lòng người đọc bằng những nỗi nhớ nhung về "hoa" và
"người" để những hình ảnh tiếp theo hiện lên thật sâu sắc:
"Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu hỏi tu từ vang lên cùng với điệp từ "nhớ" thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người
cán bộ từng gắn bó với mảnh đất Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy không chỉ gắn liền với "hoa" - thiên nhiên
thơ mộng, tươi tắn mà còn song hành với "người" - nhân dân Việt Bắc đã từng gắn bó nghĩa tình.
Điệp từ "ta" ở hai dòng thơ nhấn mạnh nỗi nhớ, tình cảm chân thành của người về xuôi đối với
Việt Bắc. "Ta" và "mình" là cách xưng hô quen thuộc, gần gũi, tình cảm bởi "Ta với mình tuy
hai mà một, tuy một mà hai". "Hoa" là hình ảnh ẩn dụ cho thiên nhiên tươi đẹp còn "người" là để
chỉ người dân Việt Bắc nên "hoa cùng người" là hình ảnh về vẻ đẹp thiên nhiên sóng đôi với vẻ
đẹp con người. Quang Dũng cũng từng miêu tả hình ảnh hoa với người sóng đôi bên nhau trong
buổi chiều sương đượm buồn:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Trong cái nhìn của nhà thơ, thiên nhiên và con người là hai yếu tố hoà quyện lẫn nhau,
thiên nhiên là cái nền để con người toả sáng và con người cũng đã làm cho thiên nhiên thêm gần
gũi, thân thương.
Mở đầu cho bức tranh tứ bình tuyệt mỹ, nhà thơ khéo léo phác hoạ vẻ đẹp mới lạ, ấm áp
của mùa đông Việt Bắc:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Từ tầm quan sát xa, nhân vật trữ tình đã bao quát được không gian "rừng xanh" mênh
mông rộng lớn, vời vợi sắc xanh. Gam màu này gợi vẻ đẹp trầm tĩnh của rừng già, gợi về một
vùng đất êm đềm, hoang sơ. Sự lạnh lẽo của mùa đông dường như tan biến với sự xuất hiện của
"hoa chuối đỏ tươi", điểm nhấn độc đáo giữa không gian rộng lớn. Sắc đỏ của hoa chuối như
ngọn đuốc đang bừng sáng xua tan giá lạnh và khiến không gian trở nên ấm áp hơn. Nhà thơ đã
sử dụng thành công bút pháp chấm phá để tạo nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc sinh động tràn
trề nhựa sống với sắc hoa, màu lá hài hoà rực rỡ và ấn tượng. Ở câu thơ tiếp theo, hình ảnh con
người hiện lên với sự cần cù siêng năng, sẵn sàng vượt qua khó khăn để lao động, sản xuất:
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Địa hình hiểm trở, gập ghềnh "đèo cao" cùng với thời tiết "nắng ánh" gây khó khăn cho
người lao động nhưng họ luôn trong tư thế khoẻ khoắn, vững chãi "dao gài thắt lưng". Khi "nắng
ánh" chiếu rọi vào con dao thì con người là nơi hội tụ ánh sáng với vẻ đẹp sáng chói, thanh khiết,
thật khoẻ khoắn và tự tin. Cái hay của nhà thơ đó là ông không miêu tả ngoại hình con người mà
chỉ chọn những khoảnh khắc mà con người toả sáng nhất, đẹp đẽ nhất. Con người đang chiếm
lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do, làm chủ lao động. Giữa thiên nhiên hoang sơ, tráng lệ,
con người trở thành điểm hội tụ, linh hồn của Việt Bắc.
Khép lại mùa đông, thi nhân đưa độc giả "du hành" để thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân
thanh tao trong sắc trắng tinh khôi của hoa mơ cùng với hình ảnh con người chăm chỉ cần cù lao
động:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, khởi đầu cuộc sống mới nên mang vẻ đẹp căng
tràn sức sống, hội tụ vẻ đẹp mĩ lệ, tinh khiết. "Ngày xuân" mang tới một không gian ấm áp xua
tan tiết trời lạnh lẽo của mùa đông, thời điểm mọi vật sinh sôi nảy nở. Một miền cổ tích với sắc
trắng "hoa mơ" dẫn lối người đọc đến không gian thanh cao, đẹp đến ngỡ ngàng của màu trắng
tinh khôi. Màu trắng là gam màu tinh khiết, thanh cao khiến tâm hồn con người như giải toả mọi
lo âu, phiền muộn và trở nên thư thái hơn. Động từ "nở" gợi một sức sống mùa xuân lan toả, gợi
ra một bức tranh vô cùng sống động. Câu thơ đi nhịp 2/2/2 chậm rãi theo đó từng cánh hoa mơ
nở ra rồi dần lan rộng khắp núi rừng. Không gian rừng già bừng sáng bởi sắc trắng trẻ trung của
hoa mơ.
Mùa xuân - mùa của lễ hội vui chơi nhưng trong hoàn cảnh kháng chiến, đồng bào Việt
Bắc đã gác lại nhu cầu ấy để cần mẫn làm việc phục vụ cho kháng chiến. Những người thợ thủ
công ở Việt Bắc đã dùng đôi tay khéo léo của mình "chuốt từng sợi giang" đan thành chiếc nón
để anh bộ đội đi chiến đấu có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Động từ "chuốt" kết hợp với
từ "từng" thể hiện sự tỉ mỉ của người lao động. Đan nón là một công việc đòi hỏi sự khéo léo,
công phu bằng những đôi bàn tay đầy kĩ xảo. Thiên nhiên tinh khôi làm nền để cho con người
nổi bật bởi sự tỉ mỉ, thuần thục trong công việc bởi "trăm hay không bằng tay quen". Qua đó nhà
thơ thể hiện sự trân trọng, ngợi ca những con người lao động cần mẫn trong công việc để tận
hưởng mùa xuân ấm no, hạnh phúc.
Góp phần tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt mỹ là mùa hạ Việt Bắc ngập tràn màu sắc,
ánh sáng và âm thanh vô cùng sinh động, tràn đầy sức sống cùng với sức trẻ của con người:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Mở màn mùa hè là âm thanh quen thuộc của tiếng ve rừng "Ve kêu rừng phách đổ vàng"
- giai điệu đặc trưng gợi nhớ cho người đọc về mùa hè. Hình ảnh "rừng phách đổ vàng" là sự
cảm nhận tinh tế của nhà văn đối với chuyển động tinh vi của sự vật. Rừng phách chuyển đổi
màu sắc đột ngột tạo nên không gian sắc vàng long lanh của mùa hè. Ở đây như có một sự giao
cảm thật thần kì! Tiếng ve ngân lên như một hiệu lệnh của thiên nhiên, ngay lập tức rừng phách
đổ vàng. Tác giả không sử dụng động từ "chuyển" hay "đổi" mà lại sử dụng động từ "đổ" để làm
nổi bật thay đổi đột ngột của rừng phách đồng thời tạo ấn tượng cho người đọc nhằm diễn tả sự
mau lẹ nhưng cũng rất chính xác khoảnh khắc hè sang. Dưới cái nắng hè và sự rộn rã của tiếng
ve, bức tranh mùa hè Việt Bắc thật náo nhiệt, vui tươi, rộn ràng.
Giữa thiên nhiên ngập tràn sắc vàng, con người hiện lên với vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn:
"Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Cô gái hiện lên tràn đầy sức sống trong vần thơ nhiệm màu của tác giả. Động từ "hái"
diễn tả sự mềm mại, dịu dàng, uyển chuyển của cô gái trong lao động. Câu thơ "Nhớ cô em gái
hái măng một mình" là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu thanh điệu. Có vần lưng: "Gái" hợp với từ
"hái". Có điệp âm qua các phụ âm "m": "măng - một - mình". Đây là những vần thơ nên hoạ nên
nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. "Cô em gái hái
măng một mình" vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng góp
phần "nuôi quân" phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ
Tố Hữu. Thiên nhiên gắn bó, làm bạn với con người tạo nên bức tranh thân thương, gần gũi.
Bức tranh mùa thu ấm áp, thanh bình, ngọt ngào với tiếng hát thuỷ chung, son sắt như tô
đậm vẻ đẹp tuyệt sắc của thiên nhiên Việt Bắc:
"Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung."
Hình ảnh "rừng thu" mang đến không gian rộng lớn ấm áp nghĩa tình bởi chính cảnh rừng
này đã từng đồng hành với người chiến sĩ: "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù". Ánh trăng mùa
thu soi sáng cả cánh rừng, soi sáng một vùng đất anh hùng đang thấm đẫm xương máu thời
kháng chiến. Bản chất của trăng là hình tròn biểu tượng cho sự viên mãn, ước nguyện cao đẹp và
"trăng rọi hoà bình" thể hiện tâm nguyện của tác giả về sự chiến thắng quân thù, đem đến nền
độc lập cho dân tộc. Chính ánh trăng ấy đang soi sáng niềm tin độc lập, mang đến niềm vui cho
mọi bản làng, mọi nhà Việt Bắc.
Trong nỗi nhớ của người ra đi, con người góp vào giai điệu ngọt ngào dưới ánh trăng thu
"tiếng hát ân tình thuỷ chung", đáp lại câu hỏi: "Mình về mình có nhớ ta - Mười lăm năm ấy thiết
tha mặn nồng", người cán bộ luôn luôn nhớ về những ngày tháng gian lao với âm thanh ngọt
ngào, tấm lòng thuỷ chung son sắt của nhân dân Việt Bắc. Thời gian có thể làm phai nhoà kí ức
nhưng tình cảm thì mãi mãi không thay đổi, vẫn luôn tha thiết không thể nào quên dưới ngòi bút
của nhà thơ trữ tình chính trị. Những tiếng hát của họ chính là những lời tâm tình ngọt ngào mà
họ muốn gửi tặng cho người ra đi. Một mùa thu thanh bình bởi ánh trăng đầy hi vọng, ngọt ngào
bởi những tiếng hát thuỷ chung.
Đoạn trích này có thể được coi là một trong những đoạn trích tiêu biểu nhất của Việt Bắc.
Đoạn thơ diễn tả được tình cảm nhớ thương Việt Bắc sâu nặng của người cán bộ kháng chiến khi
rời Việt Bắc để trở về Thủ đô Hà Nội. Ngôn ngữ uyển chuyển, ngọt ngào. Những từ "ta", "mình"
được nhà thơ sử dụng có ý nghĩa mới. Những từ vốn rất riêng được Tố Hữu dùng với nghĩa
chung, khiến cho cái chung có sức rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục bát dịu, có
sức ngân vang trong lòng người đọc như một khúc hát ru kỉ niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại
nhiều lần với nhiều cấp độ khác nhau tăng cường nhạc điệu du dương của đoạn thơ và nhấn
mạnh được nỗi lòng lưu luyến tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt Bắc. Đặc biệt hơn
cả là trong tâm tưởng của người ra về in sâu hình ảnh sắc màu của bức tranh tứ bình tươi sáng,
rực rỡ,thơ mộng. Đoạn thơ đã diễn tả được một khía cạnh sâu của chủ đề bài thơ Việt Bắc là tình
cảm thủy chung - thủy chung với cách mạng.
ĐỀ 3: PHÂN TÍCH ĐOẠN 3 BÀI TÂY TIẾN (12 CÂU CUỐI)
BÀI LÀM
"Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp" và "quy luật của cái đẹp là quy luật của
tình cảm". Vậy tình cảm chứ không phải bất kì yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái
đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của
người nghệ sĩ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng là một minh chứng sáng giá cho quan niệm
đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa,
đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của
người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời
gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc
ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thới gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một
trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: "Tây Tiến" - bài thơ mang
chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.
Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được viết ra từ
nỗi nhớ da diết thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội
thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách
tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp
nhau. Và đoạn thơ thứ ba hình ảnh người lính Tây Tiến đã được Quang Dũng khắc hoạ với vẻ
đẹp bi tráng, tạc vào lòng người như bức tượng bất tử về người lính không thể nào quên:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."
Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình
tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ
lệ. Hình ảnh người lính mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng được thể hiện trước hết, qua
bức chân dung ở hai câu thơ:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ "Tây Tiến" lên đầu câu đã thể hiện sự trang trọng của
Quang Dũng khi nhắc tới đơn vị cũ. Cách sử dụng từ "đoàn binh" thay vì "đoàn quân" đã làm
toát lên vẻ đẹp cường tráng, mạnh mẽ của những người lính Tây Tiến năm nào. Bằng cụm từ
"không mọc tóc" và "quân xanh màu lá", tác giả đã cho ta thấy sự khắc nghiệt, dữ dội mà người
lính phải trải qua nơi núi rừng Tây Bắc. Đó chính là những trận sốt rét rừng đã để lại di chứng
lên cơ thể người lính. Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với sự mạnh mẽ, kiên cường trước
muôn vàn gian khổ. Qua cảm nhận của Quang Dũng, các chi tiết về ngoại hình, diện mạo của
người lính Tây Tiến như tiềm ẩn một sức mạnh lớn lao. Bằng ba chữ "dữ oai hùm", tác giả đã
làm nổi bật vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt của những người lính trẻ, đưa người lính lên ngang hàng
với thiên nhiên, thậm chí có sức mạnh sánh ngang với chúa tể rừng xanh. Dường như khó khăn
gian khổ chỉ là phông nền để tôn thêm vẻ đẹp kiêu hùng của những người lính Tây Tiến.
Đằng sau ngoại hình dữ dội, oai phong có phần thô mộc của những người lính Tây Tiến
là một thế giới nội tâm vô cùng tinh tế và phong phú:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng hiền thơm."
Chiến đấu trong gian khổ thế nhưng hình tượng người lính Tây Tiến vẫn luôn "mắt
trừng". Đó là đôi mắt mở to nhìn thẳng kẻ thù, thề sống thề chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy như miêu
tả với sự phẫn nộ, là đôi mắt của nội tâm sục sôi chiến đấu. Tâm hồn người lính Tây Tiến còn
được Quang Dũng khắc hoạ thông qua "giấc mộng biên giới" và giấc mơ về Hà Nội với "dáng
hiền thơm". Nếu như "giấc mộng biên giới" gợi giấc mộng lập chiến công, giấc mộng của chiến
thắng, của hoà bình khiến cho người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp của bậc trí nhân quân tử thời
xưa thì giấc mơ về Hà Nội với "dáng hiền thơm" lại gợi vẻ đẹp bình dị, trẻ trung, lãng mạn của
người con đất Hà Thành. Lính Tây Tiến phần đông là giới thanh niên trí thức trẻ nên "mơ" về Hà
Nội cũng là nhớ về quê hương. Trong giấc mộng của người lính có sự thống nhất hài hoà giữa
tình yêu riêng tư và tình yêu đất nước. Sự thống nhất hài hoà giữa cái riêng và cái chung như thế
đã khiến cho niềm khát khao, mơ mộng của người lính Tây Tiến trở nên cao cả, sâu sắc, thấm
thía hơn bao giờ hết.
Qua cảm nhận của Quang Dũng, vẻ đẹp cao cả nhất, nổi bật nhất của người lính Tây Tiến
chính là vẻ đẹp của lí tưởng sống, của ý thức trách nhiệm đối với đất nước:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
"Đời xanh" là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân. Đó là quãng thời
gian tươi đẹp và quý giá nhất của cuộc đời mỗi người, là lúc mà bao tương lai hạnh phúc đang
chờ đợi phía trước. Quãng đời tươi đẹp và quý giá như vậy thế mà người lính Tây Tiến vẫn sẵn
sàng hiến dâng cho đất nước không thương tiếc. Kết cấu thơ tương phản "chẳng tiếc đời xanh" đã
làm nổi bật tinh thần hi sinh cao cả và hoàn toàn tự nguyện "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" của
người lính Tây Tiến. Trong nỗi nhớ của Quang Dũng, những người lính trẻ Tây Tiến là những
công dân đầy ý thức trách nhiệm với đất nước, hoàn toàn tự giác trước nhiệm vụ lịch sử. Lời thơ
của Quang Dũng cũng gợi nhớ đến ý thơ của Thanh Thảo:
"Những tuổi hai mươi ai mà chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi tổ quốc"
Sống với lý tưởng cao cả đó nên tư thế hi sinh của người lính Tây Tiến được khắc hoạ rất
hiên ngang qua những câu thơ:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Viết về chiến tranh nhưng Quang Dũng không hề né tránh những đau thương mất mát.
Ông viết về sự hi sinh một cách vừa chân thực vừa hào hùng, bi tráng. Câu thơ đầu với hình thức
đảo ngữ cùng từ láy tượng hình "rải rác" kết hợp cùng các hình ảnh "biên cương", "mồ viễn xứ"
đã gợi sự khốc liệt, ảm đạm, thê lương. Những ngôi mộ vô danh rải rác khắp chốn biên ải xa xôi
khiến lòng người không khỏi xót xa, đau đớn. Lời thơ của Quang Dũng đã sử dụng rất nhiều từ
Hán Việt như "biên cương", "viễn xứ",... đã mang lại không khí trang trọng, thành kính thiêng
liêng, giống như khúc tưởng niệm của tác giả trước những người đồng đội thân yêu. Bên cạnh
đó, hình ảnh "áo bào thay chiếu" mang đến cho lời thơ một ý vị cổ điển. Có thể hiểu, người lính
có khi không có áo bào nhưng Quang Dũng đã thêm hình ảnh này vào làm tăng thêm vẻ hùng
dũng, mạnh mẽ giống như những tráng sĩ thời trung đại.
Nhắc đến cái chết, nhiều người sẽ thưởng buồn đau, bi luỵ thế nhưng đối với Quang
Dũng đó như là sự trở về:
"Áo bào thay chiếu, anh về đất"
Cách nói giảm nói tránh chỉ cái chết vừa làm vơi nỗi đau mất mát, vừa bộc lộ được tình
cảm sâu sắc, thiết tha với người đồng đội cũ. Người lính Tây Tiến ngã xuống như trở về với
thiên nhiên Tây Bắc, trở về với cõi yên nghỉ vĩnh hằng. Đó cũng là cách "hoá thân vào dáng hình
xứ sở để làm nên đất nước muôn đời." Con sông Mã, chứng nhân của lịch sử, đã chứng kiến sự
hi sinh của những người lính Tây Tiến. Nó gầm lên giống như một con chiến mã trung thành,
đau thương khi chứng kiến cái chết của người bạn đồng hành. Dòng sông như cất lên một khúc
tráng ca đưa người lính về với đất với bao tiếc thương, ngậm ngùi. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang
Dũng đã truyền được vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót trong lòng
người chiến sĩ khi phải vĩnh biệt đồng đội. Trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của thiên nhiên ấy,
cái chết của người lính không bi luỵ mà thấm đẫm chất anh hùng của thời đại.
Bốn câu thơ cuối là lời kết luận cho cả bài thơ, khẳng định chất lí tưởng sâu sắc của
những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn là
sự hào hùng. Trong đó, hai câu thơ sau là lời khẳng định ra đi không hẹn ngày trở về:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi."
Cố nhân từng nói "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!". Từ xưa đến nay mấy người đi chiến
trận mà hẹn được ngày trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống
Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập
tự do. Nên những người lính Tây Tiến cũng một tinh thần ấy, ra đi là cũng không hẹn ngày trở
về, ra đi là xác định chia phôi. Ý thơ đã lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ,
làm nổi bật phẩm chất yêu nước, anh hùng của họ.
Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ thể hiện sự gắn bó máu thịt của những người lính với
một thời Tây Tiến:
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Hai câu thơ một lần nữa tô đậm thêm tinh thần thời đại, tinh thần chung của người lính
Tây Tiến. Đại từ "ai" phiếm chỉ nhưng rõ ràng là chỉ những người lính Tây Tiến. Mùa xuân ấy là
mua xuân năm 1947, khi những người lính lên đường lên Tây Tiến nhưng cũng có thể mùa xuân
ở đây là chỉ tuổi thanh xuân. Những người lính Tây Tiến ra đi vào mùa xuân năm ấy khi tuổi đời
còn rất trẻ, đang tràn đầy sức sống, khát vọng và lí tưởng cao đẹp. Họ ra đi chiến đấu là vì một
mùa xuân cho đất nước.
Trong câu thơ cuối, Sầm Nứa là tên địa danh của nước bạn Lào, nằm trong địa bàn hoạt
động của đoàn binh Tây Tiến. Có lẽ, nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thuỷ
chung, son sắt của tất cả những "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy". Dù có thể chia xa nhưng tâm
hồn những người lính sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông, Mường
Hịch,... những vùng đất xa xôi đong đầy kỉ niệm với đồng đội, với trung đoàn Tây Tiến trong
những năm tháng gian khổ hào hùng vì như Chế Lan Viên đã đúc kết:
"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn."
Với bút pháp nghệ thuật vừa hiện thực vừa lãng mạn, cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài
hoa của nhà thơ Quang Dũng. Hình ảnh thơ khá đa dạng và được sáng tạo bằng nhiều bút pháp
khác nhau, tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Hình ảnh người lính hiện ra với nhiều vẻ đẹp
khác nhau, mà vẻ đẹp nổi bật là hào hùng và hào hoa. Đoạn thơ vừa có thứ ngôn ngữ trang trọng,
có màu sắc cổ kính, lại có lớp từ ngữ thông tục, sinh đậm của tiếng nói hằng ngày, in đậm trong
phong cách người lính cho thấy tình cảm, sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến, với đồng
đội thân yêu, cho thấy tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến trong một thời kì
lịch sử hào hùng của dân tộc.
ĐỀ 4: PHÂN TÍCH 8 CÂU THƠ ĐẦU BÀI VIỆT BẮC
BÀI LÀM
Văn học là tấm gương phản chiếu thời đại, thời đại nào thì văn học ấy, và văn học giai
đoạn những năm 1045-1954 tập trung phản chiếu thời kì kháng chiến chống Pháp oai hùng của
quân và dân ta. Không chỉ dừng lại ở đó, văn học còn phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ
thuật, chính con đường độc đáo này đã tạo ra nhiều khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc. Bởi thế,
khoái cảm thẩm mỹ làm cho giới độc giả lưu luyến mãi không nguôi - đó là bài thơ Việt Bắc của
Tố Hữu. Không gân guốc, làm nổi bật hình tượng người lính, không hoa mỹ tạo ấn tượng riêng
biệt mà Tố Hữu gây xúc động bởi vẻ đẹp của cảnh vật chiến khu Việt Bắc, vẻ đẹp tình nghĩa
cách mạng, tình quân dân thắm thiết. Tất cả được thể hiện qua những vần thơ đậm hồn dân tộc
nhưng vô cùng tinh tế và điêu luyện. Điều đó trước hết được thể hiện rõ nhất qua tám câu thơ
đầu - nơi cất lên lời hỏi đáp về những kỉ niệm ân tình giữa người đi và người ở trong suốt 15 năm
gắn bó.
Tố Hữu là nhà thơ chính trị, là lá cờ đầu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tổ Hữu
thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người cách mạng, thơ ông đậm đà tính dân tộc trong
nội dung và hình thức thể hiện. Chính những điều ấy đã làm rung động nhà phê bình văn học
Hoài Thành với nhận định: "Thái độ toàn tâm, toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm
nên thành công của thơ Tố Hữu". "Việt Bắc" là một bài thơ ra đời được ví như một bài thơ không
viết không được. Sau 9 năm kháng chiến, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, nửa đất nước đã
được tự do, cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới. Qua một sự việc cụ thể, lúc bấy giờ,
những người kháng chiến từ miền núi trở về đồng bằng, miền xuôi; trung ương, chính phủ từ
chiến khu Việt Bắc trở lại thủ đô. Tố Hữu đã xây dựng một bài thơ nói lên tình nghĩa đối với quê
hương cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người không quên đi chặng đường gian khổ, đầy
tình nghĩa đã trải qua cùng nhau ấy.
Trước hết, nhà thơ đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán
bộ, chiến sĩ về xuôi kết hợp với thể thơ lục bát khiến cho lời thơ như là lời tâm tình, nhắn gửi,
thủ thỉ, lưu luyến:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn."
Ở đoạn thơ này “mình” – cán bộ cách mạng, “ta” – nhân dân Việt Bắc. Nhà thơ đã sử
dụng đại từ xưng hô “mình” với “ta” vô cùng khéo léo, ở đây không phải đang nói đến xưng hô
giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người cách
mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang đậm tình dân tộc, lại thể hiện được
tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thẻ hiện sự
gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, lưu luyến, tha thiết. Người ở lại nhạy cảm với
hoàn cảnh đổi thay, về sự chia xa, cách biệt, nên đã cất lên hai câu da diết, khắc khoải: “Mình về
mình có nhớ ta”, “Mình về mình có nhớ không”. Đó là một lời nhắc nhở về ân tình sâu nặng của
mấy ngàn ngày kháng chiến “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. “Mười lăm năm” là khoảng
thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và
người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng. Đó là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài
nhưng nó đủ khiến cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế
Lan Viên từng viết:
"Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn"
Trong lời hai của người ở lại còn chứa đựng lời nhắn nhủ thiết tha: "Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn”, đây còn là cách nói hồn nhiên, chân thật của người miền núi, nhằm nhắc
người cán bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây Hà Nội nhớ núi rừng Việt Bắc, nhìn sông ở Hà
Nội nhớ suối nguồn Việt Bắc. Ngoài ra “cây, núi, sông, nguồn” là những hình ảnh thiên nhiên có
thực, nhưng gợi ra quy luật của tình cảm là dù ở đâu cũng cần hướng về cội nguồn cách mạng
“Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”. Tóm lại, bốn câu thơ đầu là lời nhắn nhủ đừng quên
cội nguồn, đừng quên quê hương cách mạng.
Người ra đi thấu hiểu nỗi niềm của người ở lại nên đã bày tỏ và khẳng định tình cảm sâu
nặng dành cho đồng bào Việt Bắc. Bốn câu thơ sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về
xuôi "bâng khuâng", "bồn chồn" cùng cử chỉ "cầm tay nhau" xúc động bồi hồi đã nói lên tình
cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh vật và con người Việt Bắc:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuân trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc kìm nén
trong tâm trạng của người đi. Đại từ phiếm chỉ “ai” vừa tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong
nỗi nhớ vừa rất chân thật gợi sự gần gũi, thân thương. Tình cảm ân tình, tha thiết đã làm cho
người cán bộ ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau, được thể hiện qua những từ láy
“tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” - diễn tả chính xác những vấn vương, nhớ thương trong
tâm hồn nhà thơ lúc phân ly. Tâm trạng “bâng khuâng trong dạ” cho thấy người ra đi không
muốn rời xa cảnh và người Việt Bắc, nhưng trong lòng lại “bồn chồn bước đi”, họ muốn nhanh
chóng trở về Hà Nội, vì ở đó còn có rất nhiều công việc đang chờ đón họ.
"Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” – nhằm khắc hoạ bản sắc trang phục của đồng bào Việt
Bắc, mặt khác để chỉ nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xuôi. Như vậy,
người cán bộ kháng chiến ra đi nhớ cảnh Việt Bắc, nhớ “áo chàm”, nhớ tiếng, nhớ người, nhớ
tình cảm của người Việt Bắc dành cho kháng chiến. Nỗi nhớ đó không chỉ nói lên tấm lòng thuỷ
chung son sắt đối với quê hương cách mạng mà còn thể hiện tình cảm gắn bó của nhà thơ với
những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình. Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 kết
hợp với dấu chấm lửng ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả tinh tế ngập ngừng, bịn rịn trong tâm
trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời
xa.
"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Câu thơ tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập
ngừng không muốn nói điều chi, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm
khó phai. Tâm trạng của những người kháng chiến trong phút giây từ biệt chiến khu cách mạng
có sự đan xen, hoà quyện của niềm vui chiến thắng, hoà bình và nỗi buồn chia ly, xa cách. Trong
đó, nổi bật nhất vẫn là tình cảm lưu luyến, nhớ thương dành cho người ở lại.
Có thể nói, đây là đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ nhà thơ đã miêu tả
rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở lại vào giờ phút chia li: nỗi nhớ nào
cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau, người ta tính từng
khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn đây, cảnh còn đây, mặt đối mặt
mà lòng đã bâng khuâng, lưu luyến. Hai khổ đầu của bài thơ đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc
động, với những lời tâm tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được
trong đó tình yêu thương tha thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Qua đó, nhà thơ
diễn tả nỗi xúc động, sự lưu luyến, tình cảm thắm thiết của đồng bào Việt Bắc với người cán bộ
kháng chiến. Bằng cách sử dụng kết cấu đỗi đáp, cặp đại từ nhân xưng mình - ta, vừa diễn đạt
được cảm xúc, vừa tạo tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Tố Hữu đã diễn đạt vấn đề chính trị
bằng một hình thức nghệ thuật trữ tình, nên gây được sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc
tạo thành nhạc điệu cảm xúc và tâm hồn dân tộc phong phú, ngợi ca nghĩa tình cách mạng của
quân và dân ta trong cuộc kháng chiến giữ nước.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hoà tấu bởi là khúc tình ca và
khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh
hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha
thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng
bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân
tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách
mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Trong lời hai của người ở lại còn chứa đựng lời nhắn nhủ thiết tha: "Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông
nhớ nguồn”, đây còn là cách nói hồn nhiên, chân thật của người miền núi, nhằm nhắc người cán
bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây Hà Nội nhớ núi rừng Việt Bắc, nhìn sông ở Hà Nội nhớ
suối nguồn Việt Bắc. Ngoài ra “cây, núi, sông, nguồn” là những hình ảnh thiên nhiên có thực,
nhưng gợi ra quy luật của tình cảm là dù ở đâu cũng cần hướng về cội nguồn cách mạng “Quê
hương cách mạng dựng lên cộng hòa”. Tóm lại, bốn câu thơ đầu là lời nhắn nhủ đừng quên cội
nguồn, đừng quên quê hương cách mạng.
Người ra đi thấu hiểu nỗi niềm của người ở lại nên đã bày tỏ và khẳng định tình cảm sâu
nặng dành cho đồng bào Việt Bắc. Bốn câu thơ sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về
xuôi "bâng khuâng", "bồn chồn" cùng cử chỉ "cầm tay nhau" xúc động bồi hồi đã nói lên tình
cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh vật và con người Việt Bắc:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuân trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc kìm nén
trong tâm trạng của người đi. Đại từ phiếm chỉ “ai” vừa tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong
nỗi nhớ vừa rất chân thật gợi sự gần gũi, thân thương. Tình cảm ân tình, tha thiết đã làm cho
người cán bộ ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau, được thể hiện qua những từ láy
“tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” - diễn tả chính xác những vấn vương, nhớ thương trong
tâm hồn nhà thơ lúc phân ly. Tâm trạng “bâng khuâng trong dạ” cho thấy người ra đi không
muốn rời xa cảnh và người Việt Bắc, nhưng trong lòng lại “bồn chồn bước đi”, họ muốn nhanh
chóng trở về Hà Nội, vì ở đó còn có rất nhiều công việc đang chờ đón họ.
"Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” – nhằm khắc hoạ bản sắc trang phục của đồng bào Việt
Bắc, mặt khác để chỉ nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xuôi. Như vậy,
người cán bộ kháng chiến ra đi nhớ cảnh Việt Bắc, nhớ “áo chàm”, nhớ tiếng, nhớ người, nhớ
tình cảm của người Việt Bắc dành cho kháng chiến. Nỗi nhớ đó không chỉ nói lên tấm lòng thuỷ
chung son sắt đối với quê hương cách mạng mà còn thể hiện tình cảm gắn bó của nhà thơ với
những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình. Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 kết
hợp với dấu chấm lửng ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả tinh tế ngập ngừng, bịn rịn trong tâm
trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời
xa.
"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Câu thơ tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập
ngừng không muốn nói điều chi, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm
khó phai. Tâm trạng của những người kháng chiến trong phút giây từ biệt chiến khu cách mạng
có sự đan xen, hoà quyện của niềm vui chiến thắng, hoà bình và nỗi buồn chia ly, xa cách. Trong
đó, nổi bật nhất vẫn là tình cảm lưu luyến, nhớ thương dành cho người ở lại.
Có thể nói, đây là đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ nhà thơ đã miêu tả
rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở lại vào giờ phút chia li: nỗi nhớ nào
cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau, người ta tính từng
khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn đây, cảnh còn đây, mặt đối mặt
mà lòng đã bâng khuâng, lưu luyến. Hai khổ đầu của bài thơ đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc
động, với những lời tâm tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được
ĐỀ 6: PHÂN TÍCH ĐOẠN 8 VIỆT BẮC (NHỮNG ĐƯỜNG VIỆT BẮC .... NÚI HỒNG)
BÀI LÀM
Văn học là tấm gương phản chiếu thời đại, thời đại nào thì văn học ấy, và văn học giai
đoạn những năm 1045-1954 tập trung phản chiếu thời kì kháng chiến chống Pháp oai hùng của
quân và dân ta. Không chỉ dừng lại ở đó, văn học còn phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ
thuật, chính con đường độc đáo này đã tạo ra nhiều khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc. Bởi thế,
khoái cảm thẩm mỹ làm cho giới độc giả lưu luyến mãi không nguôi - đó là bài thơ Việt Bắc của
Tố Hữu. Không gân guốc, làm nổi bật hình tượng người lính, không hoa mỹ tạo ấn tượng riêng
biệt mà Tố Hữu gây xúc động bởi vẻ đẹp của cảnh vật chiến khu Việt Bắc, vẻ đẹp tình nghĩa
cách mạng, tình quân dân thắm thiết. Tất cả được thể hiện qua những vần thơ đậm hồn dân tộc
nhưng vô cùng tinh tế và điêu luyện. Điều đó được thể hiện rõ nhất có lẽ là qua khổ thơ thứ tám
đã tái hiện lại không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta.
Tố Hữu là nhà thơ chính trị, là lá cờ đầu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tổ Hữu
thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người cách mạng, thơ ông đậm đà tính dân tộc trong
nội dung và hình thức thể hiện. Chính những điều ấy đã làm rung động nhà phê bình văn học
Hoài Thành với nhận định: "Thái độ toàn tâm, toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm
nên thành công của thơ Tố Hữu". "Việt Bắc" là một bài thơ ra đời được ví như một bài thơ không
viết không được. Sau 9 năm kháng chiến, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, nửa đất nước đã
được tự do, cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới. Qua một sự việc cụ thể, lúc bấy giờ,
những người kháng chiến từ miền núi trở về đồng bằng, miền xuôi; trung ương, chính phủ từ
chiến khu Việt Bắc trở lại thủ đô. Tố Hữu đã xây dựng một bài thơ nói lên tình nghĩa đối với quê
hương cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người không quên đi chặng đường gian khổ, đầy
tình nghĩa đã trải qua cùng nhau ấy.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh Việt Bắc đầy hào hùng với đoàn
quân mang khí thế chiến thắng:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung"
Câu thơ đầu tiên vang lên một cách rất đỗi tự nhiên, tạo cảm giác khoẻ khoắn, hùng tráng
và chứa chan niềm tự hào kiêu hãnh. Tố Hữu miêu tả rất chân thực và sinh động khung cảnh
chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến dịch qua hình ảnh những con đường đêm đêm rầm rập bước
chân của bộ đội, dân công, bập bùng ánh sáng của lửa đuốc và ánh đèn pha của những đoàn xe ra
trận. Màn đêm bao la đã mang lại ưu thế cho quân dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà thơ ca
kháng chiến có nhiều bài tả cảnh ban đêm:
"Đêm nay, rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
(Đồng Chí - Chính Hữu)
Trong đời sống bình thường, ban đêm là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, là thời điểm
nghỉ ngơi yên tĩnh của con người. Nhưng trong chiến tranh, đêm thường là điểm khởi đầu của
những trận đánh, những chiến dịch lớn nối tiếp nhau. Hai tiếng "của ta" giản dị mà vô cùng
thiêng liêng, thể hiện rõ ý thức làm chủ của người dân đối với đất nước, đồng thời thể hiện niềm
tự hào về tính chất bất khả xâm phạm của vùng căn cứ. Hình ảnh thơ "Đêm đêm rầm rập như là
đất rung" đặc tả sự lớn mạnh nhanh chóng, vượt bậc và khí thế ra trận hào hùng, ngất trời của
đoàn quân và dân ta. Tác giả đã thể hiện được sự thống nhất, hoà hợp giữa con người với thiên
nhiên trong một thời điểm lịch sử đặc biệt. Các từ láy "đêm đêm", "rầm rập" kết hợp cùng hình
ảnh so sánh "như là đất rung" và nhịp thơ nhanh, gấp gáp làm bật lên âm hưởng khoẻ khoắn, góp
phần tái hiện sống động cuộc diễu binh hùng tráng. Cảm tưởng trên con đường ấy, tinh thần yêu
nước đã tiên phong để dẫn dắt những bàn chân bước nhanh hơn tới ánh sáng của tự do và giải
phóng.
Và cho đến bây giờ, chúng ta lại càng tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời đại
cách mạng:
"Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan"
Các từ tượng thanh và các từ tượng hình như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử
dụng một cách tài tình, diễn tả chính xác khí thế tự tin, hồ hởi bao trùm cả dòng người đang ra
trận với sức mạnh như dòng thác tuôn trào, không gì có thể cản bước nổi quân ta. Thêm vào đó,
hình ảnh hoán dụ "ánh sao đầu súng" vừa hiện thực lại vừa có một chút gì đó thơ mộng. "Ánh
sao" đó có thể là ánh sao của bầu trời, nhưng cũng có thể là ánh sao của lý tưởng cách mạng kết
hợp cùng với đầu súng, hình ảnh lãng mạn kết hợp với hiện thực, thể hiện một sức mạnh hiên
ngang, một tinh thần bất khuất.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm ấy, ta đã phải hành quân trong đêm, vận chuyển vũ
khí đạn dược trong đêm, lấy đêm làm ngày để chuẩn bị chiến đấu. Bởi vậy, bên cạnh những
người lính còn là những người dân công, những con người hết lòng vì đất nước, hăng hái như
một người lính thực thụ:
"Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay"
Nhà thơ đã sử dụng những từ ngữ chỉ số lượng lớn như "từng đoàn", "muôn" để khẳng
định lực lượng đông đảo của toàn dân công - những con người vốn chỉ là những người nông dân
quen chân lấm tay bùn. Thế nhưng, với tình yêu nước và tinh thần đoàn kết mạnh mẽ, họ đã kết
thành từng đoàn lớn với những bó đuốc sẵn sàng chi viện cho cuộc tổng tiến công lớn của toàn
dân tộc. Đảo ngữ "đỏ đuốc" được dùng để nhấn mạnh hình ảnh lửa đỏ bay lập loè trong đêm tối,
biểu trưng cho lòng quyết tâm, nhiệt huyết của dân tộc ta. Đặc biệt, Tố Hữu còn dùng biện pháp
cường điệu để nói sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc, đó là hình ảnh "bước chân nát
đá". Với nhiệt huyết và lòng quyết tâm, với một số lượng đông đảo, mỗi bước chân của quân dân
ta là một bước chân vững chãi, phá tan cả đá núi, đạp lên mọi chông gai để tiến lên chiến thắng
vẹn toàn.
Đặc biệt, khi hành quân giữa đêm khuya không thể thiếu hình ảnh của những chiếc xe
tăng, xe cơ giới, xe tải hùng dũng nối nhau ra trận:
"Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên."
"Nghìn đêm thăm thẳm sương dày" có lẽ là hình ảnh ẩn dụ cho những ngày tháng lầm
than, đen tối của dân tộc ta khi phải chịu ách thống trị của bọn thực dân. Những ngày tháng đó
như đêm trường tăm tối với lớp sương mù dày đặc. Nhưng giờ đây, ánh sáng Cách mạng đã
chiếu rọi như "đèn pha bật sáng", dẫn dắt dân tộc Việt Nam ta qua khỏi màn đêm tối tăm đó.
Hình ảnh so sánh "như ngày mai lên" cũng là hình ảnh so sánh hết sức tinh tế. Bởi đó là tinh thần
lạc quan, là niềm tin chiến thắng, là hi vọng về một ngày mai tươi sáng, độc lập tự do của dân tộc
ta. Đó là thành quả xứng đáng cho lòng quyết tâm, cho sự đoàn kết đồng lòng của cả dân tộc.
Bốn câu thơ còn lại của đoạn thơ đã bộc lộ niềm vui chiến thắng lan toả theo bước chân
đoàn quân mang sức mạnh của đoàn kết, ý chí, đồng lòng. Cuối cùng, sau tất cả những khó khăn,
vất vả, niềm tin tất thắng của dân tộc ta đã được khẳng định bằng chiến thắng vang dội khắp mọi
miền Tố quốc:
"Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."
Ở đây, điệp từ "vui" được lặp lại liên tiếp cùng các giới từ như "lên, về, từ" đã gợi lên
niềm vui sướng, hân hoan với những chiến thắng vang dội, dồn dập của dân tộc ta. Từ Việt Bắc,
tốc độ của chiến thắng bùng lên, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, niềm vui gọi niềm vui. Điểm
đáng chú ý trong đoạn thơ là việc liệt kê hàng loạt các địa danh mà không làm mất đi sự hấp dẫn
của đoạn thơ. Các địa danh của nước ta được liệt kê liên tiếp như để khẳng định những chiến
công, khẳng định niềm vui, tự hào của đất nước, con người Việt Nam. Đã có rất nhiều bài thơ
nhắc đến tên của những địa phương gắn liền với các sự kiện lịch sử. Chẳng hạn như bài "Tây"
Tiến của Quang Dũng, bài "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm,... Nhưng cách đưa địa danh
vào thơ của Tố Hữu lại có một nét riêng biệt. Nếu Quang Dũng chú ý tới những tên gợi ấn tượng
về sự xa xôi, hoang dã và xuất hiện với niềm thương nỗi nhớ; Hoàng Cầm chú ý tới những cái
tên gợi lên những sắc màu truyền thống của quê hương thì Tố Hữu lại quan tâm tới những địa
danh lừng lẫy chiến công mà tên gọi của chúng làm náo nức lòng người. Có thể nói ít khi thấy
những địa danh bình thường mà lại chan chứa chất sử, chất thơ và vang vọng trong lòng người
đến như thế.
Đoạn trích này có thể được coi là một trong những đoạn trích tiêu biểu nhất của Việt Bắc.
Tác giả đã rất thành công khi kết hợp tính sử thi, tính dân tộc, đặc biệt là tính trữ tình chính trị
nhuần nhuyễn, gây ấn tượng với người đọc, người nghe. Nhà thơ đã sử dụng thành công thể thơ
lục bát truyền thống kết hợp cùng ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, gần gũi, đậm sắc thái
dân gian. Bên cạnh đó, Tố Hữu cũng sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tài hoa như điệp từ, liệt
kê, so sánh, ẩn dụ tượng trưng,... cùng với nhịp điệu thơ uyển chuyển ngân vang, giọng điệu thay
đổi linh hoạt đã làm nổi bật lên không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta. Tố
Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn để chính
trị trong thơ Tố Hữu đã được chuyển hoá thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự
nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến.
Đoạn thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và
khúc trường ca về không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta qua tính trữ tình
chính trị sâu sắc. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình
cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc. Đoạn thơ không chỉ làm sống
dậy một thời kì hào hùng của dân tộc ở căn cứ Việt Bắc đang chuẩn bị cho một chiến công "lừng
lẫy năm châu chấn động địa cầu" mà còn đem lại cho ta niềm tin và tình yêu về quê hương, về
dân tộc và về con người Việt Nam.

You might also like