Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

LUYỆN ĐỀ “ĐẤT NƯỚC”

NGUYỄN KHOA ĐIỀM


Đề 1: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”.

Mở Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa
bài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và
dồn nén xúc cảm, mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất
nước, con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ
về đề tài đất nước, tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích
Đất Nước.Chín câu thơ đầu của đọan thơ :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……………………………………
Đất Nước có từ ngày đó”.
là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước
qua những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm sôi nổi và thiết tha.
Thân Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành năm 1971, tại chiến
bài: trường Bình Trị Thiên. Bản trường ca đã thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị
Phần miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc
khái Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường
quát đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu
chương V bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được
nhìn trên nhiều góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có
hai phần. Đoạn thơ trên là những câu đầu trong đoạn trích “Đất Nước”.
Phân Trước hết, ở ba câu thơ đầu của đọan thơ, tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh
tích thành của đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, ở câu thứ
ba nhất, nhà thơ đã viết :
câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,
thơ Câu thơ giản dị như một lời nói thường. Nhà thơ khẳng định: Đất Nước có từ
đầu trước khi ta “lớn lên”, có từ lâu lắm rồi.
Ở hai câu tiếp, nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của Đất Nước:
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Hai từ “có trong” và “bắt đầu” là nói về sự hình thành đất nước. Ở câu thơ thứ
nhất, từ “có trong” kết hợp cụm từ “ngày xửa ngày xưa”, cụm từ quen thuộc, mở đầu
những truyện cổ tích, gợi ra ý niệm đất nước có từ rất xa xưa. Đất nước có trước cả sự ra
đời của truyện cổ tích nên đất nước mới xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích “mẹ
thường hay kể”.
Trong câu thơ thứ hai, tác giả dùng từ “bắt đầu” kết hợp với hình ảnh “miếng
trầu bây giờ bà ăn” để nói về sự “bắt đầu” của đất nước. Vậy “Đất Nước bắt đầu với
miếng trầu bây giờ bà ăn” cũng có nghĩa là khi có tục ăn trầu thì cũng là khi hình thành
nên đất nước. Vậy tục ăn trầu có từ lúc nào? Hình ảnh “miếng trầu” gợi nhớ truyện cổ
tích “Sự tích trầu cau”, một câu chuyện cổ tích mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc về tình
người, cũng là để giải thích tục ăn trầu, một phong tục đẹp, mang đậm bản sắc văn hoá
của người Việt xưa và cả hôm nay.Theo câu chuyện này, tục ăn trầu có từ thời các vua
Hùng. Như vậy, “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” cũng có nghĩa là đất
nước có từ thời các vua Hùng.. Quả đúng như vậy, theo truyền thuyết, chính các vua
Hùng, những người con của lạc Long Quân và Âu Cơ đã dựng nên nước Văn Lang,
nước Việt cổ xưa. Trong thực tế đời sống, nhiều bằng chứng đã thể hiện điều này: Khi
thăm một đơn vị bộ đội ở khu vực Đền Hùng tỉnh Phú Thọ, Bác Hồ đã căn dặn các chiến
sĩ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Còn trong dân gian, từ lâu nhân dân ta đã truyền nhau: “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ
ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”.( Ca dao). Và nữa, hiện nay, ngày mùng 10 tháng 3
âm lịch là ngày Quốc Tổ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thật tinh tế và sâu sắc khi sử
dụng chất liệu này để diễn tả việc ra đời của Đất Nước.
Câu Câu thơ thứ tư, tác giả diễn tả về quá trình phát triển của đất nước:
thơ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
thứ tư Tác giả đã vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian trong hình ảnh “dân mình
biết trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ, hình ảnh thơ gợi nhớ đến truyền thuyết Thánh
Gióng đánh giặc Ân, truyền thuyết diễn tả sinh động, sâu sắc về truyền thống quật khởi
chống xâm lược của dân tộc ta từ thuở xưa. Khi đất nước bị kẻ thù xâm lược, đến cả một
đứa trẻ lên ba cũng xung trận giữ nước.Nhưng điều sâu sắc hơn có lẽ là, nhà thơ đã khái
quát được sự “lớn lên” của đất nước luôn gắn liền với quá trình đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của dân tộc ta, đó là một trang sử vinh quang nhưng cũng đầy máu và nước
mắt của biết bao thế hệ con dân nước Việt đã ngã xuống.
Quả thực như vậy, từ buổi bình minh của lịch sử cho đến khi nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm viết bản trường ca này, đất nước vẫn còn đang chìm trong khói lửa chiến
tranh, vẫn còn bị chia cắt, miền Nam còn đang bị dày xéo dưới gót giầy của bọn Mĩ xâm
lược. Chúng ta vô cùng tự hào và biết ơn những thế hệ cha anh đã hi sinh vì Đất Nước.
Năm Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống
câu văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc
thơ sống lao động cần cù vất vả của nhân dân nhưng giàu tình nghĩa:
còn “Tóc mẹ bới sau đầu
lại ................................................
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.
Tóc mẹ thì “bới sau đầu”, rồi dựng nhà nên mới có “cái kèo, cái cột”. Đó là
những phong tục trong sinh hoạt của người Việt xưa. Những điểm độc đáo trong những
câu thơ này là nhà thơ đã vận dụng tài tình chất liệu dân gian trong diễn tả sự việc. Sử
dụng câu ngạn ngữ “gừng cay muối mặn” và liên tưởng từ câu ca dao “Tay nâng chén
muối đĩa gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”, cùng với câu thành ngữ “một
nắng hai sương”, nhà thơ đã khái quát được cuộc sống của người dân nước Việt xưa:
nền Văn minh lúa nước với cuộc sống đầy vất vả, đắng cay. Nhưng từ trong gian nan,
cay đắng đã tạo nên một tình nghĩa gắn bó thuỷ chung, chặt bền, sâu nặng. Như vậy, quá
trình phát triển đất nước gắn liền với sự hình thành nên các phong tục, gắn liền với quá
trình lao động vất vả nhưng đầy tình nghĩa của con người.
Khép lại đoạn thơ là lời khẳng định “Đất Nước có từ ngày đó”. Liên kết với câu
thơ mở đầu, câu thơ này đã tạo nên một kết cấu chặt chẽ; cùng với những chất liệu đầy
sức thuyết phục, tác giả đã khẳng định : Đất Nước có từ lâu đời, một bề dày lịch sử, một
truyền thống văn hiến đáng tự hào.
Mở Suốt chín câu thơ, chúng ta thấy ấn tượng nổi bật nhất là hình tượng người phụ
rộng nữ: người mẹ kể chuyện, người bà ăn trầu, búi tóc của mẹ, ngay cả hành động“nâng đĩa
muối chén gừng” và hành động “xay giã dần sàng” cũng thấp thoáng hình ảnh người
phụ nữ. Hơn đâu hết, nước Việt Nam biểu tượng “Mẹ Việt Nam anh hùng” là chính xác.
Nghệ Về nghệ thuật, ở đoạn thơ này, mỗi câu đều bị chi phối bởi chủ đề Đất Nước
thuật và cả khổ thơ đều bị chi phối cho chủ đề Đất Nước. Do đó đoạn thơ mở đầu cũng có thể
được coi là những câu trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ”. Đặc biệt câu thơ
cuối “Đất Nước có từ ngày đó” đóng khép đoạn thơ là điệp khúc lặp lại ý mở đầu:
“Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi” khiến ta liên tưởng đến dòng thời gian hun hút mà Đất
Nước hiện diện. Cùng với các trạng từ: “bắt đầu, lớn lên” tuy không xác định thời gian
cụ thể nhưng cũng đã khẳng định quá trình hình thành và phát triển lâu đời của Đất
Nước. Câu thơ cuối cũng là câu chuyển tiếp từ đoạn đầu văn hóa sang đoạn thơ tiếp theo
cảm nhận Đất Nước về không gian và thời gian.
Nhận Nhìn chung, đoạn thơ đầu chín câu với 85 chữ nhưng không hề có một từ ngữ Hán
xét Việt nào, ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm, thân mật, đoạn thơ đã nói lên một cách
dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước. Cùng với mức độ đậm đặc của
các chất liệu được lấy từ ca dao, cổ tích, từ truyền thuyết,… đã tạo cho đoạn thơ một âm
hưởng đầy quyến rũ và cất lên “tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu Đất Nước và tự hào về
Đất Nước.
Kết Tóm lại, chín câu thơ đầu trong đoạn trích “Đất Nước” đã thể hiện cảm nghĩ mới
bài mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều
bình diện: lịch sử, địa lý, văn hóa,… Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh
tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ
trữ tình-chính trị sâu lắng, tha thiết. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, của ca dao
thần thoại của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp thêm một thành công cho thơ về đề tài
Đất Nước, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân, về Đất Nước trong thời kì chống
Mỹ. Các chất liệu của văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức
hấp dẫn cho đoạn trích.

ĐỀ 2: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Mở Đề tài Đất Nước bao trùm trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ
bài trong dòng chảy của văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát
hiện độc đáo và xúc động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong đó,
Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà trường ca “Mặt
đường khát vọng”, trong đó có chương V Đất Nước là điển hình xuất sắc. Đoạn trích là sự
cảm nhận, phát hiện Đất Nước trong một cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn cả bề rộng của
không gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn hóa. Đoạn trích sử
dụng sáng tạo các chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất thích hợp với việc thể hiện tư
tưởng “Đất Nước nhân dân” (Đất Nước của dân, do nhân dân làm ra). Nổi bật nhất là đoạn
thơ sau: “Đất là nơi anh đến trường...Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Thân - Khái quát ( như đề 1)
bài: - Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu
Phần chương V bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được
khái nhìn trên nhiều góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có hai
quát phần. Đoạn thơ trên gồm 13 câu thuộc phần đầu trong đoạn trích “Đất Nước”, thể hiện sự
cảm nhận của tác giả về đất nước nhìn từ góc độ địa lý, không gian, thời gian và lịch sử
dân tộc.
Phân Ở lần định nghĩa thứ nhất, cả Đất và Nước đều là không gian tồn tại rất thân
tích thuộc, rất riêng tư gắn bó của “anh” và “em”:
Bốn Đất là nơi anh đến trường
câu ............................................
thơ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm...
đầu Ở hai câu trên , tác giả đã chia từ Đất Nước ra thành hai thành tố để giải thích. Đất
mở ra cho anh một chân trời kiến thức. Nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Kết
hợp chất liệu thực tế, diễn tả giản dị, cách giải thích tỉ mỉ của nhà thơ khiến ta hình dung ra
được một cách cụ thể : Đất Nước là con đường, mái trường, dòng sông, bế nước…gắn bó
thân thuộc với đời sống học tập, sinh hoạt của con người.
Ở hai câu thơ dưới, nhà thơ vừa sử dụng chất liệu thực tế vừa vận dụng bài ca dao
“Khăn thương nhớ ai” để giải thích về Đất Nước. Đất Nước không hề xa lạ, là “nơi ta hò
hẹn”, là nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Cách nói này gợi liên tưởng
đến hình ảnh luỹ tre làng, giếng nước, gốc đa, nơi gái trai thường cùng nhau hò hẹn. Từ đó
thấy được, đất nước còn gắn bó với những tình cảm riêng tư, chứng kiến tình yêu lứa đôi với
bao niềm thương, nỗi nhớ.
Ở lần định nghĩa thứ hai, từ không gian gần gũi, Đất Nước trở nên xa xôi, mênh
mông như huyền ảo:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
Vẫn dùng lối chia từ để giải thích, nhưng ở hai câu thơ này, tác giả đã vận dụng sáng
Hai tạo câu hò Bình Trị Thiên để nói về Đất Nước. Cách diễn tả của tác giả gợi ra liên tưởng:
câu “Đất là con chim…hòn núi bạc”; “Nước là con cá…biển khơi”. Con chim phượng hoàng
thơ và cá ngư ông là hai con vật linh thiêng được nhân dân ta thờ phụng, nay đưa vào trong thơ
tiếp của Nguyễn Khoa Điềm rất gần gũi. Giữa người và thần dường như không hề có sự ngăn
cách, tất cả như hoà vào nhau bình đẳng. Một lần nữa, nhà thơ đã đưa Đất Nước từ của thần
linh trở thành Đất Nước của nhân dân.Từ đó có thể hiểu rằng: Đất nước là núi, là rừng, là
sông, là biển với tài nguyên phong phú.
Ở lần định nghĩa thứ ba, tác giả đưa ta trở về với cội nguồn của dân tộc, dòng
giống con người Việt Nam:
Đất là nơi Chim về
...................................
Bốn Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng...
câu Ở đoạn thơ này những hình tượng quen thuộc trong truyền thuyết như: chim rồng, Lạc
thơ Long Quân và Âu Cơ, bọc trứng cũng hiện về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hồi
tiếp tưởng ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con Lạc, cháu Hồng”, trai tài
gái sắc. Đất Nước ta là đất lành chim về, đất thiêng rồng ở, đồng bào ta là anh em một nhà.
Tất cả làm toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu
Cả vào tiềm thức từng người Việt. Hai tiếng “đồng bào” thân thương luôn đánh thức tinh thần
đoạn đoàn kết hàng ngàn năm của dân tộc.
thơ Cả đoạn thơ thể hiện một cách nhìn về đất nước cụ thể mà khái quát, bình dị mà lớn
lao: Đất nước được hình thành từ những gì bé nhỏ, gần gũi, riêng tư trong cuộc sống của mỗi
con người. Đất nước là sự hoà quyện không thể tách rời giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc.
Hình tượng đất nước được mở rộng ra ở bề rộng không gian, chiều dài thời gian và chiều sâu
văn hoá.
Nghệ Đọan thơ sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, với cấu trúc
thuật ngôn ngữ “ Đất là…, Nước là…Đất Nước là…”, nhà thơ đã định nghĩa bằng cách tư duy
“chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân
xác. Nếu tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là
không gian sinh tồn về mặt vật chất của con người cá thể. Nhưng nếu hợp thành một danh từ
thì “Đất Nước” lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một
cộng đồng người như anh em một nhà.
Kết Tóm lại, có thể nói, đọan thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước từ
bài chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của
không gian đất nước. Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm
nhận và định nghĩa về đất nước.Từ đó, đọan thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với
đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu sắc .

ĐỀ 3 : Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên


Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...

Mở
bài Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của
cuộc kháng chiến chống.Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và dồn
nén xúc cảm, mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con
người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề tài đất
nước, tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích Đất Nước.
Mười ba câu thơ của đọan thơ :
“Trong anh và em hôm nay
……………………………………
Làm nên Đất nước muôn đời”.
nhà thơ nói về ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Đất Nước qua những hình tượng
cụ thể, sinh động,gợi cảm sôi nổi và thiết tha.
Thân - Khái quát ( như đề 1)
bài: - Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu chương
Phần V bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên
khái nhiều góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có hai phần.
quát Đoạn thơ trên nằm trong phần đầu đoạn trích “Đất Nước”.
Phân Ấn tượng nhất là đoạn thơ trên không chỉ tiếp cận Đất Nước qua lịch sử, qua địa lý
tích và các mối quan hệ cá nhân-cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với
Hai hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của
câu cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm. Hai dòng đầu,
thơ nhà thơ phát hiện chân lý giản dị mà sâu sắc:
đầu Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.
Giọng thơ tâm tình với lối xưng hô “anh, em” tha thiết. Thì ra Đất Nước có trong
mỗi cá nhân, Đất Nước kết tinh trong mỗi con người “trong anh”, “trong em”, trong mỗi
chúng ta. Đất Nước không ở đâu xa lạ, không tồn tại khách thể mà kết tinh, hóa thân trong
cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn
là của Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và
vật chất của dân tộc, của nhân dân. Ý thơ này tương đồng với ý trong bài thơ Quê hương
của Giang Nam:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Vẻ đẹp Đất Nước còn được phát hiện thêm qua mối quan hệ giữa đất nước với
con người:
Khi hai đứa cầm tay
.....................................
Bốn Đất Nước vẹn tròn to lớn
câu “Cầm tay” là một biểu tượng của tình yêu thương thân thiết, của tình đoàn kết dân
thơ tộc. “Khi hai đứa cầm tay” tình yêu trong anh và em làm cho Đất Nước bỗng “hài hòa
tiếp nồng thắm” và khi hai ta hòa vào mọi người, cái riêng hòa vào cái chung cộng đồng thì
“Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Bằng việc kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”;
“vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn
từ (“Khi /Khi; Đất Nước /Đất Nước), nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp:
đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá
nhân với cộng đồng. Cần phải đặt vào hoàn cảnh sáng tác, ta mới hiểu được ý thơ này.
Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca : “Mặt đường khát vọng” trong thời kì chống Mĩ
( 1971). Hiện thực diễn ra là dân tộc bị chia rẽ, đất nước bị chia cắt. Từ đó, ta thấy được
các hình ảnh “hai đứa cầm tay”, “cầm tay mọi người”, đất nước “hài hoà nồng thắm”,
“vẹn tròn to lớn” là những hình ảnh ẩn dụ, gợi ra suy nghĩ : có tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc sẽ có một đất nước thống nhất vẹn toàn, vững mạnh. Như vậy, cá nhân không thể tách
rời cộng đồng. Đó là tinh thần đoàn kết của khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng, được
Ba nhân đôi thành một vòng Việt Nam rộng lớn và vĩnh cửu không gì có thể phá vỡ nổi. Rõ
câu ràng sự gắn bó số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại.
thơ Từ hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về Đất Nước ở tương
tiếp lai:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Có thể nói, ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào
tương lai tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến
những tháng ngày mơ mộng”. Đây cũng là cách nói ẩn dụ: “mai này” khi đất nước không
còn giặc ngoại xâm, không còn chiến tranh, thế hệ sau sẽ “gánh vác phần người đi trước để
lại”. “Tháng ngày mơ mộng” là tương lai đẹp và hạnh phúc, là những ngày thanh bình và
phát triển của Đất Nước. Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở
thành hiện thực ở ngày mai.
Nói về tương lai đất nước nhưng nhà thơ đã gợi ra trách nhiệm của thế hệ hôm nay:
phải thức tỉnh, phải đoàn kết để đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời, tác giả đặt niềm tin
vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đặt niềm tin vào thế hệ sau. Nhà
thơ tin rằng mai đây hoà bình, con cháu có điều kiện ra đi học hỏi, mang kiến thức về phục
Bốn vụ đất nước, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu, biến những ước mong
câu của người đi trước thành hiện thực.
thơ Từ suy nghĩ đó, nhà thơ lên tiếng kêu gọi ý thức bổn phận, trách nhiệm của mỗi
cuối cá nhân đối với Đất Nước: Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
..............................................
Làm nên Đất nước muôn đời
Đọc bốn câu thơ trên không khó nhận ra cảm xúc của nhà thơ đã trở thành cao trào,
giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm. “Em ơi em” là lời gọi thân tình, tha thiết. Điệp từ
“phải biết” là nhấn mạnh, khẳng định, là tiếng gọi khẩn thiết của nhà thơ. Vậy nhà thơ đã
nhắn nhủ điều gì ?
Điều nhắn nhủ đó là “Đất nước là máu xương của mình”. Sử dụng hình ảnh gợi
cảm, tác giả khẳng định đất nước là một phần cơ thể, tạo nên sự sống cho mỗi con người.
Điều đó thật đúng và đã được lịch sử chứng minh một cách sinh động. Khi đất nước bị
ngoại xâm thì dân tộc trở thành nô lệ, phải sống kiếp “ngựa trâu”. Chỉ khi đất nước có độc
lập, tự do, chúng ta mới được trở lại cuộc sống của con người. Không chỉ vậy, hình ảnh thơ
còn gợi ra một liên tưởng khác: đất nước là máu xương của tổ tiên, của bao thế hệ ông cha,
của dân tộc ngàn đời giành lại từ tay kẻ thù xâm lược. Vậy mới thấy được giá trị và sự
thiêng liêng của mỗi tấc đất, dòng sông trên đất nước này.
Lời thơ trữ tình “Em ơi em” nhỏ nhẹ, trìu mến đã bảo hành chất trữ tình chính luận
sâu sắc cho đoạn thơ. Nhà thơ khẳng định "Đất Nước là máu xương ", là sinh mệnh, là sự
sống của con người. Vận mệnh của Đất Nước chính là vận mệnh của chính bản thân mình,
số phận của cá nhân nằm trong vận mệnh của Đất Nước . Vì thế, ta cần “Phải biết gắn bó
và san sẻ. Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở”. Điệp ngữ “phải biết” vừa là mệnh
lệnh kêu gọi vừa là lời thúc giục từ trái tim. Từ "hóa thân" chính là sự tự nguyện cống
hiến trọn vẹn tinh thần và công sức, tuổi trẻ của mình vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc
để “Làm nên Đất Nước muôn đời”, một ý tưởng hào hùng mang tầm vóc sử thi gợi ta nhớ
đến bài thơ của Tố Hữu :
Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu.
Nhận Nhìn chung, Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải
xét nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam.
Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình
tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất
Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người tràn đầy nhiệt huyết tuổi
thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và có khát vọng về tương lai trường tồn
của Đất Nước.
Kết Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của
bài Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn
bó giữa mỗi người với đất nước.Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất
nước quê hương. Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ
trữ tình- chính luận của nhà thơ.

ĐỀ 4: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...

Mở Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của
bài cuộc kháng chiến chống.Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và dồn
nén xúc cảm, mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con
người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề tài đất
nước, tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích Đất Nước.
Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm
nên không gian địa lý - bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ :
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng phu,
…………………………………………………………………………
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Thân - Khái quát ( như đề 1)
bài: - Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu
Phần chương V bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được
khái nhìn trên nhiều góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có
quát hai phần. Đoạn thơ trên thuộc phần thứ hai trong đoạn trích “Đất Nước”.
Phân Hai câu thơ đầu : nói về tên gọi núi Vọng Phu và hòn Trống Mái :
tích “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu
Hai Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái “
câu “Hòn Vọng Phu “ là khối đá trên núi trông xa như người phụ nữ bồng con đứng
thơ ngóng đợi chồng. Trên khắp Đất Nước ta có nhiều dáng núi như vậy, nhân dân đã sáng tạo
đầu ra câu chuyện sự tích “Vọng Phu” để giải thích những thế núi kỳ diệu ấy. Còn hòn Trống
Mái là núi đá nhỏ trên biển Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hoá trông giống như cặp vợ chồng
đứng bên nhau, thuỷ chung mãi mãi giữa vùng trời nước mênh mang. Danh thắng này
được dắn với sự tích “ Đá Ông Chồng Bà Chồng”. Bằng trí tưởng tượng hồn nhiên, kì
diệu, dân gian đã dựng nên những huyền thoại để lý giải và đặt tên cho các danh lam trên
khắp mọi miền Tổ quốc, những cái tên thật giản dị mà chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa.
Gợi lại tích xưa, nhà thơ đã gợi cho ta thấm thía một chân lý về giá trị trường tồn của tình
người cao đẹp, những hòn Vọng Phu của cuộc đời đã hoá thành Vọng Phu Đất Nước,
những cặp vợ chồng tình nặng nghĩa sâu đã tạc hình mình vào thế núi dáng sông, tâm hồn
và tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam đã hoá thạch vĩnh viễn trong Đất Nước Việt
Nam, một Đất Nước nghĩa tình trước sau trọn vẹn thuỷ chung như một.
Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì
không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu.Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn
Trống Mái... không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận
thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp
của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.
Bốn câu thơ tiếp là những địa danh, thắng cảnh gắn với sự hình thành dân
tộc, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
........................................................................................
Bốn Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
câu Truyền thuyết Thánh Gióng là câu chuyện kể về chú bé làng Gióng lên ba tuổi đã
thơ ra trận đánh giặc. Một dân tộc mà từ trẻ thơ cũng thành anh hùng! Trước tình thế vận nước
tiếp nguy nan, cậu bé vươn vai bỗng chốc trở thành người khổng lồ, một mình xung trận đánh
tan giặc giữ, rồi cả người và ngựa cùng bay lên trời. Chứng tích của chiến công xưa còn
hằn dấu trên Đất Nước, đó là những bụi tre đằng ngà và hàng trăm ao đầm, cùng vết chân
ngựa suốt dọc dải đất từ Bắc Ninh tới Lạng Sơn. Hình ảnh vừa lý giải một hiện tượng địa
lý với bao “ao đầm” để lại vừa biểu trưng cho truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại
xâm. Sức mạnh của Thánh Gióng cũng chính là sức mạnh của nhân dân được khởi nguồn
từ tình yêu quê hương Đất Nước. .Và cả những con vật gần gũi với tâm linh, với cuộc sống
sinh hoạt đời thường của nhân dân ”Chín mươi chín con voi”, ”Những con rồng ” cũng
góp phần làm nên Đất Nước. Nhà thơ lấy chất liệu là truyền thuyết thời kì dựng nước để
viết lện một câu thơ đặc sắc: đứng từ trên núi Hi Cương- nơi có đền thờ các vua Hùng-
trông ra có những quả đồi thấp hơn như chín mươi chín con voi quây quần hướng về núi
Hi Cương. Ta không chỉ thấy ở đây một chứng tích đẹp đẽ về lịch sử dài lâu của đất nước
mà còn thấy biểu tượng chứng tích về sự thống nhất chung, cùng một ý chí, một tình
cảm...Nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận
nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng. Người học trò nghèo là biểu tượng cho khát
vọng hướng tới văn hoá. Lối sống trọng đạo học, trọng những người hiền tài đã có từ ngàn
đời ở dân ta. Hình ảnh núi Bút, non Nghiên trong đoạn thơ này còn gợi mở những liên
tưởng, những suy ngẫm sâu xa hơn, đó là lịch sử đất nước không chỉ là dân tộc quật
Hai cường, bất khuất, mà đó còn là một dân tộc đã xây dựng được một nền văn hoá lâu đời.
câu Đất nước có những tên gọi mộc mạc, thân thương :
thơ Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
tiếp Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Ngay cả ”con cóc, con gà”, những con vật gần gũi với con người cũng góp thành
các tên gọi cho đất nước. Câu thơ Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông
Trang, Bà Đen, Bà Điểm như một câu hỏi giữa dòng thơ, biểu hiện một sự trân trọng đặc
biệt công sức máu xương của những người không ai nhớ mặt đặt tên trong suốt chiều dài
lịch sử, ghi nhớ công lao của họ đã từng đi khai hoang mở đất, xây dựng làng xã trên đất
nước từ thuở hoang sơ.

Bốn
câu Sự đóng góp của nhân dân cho Đất Nước thật lớn lao, tự nguyện và vô cùng cao
cuối cả ! Từ đó, nhà thơ đã đi đến kết luận :
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
.................................................................
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Trên khắp Đất Nước ta, từ ruộng đồng đến gò bãi, từ Bắc chí Nam, từ quá khứ cho
tới hiện tại và vươn ra tương lai, mỗi ngọn núi con sông… đều là kết quả của sự hoá thân
kì diệu từ cuộc đời của mỗi người dân. Chính vì vậy, Đất Nước là sự hợp thành và hoà
quyện của những cuộc đời biết gắn bó, san sẻ và hoá thân của dáng hình xứ sở. Truyền
thống yêu nước, ý thức tự nguyện hiến dâng cho Đất Nước đã trở thành nột lối sống đẹp
của con người Việt Nam. Khi Nguyễn Khoa Điềm viết bản trường ca này, Đất Nước đang
bị chia cắt nhưng trong tư duy và cảm quan của nhà thơ, Đất Nước liền một dải. Những tên
núi, tên sông, những sự tích và truyền thuyết … đếu gắn bó máu thịt trên một cơ thể thống
nhất. Vừa thấy núi Vọng Phu ở Lạng Sơn hay Bình Định, đã thấy hòn Trống Mái ở Sầm
Sơn xứ Thanh, thấy dấu tích gót ngựa Thánh Gióng suốt dải đất từ Bắc Ninh tới Lạng Sơn,
chín mươi chín con voi ở đất Tổ Hùng Vương Phú Thọ lại thấy những con rồng xanh thẳm
ở Đồng Bằng Nam Bộ, những núi Bút, non Nghiên ở xứ Quảng cùng với con cóc, con gà
trên thắng cảnh Hạ Long, những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm là những địa
danh lịch sử ở ba miền Bắc - Trung - Nam trên Tổ quốc. Thi sĩ đã sử dụng phép liệt kê thật
tài tình, tạo ra sự nhấn mạnh vào vai trò sản sinh, lưu truyền, nuôi dưỡng và phát triển
những giá trị vật chất xen lẫn tinh thần nhằm tạo nên “Đất Nước”. Đất Nước thống nhất từ
trong máu thịt, từ trong ước vọng của con người Việt Nam như thế thì nào có thể chia sẻ
được ?
Câu thơ kết thúc bắt đầu với một từ cảm thán Ôi để biểu thị giọng thơ bồi hồi, xúc
động , trầm lắng và tự hào. Nhân dân từ bao đời nay đã hoá thân thành sông núi, núi sông
còn mãi muôn đời và nhân dân cũng sẽ trường tồn bất diệt.
Nghệ Với cấu trúc quy nạp đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang tính
thuật triết lý, dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét
đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước. Nên cuối cùng, nhà
thơ đã khẳng định: trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ
văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt.
Tác giả sử dụng thể thơ tự do góp phần thể hiện mạch cảm xúc tự nhiên. Giọng thơ tâm
tình, ngọt ngào bộc lộ niềm tự hào sâu xa, sự trân trọng của nhà thơ về vai trò của Nhân
dân. Đoạn thơ đã vận dung nhiều chất liệu văn hoá, văn học dân gian để diễn tả ý tưởng.
Tất cả góp phần làm sáng tỏ tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
Kết Tóm lại, đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát
bài vọng” của Nguyễn Khoa Điềm : chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự ;
ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc,
nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận
thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa
lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước .

ĐỀ 5: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm :

Em ơi em! Nhưng họ đã làm ra Đất Nước


Hãy nhìn rất xa Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Vào bốn ngàn năm Đất Nước Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp con cúi
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Cần cù làm lụng Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi
Khi có giặc người con trai ra trận chuyến di dân
Người con gái trở về nuôi cái cùng con Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh hái trái
Nhiều người đã trở thành anh hùng Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên


Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của
cuộc kháng chiến chống.Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và dồn
Mở bài nén xúc cảm, mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước,
con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề
tài đất nước, tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích Đất
Nước. Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong
việc làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước và giữ nước :
“ Em ơi em!
…………………………………………
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
Thân -Khái quát ( như đề 1)
bài: -Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu chương
Phần V bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn
khái trên nhiều góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có hai
quát phần. Đoạn thơ trên thuộc phần thứ hai trong đoạn trích “Đất Nước”.
Trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự góp phần của những con người bình
Phân dị, vô danh trong việc làm nên Đất Nước muôn đời. Nhà thơ chuyển sang giọng điệu tâm
tích tình với “em” mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta :
Ba “ Em ơi em
câu Hãy nhìn từ rất xa
thơ đầu Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
“Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là sự phân thân của
tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tỏ tình mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng
suy tư. Với lối tâm tình, trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của
dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, bốn nghìn năm hầu như không bao giờ
nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh
bình dị:
Sáu Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
câu ...................................................................
thơ tiếp Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha
anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và
em đều nhớ”. Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”,
nhưng tất cả, họ đều có công “ làm ra Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới
mẻ về đất nước của nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi
và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Những con người làm nên đất nước chính là
những con người góp phần bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị vô danh. Họ
là những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm thì
chính họ trở thành những người anh hùng cứu nước. Khi có giặc người con trai ra
trận/Người con gái trở về nuôi cái cùng con đã thể hiện sự chung sức, chung lòng để
đánh giặc cứu nước, và khi cần thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh . Nhà thơ đã khẳng
định truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam : sức mạnh đoàn kết, nhất
trí một lòng và có lòng căm thù gặc sâu sắc. Đó là truyền thống được phát huy từ đời này
sang đời khác. Chính bằng sự đóng góp một cách tự nhiên đó mà họ đã làm nên lịch sử-
truyền thống lâu đời của đất.

Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên
các bậc vua chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương,
6 câu mà biểu dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường trong việc xây
tiếp dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước:
Nhiều người đã trở thành anh hùng
...............................................
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Hình ảnh “người người lớp lớp”, “bốn nghìn lớp người” chính là biểu tượng cho
đông đảo tầng lớp nhân dân kế tiếp nhau. Họ đều mang những đức tính chung của con
người lao động như sự cần cù, chất phác và khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng tự nguyện
đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Người con trai ra trận, người con gái ở hậu phương
cũng góp sức lực, đảm đang nuôi con để người chồng yên lòng đánh giặc, nhưng khi cần
thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, đó là hành động tất yếu để bảo vệ mái nhà và bảo vệ
quê hương. Những con người anh hùng vô danh ấy có một cuộc sống thật giản dị, chết
bình tâm, cống hiến và hy sinh một cách tự nguyện, vô tư, thầm lặng cho Đất Nước.
Mặc dù không ai nhớ mặt đặt tên nhưng công lao của họ thật to lớn và đầy ý nghĩa,
chính họ đã làm ra Đất Nước. Bằng những câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng nhà thơ đã cho
ta thấy một sự khẳng định chắc chắn và chặt chẽ về tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân.

Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những
gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng
nói, tên xã tên làng”…cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp
7 câu phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật
cuối chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân
dân.Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù
để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình.
“ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
............................................................
Có nội thù thì vùng lên đánh bại ”.
Ở đây, nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng
biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo
vệ đất nước. Qua đoạn thơ, tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử, sức
mạnh lớn lao kì diệu của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong
sự nghiệp dựng nước, nhân dân là người kiến tạo và bảo tồn những giá trị văn hoá tinh
thần, truyền thống của dân tộc. Cách dùng từ họ: đại từ xưng hô số nhiều chỉ nhân dân-
những con người bé nhỏ, bình thường thuộc đám đông trong xã hội, chứ không phải là
các cá nhân anh hùng. Hệ thống các từ: giữ, truyền, gánh, đắp, be, dạy… được sử dụng
đan dày trong đoạn thơ ghi nhận sự đóng góp lớn lao của nhân dân đối với sự nghiệp
kiến quốc. Nhân dân, bằng những việc làm cụ thể, bé nhỏ, rất đỗi bình dị mà thiết thực, ý
nghĩa đã làm nên Đất Nước. Các hình ảnh gắn với chuỗi động từ này: hạt lúa, lửa,
giọng nói, tên xã, tên làng, đập, bờ… một mặt tiếp tục thể hiện sự khám phá mới mẻ,
độc đáo của nhà thơ về Đất Nước trong bề rộng không gian địa lí và tầng sâu của những
truyền thống văn hoá, tạo nên sự thống nhất trong cách thể hiện Đất Nước ở toàn bộ
chương V; mặt khác còn khẳng định nhân dân chính là lực lượng đông đảo vừa kiến tạo
bảo tồn, lưu giữ truyền thống giàu tình nghĩa, giàu tình yêu thương, cần cù lao động- đó
là những giá trị văn hoá tinh thần cao quý của Đất Nước. Nhân dân cũng chính là người
góp phần mở mang bờ cõi Đất Nước, khai sông, lấn biển qua mỗi chuyến di dân đầy
gian khổ. Trong cuộc đấu tranh giữ nước cũng chính là nhân dân chứ không ai khác viết
lên trang sử bi tráng. Nhân dân, những con người “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/
có nội thù thì vùng lên đánh bại” khẳng định đầy tự hào và sức mạnh lớn lao của nhân
dân chống thù trong, giặc ngoài. Chính nhân dân đã hun đúc nên truyền thống kiên
cường, bất khuất. Đó là truyền thống chứa đựng bản lĩnh của một dân tộc.
Nghệ Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…đọan thơ
thuật vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức
đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của
đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình.
Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học Việt
Nam.Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà
Kết bài thơ có tên tuổi…Nhưng, có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định
được vai trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và sâu
sắc.Đọan thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và tuổi
trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai.Từ đó, đọan thơ đã làm sống lại
truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta.
Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm
vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc . Những nhận thức mới mẻ về vai trò của
nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên
lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.

ĐỀ 6: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm:
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết " yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.

Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc
Mở bài kháng chiến chống.Mỹ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và dồn nén
xúc cảm, mang màu sắc chính luận, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con
người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề tài đất
nước, tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích Đất Nước.
Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của nhà
thơ trên cơ sở tư tưởng Đất nước của Nhân dân :
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
…………………………………………
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
Thân -Khái quát ( như đề 1)
bài: -Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm chín chương.“Đất nước” là phần đầu chương V
Phần bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên
khái nhiều góc độ với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân Dân”. Đoạn trích có hai phần.
quát Đoạn thơ trên thuộc phần thứ hai trong đoạn trích “Đất Nước”.
Có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức về
nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Để từ
Phân đó, nhà thơ khẳng định : Nhân dân chính là người – là chủ thể .làm nên đất nước.
tích Trước hết, câu thơ mở đầu đọan thơ “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
Hai chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên toàn đọan trích và cả Chương V
câu của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ
thơ đầu những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu
của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận.
Tác giả nói đến Đất Nước Nhân dân như để nhấn mạnh, khắc sâu nguồn gốc nhân
dân, cội nguồn của đất nước. Nhân dân – những con người giản dị, vô danh cũng chính là
những người sáng tạo ra các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của đất nước. Một trong
những giá trị văn hoá đặc sắc, kết tinh tư tưởng và tâm hồn của nhân dân , dân tộc chính là
văn hoá, văn học dân gian. Tác giả đã khái quát: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của
ca dao thần thoại – câu thơ có hai vế song song là một cách định nghĩa về đất nước thật
giản dị mà độc đáo: đất nước được tạo nên bởi sức mạnh và tình nghĩa của nhân dân, đất
nước là của nhân dân, muốn hiểu biết đất nước phải hiểu nhân dân và vẻ đẹp tâm hồn, tính
cách của nhân dân hơn đâu hết có thể tìm thấy trong văn hoá tinh thần của nhân dân : đó
là văn hoá dân gian, là truyện thần thoại, truyện cổ tích, là ca dao, dân ca…
Bốn Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại.Như vậy cũng chính là đã
câu sáng tạo ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca
thơ tiếp dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống
nhân dân :
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
...........................
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương ân tình của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa
xưa với những lời dân ca ngọt ngào“Yêu em từ thuở trong nôi, Em nằm em khóc, anh
ngồi anh ru”.
Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả
vật chất ngàn vàng. Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một
thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc :
“ Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của trong quá
trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng
ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc :
“ Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy , gặp đâu đánh què”
Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính
tinh cách, bản lĩnh và lẽ sống tâm hồn mình.
Vẻ đẹp thơ mộng của núi sông đất nước như được kết đọng trong những câu dân ca,
nhất là những câu ca sông nước :
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
4 câu .............................................
cuối Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Khi những dòng sông chảy qua quốc gia nào thì nó tô điểm cho vẻ đẹp quốc gia ấy
và mang dấu ấn văn hoá của dân cư của vùng miền đó với tên riêng. Đến Việt Nam thì
những con sông có vẻ đẹp riêng không chỉ ở dáng hình mà còn là không khí văn hoá, cụ
thể là tiếng hát trên sông, Xét trên bình diện hẹp, những người lao động trên sông hàng
bao đời nay đã sáng tạo ra những làn điệu dân ca làm cho dòng sông như cất lên tiếng hát.
Nhờ tiếng hát mà những dòng sông trở nên trữ tình hơn, vui hơn , có linh hồn hơn. Mỗi
dòng sông đều gắn liền với một làn điệu dân ca riêng: sông Hồng thì có điệu hò, sông
Hương thì có điệu Nam ai, Nam bình, sông Cửu Long thì có điệu lý...Mỗi dòng sông đều
có dáng vẻ riêng, có sắc màu riêng và có nét riêng về làn điệu dân ca nên mới gọi Gợi
trăm màu trên trăm dáng sông xuôi. Tính đa dạng của làn điệu dân ca trên sông nước đã
góp phần làm nên văn hoá sông nước phong phú cho đất nước ta.
Nhận Có thể nói, tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân
xét dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và
chung yêu thương. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành
truyền thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội
Châu …đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử. Đến các nhà thơ,
nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhận thức ấy đã được nâng lên
thành một tư tưởng có tầm cao mới.
Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận,
ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian…từ
Kết bài những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận
thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân. Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình
yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ
trong thời đaị hôm nay.

You might also like