Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 30

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

HỌC KỲ 222/ NĂM HỌC 2022-2023

LỚP: L03
NHÓM: 6
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHAN DUY ANH

Tp. Hồ Chí Minh – 2023


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

CHỦ ĐỀ 4: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC

DÂN CHỦ VÀO XÂY DỰNG Ý THỨC DÂN CHỦ CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG. HCM TRONG GIAI


ĐOẠN HIỆN NAY

Tên MSSV Ghi chú


1. Nguyễn Hồng Hải 1911101 Nhóm trưởng

2. Nguyễn Võ Tấn Hải 2013076

3. Nguyễn Võ Hồng Mỹ Hiền 2010260


4. Tạ Phú Hiển 1911178
5. Võ Sỹ Hiệp 2011212

Tp. Hồ Chí Minh - 2023


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 4
2. Bố cục tổng quát của đề tài ............................................................................ 6
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ ....... 7
1.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước .................................................................. 8
1.2. Nhà nước của Nhân dân ............................................................................ 10
1.3. Nhà nước do nhân dân. .............................................................................. 11
1.4. Nhà nước vì nhân dân ................................................................................ 12
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG Ý THỨC DÂN CHỦ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG. HCM ............................................. 14
2.1. Mặt tích cực ............................................................................................... 14
2.2. Mặt hạn chế ............................................................................................... 15
2.3. Nguyên nhân .............................................................................................. 16
2.3.1 Nguyên nhân của mặt tích cực ............................................................ 16
2.3.2 Nguyên nhân của mặt hạn chế ............................................................. 17
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG Ý THỨC DÂN CHỦ CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG. HCM THEO TINH THẦN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH .......................................................................................... 19
3.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ .......................... 19
3.2. Một số giải pháp xây dựng ý thức dân chủ cho sinh viên Trường Đại học
Bách khoa – ĐHQG. HCM theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh ........................... 22
3.2.1 Giải pháp tăng cường ý thức dân chủ trong ký túc xá ........................ 23
3.2.2 Giải pháp tăng cường ý thức dân chủ trong trường đại học ................ 24
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 26
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân là một trong những di sản tư tưởng bao trùm và xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân. Nó được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Đồng thời, nó phản ánh mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và nhân
dân trong chế độ chính trị - xã hội nhất định. Chính vì thế ngay sau khi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng một
Nhà nước Việt Nam kiểu mới, đó là nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc”. Bác tuyên bố: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân
làm chủ”1. Và thật vậy, qua biết bao năm tháng thăng trầm đấu tranh của dân tộc, lịch
sử đã chứng minh nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ khi ra đời đã là nhà
nước của dân – do dân – vì dân.

Nhà nước của dân là nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân
bầu chọn các đại biểu của mình, thay mặt nhân dân điều hành các cơ quan nhà nước
từ trung ương đến địa phương thông qua chế độ tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Bác nhiều lần nhắc nhở:
“Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”, nhà nước phải ý thức
luôn đề cao trách nhiệm chính trị trước nhân dân.

Theo Bác nhà nước và nhân dân luôn có mối quan hệ mật thiết gắn bó với nhau.
Một mặt, nhân dân cần nhả nước để tổ chức lực lượng lãnh đạo xây dựng và phát

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 83.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 4 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


triển đất nước, mặt khác nhà nước phải dựa vào mọi nguồn lực của nhân dân để phục
vụ nhân dân. Đó là mối quan hệ tự nhiên, rất mực khăng khít mà không thể tách rời.

Với tình hình thế giới, khu vực và đất nước Việt Nam hiện nay, khi chiến tranh
giờ không chỉ còn ở trên chiến trường mà còn lan sang các yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội. Khi các nước lớn ra sức lan truyền ảnh hưởng của mình đến các nước
nhỏ, họ trói buộc các nước nhỏ bằng xiềng xích về kinh tế, chính trị. Các hoạt động
gia tăng ngân sách quốc phòng, hiện đại hóa quốc phòng, chế tạo, mua sắm vũ khí,
trang thiết bị khiến châu Á trở thành “thị trường sôi động” của thế giới. Sự cạnh tranh
quyết liệt giữa các nước lớn và những bất đồng, tranh chấp lẫn sự gia tăng sức mạnh
quân sự của các 3 quốc gia khu vực đang đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh
ở khu vực.

Thế kỷ 21 là thời đại của công nghệ thông tin, các thế lực thù địch quy mô và
nguy hiểm nhất trong và ngoài nước điên cuồng quấy phá, tìm mọi cách tuyên truyền
bằng những thủ đoạn tinh vi hòng xuyên tạc về các quyền dân chủ và mối quan hệ
giữa nhà nước và nhân dân ta. Như kinh nghiệm lịch sử đấu tranh đã chỉ rõ, cái mà
kẻ thù luôn tìm cách lợi dụng là sự bất bình của nhân dân đối với chế độ. Nếu sự bất
bình này đã có thì chúng sẽ khoét sâu thêm. Nếu chưa có thì chúng sẽ tạo ra nhất là
các vấn đề về dân chủ và dân quyền luôn là mục tiêu trọng yếu. Trong tình thế đó, ta
mới thấy được ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do
nhân dân, vì nhân dân.

Chính vì thế, nhóm tác giả lựa chọn chủ đề 4 về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước dân chủ và Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ vào xây dựng
ý thức dân chủ cho sinh viên Trường Đại học Bách khoa – ĐHQG. HCM trong giai
đoạn hiện nay” để nắm vững quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân
dân, mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước, giúp cho sinh viên ý thức và phát huy
được quyền dân chủ của sinh viên trong môi trường đại học cũng như xây dựng tinh
thần yêu nước, lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng hiện

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 5 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


nay… Từ đó, đề xuất các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng ý
thức dân chủ trong Trường Đại học Bách khoa – ĐHQG. HCM.

Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn thầy TS. Phan Duy Anh – giảng viên Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Bộ môn Lý luận chính trị Trường đại học Bách Khoa thành phố
Hồ Chí Minh, đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn , đồng hành với nhóm để có thể hoàn
thành đề tài này một cách trọn vẹn.

2. Bố cục tổng quát của đề tài

Đề tài gồm 3 chương:

CHƯƠNG I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ

CHƯƠNG II. Thực trạng ý thức dân chủ của sinh viên Trường Đại học Bách
khoa – ĐHQG. HCM

CHƯƠNG III. Giải pháp xây dựng ý thức dân chủ cho sinh viên Trường Đại
học Bách khoa – ĐHQG. HCM theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 6 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Dân chủ thể hiện ở việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Dân chủ
trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội… Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất,
nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà nước, bởi quyền lực
của nhân dân được thể hiện trong hoạt động của nhà nước với tư cách nhân dân là
quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc
khi có nhà nước mới – nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhân dân cử ra, tổ
chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị.

Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở phương thức xã hội.
Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “bao nhiêu lợi ích cũng vì nhân dân”,
“quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, động thời Người cũng chỉ ra phương thức
tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là một nước dân chủ thì phải
có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ
đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân
nói riêng là kết quả của sụ nhân thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là
kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan
điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác-Lênin. Kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư
tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn
sâu sắc.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất
cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ

Có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lơn như lựa chọn
thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân,
nghĩa là có quyền được bảo vệ thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn
luận, tự do học tập… trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Người dân có quyền làm

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 7 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người
dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và
bãi nhiệm. Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ
trung ương đến địa phương các cấp các ngành đều là “đày tớ” của nhân dân, do dân
cử ra và do dân bãi nhiệm.

Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người không tiếc máu xương để
xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do
dân xây dựng nên, đem xương máu ra bảo vệ, nên dân phải là chủ đất nươc.

Nhân dân cung cấp cho Đảng những con người ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng
có lớn mạnh không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời là người bảo
vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá thì không thể
sinh tồn và phát triển được nếu thiếu nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trường,
đường lối của Đảng thành hiện thực, do vậy nếu không có dân thì Đảng lãnh đạo ai.
Tương tự với các Chính phủ và tổ chức quần chúng.

1.1. Bản chất giai cấp của Nhà nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng nó không phải là nhà nước toàn dân, có thể hiểu đó là nhà nước phi giai cấp.
Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt
Nam thể hiện trên các phương diện sau:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Đảng cầm
quyền bằng các phương thức:

(1) Bằng đường lối, quan điểm, chủ trường để Nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch;

(2) Bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy,
cơ quan nhà nước;

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 8 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


(3) Bằng công tác kiểm tra.

Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh.

Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức
và hoạt hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến
cả hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan
nhà nước. Người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ tập trung, Nhà
nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính
nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng
của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:

Một là, Nhà nước mới ở Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế kỷ XIX,
khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ này đến thế
hệ khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Do vậy, Nhà nước Việt Nam mới không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, mà là
thuộc về nhân dân.

Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì,
nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai
cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Nhà
nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh không chỉ cho lợi ích của
giai cấp công nhân, mà còn của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 9 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


Ba là, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn thể dân tộc
giao phó. Con đường quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước.

1.2. Nhà nước của Nhân dân

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất
cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người khẳng
định: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực
đều là của nhân dân”2. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”. Nguyên lý “dân là chủ”
khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân. Trong nhà nước dân
chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân
chủ gián tiếp.

Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định
mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng.
Hồ Chí Minh luôn coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để thược hành dân chủ trực tiếp, bởi đây chính là hình thức dân chủ hoàn bị nhất.

Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức
dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức
dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà
họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:

Quyền lực nhà nước là thừa ủy quyền của nhân dân. Tự bản thân nhà nước
không có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác. Hồ Chí Minh
đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà nước trên cơ sở
nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực.

Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễm những
đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà

2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 8, tr.262, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 10 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


họ đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo
cho mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước, luôn nằm trong tay dân chúng.

Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với luật pháp của
nhà nước theo các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện và
bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luât pháp đó là của nhân dân, là công cụ thưc thi
quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.

1.3. Nhà nước do nhân dân.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do
nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự
lạnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân đề cử và tổ chức nhà nước dựa trên
nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền
bầu cử, phúc quyết,…

Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa là “dân làm chủ”. Với cụm từ “ dân là chủ
“ chỉ mới xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước , còn “ dân làm
chủ” mới nhấn mạnh được quyền lực và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người
chủ. Hồ Chí Mình đã khẳng định rất rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà
do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn
bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”3. Nhân dân làm chủ thì phải tuân
theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng
góp để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản
công cộng, bảo vệ Tổ quốc,…

Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân
dân được thực hiện những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng đầy
đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ,
đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước do nhân dân

3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.258

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 11 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu
để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là
những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực
làm chủ”4. Nhà nước do nhân dân không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân,
cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước, mà còn chuẩn bị và động
viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ
triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.

1.4. Nhà nước vì nhân dân

Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh
là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà
nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: “Các công việc của Chính phủ làm
phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho
nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc
gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh"5. Theo Hồ Chí Minh,
thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lòng dân. Hồ Chí Minh đặt vấn đề với
cán bộ Nhà nước phải "làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu", đồng
thời chỉ rõ: "muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải
đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”6. Trong Nhà
nước vì dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân
dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần
có ở người cán bộ nhà nước vì dân. Là người đày tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh
đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi
nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm
đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh. Phải như thế thì mới có thể “chẳng những

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.527.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.21.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.52.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 12 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


làm những việc trực tiếp lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc mới xem qua
như là hại đến dân”7, nhưng thực chất là vì lợi ích toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân
dân.

7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.285.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 13 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG Ý THỨC DÂN CHỦ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG. HCM

2.1. Mặt tích cực

Mặt tích cực của tình trạng ý thức dân chủ của sinh viên Trường Đại học Bách
Khoa Thành phố Hồ Chí Minh là sự tăng cường hoạt động giáo dục và rèn luyện ý
thức dân chủ cho sinh viên. Trường đã và đang triển khai nhiều chương trình, hoạt
động, sự kiện nhằm giúp sinh viên nâng cao kiến thức và ý thức dân chủ, tạo ra môi
trường thuận lợi để sinh viên có thể thể hiện quan điểm và đóng góp ý kiến vào quyết
định của trường. Tạo các biểu mẫu từng môn học để sinh viên đánh giá khách quan
và thực tế về cơ sở vật chất hay chất lượng dạy và học.

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, sinh viên Bách Khoa đã có nhiều đóng
góp đáng kể cho cộng đồng và xã hội, qua các hoạt động tình nguyện, các dự án khoa
học và kỹ thuật, và các sáng kiến xã hội. Điều này cho thấy sinh viên Bách Khoa đã
có nhận thức về trách nhiệm của mình đối với xã hội và đang hướng tới một tương
lai tốt đẹp hơn cho cả trường và xã hội.

Phát triển các chương trình học bổng, các khoản hỗ trợ tài chính, giúp các sinh
viên khó khăn có cơ hội tiếp cận với giáo dục và phát triển bản thân. Điều này cũng
góp phần nâng cao ý thức dân chủ của sinh viên bởi vì nó cho thấy trường quan tâm
đến các sinh viên của mình, giúp họ có thể phát triển tối đa tiềm năng của mình.

Sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên
tham gia vào các hoạt động thiện nguyện, từ thiện, góp phần xây dựng cộng đồng.
Các hoạt động này không chỉ giúp sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của sự
giúp đỡ, sẻ chia và trách nhiệm với xã hội mà còn giúp trường tạo ra một môi trường
học tập và làm việc tích cực, khuyến khích các hành động đóng góp xã hội và sự
nghiệp cộng đồng.

Dưới đây là một số dẫn chứng của mặt tích cực của ý thức dân chủ của sinh viên
Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh:

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 14 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều hoạt
động nhằm tăng cường ý thức dân chủ cho sinh viên, chẳng hạn như chương trình
giáo dục về pháp luật, Hội thi Pháp luật Việt Nam, Hội nghị các nhà khoa học trẻ
2022, và các sự kiện khác. 8

Sinh viên Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, chẳng hạn như giải thưởng Liên hoan tuổi
trẻ sáng tạo TP. HCM, Công nghệ trí tuệ Student Chie-Tech và nhiều giải thưởng
khác.9

Sinh viên Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã tham gia nhiều hoạt động tình
nguyện và đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội, chẳng hạn như chương trình
"Ngày hội tình nguyện" của trường, chương trình " “Mật Ngọt” – Thư viện cho trẻ
em vùng cao ", và nhiều hoạt động tình nguyện khác.10

2.2. Mặt hạn chế

Bên cạnh những mặt tích cực, ý thức dân chủ của sinh viên Trường Đại học
Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh cũng còn một số mặt hạn chế như sau:

Tỷ lệ tham gia các hoạt động đòi hỏi ý thức dân chủ chưa cao. Mặc dù trường
đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm tăng cường ý thức dân chủ cho sinh viên, tuy nhiên,
tỷ lệ tham gia của sinh viên vẫn chưa cao. Một số sinh viên vẫn chưa nhận ra tầm
quan trọng của ý thức dân chủ và không tham gia tích cực vào các hoạt động của
trường.

Sự thiếu đa dạng quan điểm trong các hoạt động đòi hỏi ý thức dân chủ, khiến
cho các ý kiến chỉ xoay quanh một số vấn đề cơ bản và thiếu sự sáng tạo trong giải
quyết các vấn đề phức tạp.

8
Truy cập từ: https://www.facebook.com/BKCSE.Multimedia/posts/4128958980464548/
9
Truy cập từ: https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/che-may-loc-khong-khi-cho-xe-buyt-gianh-giai-
nhat-cuoc-thi-sang-tao-sv-20200629130702019.htm/
10
Truy cập từ: https://ashui.com/awards/mat-ngot-thu-vien-cho-tre-em-vung-cao/

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 15 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


Thiếu sự hợp tác và cộng tác. Một số sinh viên chưa thể hợp tác và cộng tác với
nhau trong các hoạt động đòi hỏi ý thức dân chủ. Họ chỉ quan tâm đến việc thể hiện
bản thân mà không quan tâm đến lợi ích chung. Điều này gây ra sự mất đoàn kết và
khó thực hiện được các hoạt động đòi hỏi ý thức dân chủ.

Tổng quan, ý thức dân chủ của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Thành phố
Hồ Chí Minh có những mặt tích cực như tạo ra một môi trường học tập và làm việc
chuyên nghiệp, khuyến khích sự tham gia của sinh viên trong các hoạt động đòi hỏi
ý thức dân chủ, giúp sinh viên hình thành kỹ năng giao tiếp và lãnh đạo. Tuy nhiên,
cũng còn nhiều hạn chế như thiếu sự tập trung vào giải quyết các vấn đề, thiếu sự tổ
chức và lãnh đạo, thiếu kiến thức về ý thức dân chủ.

2.3. Nguyên nhân

2.3.1 Nguyên nhân của mặt tích cực


Năng lực của sinh viên từ trường Đại học Bách Khoa là việc đã được kiểm
nghiệm, qua đó nhiều bạn sinh viên luôn thực hiện xuất sắc kế hoạch học tập. Không
những thế, một số bạn sinh viên đã tạo nên nhiều trò chơi và hoạt động tập thể bổ ích
cho nhau. Qua quá trình tham gia học và phục vụ theo yêu cầu chung của sinh viên,
nhiều bạn trẻ đã hoàn thiện hơn về kỹ năng sống, có những kinh nghiệm để từ đấy
phấn đấu cho nghề nghiệp tương lai.

Khi tham gia các đề tài và nhà trường đã cấp thêm kinh phí cho các bạn sinh
viên đây cũng là sự ủng hộ vô cùng to lớn để dành tặng sinh viên. Bên cạnh sự cung
cấp kinh phí thì nhà trường cũng dành nhiều thời gian để các bạn sinh viên có thể tiếp
cận với nghiên cứu khoa học ngay từ những năm học đầu qua các chương trình như
Ngày hội Kỹ thuật, Bk Innovation, . .. từ đó giúp các bạn sinh viên có đúng hướng và
tìm thấy hướng phát triển thích hợp với mình trong việc học.

Đoàn trường và Hội Sinh viên cũng thường xuyên khích lệ những phong trào
văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao được tổ chức rộng rãi hơn nữa, vì tạo sự kiện

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 16 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


cho mỗi khoa có tham gia nhiều hoạt động để các câu lạc bộ tự thực hiện những
chương trình đem lại quyền lợi cho sinh viên. Từ đó khiến hoạt động của sinh viên
lan rộng ra, nhiều bạn sinh viên có điều kiện tham dự đông hơn nữa.

Bên cạnh hoạt động xã hội vì môi trường để các bạn sinh viên có thêm những kĩ
năng khác nữa, qua đó phục vụ tốt quá trình học và làm việc trong tương lai. Bên
cạnh đó, thông qua những hoạt động tình nguyện cũng giúp cho bạn sinh viên có thêm
kinh nghiệm công tác cộng đồng – đây là tiêu chí cần thiết để mỗi bạn hoàn thành tốt
nghiệp đúng thời hạn.

Sinh viên tham gia hưởng ứng tích cực các chương trình, phong trào sinh viên
rèn luyện đạo đức, lối sống, văn hoá và tư tưởng. Có tính sáng tạo khi tổ chức các
hoạt động về tuyên truyền thông tin, đổi mới phương thức truyền tải nhằm tiếp cận
sinh viên tốt hơn nữa. Tích cực tham gia phát triển năng lực và phẩm
chất qua việc phát huy vai trò to lớn của sinh viên.

2.3.2 Nguyên nhân của mặt hạn chế


Nhiều chương trình được các bạn sinh viên tổ chức, chú trọng vàosố lượng
nhưng chất lượng chưa đảm bảo. Mặc dù được tổ chức định kỳ hằng nămnhưng một
số hoạt động lại không có tính đổi mới, chỉ lặp lại những gì đã tổ chức ở năm trước
do đó tạo nên tâm lý ‘chán’ trong các bạn sinh viên. Một số chương trình không chuẩn
bị kỹ càng trong truyền thông nên không lan tỏa được tới các bạn sinhviên. Một số
khác tuy thực hiện truyền thông tốt nhưng khi tổ chức lại phát sinh một số vấn đề
khác do không chỉn chu và vì thế khiến các bạn sinh viên không còn hứngthú tham
gia những lần sau.

Nhiều bạn sinh viên vẫn còn tư duy cũ của những năm học Trung học Phổ thông.
Ở cấp 3, các lớp học thêm mọc lên rất nhiều một phần để giúp các bạn học sinh ôn
tập cho thi cử nhưng bên cạnh đó còn đáp ứng được nhu cầu ‘phải’ học của các bạn
học sinh. Nhiều bạn học sinh phải đi học thêm thì mới học được. Đến khi bước vào
giảng đường đại học rộng lớn, những lớp học thêm dần biến mất, những người hướng
dẫn đã không còn khiến nhiều bạn trở nên lạc lối, kết quả học tập đi xuống, từ đó

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 17 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


đánh mất động lực học tập. Và kết quả đó là do thiếu sự tự chủ trong việc học, không
đi tìm các nguồn tài liệu có ích cũng như không đặt ra các câu hỏi cho giảng viên khi
không nắm bắt được bài học khiến bản thân cảm thấy khó khăn trong việc học.

Sự phát triển của mạng xã hội và các trang mạng bên cạnh lợi ích cũng đem đến
nhiều bất cập. Xã hội phát triển khiến con người tập trung nhiều vào lợi ích cá nhân,
các bạn sinh viên chưa quan tâm nhiều đến giáo dục chính trị, tư tưởng, nhiều bạn chỉ
quan tâm đến những vấn đề trong cuộc sống đời thường mà chưa để tâm đến những
vấn đề vĩ mô của đất nước. Nhiều thông tin xuyên tạc xuất hiện trên các trang mạng
khiến cho các bạn sinh viên có nhiều cái nhìn phiến diện, sai lầm về những vấn đề
chính trị của đất nước. Bên cạnh đó, không thể không nói đến sự thụ động trong việc
tìm hiểu thông tin ở nhiều sinh viên.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 18 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG Ý THỨC DÂN CHỦ CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG. HCM THEO TINH
THẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ

Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo,
đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước,
đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.

Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, đầy
gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Cách
mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bằng ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế
giới, dân tộc ta từ bao phen khốn khó, Nhân dân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc
đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thành tựu đó có được nhờ vai trò sâu
sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai
trò của Nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”,
“Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”; “Dân là gốc của nước, của cách mạng”,
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân”, “Dân chúng đồng lòng, việc gì
cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”; “Nước lấy
dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”. Người
đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp
phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do, đưa Nhân dân ta từ kiếp nô lệ

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 19 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì
trái ý dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ
là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và
dân làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của Nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước
và Nhân dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ
Hồ Chí Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc
về Nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “chế
độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”. Điều này khẳng định giá trị xã hội đích
thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số Nhân dân lao động những quyền lực
của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính
bản thân quần chúng Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một “ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm cho nước nhà được độc lập, Nhân dân được tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Người đã phấn đấu không mệt mỏi,
làm tất cả để thực hiện Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho Tổ quốc, cho dân tộc và
Nhân dân. Người đã rút ra một chân lý không chỉ cho dân tộc mà còn cho cả nhân
loại “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách
mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người yêu cầu tổ chức càng sớm càng tốt cuộc
Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham
gia vào công việc của Nhà nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không
phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan
đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhà nước do dân
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ
trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm
cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Nhà nước vì dân, tức Nhà nước ta ngoài lợi ích phục
vụ dân chúng không có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai cấp công nhân của Nhà

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 20 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


nước ta. Người yêu cầu mọi việc làm của Nhà nước phải thể hiện rõ bản chất đó:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”.
Người nhắc nhở chính quyền các cấp phải tránh cho được các lầm lỗi, khuyết điểm,
những thói hư tật xấu, những chứng bệnh vốn dễ tập nhiễm trong các cơ quan quyền
lực Nhà nước như: cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo...

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định của
Nhà nước từ trung ương đến địa phương đều phải xuất phát từ lợi ích của dân. Mọi
cán bộ Nhà nước đều vì dân, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Một Nhà nước vì dân phải đảm bảo cho dân có được cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Người đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của
Đảng, Nhà nước đối với Nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Nhà nước
vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân. Người nhắc nhở, chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta; đồng thời phải làm cho Nhân
dân hiểu rõ: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận
công dân, giữ đúng đạo đức công dân”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh, được quản lý bằng pháp luật và phải làm
cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một Nhà nước dân chủ, dân chủ và
pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ mới bảo đảm cho chính
quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ
của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp
và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ
của người dân được tôn trọng trong thực tế.

Trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh của dân
là điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người khẳng định: tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận
và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 21 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính quyền cũng
phải bàn bạc với Nhân dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của họ, cùng với họ đặt kế
hoạch cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức họ thi hành.
Trong lúc thi hành lại phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích Nhân dân; thi
hành xong phải cùng với họ kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen
thưởng. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã
từng bước tạo được cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nền dân chủ XHCN; quyền
lực xã hội của Nhân dân được xác định trong Hiến pháp và pháp luật; nhu cầu dân
chủ của Nhân dân ngày càng phát triển; ý thức và năng lực thực hành dân chủ của
Nhân dân ngày càng được nâng cao...

Xây dựng đất nước đi lên từ đống đổ nát của chiến tranh, qua nhiều giai đoạn
thăng trầm của lịch sử dân tộc, Đảng và nhân dân luôn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm
ngọn cờ dẫn dắt cách mạng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành quả xây
dựng và đấu tranh đó là nền tảng cơ sở ngày hôm nay người dân Việt Nam luôn tự
hào và hãnh diện nhà nước Việt Nam là nhà nước của nhân dân. Điều đó được thể
hiện trong Hiến pháp.

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định như sau:

“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”11

3.2. Một số giải pháp xây dựng ý thức dân chủ cho sinh viên Trường Đại học
Bách khoa – ĐHQG. HCM theo tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong quá trình học tập cũng như trong công việc diễn ra hằng ngày, nhu cầu
về dân chủ ở các cấp độ từ xã hội, đến trong doanh nghiệp, trong nhà trường, trong
nhóm là rất cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên thực tế quan sát thấy còn tồn tại nhiều

11
Chương 1 Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 2013.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 22 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


mặt trong quá trình giảng dạy và học tập ở trường Đại học Bách khoa còn tồn tại
nhiều khuyết điểm về ý thức dân chủ.

Vì thế nhóm đã đưa ra một số giải pháp nhằm khác phục khuyết điểm này.

3.2.1 Giải pháp tăng cường ý thức dân chủ trong ký túc xá
Vào mỗi kỳ bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, sinh viên
cư trú tại ký túc xá khu A – huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương đều được nhắc nhở đi bầu
cử hội đồng nhân dân tại ủy ban địa phương. Mặc dù đã được phổ biến sơ lược trước
đó nhưng hầu hết sinh viên trong ký túc xá chưa thực sự quan tâm đến kỳ bỏ phiếu
này. Nguyên nhân nhóm sau khi thu thập và phỏng vấn sinh viên nhận ra là hầu hết
sinh viên cư trú tại ký túc xá nằm xa khu vực dân cư và do khoảng cách đến các trung
tâm hội họp còn xa nên hầu hết đều không thể nắm bắt được các chính sách hiện tại
ở ủy ban quận huyện. Vì thế khi đến kỳ bỏ phiếu sinh viên không nắm được tình hình
và thông tin tại địa phương. Chính vì lý do đó dẫn đến khi đi bầu xảy ra hiện tượng
phiếu trắng, gửi người quen bầu hộ, không thực hiện triệt để quyền dân chủ nhân dân.

Nhóm sau khi khảo sát nhận ra cần đề xuất hội đồng nhân dân tại địa phương
cần quan tâm gần gũi hơn sinh viên tại ký túc xá, mở các buổi họp cử tri phổ biến
tổng quan về tình hình chính trị tại địa phương nơi sinh viên sống hiệu quả hơn các
phương pháp trước đó, in ấn thông tin sơ lược của đại biểu phát cho sinh viên nhằm
tăng thêm thông tin về các đại biểu.

Dân chủ và nhu cầu dân chủ được quan tâm đến đời sống của sinh viên là nhu
cầu sẵn có trong mỗi cá nhân và tập thể, tuy nhiên tùy vào cách tiếp cận và vấn đề
thực hành dân chủ mà nó không phát huy được tính hiệu quả của nó sẽ dẫn đến tâm
lý thờ ơ và thiếu trách nhiệm của nhiều bộ phận sinh viên. Khi những tiếng nói và
nhu cầu được lắng nghe của sinh viên được đảm bảo thì mới phát huy được tinh thần
của Hồ Chủ tịch lúc sinh thời của người về nhà nước của nhân dân:

Người khẳng định:

“Nước ta là một nước dân chủ,

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 23 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…

Chính quyền từ xã đên Chính phủ trung ương do dân cử ra,…

Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”12

3.2.2 Giải pháp tăng cường ý thức dân chủ trong trường đại học
Sau 25 năm thực hiện cuộc vận động dân chủ và 14 năm thực hiện Quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường, bầu không khí dân chủ trong các trường
đại học nước ta đã được cải thiện đáng kể; các nội dung và cơ chế thực hiện dân chủ
đã dần dần được làm sáng tỏ... Tuy nhiên, việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của nhà trường ở các trường đại học nước ta hiện nay vẫn còn nhiều
thiếu sót, dân chủ mới được thể hiện chủ động từ phía nhà trường bằng hệ thống các
văn bản nên còn mang tính áp đặt; việc vi phạm quy chế dân chủ, hạn chế quyền làm
chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên còn diễn ra khá phổ biến ở nhiều trường đại
học; lãnh đạo của nhiều trường thực hiện không đúng quy trình xây dựng và thông
qua quy chế dân chủ, quy chế làm việc, quy chế chi tiêu nội bộ nên dân chủ nhiều nơi
còn mang tính hình thức; quyền tự chủ của nhà trường và các đơn vị trong trường còn
bị hạn chế bởi các quy định mang tính hành chính nặng nề, được áp đặt từ trên xuống.

Trường Bách Khoa là một trường đại học chuyên ngành kỹ thuật lớn ở khu vực
phía nam. Trải qua 65 năm thành lập trường đã xây dựng được danh tiếng là một
trường cung cấp nguồn lực chuyên môn cao cho ngành công nghiệp nước nhà. Để đạt
được thành tựu như vậy không thể không kể đến công lao xây dựng và quản lý của
những tiền nhiệm đi trước cũng như những chủ nhiệm hiện nay. Phương châm của
trường luôn là tạo ra một môi trường học tập tốt nhất, với đội ngũ giảng viên có chất
lượng cao có chứng nhân chứng chỉ từ tiêu chuẩn giáo dục cấp quốc tế. Để thành
công trong công tác quản lý thì vấn đề dân chủ phải được ưu tiên trên hết.

12
Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.5, trg 685.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 24 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


Tuy nhiên sau qua quá trình khảo sát nhóm nhận ra về vấn đề dân chủ trong
chương trình đào tạo cần bổ sung một số giải pháp để hoàn thiện hơn thực hành dân
chủ trong môi trường đại học.

Một. Trong quá trình cải tiến và bổ sung chương trình đào tạo không thể tránh
khỏi những quy định cần bổ sung và thay thế, quy chế của khóa học trước sẽ không
thể nào áp dụng rập khuôn cho khóa hiện tại vì bản thân chương trình đào tạo cũng
cần phát triển theo thời gian. Nhưng không vì thế mà lại bỏ qua ý kiến của sinh viên
mà chỉ phụ thuộc ý chí riêng của lãnh đạo nhà trường, chính vì thế mỗi khi có những
thay đổi nhất định về quy chế học vụ hay chương trình mới cần một buổi meeting với
đại diện lớp trưởng các lớp thu thập ý kiến xây dựng của toàn bộ sinh viên hiện học
trong trường. Và quan trọng hơn hết cần có sự thống nhất trong quá trình thiết kế
chương trình để giảm thiểu những bức xúc và những tốn kém không cần thiết sau khi
đã hoàn thiện một chương trình cụ thể cho từng khóa.

Hai. Trong lớp học thường nhật ở các môn học tại trường, sinh viên được cho
phép phát biểu ý kiến cho giảng viên, nhận xét đánh giá về chất lượng giảng dạy của
giảng viên để góp phần xây dựng bài học có phản hồi hơn có chất lượng cao hơn và
truyền tải đúng kiến thức đến đúng người học.

Ba. Xây dựng được một môi trường đề cao tính dân chủ để nâng đỡ khuyến
khích các ý tưởng mới sáng tạo từ sinh viên, bởi vì chỉ khi có một môi trường được
lắng nghe và thu nhận ý kiến thì sức sáng tạo mới được phát huy tối đa khả năng vốn
dĩ của nó.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 25 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


PHẦN KẾT LUẬN

Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
nhân dân – do nhân dân – vì nhân dân có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không
chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách mạng vào thời điểm đó mà
trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước nhân dân. Xây dựng nhà nước dân chủ
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, từ chỗ là tư tưởng của
lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản
Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những
người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu,
hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua cho
thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì
khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi, nơi nào, lúc
nào rời xa tư tưởng đó thì nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất.

Thành công của Việt Nam trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính
là kết hợp hài hòa giữa nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân, vì dân để có chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật phù hợp, là giữa lý thuyết về dân chủ với việc thực hành dân chủ trên mọi mặt
của đời sống xã hội. Thực hành dân chủ chính là hình thành những cơ chế, chính sách,
những quy định, nguyên tắc và biện pháp hữu hiệu để bảo đảm cho mọi người dân
thực hiện quyền dân chủ, là hiện thực hóa phương châm mà Đảng đã xác định. Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Thực chất của việc thực hành
dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân nhằm huy động mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 26 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


Tổ quốc. Đó là phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của con người với tư cách
là chủ nhân của xã hội.

Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với
thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đã khác rất
nhiều so với 20 năm trước. Trải qua ba kỳ Đại hội IX, X và XI, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm dưới sự lãnh đạo của Đảng; là
hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể
của quyền lực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm toàn bộ các
quyền của con người, quyền của công dân như quyền tự do cá nhân, tự do báo chí,
hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bất
khả xâm phạm thân thể và quyền nhà ở, nghỉ ngơi, học hành… Dân chủ gắn liền với
kỷ luật, kỷ cương, quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cốt lõi của dân chủ xã hội
chủ nghĩa là khẳng định quyền lực của nhân dân, là giải quyết mối quan hệ giữa quyền
và lợi ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm.

Đảng ta đã xác định xây dựng dân chủ nhân dân là một động lực chủ yếu của sự
phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và
bài học kinh nghiệm của Đảng và Bác Hồ về việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát
huy truyền thống dân chủ trong nước. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai
cấp công nhân và nhà nước dân chủ có quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau:
nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực sự) thì mới thực hiện phát huy đúng đắn
ích lợi của quyền tự do dân chủ. Ngược lại, thực hiện quyền dân chủ tự do chính đáng
là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp công
nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 27 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người Việt Nam trong nước hay người Việt
Nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa
chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người
chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Ở thời điểm dân tộc ta đã bước sang thế kỷ XXI những thời cơ và thách thức
đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến nhà nước nhân dân. Hơn lúc nào hết,
thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh
về quyền dân chủ nhân dân, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan
điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn biến đổi của đất nước.
Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam
để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trong lúc hoàn thiện đề tài này, mặc dù với kiến thức còn hạn chế nhưng nhóm
tác giả hy vọng sẽ giúp cho mọi người hiểu thêm các kiến thức và vấn đề liên quan
đến Tư tưởng Hồ Chí Minh – xây dựng nhà nước chủ. Rất mong sự đóng góp ý kiến
của thầy cô và các bạn để nhóm tác giả có thể hoàn thiện đề tài này một cách trọn vẹn
và để hoàn thiện kiến thức của nhóm tác giả về đề tài này hơn.

Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 28 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ansui award (2022), “Mật ngọt” Thư viện cho trẻ em vùng cao,
https://ashui.com/awards/mat-ngot-thu-vien-cho-tre-em-vung-cao/

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Báo điện tử Đảng Cộng Sản (2011): Giải pháp nhằm phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Hà Nội.

[4] Hội thi pháp luật Việt Nam, Đại học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh (2020),
https://www.facebook.com/BKCSE.Multimedia/posts/4128958980464548/

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập,(2011) Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Lê Phương (2020), Chế máy lọc không khí cho xe buýt giành giải Nhất cuộc
thi sáng tạo SV, https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/che-may-loc-khong-khi-
cho-xe-buyt-gianh-giai-nhat-cuoc-thi-sang-tao-sv-20200629130702019.htm/

[7] NCS.Trần Thiên Tú - Phó Trưởng khoa Lý luận cơ sở. (10/11/2021). Tìm
hiểu về Chủ nghĩa Mác – Lênin và một số khái niệm liên quan.
https://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/bao-ve-nen-tang-tu-
tuong-cua-dang/tim-hieu-ve-chu-nghia-mac-lenin-va-mot-so-khai-niem-lien-quan-
337.htm/

[8] Nguyễn Mạnh Tường (2015): Về những cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
https://www.vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Ve-nhung-cot-
loitrong-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-15/

[9] PGS, TS. Nguyễn Xuân Trung (2020), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinhtrixaydungdang//2018/820758/van-
dung-tu-tuong-ho-chi-minh-vao-nghien-cuu%2C-phat-trien-sang-tao-ly-luan-o-viet-
nam-trong-giai-doan-hien-nay/

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 29 GVHD: TS. PHAN DUY ANH


[10] Quốc hội (2013): Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà
Nội.https://dangcongsan.vn/ban-doc/hoi-dap/giai-phap-nham-phat-huy-dan-chu-xa-
hoi-chu-nghia-va-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-84952.html

[11] Tạp chí VHNT số 375, tháng 9-2015.

SVTH: Nhóm 6 – L03 – HK222 30 GVHD: TS. PHAN DUY ANH

You might also like