Thuế Máu (Trích Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp) - Tá…

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 3

  

 » Học Tập » Lớp 8 » Lớp 8 - Chương trình mới


» Ngữ văn 8

Thuế máu (trích Bản án chế độ thực


dân Pháp) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn
lớp 8

VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh


lớp 8 về Tác giả tác phẩm Thuế máu (trích
Bản án chế độ thực dân Pháp) gồm đầy đủ
những nội dung chính quan trọng nhất của
văn bản Thuế máu (trích Bản án chế độ thực
dân Pháp) như sơ lược về tác giả, tác phẩm,
bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các
bạn theo dõi:

 1  4048 lượt xem

 Tải về

 Trang trước Trang sau 

Nội dung bài viết

I. Tác giả văn bản Thuế máu (trích Bản án chế độ thực
dân Pháp)
Bài giảng Ngữ Văn 8 Thuế máu
II. Nội dung văn bản Thuế máu (trích Bản án chế độ
thực dân Pháp)
III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Thuế máu (trích Bản án
chế độ thực dân Pháp)
1. Bố cục tác phẩm Thuế máu (trích Bản án chế độ
thực dân Pháp)
2. Tóm tắt tác phẩm Thuế máu (trích Bản án chế độ
thực dân Pháp)
 Xem thêm

Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân


Pháp) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 8

I. Tác giả văn bản Thuế máu (trích Bản án


chế độ thực dân Pháp)

- Hồ Chí Minh (1890- 1969), tên khai sinh là


Nguyễn Sinh Cung

- Quê quán: làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim


Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Quảng cáo

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

+ Là vị lãnh tụ kính yêu của nước Việt Nam

+ Sau 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác trở về


trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng
trong nước

+ Không chỉ có sự nghiệp cách mạng, Người


còn để lại một số di sản văn học quý giá, xứng
đáng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc.

Quảng cáo

- Phong cách sáng tác: Thơ Bác hay viết về


thiên nhiên đất nước với tình yêu tha thiết,
niềm tự hào.

Tóm tắt kiến thức Thuế máu - …

Bài giảng Ngữ Văn 8 Thuế máu

II. Nội dung văn bản Thuế máu (trích Bản


án chế độ thực dân Pháp)

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Thuế máu


(trích Bản án chế độ thực dân Pháp)

Quảng cáo

1. Bố cục tác phẩm Thuế máu (trích Bản án


chế độ thực dân Pháp)

Quảng cáo

- Phần 1 (Mục 1 trong SGK): Chiến tranh và


“người bản xứ”

- Phần 2 (Mục 2 trong SGK): Chế độ lính tình


nguyện

- Phần 3 (Mục 3 trong SGK): Kết quả của sự hi


sinh

2. Tóm tắt tác phẩm Thuế máu (trích Bản


án chế độ thực dân Pháp)

Tóm tắt tác phẩm Thuế máu (trích Bản án


chế độ thực dân Pháp) (mẫu 1)

Đoạn trích Thuế máu là lời tố cáo đanh thép


nhất đối với chính quyền Pháp thuộc, là đòn
tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân.
Tác phẩm là một bức tranh khốn cùng, tủi
nhục của người dân nô lệ, không chỉ riêng ở
nước ta mà còn ở các thuộc địa trên toàn thế
giới. Tố cáo chế độ cai trị cũng có nghĩa là
vạch ra con đường đấu tranh để giải phóng
đất nước, giành quyền độc lập. Nguyễn Ái
Quốc đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, chỉ ra cho các dân tộc bị nô lệ trên khắp
thế giới một chân lý “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do.”

Tóm tắt tác phẩm Thuế máu (trích Bản án


chế độ thực dân Pháp) (mẫu 2)

Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ


cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng
tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và
xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946.
Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có
tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố
cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa
thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội... đồng thời phản ánh
tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân
nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới.

Tóm tắt tác phẩm Thuế máu (trích Bản án


chế độ thực dân Pháp) (mẫu 3)

Hồ Chí Minh (1890- 1969) không chỉ có sự


nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di
sản văn học quý giá, xứng đáng là một nhà
văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Văn bản "Thuế
máu" được viết bằng tiếng Pháp vào khoảng
những năm 1921-1925, được xuất bản lần
đầu tiên vào năm 1925 tại Pháp, ở Việt Nam
vào năm 1946. Đoạn trích tố cáo bộ mặt giả
dối, thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp
trong việc biến người dân thuộc địa thành vật
hy sinh cho lợi ích của chúng trong những
cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc.

3. Phương thức biểu đạt

- Tác phẩm Thuế máu (trích Bản án chế độ


thực dân Pháp) sử dụng phương thức biểu
đạt: Nghị luận

4. Thể loại

- Tác phẩm Thuế máu (trích Bản án chế độ


thực dân Pháp) thuộc thể loại: Văn bản chính
luận

5. Giá trị nội dung tác phẩm Thuế máu


(trích Bản án chế độ thực dân Pháp)

Quảng cáo

Chính quyền thực dân đã biến người dân


nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi
sinh để phục vụ lợi ích của mình trong các
cuộc chiến tranh tàn khốc. Nguyễn Ái Quốc
đã vạch trần sự thực ấy bằng những tư liệu
phong phú, xác thực, bằng ngòi bút trào
phúng sắc sảo.

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Thuế máu


(trích Bản án chế độ thực dân Pháp)

- Nghệ thuật đả kích, châm biếm sắc sảo, tài


tình.

- Lựa chọn và xây dựng hình ảnh mang ý


nghĩa tố cáo.

- Giọng điệu trào phúng đặc sắc.

- Ngôn từ mang màu sắc châm biếm.

- Thủ pháp tương phản, đối lập.

IV. Dàn ý tác phẩm Thuế máu (trích Bản án


chế độ thực dân Pháp)

I. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả: Hồ Chí Minh là


một vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, bên cạnh
đó Người còn là một nhà văn xuất sắc của
nền văn học nước nhà.

- Và nét về tác phẩm: Thuế máu chính là một


lời tố cáo, lên án thực dân phong kiến tàn ác
và cảm thương sâu sắc cho những người bản
xứ phải chịu cảnh nô lệ, bóc lột

II. Thân bài

1. Chiến tranh và người bản xứ

- Xoáy sâu và sự đối lập giữa thời kì: Trước


chiến tranh và sau chiến tranh Làm nổi bật,
tố cáo thủ đoạnlừa bịp của thực dân Pháp

+ Trước chiến tranh:vdân bản địa bị coi


khinh, chà đạp, đối xử như súc vật, ngu si,
bẩn thỉu…

+ Khi chiến tranh vừa mới xảy ra: Các nhà


cầm quyền bắt đầu ngọt ngào, âu yếm, tâng
bốc người dân thuộc địa lên tận mây xanh
phản ánh sự mâu thuẫn, vạch trần bộ mặt
thâm hiểm giả dối của bọn thực dân

+ Sự thật: người dân bản địa phải làm công


cụ đỡ đạn cho chúng, nộp thuế máu cho bọn
thực dân, xa vợ con, từ biệt quê hương để
dấn thân vào chiến trường

Từ ngữ miêu tả chân thực sự sục sôi căm


thù với dã tâm độc ác của bọn đế quốc xạo
trá, niềm thương cảm xót xa, đau đớn cho số
phận của người dân các nước thuộc địa

2. Chế độ lính tình nguyện

- Bọn đế quốc gọi là đi lính tình nguyện


nhưng thực ra là tóc nã, bắt ép săn đuổi đến
không còn đường thoát

- Chúng nghĩa ra hàng trăm cách để bắt nhân


dân thuộc địa phải đi lính hoặc xì tiền ra

Quảng cáo

- Những người đi lính bị đối xử một cách


thậm tệ, bọ bắt buộc, bị nhốt.

Những sự việc xác đáng đã vạch trần bộ


mặt giả dối, những hành động, thủ đoạn xấu
xa, tố cáo sự thảm khốc tới toàn thế giới

3. Kết quả của sự hi sinh

- Số phận bị thảm của những người lính thuộc


địa sau khi kết thúc chiến tranh:

+ Tưởng rằng khi trở về sẽ được thưởng


xứng đáng nhưng họ đột ngột bị chính quyền
ném đá lại là những người bẩn thỉu

+ Đối với những thương binh và gia đình sĩ


tử, chính quyền đền bù thật khéo léo và có lợi
bằng cách cung cấp cho họ môn bài bán lẻ
thuốc phiện

Văn bản thuế máu thể hiện sự phẫn nộ tột


cùng của tác giả cũng như sự thức tỉnh lương
tâm của những người tiến bộ trên toàn thế
giới

III. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật:


Văn bản là tiếng nói chung, tiếng nói của công
lí, là sự phẫn nộ của toàn dân tộc trước
những mưu trò bỉ ổi của thực dân phong kiến
với sự đồng cảm thương xót cho những lớp
người bị áp bức

V. Một số đề văn bài Thuế máu (trích Bản


án chế độ thực dân Pháp)

Đề bài: Cảm nghĩ về bài "Thuế máu" của Hồ


Chí Minh.

Cảm nghĩ về bài Thuế máu của Hồ Chí

Minh - mẫu 1

Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại, một


con người tiêu biểu cho lòng yêu nước, như
chính cái tên của Người. Tác phẩm “bản án
chế độ thực dân Pháp” được Người viết trong
thời gian hoạt động cách mạng tại Pháp là
một đòn chí mạng giáng vào chủ nghĩa thực
dân. Trong đó, phần I, “chiến tranh và người
bản xứ” ở chương “thuế máu”, đã vạch rõ bộ
mặt thật sự của quan cai trị Pháp với người
bản xứ

“Thuế Máu” là chương đầu tiên của tác phẩm.


Trong chương này, tác giả chủ yếu là nói lên
sự tàn bạo bất nhân của các quan cai trị cầm
quyền Pháp. Từ khi đặt ách cai trị lên đất
nước ta, thực dân Pháp đã đưa ra hàng trăm
thứ thuế ngặt nghèo để bóc lột dân Việt Nam.
Nhưng thứ thuế mà độc ác nhất, bất cứ quốc
gia bị đô hộ nào cũng lên án đó là “Thuế
Máu”, là phải trả thuế bằng máu, hay có nghĩa
là bắt buộc dân bản xứ phải đi lính, làm tiên
phong trong các trận đánh của nước Mẹ, chịu
chết thay cho các cấp chỉ huy, cho người
Pháp. Vì thế, dùng từ “Thuế Máu” để đặt tên
cho nhan đề của chương I, Nguyễn Ái Quốc
đã nêu bật lên sự dã man của thực dân Pháp
đối với đồng bào ta.

Trong phần “chiến tranh và người bàn xứ”, tác


giả đã khái quát lên được bản chất đểu giả
của bọn thực dân Pháp. Trước chiến tranh,
chúng chỉ xem người bản xứ chúng ta là
những tên An-nam-mít bẩn thỉu, chỉ biết làm
cu li, kéo xe tay và giỏi ăn đòn của các quan
cầm quyền. Ấy vậy mà khi chiến tranh xảy ra,
những người bản xứ lại được yêu quí, được
xem như những đứa “con yêu”, “bạn hiền”,
những người bình thường bỗng dưng trở
thành “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.
Nhưng thực chất thì chúng có yêu quí gì dân
ta đâu, chúng chỉ tìm mọi thủ đoạn lừa bịp,
xảo quyệt để bắt buộc dân ta đi lính. Và chắc
hẳn các bạn đã biết số phận của họ ra sao
rồi! Để trả giá cho những “vinh dự” ấy họ phải
rời bỏ quê hương của mình, đi làm bia đỡ đạn
cho lính của nước mẹ, được vào cung cấm
của vua Thổ, “lấy máu mình tưới những vòng
nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương
mình chạm nên những chiếc gậy của các ngày
thống chế”. Không những thế, họ còn được
xuống bảo vệ các loại thủy quái sau khi được
chứng kiến trò bắn ngư lôi. Chịu những cái
chết vô nghĩa, tàn khốc, bi thảm. Đó là cái giá
của người bản xứ phải trả cho cuộc sống nô
lệ, cho những người tự xưng là “khai phá văn
minh” đất nước họ. Nguyễn Ái Quốc đã dùng
những con số biết nói rất cụ thể, cho ta thấy
có rất nhiều người một đi không trở về: “tổng
cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt
chân lên đất Pháp, và trong số ấy, tám vạn
người không bao giờ còn trông thấy mặt trời
trên quê hương đất nước mình nữa.”

Khi viết tác phẩm, Người đã những thủ pháp


nghệ thuật đặc sắc, hàng loạt mĩ từ, có tác
dụng mỉa mai, châm biếm được sử dụng như:
“con yêu”, “bạn hiền”, “chiến tranh vui tươi”,
“lập tức”…, nhằm vạch trần bộ mặt xảo trá, lật
lọng của bọn thực dân Pháp. Chỉ ra rõ ràng
thái độ của bọn cai trị đã thay đổi mau chóng
như thế nào khi chiến tranh xảy ra với “Mẫu
quốc” và mục đích của chúng chỉ là muốn lợi
dụng xương máu của đồng bào ta mà thôi!
Không chỉ vậy, Người còn rất linh hoạt trong
việc kết hợp các phép đối lập, miêu tả, những
giọng văn chua cay, thêm phần bình luận
giúp người người đọc thấy rõ sự nham hiểm
của chế độ thực dân Pháp đối với người bản
xứ.

Cảm nghĩ về bài Thuế máu của Hồ Chí

Minh - mẫu 2

Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một


người cha già của dân tộc. Người là một nhà
cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt
Nam, một trong những người đặt nền móng
và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam.
Là một người tài hoa, có tài văn chương,
Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình,
dùng văn chương để làm vũ khí chiến đấu.
Nhưng tác phẩm đó đã để lại ấn tương sâu
sắc trong lòng người đọc và đánh những đon
mạnh vào bọn đế quốc tay sai. Trong số
những tác phẩm đó được bạn bè thế giới biết
đến nhiều phải kể đến tác phẩm “Thuế máu”.
Tác phẩm được người viết khi đang hoạt đông
cách mạng tại Pháp và là một đòn chí mạng
đối với bọn đế quốc thực dân. Tác phẩm đã
vạch rõ bộ mặt thật sự của quan cai trị Pháp
đối với người bản xứ, chính quyền thuộc địa
đã biến người dân thuộc địa thành vật hi sinh
để phục vụ lợi ích trong các cuộc chiến tranh
tàn khốc.

Tên tác phẩm là “Thuế máu” tạo lên cảm giác


của các cuộc chiến tranh các cuộc tàn sát
đẫm máu. Trong tác phẩm này đây chính là
máu của những người dân thuộc địa bị bọn
đế quốc thực dân, bị bọn tay sai áp bức bóc
lột đến tận sương tủy. Đồng thời nhan đề tác
phẩm cũng thể hiện thái độ tức giận, căm
phẫn của tác giả khi chứng kiến dân tộc mình
bị đối xử tàn nhẫn.

Quảng cáo
Trong đoạn đầu của tác phẩm tác giả đã so
sánh thái độ của quan cai trị thực dân đối với
người dân thuộc địa tại hai thời điểm trước
khi có chiến tranh và sau khi chiến tranh xảy
ra. Trước khi chiến tranh xảy thì bị bị coi là
giống người hạ đẳng, những người da đen
bẩn thỉu đây là những cái tên chúng gọi người
Việt Nam chúng ta một cách khinh miệt coi
thường khi đó họ chỉ là những nô lệ cho tầng
lớp thống trị bấy giờ. Bọn người cai trị luôn
cho rằng tộc người da trắng là tộc người cao
quý vì vậy chúng luôn cho rằng những tộc
người khác là thấp hèn và luôn tạo ra một
khoảng cách để phân biệt đối xử. Người dân
thuộc địa “giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe và ăn
đòn của quân cai trị nhà ta”Giong nói đầy mỉa
mai cho thấy thái độ khinh bỉ coi dân ta như
súc vậy của bọn thực dân Pháp. Khi chiến
tranh “vui tươi” xảy ra, chữ vui tươi được tác
giả sử dụng để châm biếm cuộc chiến tranh
thế giới thứ nhất các nước đế quốc tranh
giành quyền lợi. Khi đó số phận của người
dân thuộc địa được thay đổi đến không ngờ.
Họ được đề cao trọng vọng và được các quan
phụ mẫu, quan toàn quyền lớn bè coi là “con
yên” “bạn hiền”, thậm chí còn được đề bạt lân
chức danh “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.
Đối với chức danh đó đánh nhẽ ra họ phải
được nâng như nâng trứng hứng như hứng
hoa, nhưng thực chất cuộc sống của họ
không hề được nâng cao mà lạ ngược lại. Như
vậy đối với họ chức danh ấy vốn cũng chỉ là
hữu danh vô thực không có một chút đặc
quyền gì hết Với gọng điệu mỉa mai khi chỉ ra
sự tương phản đã châm biếm sự thâm độc
giả dối của chế độ thực dân.

Dưới ách áp bức đó của bọn thực dân, số


phận người dân thuộc địa rất bi thảm và đã
được nhà văn miêu tả hết sức cụ thể bằng
ngòi bút tài hoa của mình. Họ không được
hưởng tí nào về quyền lợi đã thế họ còn phải
đột ngột xa lìa vợ con, quê hương, phải làm
việc cật lực trong những kho thuốc súng ghê
tởm khạc ra từng tiếng phổi, họ phơi thây
trên các chiến trương châu Âu, xuống tận đáy
biển bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác
ở những vùng miền hoang vu ở Ban-căng, lấy
máu mình tưới những vòng nguyệt quế. Kết
quả là tám vạn người không bao giờ thấy mặt
trời trên quê hương mình nữa. Nghe đến đấy
la tự hỏi tại sao, bọn thực dân rốt cuộc có
quyền gì mà lại có thể quyết đinh sống chết
của hàng vạn người dân vô tội như thế?
Những người dân bản xứ rốt cuộc cũng chỉ là
vật hi sinh cho bạn cai trị thực dân. Đó chính
là kiếp khổ đau của thân phận những người
nô lệ. Tác giả đã vạch trần bộ mặt bỉ ổi của
chủ nghĩa thực dân phản ánh số phận thả m
thương của người dân thuộc địa.

Sau đó tác giả đã chỉ ra thủ đoạn mánh khóe


của những bọn thực dân. Bọn thực dân tiến
hành những cuộc lùng soát lớn trên toàn cõi
đông dương và đủ các ngón xoay sở tinh vi
nhất để đòi tiền. Chúng tìm đến những người
khỏe mạnh những người này có thân cô thế
cô chỉ chịu chết chứ không kêu cứu vào đâu
được. Còn đối với những con cái nhà giàu thì
họ ép cho một là đi lính hai là xì tiền ra. Đối
với những người bị bắt đi lính thì một là họ bỏ
trốn hai là tự làm cho mình nhiễm phải
những căn bệnh nặng để không phải đi bởi đi
lính đối với họ còn đáng sợ hơn cả bệnh tật.
Khi đó để giả thích cho vấn đè này thì giọng
điệu của chính phủ toàn quyền cũng rất bịp
bợm. Chúng dùng sự hứa hẹn để lừa phỉnh
người lính như ban phẩm hàm cho người
sống sót truy tặng cho người hi sinh hay dùng
những lời lẽ tán dương như “các bạn đã tấp
nập đầu quân đã không ngần ngại rời bỏ quê
hương”. Tất cả chỉ là những lời nói bịp bợm
lừa phỉnh khi mà thực tế chúng xích trói bắt
nhốt và đương nhiên bạo động nổ ra. Đây
chính là những lời lừa dối mị dân. Tác giả mỉa
mai những luận điện chua chát ấy bằng
những câu hỏi tu từ đầy sức thuyết phục
“Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi
lính như thế tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay
điều về tỉnh tốp thì trước khi bị đưa xuống
tàu bị nhốt trong một trường trung học ở Sài
Gòn có cả lính gác canh lưỡi lê tuốt trần đạn
lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở
Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn ở
Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa phải chăng là
những cuộc biểu tình của sốt sắng đầu quân
và không ngần ngại”. Bác đã lột trần bản chất
tham lam và bạo tàn của chúng đối với người
dân thuộc địa. Lập luận của Bác khiến cho
toàn quyền Đông Dương cứng họng không
thể trả lời.

Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa


trong các cuộc chiến tranh là vô cùng đau
thương được nhà văn miêu tả bằng những lời
lẽ đầy sắc cạnh “Khi đại bác đã ngấy thịt đen,
thịt vàng rồi thì những lời tuyên bố tình tứ
của ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im
lặng như cao phép lạ và cả người Nê-gô-rô
lẫn người An-nam-mit mặc nhiên trở lại giống
người bẩn thỉu” hay để ghi nhớ công lao của
người An nam chẳng phải người ta đã lột hết
quần áo của họ từ chiếc đồng hồ, bộ đồ mới
toanh mà họ bỏ tiền túi mua hay là những vật
kỉ niệm đủ thứ.. trước khi đưa họ đến Mác –
xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải
người ta đã giao cho họ bọn súc sinh kiểm
soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng
phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và
xếp họ như xép lợn dưới hầm tàu ẩm ướt
không giương nằm không ánh sáng thiếu
không khí đó sao?Về đến xứ sở chẳng phải họ
đã được một quan cai trị biết ơn đón chào
nông nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước
“Các anh đã bảo vệ tổ quốc. Bây giờ chúng tôi
không cần đến các anh nữa, cút đi!đó sao?”.
Như vây với lập luận phản bác mâu thuẫn
trào phúng câu hỏi tu từ điệp từ đã cho thấy
những hành động vô nhân đạo tráo trở tàn
nhẫn của bọn tay sai đối với nhân dân ta.
Chính quyền thực dân đối xử với những
người lính trở về như đối xử với súc vật với
người có tội chứ không phải là đối xử với
người có công đổ máu cho họ. Cách đối xử ấy
là tráo trở đê hèn của một nước luôn vỗ ngực
nói mình là mẫu quốc.

Quảng cáo

Với tư liệu phong phú xác thực giàu hình ảnh


giá trị biểu cảm giọng điệu đanh thép ngòi
bút trào phúng sắc sảo châm biếm mỉa mai
làm tác phẩm như một lời tố cáo đanh thép
nhất đối với chính quyền Pháp thuộc là đòn
tấn công quyết liệt đối với chủ nghĩa thực
dân. Đoạn trích cũng cho người đọc thấy
được bộ mặt tàn ác nhẫn tâm cuồng thú của
bọn thực dân khi dùng những người dân
thuộc địa vô tội làm vật hi sinh cho chúng
đồng thời cũng nói lên thân phận thảm hại nô
lệ của những người dân An Nam. Bên cạnh
đó tác phẩm cũng cho ta thấy tấm lòng
thương cảm của Bác đối với thân phận những
người dân và cũng khẳng định tài hoa khéo
léo trong việc hành văn của Bác.

Đề bài: Phân tích văn bản "Thuế máu" của

Hồ Chí Minh.

Phân tích văn bản Thuế máu của Hồ Chí

Minh - mẫu 1

Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái


Quốc là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác
của bọn chế độ thực dân đế quốc. Mở đầu là
chương: Thuế máu đầy uất hận. Thuế máu là
cái tên thật ý nghĩa! Thuế máu đã gợi lên
được tội ác của chính quyền thực dân và bao
hàm cả lòng căm phẫn, sự mỉa mai của tác
giả đối với tội ác đó.

Bọn thực dân đế quốc xâm lược và cai trị


thuộc địa đã gây ra nhiều tội ác đối với người
dân bản xứ. Nhưng có lẽ tội ác bóc lột Thuế
máu là tội đáng ghê tởm nhất. Song điều
đáng chú ý trong Bản án chế độ thực dân
Pháp là việc lợi dụng xương máu của người
dân thuộc địa được bọn đế quốc ngụy trang
bằng bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Hơn ai hết,
Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần được bộ mặt
tàn bạo và sự lừa bịp trơ tráo, bỉ ổi của
chúng.Ngay ở phần thứ nhất của chương, bộ
mặt thực của bọn thực dân đã hiện nguyên
hình.

Chiến tranh và người bản xứ. Chiến tranh có


liên quan gì đến người bản xứ? Cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) giữa các
nước đế quốc diễn ra ở chiến trường châu Âu
tưởng như chẳng có quan hệ gì với người dân
ở các xứ thuộc địa châu Á và châu Phi. Thế
nhưng nó lại có quan hệ rất mật thiết. Bởi
người dân thuộc địa bị sử dụng làm vật hi
sinh cho quyền lợi của bọn thực dân đế quốc
trong cuộc chiến tranh thảm khốc ấy. Để vạch
trần tội ác và sự lừa bịp của chính quyền thực
dân trong việc bóc lột thuế máu. Nguyễn Ái
Quốc đã so sánh thái độ của các quan cai trị ở
hai thời điểm: trước chiến tranh và khi cuộc
chiến tranh đã nổ ra.

Trước chiến tranh, người dân bản xứ được


xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử, đánh
đập như súc vật: Trước năm 1914 họ chỉ là
những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-
nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết
kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà
ta. Khi chiến tranh vừa bùng nổ, lập tức họ
được các quan cai trị tâng bốc, vỗ về, được
phong cho những danh hiệu cao quí ấy thế
mà khi cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ,
thì lập tức họ biến thành những đứa "con
yếu, những người "bạn hiền” của các quan cai
trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các
quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa.
Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được
phong cho cái danh hiệu tôi cao là “chiến sĩ
bảo vệ công lí và tự do”.

Đưa ra hai bức tranh tương phản về hai thái


độ của các quan cai trị thực dân ở hai thời
điểm khác nhau, Nguyễn Ái Quốc đã vạch
trần được thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính
quyền thực dân để bắt đầu biến người dân
thuộc địa thành vật hi sinh. Và đây, sự bóc lột
thuế máu của chúng thật tàn bạo: bảy mươi
vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp và
trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn
trông thấy mặt trời trên quế hương đất nước
mình nữa.

Để có được con số 70 vạn người, chính quyền


thực dân cai trị thuộc địa đã sử dụng các thủ
đoạn và mánh khóe bắt lính. Thủ đoạn và
mánh khóe ấy được Nguyễn Ái Quốc gọi bằng
một cái tên đầy mỉa mai: chế độ lính tình
nguyện! Để che giấu sự thật, bọn cầm quyền
thực dân đã dùng những lời lẽ bịp bợm: Các
bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không
ngần ngại rời bỏ quế hương biết bao trìu mến
để người thì hiến dâng xương máu của mình
như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao
động của mình như lính thợ.

Chính quyền thực dân rêu rao về lòng tự


nguyện đầu quân của người dân thuộc địa
trong khi chính chúng đang tiến hành những
thủ đoạn và mánh khóe bắt lính hết sức trơ
tráo và bỉ ổi. Từ nông thôn đến thành thị, từ
miền xuôi đến miền ngược, khắp các hang
cùng ngỗ hẻm ở các xứ thuộc địa, những cuộc
lùng sục, vây bắt và cưỡng bức đi lính đã diễn
ra: thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe
mạnh và nghèo khổ. Không ít người đã tìm
cách thoát thân. Vì thế, bọn thực dân đã
không ngần ngại trói, xích, nhốt họ như người
ta nhốt súc vật, kể cả việc sẵn sàng trấn áp:
Tốp thì bị xích tay điều về tỉnh lị, tốp thì trước
khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường học
ở Sài Gòn có lính Pháp canh gác, có lưỡi lê
tuốt trần, đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu
tình đổ máu ở Cao Miên…

Dã man hơn, đối với các thanh niên Xê-nê-


gan không chịu đi lính chết thay cho bọn đế
quốc, một tên thực dân Pháp bắt thân nhân
họ ra hành hạ. Hắn bắt ông già, bà già, đàn
bà có thai, con gái, đem lột trần truồng, hai
tay bị trói ghì. Những nạn nhân bị bắt ấy phải
chạy qua những thôn xã dưới làn roi vọt. Ghê
tởm thay những cảnh dã man của nền văn
minh Pháp! Ghê tởm hơn nữa là trong khi bắt
lính, các quan cai trị thực dân còn lợi dụng để
xoay xở kiếm tiền: sau đó chúng mới đòi đến
con cái các nhà giàu. Những ai cứng cổ thì
chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ
hoặc gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ
lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy
một trong hai con đường: đi lính tình nguyện,
hoặc xì tiền ra.

Sang phần III của chương: Kết quả của sự hi


sinh một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại cho
người đọc thấy được bộ mặt trơ tráo tàn
nhẫn của chính quyền thực dân được bộc lộ
một cách trắng trợn: Khi đại bác đã ngấy thịt
đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình
tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng
im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô
lẫn người An-nam-mít mặc nhiên trở lợi giống
người bẩn thỉu.

Nguyễn Ái Quốc kể tiếp: Để ghi nhớ công lao


người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột
hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ
quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua,
đến các vật kỷ niệm đủ thứ… trước khi đưa họ
đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao?
Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc
sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao?
Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho
lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu
ẩm ướt, không giường năm, không ánh sáng,
thiếu không khí đó sao? về đến xứ sở, chẳng
phải họ đã được một quan cai trị thực dân
biết ơn đón tiếp đón chào nồng nhiệt bằng
một bài diễn văn yêu nước: Các anh đã bảo
vệ Tổ quốc, thê là tốt. Bây giờ, chúng tôi
không cần đến các anh nữa, cút đi đó sao?.

Như vậy chiến tranh kết thúc thì cũng là lúc


bọn thực dân đế quốc ngang nhiên và công
khai lộ rõ bộ mặt tráo trở, vô nhân đạo.
Người dân thuộc địa lại trở lại với giống người
hèn hạ sau khi bị bóc lột kiệt cùng thuế máu.
Đó là diều dễ hiểu bởi vì làm gì có chính nghĩa
và công lí ở bọn thực dân! Dã man nữa chính
quyền thực dân còn: không ngần ngại đầu
độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi bằng
cách cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho
thương binh người Pháp và vợ con tử sĩ người
Pháp.

Quảng cáo

Ba phần của chương Thuế máu được bố cục


theo trình tự thời gian: trước, trong, và sau
khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân, giả
nghĩa trơ trên, bản chất tàn bạo của chính
quyền thực dân xung quanh việc bóc lột thuế
máu được phơi bày toàn diện và triệt để.

Thuế máu là chương mở đầu đầy mãnh liệt và


khủng khiếp như hồi I vở kịch Hăm-Lét bỗng
vua cha xuất hiện giữa đêm khuya, vô cùng
giận dữ và kêu gọi báo thù.

Phân tích văn bản Thuế máu của Hồ Chí

Minh - mẫu 2

>

Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la


Colonisation Française) là tác phẩm của Hồ
Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng
những năm 1921-1925, đăng tải lần đầu tiên
tại Paris trên Báo Imprékor của Quốc tế Cộng
sản.

Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục,


với cách thành văn ngắn gọn, súc tích, cùng
với những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác
phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ
đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải đóng
“thuế máu” cho chính quốc… để “phơi thây
trên chính trường Châu Âu”, đày đọa phụ nữ,
trẻ em “thuộc địa”; các thống sứ, quan lại
thực dân độc ác như một bầy thú dữ, v.v…
Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ
khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con
người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các
dân tộc bị áp bức đi theo con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác-Lm
ênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt
Nam.

Năm 1946, ở Việt Nam, tác phẩm này đã được


xuất bản bằng tiếng Pháp tại Hà Nội. Năm
1960, Nhà xuất bản Sự Thật lần đầu tiên đã
xuất bản bằng tiếng Việt. Đoạn trích Thuế
máu Thuộc chương I Bản án chế độ thực dân
Pháp. Ở chương này tác giả tập trung vạch
trần bộ mặt kẻ thù, nói lên nỗi nhục khổ của
những người dân bị áp bức, kêu gọi nhân dân
thuộc địa đoàn kết đấu tranh.

Đoạn trích gây ấn tượng với người đọc ngay


từ nhan đề của nó: Thuế máu. Trong thực tế
không có thuế nào gọi là "thuế máu", chỉ có
thuế thân, thuế gạo, thuế muối,… Thuế máu
là cách đặt tên của tác giả nhằm phản ánh
một thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn của chế độ
thực dân, ở các nước thuộc địa: biến người
dân nơi đây thành vật hi sinh trong các cuộc
chiến tranh phi nghĩa. Qua nhan đề này, nhà
văn muốn phản ánh số phận bi thảm của
người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ
căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính
quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải
gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song
có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã
man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và
tính mạng của họ.

Trình tự và cách đặt tên các phần trong


chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các
chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc
địa đến tận xương tủy của chính quyền thực
dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ
đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của
sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như
thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày
bản chất "ăn thịt người" của bè lũ thực dân.

Phần một: Chiến tranh và người bản xứ. Ở


phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái
độ của các quan cai trị thực dân đối với người
dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy
ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng
nổ. Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị
bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ
đẳng, ngang hàng với súc vật: … họ chỉ là
những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-
nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết
kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà
ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa
bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người
tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến
thành những đứa "con yêu", những người
"bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân
hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền
lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ
(những người bản xứ) được phong cho cái
danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lí và
tự do".

Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn


toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi
của chính quyền thực dân trong việc biến dân
thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp
bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái
Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả
kích sâu cay. Số phận của người dân bản xứ
trong các cuộc chiến tranh được Nguyễn Ái
Quốc khắc họa thật thê thảm: Họ phải xa lìa
vợ con, xuống tận đáy biển bảo vệ Tổ quốc
cho các loài thủy quái, bỏ xác tại miền hoang
vu. Ra chiến trường là thế, còn ở hậu phương,
người dân thuộc địa cũng không kém phần
thê thảm. Hầu hết họ phải làm kiệt sức trong
xưởng thuốc, hít phải những luồng khí độc,
"khạc ra từng miếng phổi".

Và tác giả đã tổng kết lại về số phận của


người dân thuộc địa trong các cuộc chiến
tranh phi nghĩa bằng một con số cụ thể:
"Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã
đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám
vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt
trời trên quê hương đất nước mình nữa". Tác
giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số
người bản xứ đã bỏ mình trôn đất Pháp trong
mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng
cộng cố bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt
chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn
người không bao giờ còn trông thấy mặt trời
trên quê hương đất nước mình nữa.

Phần hai: Chế độ lính tình nguyện.

Ở phần này, tác giả vạch trần các mánh khóe


và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. Bọn
chúng tiến hành những cuộc lùng ráp vây bắt,
cưỡng bức người ta đi lính; lợi dụng chuyện
bắt lính mà doạ nạt, xoay xở kiến tiền đối với
những nhà giàu; sẵn sàng trói, xích, nhốt
người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp
dã man nếu như có chống đối. Trong khi thực
hiện những hành vi bỉ ổi trên, chính quyền
thực dân vẫn không quên rêu rao về lòng tự
nguyện đầu quân của người dân thuộc địa.
Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền
Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ
trẽn, họ đã tuyên bố rằng: "Các bạn ấy đã tấp
nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại
rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người
thì hiến xương máu của mình như lính khố
đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của
mình như lính thợ". Có thật là người dân
thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu
cho "nước mẹ Đại Pháp" như lời lẽ bịp bợm
của bọn cầm quyền hay không? Tác giả kể
rằng:

Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương


máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền.
Tác phẩm đã kể ra các sự thực: người dân
thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra.
Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình
nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi
phải đi lính. Qua đây chúng ta thấy thủ đoạn
bắt lính của bọn thực dân Pháp thật bỉ ổi.
Thực chất là dựng vũ lực bắt lính chứ không
hề có “tình nguyện” nào cả. Bằng giọng điệu
giễu cợt cùng những câu hỏi đanh thép,
những dẫn chứng hùng hồn, tác giả đó vạch
trần bản chất mánh khóe, vụ lợi, mị dân của
thực dân Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã nhắc lại
câu chuyện thực tế bằng giọng điệu giễu cợt
các lời tuyên bố trịnh trọng của bọn thực dân
cầm quyền rồi phản bác lại bằng những thực
tế hùng hồn.Tiếng cười chua chát, tiếng cười
nước mắt. Đằng sau là nỗi đau của tác giả.
Không một lúc nào Người quên được nỗi đau
của dân tộc mình, nhân dân mình dưới ách
cai trị của bọn thực dân. Vậy thì, kết quả của
sự hi sinh của người dân thuộc địa cho các
cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy như thế nào?
Bọn thực dân đã đối xử như thế nào đối với
những người đã ra chiến trường thay họ? Đó
chính là nội dung của phần ba của văn bản:
Kết quả của sự hi sinh.

Quảng cáo

Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa


trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của
chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột
xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng
những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố
cáo rất lớn: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt
vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của
các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt
như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn
người "An nam-mít" mặc nhiên trở lại "giống
người bẩn thỉu". Đối với người dân thuộc địa,
sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ
bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính
nghĩa và công lí. Cách đối xử của chính quyền
thực dân với họ sau chiến tranh – sau khi đã
bóc lột hết "thuế máu" thật tàn nhẫn, độc ác.
Ở đây, nhà văn đã vạch trần được bộ mặt
tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân
cùng với bộ mặt trắng trợn khi tước đoạt hết
của cải mà người lính thuộc địa mau sắm
được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ
như đối với súc vật. Người dân thuộc địa lại
trở về vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bóc lột
trắng trợn thuế máu.

Nhà văn đã sử dụng hàng loạt câu nghi vấn


để lột trần được bộ mặt vô nhân đạo , tráo
trở, tàn nhẫn và bản chất lừa dối, nham hiểm,
độc ác, phi nhân tính của thực dân Pháp. Ba
phần của chương Thuế máu được sắp xếp
theo trình tự thời gian trước, trong và sau khi
xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
1914 – 1918. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả
nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính
quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột
xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để.
Mặt khác, thân phận thảm thương của người
dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản
ánh một cách chân thực và sinh động.

Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của


ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện chủ yếu
qua hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu,
những từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm
và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời
của chủ nghĩa thực dân. Ngôn ngữ tác phẩm
mang màu sắc trào phúng rất rõ nét. Những
từ mỉa mai như; "con yêu", "chiến sĩ bảo vệ
công lí và tự do", "lấy máu mình tưới những
vòng nguyệt quế", "lấy xương mình chạm nên
những chiếc gậy của các ngài thống chế", "vật
liệu biết nói…" vừa phơi bày bản chất dã man
của chủ nghĩa thực dân, vừa tô đậm số phận
bi thảm của người dân thuộc địa.

Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật


gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại
những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà
chính quyền thực dân khoác cho người lính
thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm
sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các câu
hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời
lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Các câu
chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều
lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng
tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả còn
dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính
đối tượng bị đả kích. Tác giả sử dụng có hiệu
quả biện pháp nghệ thuật kể để nêu ra
những câu chuyện, những bằng chứng rõ
ràng. Các câu chuyện, các sự kiện, con số
được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên
không thể chối cãi. Để tăng tính xác thực, khi
cần còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời
lẽ của chính đối tượng đả kích.

Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu


cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa làm cho
văn bản nghị luận này trở nên sinh động, hấp
dẫn. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu
chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái
độ yêu ghét rõ ràng của tác giả: căm phẫn
chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương
cảm cho thân phận người dân nô lệ của các
nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương máu,
tính mạng.

Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ


thái độ đê mạt, hèn hạ của đám quan cai trị
thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai
thời điểm trước chiến tranh và sau chiến
tranh xảy ra, đồng thời đồng cảm sâu sắc với
số phận bi thảm của những người dân thuộc
địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác


phẩm Ngữ văn 8 hay, chi tiết khác:

Quê hương

Khi con tu hú

Tức cảnh Pác Bó

Ngắm trăng (Vọng nguyệt)

Đi đường (Tẩu lộ)

Quảng cáo

Tham khảo các loạt bài Ngữ văn 8 khác:

Văn mẫu lớp 8 (Sách mới) | Kết nối tri thức,


Cánh diều, Chân trời sáng tạo

Soạn văn 8 (ngắn nhất) | Để học tốt Ngữ văn


lớp 8 (sách mới)

Soạn văn 8 (hay nhất) | Để học tốt Ngữ văn lớp


8 (sách mới)

Tóm tắt tác phẩm Ngữ văn 8 (Sách mới) | Kết


nối tri thức, Cánh diều, Chân trời sáng tạo

Bài viết cùng lớp mới nhất

Hãy cho biết có thể hay không thể phân chia


các thế hệ máy tính điện tử căn cứ vào mức
tiêu thụ điện năng

Hãy cho biết có thể hay không thể phân chia


các thế hệ máy tính điện tử căn cứ vào kích
thước. Vì sao

Trả lời các câu hỏi sau: 1) Máy tính cá nhân đầu
tiên thuộc thế hệ nào

Hãy ghép cặp một dòng ở cột trái và một dòng


ở cột phải đúng theo đặc điểm công nghệ phần
cứng

Hãy chọn đáp án đúng. Lịch sử phát triển của


máy tính điện tử gồm: 1) Hai thế hệ: máy tính
cơ học và máy tính

Trả lời các câu hỏi sau: 1) Nguyên lí Von


Neumann là gì? 2) Nguyên lí Von Neuman có
vai trò gì đối với máy tính

Nội dung bài học có viết "máy tính cơ học


trước đó đã được thiết kế lại để sử dụng mô tơ
điện

Hãy chọn câu đúng. Máy tính đầu tiên của loài
người là: 1) Máy tính điện tử 2) Máy tính cơ học

Sách bài tập Tin học 8 Bài 1 (Cánh diều): Vài nét
lịch sử phát triển máy tính

Sách bài tập Tin học 8 Chủ đề A (Cánh diều):


Máy tính và cộng đồng

Xem thêm »

 1  4048 lượt xem

 Tải về

 Trang trước Trang sau 

0 bình luận

Sắp xếp theo Mới nhất

Viết bình luận...

Plugin bình luận trên Facebook

Xem thêm các chương trình khác:

Giải sgk Hóa học 8

Giải sbt Hóa học 8

Giải vở bài tập Hóa học 8

Lý thuyết Hóa học 8

Các dạng bài tập Hóa học lớp 8

Giải sgk Vật Lí 8

Giải sbt Vật Lí 8

Lý thuyết Vật Lí 8

Giải vở bài tập Vật lí 8

Giải SGK Toán 8 | Giải bài tập Toán 8 Học k…


1, Học kì 2 (sách mới)
Giải sbt Toán 8 (sách mới) | Sách bài tập…
Toán 8
Bài tập Ôn luyện Toán lớp 8

Các dạng bài tập Toán lớp 8

Lý thuyết Toán lớp 8 (sách mới) | Kiến thứ…


trọng tâm Toán 8
Giáo án Toán lớp 8 mới nhất

Bài tập Toán lớp 8 mới nhất

Chuyên đề Toán lớp 8 mới nhất

Giải sgk Tiếng Anh 8 (sách mới) | Giải bài…


tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2
Giải sgk Tiếng Anh 8 | Giải bài tập Tiếng A…
8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
Giải sbt Tiếng Anh 8 (sách mới) | Sách bài…
tập Tiếng Anh 8
Giải sbt Tiếng Anh 8 (thí điểm)

Giải sgk Tin học 8 | Giải bài tập Tin học 8…


Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
Giải sgk Lịch Sử 8 | Giải bài tập Lịch sử 8…
Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
Lý thuyết Lịch sử 8 (sách mới) | Kiến thức…
trọng tâm Lịch sử 8
Giải vở bài tập Lịch sử 8

Giải Tập bản đồ Lịch sử 8

Đề thi Lịch Sử 8

Giải vở bài tập Sinh học 8

Giải sgk Sinh học 8

Lý thuyết Sinh học 8

Giải sgk Giáo dục công dân 8 | Giải bài tập…


Giáo dục công dân 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách
Lý thuyết Giáo dục công dân 8 (sách mới) |…
mới)
Kiến thức trọng tâm GDCD 8
Lý thuyết Địa Lí 8 (sách mới) | Kiến thức…
trọng tâm Địa Lí 8
Giải sgk Địa Lí 8 | Giải bài tập Địa Lí 8 Học …
1, Học kì 2 (sách mới)
Giải Tập bản đồ Địa Lí 8

Đề thi Địa lí 8

Quảng cáo

 

Giới thiệu

Về chúng tôi

Điều khoản sử dụng

Chính sách bảo mật

May đồng phục

Liên kết

Câu hỏi trắc nghiệm

Bài viết mới nhất

Thi Online

Hỏi đáp bài tập

Khóa học bài giảng

Tài liệu tham khảo

Tin tức tổng hợp

Tuyển dụng - Việc làm

Kết nối

Facebook

Youtube

Bài viết mới nhất

Tổng hợp kiến thức Tuyển sinh

Lớp 12 Lớp 11

Lớp 10 Lớp 9

Lớp 8 Lớp 7

Lớp 6 Lớp 5

Lớp 4 Lớp 3

Lớp 2 Lớp 1

Câu hỏi mới nhất

Thi thử THPT Quốc gia Đánh giá năng lực

Lớp 12 Lớp 11

Lớp 10 Lớp 9

Lớp 8 Lớp 7

Lớp 6 Lớp 5

Lớp 4 Lớp 3

Lớp 2 Lớp 1
 
© 2021 VietJack. All Rights Reserved

You might also like